http://damau.org/archives/32753
Văn Học Miền Nam hay “văn học đô thị miền nam 1954-1975”?
H́nh b́a tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta, bao gồm các nhà văn tiêu biểu của Việt Nam Cộng Ḥa (nxb Sóng: 1973) - H́nh b́a quyển Lư Luận – Phê B́nh Văn Học ở Đô Thị Miền Nam 1954-1975 (nxb Hội Nhà Văn: 2009)
Sau 1975, những nhóm chữ như "Văn học Đô thị Miền Nam 1954-1975" –thay cho Văn học Miền Nam– và "vùng giải phóng Miền Nam" , "vùng tạm chiếm" –thay cho Việt Nam Cộng ḥa (tức là Miền Nam, nơi có nền Văn học Miền Nam)– bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam trong các công tŕnh khảo cứu của những học giả hay trong lănh vực giáo dục bởi những người có trách nhiệm huấn luyện và đào tạo những học giả tương lai. Đây là vài thí dụ tiêu biểu:
“[...]C̣n nhà lư luận phê b́nh Bùi Việt Thắng th́ cho rằng: Không nên phân biệt văn học nông thôn, thành thị hay công nhân mà gọi chung là văn học Việt Nam[...]Khi nói về “văn học đô thị” nhà lư luận phê b́nh Bùi Việt Thắng nói thêm: “Văn học đô thị là từ chỉ văn học ở lănh thổ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chính phủ Sài G̣n tồn tại trong các đô thị, chúng ta gọi là văn học đô thị của miền Nam trước đây”….” (Ngân Hà, "Văn học đô thị- Mảnh đất bị bỏ hoang," Ngày 7.5.2009, Nguồn: Văn học quê nhà http://www.thotre.com/luutru/index.p...mid=3&nid=2313
(Giáo sư Bùi Việt Thắng từng giữ chức Phó trưởng bộ môn Văn học Việt Nam Hiện đại, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xă hội và Nhân văn Hà Nội)
“Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền. Và văn học cũng bị phân chia: một nền văn học cách mạng ở miền Bắc và ở các vùng giải phóng của miền Nam, và một nền văn học ở vùng tạm bị chiếm miền Nam. Tất nhiên, sự phân chia này chỉ là tương đối, trên thực tế ta có thể nói tới một “ḍng văn học tiến bộ” trong vùng bị chiếm ở miền Nam…." (Nguyễn Văn Dân, "Dấu ấn phương tây trong văn học Việt Nam hiện đại – vài nhận xét tổng quan,” Nguồn: Tạp chí Văn Học 2-1997, http://www.viet-studies.info/NguyenV...nPhuongTay.htm)
“Đầu năm 2013, đúng 80 năm thành lập tổ chức văn học Tự lực văn đoàn và công bố bài T́nh già của Phan Khôi mở ra Phong trào thơ mới (1932), NXB Thanh niên cho ra mắt tập nghiên cứu phê b́nh Nh́n lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. Sách do PGS. Trần Hữu Tá, PGS Nguyễn Thành Thi, PGS Đoàn Lê Giang chủ biên. Đây là công tŕnh hợp tác giữa giữa Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, Trường Đại học sư phạm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ (Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM), tạp chí Thế giới Mới…." (http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/)
(Trích Mục lục)
45. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đến tiểu thuyết ở đô thị Nam Bộ 1945-1954 – Nguyễn Thị Phương Thuư
46. Tự lực văn đoàn với lư luận – phê b́nh văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 – Trần Hoài Anh…
Chương 4: THƠ MỚI VÀ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN TRONG NHÀ TRƯỜNG
47. Văn chương Tự lực văn đoàn trong đời sống văn học và giáo dục đô thị miền Nam 1954-1975 – Lê Ngọc Thuư
