Thời sự Á Châu
Kỳ thị sinh viên gốc Á
- Nguyễn đạt Thịnh
Trong số báo phát hành ngày 20 tháng Chạp 2012 tờ New York Times tổ chức một cuộc hội thảo về đề tài "anti-Asian quotas in the Ivy League", (chỉ tiêu chống sinh viên gốc Á tại những viện đại học Ivy."
Hai chữ Ivy League dùng để chỉ nhóm 8 viện đại học tư thục nằm trên vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, gồm những trường Brown University, Columbia University, Cornell University, Dartmouth College, Harvard University, Princeton University, the University of Pennsylvania, và Yale University. V́ giá trị sư phạm cao của 8 trường này nên Ivy League c̣n mang ẩn nghĩa như nhóm trường đại học tuyệt hảo, kén chọn sinh viên thuộc giai cấp cao trong xă hội.
Caption: Ivy League - nhóm 8 viện đại học tư thục nằm trên vùng Đông Bắc Hoa Kỳ,
Caption: học giả Thomas Espenshade, Alexandria Radford, và tỉ phú Ron Unz
Cùng nghiên cứu về nạn kỳ thị, kén chọn sinh viên hai tiến sĩ Thomas Espenshade và Alexandria Radford t́m ra là người sinh viên Mỹ gốc Á cần 140 điểm cao hơn sinh viên da trắng trong những kỳ trắc nghiệm SAT mới đủ điểm để được tuyển nhập học như những sinh viên này.
Tham dự cuộc hội thảo, nhà tỉ phú thiên hữu Ron Unz viết, "Tỉ lệ sinh viên gốc Á được nhập học Harvard tuột từ 20.6% năm 1993, xuống c̣n khoảng 16.5% trong suốt thập niên vừa rồi. Đó là chưa kể đến yếu tố số học sinh gốc Á tốt nghiệp trung học ngày càng đông hơn."
Là thành phần mới nhất trong xă hội Hoa Kỳ, người Việt Nam tị nạn không có tài sản lớn để lại cho con, họ chọn con đường học vấn như cái cần câu mưu sinh để trao cho những thế hệ sau. Tờ New York Times ghi nhận t́nh trạng số học sinh gốc Á chiếm tỉ lệ học xuất sắc trong các trường trung học, cao hơn tỉ lệ người di dân Á Châu trong tổng số công dân Mỹ.
Nhiều nhà trí thức lớn tiếng phản đối chính sách kỳ thị các trường Ivy áp dụng đối với sinh viên gốc Á; con số quota mà họ ấn định giới hạn sự thành công của những sinh viên này.
Điều cần vạch trần ra là tính chất cổ quái của chính sách kỳ thị; ông Unz và một vài người tham dự hội thảo cho là góc cạnh quyết định nhất trong việc tuyển thí sinh nhập học phải là khả năng của chính người sinh viên được tuyển, chứ không phải mầu da hay giới tính của thí sinh, và danh giá, tài sản của gia đ́nh họ.
Nhóm người cùng quan điểm với ông Unz c̣n chỉ trích cả chính sách affirmative action -chính sách chủ trương việc chia đồng đều quyền lợi cho mọi người, để những người nam hay nữ, trắng hay đen, gốc Á hay gốc Âu cũng có phần tương đương.
Nhóm này chủ trương loại bỏ affirmative action trên mọi địa hạt chứ không chỉ riêng trong việc tuyển sinh vào đại học mà thôi. Quan điểm này có thể giúp tỉ lệ sinh viên gốc Á được nhập học các trường Ivy nhiều hơn, nhưng lại bất lợi cho số sinh viên gốc Phi Châu.
Bà luật sư Khin Mai Aung lại bác bỏ quan điểm của nhóm ông Unz, và cho là việc kỳ thị sinh viên gốc Á chỉ có trong tưởng tượng; bà Aung là giám đốc chương tŕnh "công bằng trong học tŕnh" của tổ chức Asian American Legal Defense and Education Fund (Quỹ Tư Pháp Bảo Trợ và Ngân Khoản Học Tŕnh cho Sinh Viên Gốc Á) -một tổ chức bảo vệ quyền lợi cho người gốc Á.
Bà nói nhóm chủ trương loại bỏ việc kỳ thị sinh viên gốc Á chưa bao giờ bênh vực người gốc Á trong những lănh vực khác. Nhận xét của bà có vẻ đúng, nhưng nhược điểm là bà chỉ phản bác mà không lập luận để hoặc giải thích, hoặc chối bỏ những bản thống kê nêu lên chính sách kỳ thị của các trường Ivies.
Một góc cạnh quan trọng khác của cuộc thảo luận là giai cấp. Aung nói nhóm người đồng ư với bà ủng hộ affirmative action v́ nhiều sinh viên Việt Nam, Miên, và Lào thuộc những gia đ́nh tị nạn, mới đến Hoa Kỳ và chưa đạt được một giai cấp xă hội cao.
Nhiều học giả da trắng đồng ư với bà Aung trên điểm này; họ vạch ra là đa số cựu sinh viên tốt nghiệp các trường Ivies là người da trắng, và đa số sinh viên hiện đang theo học là con cái họ. Điều này bất lợi cho những sinh viên da mầu.
Kư giả Daniel Golden nêu lên 2 con số trong việc tuyển sinh năm 2003 của University of Virginia để so sánh: 91% sinh viên da trắng được tuyển chọn trên tiêu chuẩn "vọng tộc", trong lúc chỉ có 1.6% sinh viên gốc Á được tuyển, cũng trên tiêu chuẩn này.
Giai cấp quả là một tiêu chuẩn tuyển sinh vô cùng vô lư, không có lư do nào -dù là lư do chính trị hay lư do đạo đức- để tuyển chọn một thí sinh hay khước từ một thí sinh khác chỉ v́ thí sinh dự tuyển là con ông A hay con ông B. Tệ tục này tồn tại dưới một mỹ tục: thí sinh được ưu tiên tuyển chọn v́ họ là con của những cựu sinh viên thường đóng góp giúp trường dưới danh nghĩa "hội cựu sinh viên".
Cuộc thảo luận của giới trí thức Hoa Kỳ trên tờ New York Times đưa đến một kết luận tốt:
hiện tượng "anti-Asian quotas" của các trường Ivies -dù không được thừa nhận- vẫn là một điểm đen trong văn hóa Hoa Kỳ, sinh hoạt cao quư nhất của dân tộc Hoa Kỳ lúc nào cũng chủ trương b́nh đẳng và cởi mở. Toàn thể hội thảo viên công nhận nhu cầu loại bỏ quota trong mọi viện đại học công hay tư.
Hủ tục "anti-Asian" bài bác người gốc Á đă giảm bớt rất nhiều, nếu chúng ta nh́n lại đạo luật Chinese Exclusion Act năm 1882, bác bỏ quyền di dân của người Tầu vào đất Mỹ.
Nhiều hội thảo viên cũng công nhận đức tính cần cù, siêng năng khiến người gốc Á thành công trên thương trường và trong học đường; tuy nhiên nhược điểm của người gốc Á là nhịn nhục, không phản đối lớn tiếng mỗi khi bị thiệt tḥi.
Do đó những tiếng nói bênh vực sinh viên gốc Á trong cuộc hội thảo lại không phải là tiếng nói của những người gốc Á, kể cả bà Aung, một hội thảo viên.
Không nói ǵ cả dù bị thiệt tḥi, là điểm mạnh hay điểm yếu của người gốc Á?
- Nguyễn đạt Thịnh
Bookmarks