2. Giai đoạn 1954-1975: đất nước chia đôi, văn học tồn tại hợp thức dưới hai chính thể nhà nước thuộc hai khối đối địch nhau. Văn học miền Bắc (và vùng giải phóng miền Nam) vừa kế thừa lớp người cầm bút trong kháng chiến chống Pháp vừa có thêm nhiều lực lượng trẻ góp mặt, mục tiêu quán xuyến là xây dựng xă hội chủ nghĩa và đấu tranh chống Mỹ ngụy. Văn học miền Nam không chỉ là lực lượng tại chỗ về sau ngày càng đông đảo, mà c̣n được bổ sung từ Hà Nội và các vùng kháng chiến hồi cư, không chủ trương định hướng sáng tác, thả lỏng cho mọi sự sáng tạo tự do, v́ thế nhiều khuynh hướng đối lập cùng song song tồn tại, có chống cộng và ḥa giải, tâm lư chiến và phản chiến, lại có cả văn chương đứng ngoài chính trị…
3. Giai đoạn từ sau 1975: đất nước thu về một mối tạo điều kiện cho nền văn học hiện thực xă hội chủ nghĩa mở rộng thành văn học cả nước, cất tiếng ca tưng bừng "Việt Nam – Hồ Chí Minh" của người chiến thắng, đưa lên "tượng đài" h́nh ảnh người anh hùng đánh Mỹ, và từng bước dơi theo tư thế của con người ấy trong cuộc sống ḥa b́nh. Trong khi đó, ở nhiều nước có cộng đồng người Việt di tản, một ḍng văn học hải ngoại ra đời, buổi đầu cũng do lực lượng văn nghệ sĩ cũ ở miền Nam đóng vai tṛ chính, vừa bàng hoàng phẫn hận trước bi kịch đổ vỡ của những con người ở phía bên kia cuộc chiến, vừa dày ṿ trong nghịch cảnh lưu vong : phải trải qua muôn ngh́n khổ ải để t́m đất hứa, bơ vơ nơi xứ lạ, nỗ lực hội nhập để sống c̣n nhưng vẫn không quên khẳng định "căn cước" của chính ḿnh… Cách phân chia này tưởng cũng dễ được nhiều người thừa nhận…."(Nguyễn Huệ Chi, Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử văn học nh́n từ điểm đầu thế kỷ XXI, Phần II-Có hay không một thời kỳ Văn học Cận đại, http://chimviet.free.fr/dantochoc/chung/nhcl052.htm)
Văn học các đô thị Miền Nam 1954-1975 (Một môn học được dậy tại Đại học Đà Lạt-2 tín chỉ) Dành cho Sinh viên năm 3&4-Tiến sĩ Nguyễn Đ́nh Hảo biên soạn
"Trường Đại học Đà Lạt là một trường công lập được thành lập theo Quyết định số 426/TTg ngày 27 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở Viện Đại học Đà Lạt, một trường tư thục thành lập trước 1975 và bắt đầu đào tạo đại học từ niên khóa 1958 – 1959. Tính từ thời điểm 1958 đến nay, Trường Đại học Đà Lạt đă trải qua chặng đường 55 năm h́nh thành…" (http://www.dlu.edu.vn/introduce.aspx?orgId=1&aboutid=12)
“[...]Văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 phát triển trong bối cảnh chiến tranh và chia cách ấy. Tiếng nói và sự hoài niệm của những nhà văn gốc Bắc xa quê, dĩ nhiên góp phần đáng kể trong việc thể hiện h́nh ảnh Hà Nội; nhưng quan trọng hơn, đó c̣n là sự đồng vọng của cả dân tộc, đất nước hướng về cội nguồn[...]Như vậy, Hà Nội là một địa chỉ có thực đồng thời là một không gian – bối cảnh nghệ thuật được nhiều tác phẩm văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 quan tâm đến. H́nh ảnh chung nhất của Hà Nội qua các truyện ngắn, truyện dài và tùy bút là:Hà Nội đẹp v́ Hà Nội là thủ đô, là thành phố lớn, là nơi hội tụ thu hút nhiều người, là nơi tỏa sáng v́ sự sang trọng, giàu có của nó[...]Ngoài cảnh đẹp và những đặc tính của một thành phố lớn, một thủ đô lâu đời; Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975 được nhấn mạnh ở chiều sâu văn hóa[...]Viết và kể chân thực về Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975 vừa là t́nh cảm chủ quan của con người đối với quê hương, bản quán; vừa như qui luật khách quan của đời sống văn học: xu hướng bù trừ, cân bằng với cái đă mất. Hà Nội không mất, nhưng sự cách biệt với Hà Nội có thể khiến cho việc ngóng trông, đồng vọng trở nên tha thiết hơn. Đây cũng là điểm giống nhau hay là sự tiếp nối giữa giai đoạn văn học trước 1975 với t́nh h́nh sáng tác của người Việt ở hải ngoại sau 1975. [...]Nhiều truyện và tiểu thuyết tiếng Việt ra đời ở nước ngoài được xem như những ḍng hoài niệm về quê hương, xứ sở. Xét ở phương diện văn hóa, đó cũng là cách ứng xử của nhà văn với giá trị văn hóa truyền thống. Vậy nên, h́nh ảnh Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 ngoài giá trị văn chương, c̣n là một giá trị văn hóa…." (Nguyễn Thị Thu Trang, "H́nh ảnh Thăng Long-Hà nội trong văn xuôi đô thị Miền Nam Giai đoạn 1945-1975,” Ngày 24 .9. 2010, http://vanhoanghean.com.vn/
Giáo sư Nguyễn Thị Thu Trang hiện là "giảng viên chính, Phó trưởng khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Phú Yên" và " vừa bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ chuyên ngành Lư thuyết và Lịch sử văn học … với đề tài “Con người và những giá trị văn hóa truyền thống trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” … tại Đại học Khoa học Xă hội và Nhân văn -Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh." (19/10/2008, http://www.baophuyen.com.vn/79/30220...o-ve-xuat-sac- luan-an-tien-si-ngu-van.html)
Đọc những thí dụ dẫn chứng, nhất là thí dụ của Giáo sư Nguyễn Thị Thu Trang th́ người đọc đương nhiên nhận ra cái vói tay hơi dài từ Hà nội ra Sài g̣n, nay c̣n muốn vói qua đại dương với cái kiểu viết lách “Nhiều truyện và tiểu thuyết tiếng Việt ra đời ở nước ngoài được xem như những ḍng hoài niệm về quê hương, xứ sở. Xét ở phương diện văn hóa, đó cũng là cách ứng xử của nhà văn với giá trị văn hóa truyền thống. Vậy nên, h́nh ảnh Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 ngoài giá trị văn chương, c̣n là một giá trị văn hóa."
Nguyễn Thị Thu Trang khi viết những ḍng này hẳn chưa bao giờ được biết tới "slogan" Chúng ta đi mang theo quê hương của đợt di cư lần thứ nhất 1954 rồi di tản lần thứ hai 1975. Bà hẳn cũng chưa được đọc bài viết phũ phàng về Hà Nội của Mai Thảo, một người Bắc di cư vào Nam, (và lời tôn vinh Sài g̣n là thủ đô văn hóa của ông trong một bài khác):
-" [...] Kẻ thù không sợ chúng ta ở xa hay về gần. Điều nó sợ là ở xa hay gần mỗi chúng ta vẫn cứ là một khối sống rực rỡ. Cho nên đi hay ở đă không thành vấn đề. Đi không phài là tỵ nạn là mất gốc. Những cái mà tôi, mà anh, những người Hà Nội hiến dâng, góp phần vào cho sự sống ở Sài g̣n, ở khắp nơi hôm nay mới chính là Hà nội, cái phần tinh hoa, cái phần quư giá nhất của Hà nội. Chúng ta đi mang theo quê hương, chúng ta đi mang theo Hà Nội là v́ thế. Mà cũng chính là trong lối sống mà chúng ta đang chiến đấu, đang bảo vệ cho Hà nội, để vẫn là những người Hà nội. " (Mai Thảo, “Quê hương trong trí nhớ," Sáng Tạo, tháng 10.1958, trang 19-24-Tài liệu của Viên Linh)
Hay lời xác quyết của Tam Lang, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan và Đinh Hùng, những người chủ trương nhật báo Tự Do (1954-1955) , rằng Hà Nội là "một chế độ mà điều kiện tồn tại là sự thủ tiêu hoàn toàn nhân tính của con người”:
-"[...]Giờ này, liễu ven hồ Hoàn Kiếm đang đợi gió Đông để lên tơ. Nhưng mành tơ liễu quá lơ thơ chưa buông kín nổi tâm tư của người đất Bắc trăm mối ṿ nhầu.
Xuân có sang mà hoa không tươi…
Hoa ngoài trời không tươi mà hoa trong ḷng người thật đă héo đi từ khi c̣n là nụ. Nỗi uất hận của người miền Bắc hiện quằn quại dưới một chế độ mà điều kiện tồn tại là sự thủ tiêu hoàn toàn nhân tính của con người–nỗi uất hận đó làm chén rượu mừng xuân của người Việt Miền Nam có nâng lên cũng không cạn nổi[...] Nỗi băn khoăn của người ngày nay cũng tương tự nỗi băn khoăn của thế hệ trước, khác một điều là những hiện tại phải được đặt trên một b́nh diện rộng lớn hơn nhiều, bởi phức tạp hơn, bởi vô cùng hiểm nghèo. Thế hệ trước thu gọn băn khoăn của ḿnh trong hai chữ Độc Lập. Thế hệ ngày nay c̣n phải chiếu rọi băn khoăn lên thêm một chiều nữa: Tự Do. Thế hệ trước chỉ cần nhắm vào người dân Việt. Thế hệ của lũ chúng ta c̣n nhắm tới ư nghĩa của Con Người. Xuân năm Mùi v́ thế được mệnh danh là XUÂN TỰ DO." (Mặc Đỗ-đại diện Nhóm chủ trương Tự Do, "XUÂN TỰ DO", trang 1, Nhật báo Tự Do, Năm 1955, Sài g̣n. Tranh b́a của Phạm Tăng)
Trong mắt nhiều nhà cầm bút Việt Nam, Hà nội chỉ c̣n là một phần đất không có tự do (nhóm Quan Điểm) một xác chết trên đất hương hỏa (Mai Thảo), hay những vụ hành hạ chôn sống địa chủ (Quách Thoại). Cái "hoài niệm về quê hương, xứ sở" mà Nguyễn Thị Thu Trang nói đến là cái hoài niệm của một hay nhiều thành phố tự do đă mất, không phải cái -bây-giờ, cái Hà Nội không c̣n giọng Hà Nội, cái thủ đô của cả nước mà cho đến nay chưa có một nhà xuất bản tư nhân chính thức nào được phép hoạt động, cái phần đất "Mấy lần đất nước đứng lên/Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm" (Xuân Sách, "Nguyên Ngọc", Chân dung các nhà văn) mà măi tới bây giờ những "anh hùng văn nghệ" như (Đại tá) nhà văn Nguyên Ngọc mới lóp ngóp đứng lên lo lập Văn đoàn độc lập sau bao năm im lặng hoàn toàn khi văn nghệ sĩ Miền Nam như Văn Quang, Tạ Tỵ, Tô Thùy Yên vv… bị giam trong tù. Rồi giải nghĩa làm sao về việc các nhà văn Miền Nam kỳ cựu như B́nh-nguyên Lộc cũng ra đi nốt?! Đó, đó mới là những cái mà nhà giáo dục và đồng nghiệp của bà Thu Trang cùng các học giả và lư luận phê b́nh xuất thân từ Miền Bắc cần nên biết tới. V́ nghiên cứu là ǵ nếu không đủ kiến thức và bản lănh đến nỗi lại bỏ sức ra góp công cho một lịch sử nhân tạo?
Trong hai mươi năm mà Việt Nam Cộng ḥa tồn tại, nó có duy nhất một nền Văn học Miền Nam với Sài g̣n là thủ đô nơi sinh hoạt báo chí và các tạp chí văn học lừng danh của nó mà các tác giả xuất hiện chính thức trên Sáng tạo, Tư tưởng, Giữ thơm quê mẹ, Nghệ thuật, Văn, Khởi Hành, Bách khoa, Tŕnh Bầy, Thời Tập v.v. mà bất kể là các tác giả xuất hiện trên những tạp chí đó sống ở đâu hay hành nghề ǵ. Có thể đặt vấn đề ngược lại rằng, tại Miền Bắc, không ai lại đặt vấn đề là các nhà văn như Nguyễn Đ́nh Thi, Tô Hoài, các nhà phê b́nh như Lại Nguyên Ân hay Vương Trí Nhàn hoặc các sử gia như Dương Trung Quốc sống ở đâu, hành nghề ǵ, bài gửi đến đóng dấu bưu điện ở "đô thị" nào. Người đọc chỉ cần biết đó là những tay viết có nghề có uy tín mà bài viết nay xuất hiện trên những tạp chí số một ở (thủ đô) Hà Nội. Cũng không ai bắt độc giả của các ông x̣e giấy chứng minh họ cư ngụ tại nông thôn hay thành thị.
Như thế, nếu đặt dấu hỏi rằng một tác giả Miền Nam — miễn có xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ hay/và có xuất bản– sống ở đâu, hành nghề nào, ka-ki hay không ka-ki, mặc mini hay midi, tại sao sáng tác hay dịch thuật, nhịp sáng tác mạnh hay chậm, sáng tác được bao nhiêu bài trong năm, sáng tác về đề tài chiến trường hay pḥng trà gái nhẩy, sáng tác xong có gửi lên báo đặng "khoe" với mỹ nhân (như trường hợp họa sĩ CHÓE) hay làm biếng dúi vào một góc tủ, có biết uống rượu đế hay chỉ biết nhậu Coca Cola, sành thuốc lá Ba con năm hay mê Bastos. Hoặc đặt vấn đề cho độc giả của các tác giả Miền Nam là sống ở đâu thành thị hay nông thôn, hành nghề nào, ka-ki hay không ka-ki, mặc mini hay midi, ưa đọc bà Tùng Long ở hậu phương hay mê thơ Tô Thùy Yên nơi tiền tuyến, tại sao thích sáng tác thay v́ dịch thuật vv. và vv. với Văn học Miền Nam 1954-1975 th́ quả có phải là phi văn …học và đầy tính chính trị không? "
"Đầy tính chính trị" v́ như thế, thêm vấn đề là một số nhà văn "giải phóng Miền Nam" mà hồi đó không có độc giả ở các đô thị Miền Nam, lại chỉ có độc giả là cây cối trong …rừng Xà-Nu th́ các bạn Miền Bắc tính sao cho ổn thỏa?! Lấy thí dụ điển h́nh là nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977). Ông sinh quán Biên Ḥa, tập kết ra Bắc năm 1953, từng giữ chức Tư lệnh Khu bộ VII (1948 – 1953), và trở về Miền Nam năm 1965 tham dự cuộc đánh chiếm Miền Nam. Ông là người nổi tiếng với hai câu thơ: "Từ thuở mang gươm đi mở cơi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng long" và qua đời với chức "Hàm thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp". Nhưng ông không thuộc Văn học Miền Nam v́ cái quy luật rất đơn giản này: tác phẩm của ông khi đó và độc giả của ông không xuất hiện tại Miền Nam 1954-1975. Cho nên, nếu áp dụng quy luật đơn giản mà rơ ràng ấy–tác giả th́ phải có độc giả cho đàng hoàng và lập văn nghiệp bằng tác phẩm ít nhất cũng đă được xuất bản công khai hay sáng tác xuất hiện trên các tạp chí xuất bản chính thức tại một nơi nào đó– th́ những vấn đề đưa ra như tác giả ở đâu, độc giả ở đâu vv …lập tức bị triệt tiêu ngay.
Ở trường hợp các "tác giả" lạ hoắc mà sau 1975 người ta mới được có dịp biết đến th́ rất khó thuyết phục rằng họ thuộc Văn học Miền Nam dù là trong "rừng". Đó chỉ là cái vỏ đem các tác giả vô danh này lên ngang hàng với một loạt tác giả, học giả hay chủ bút hoặc thư kư ṭa soạn lẫy lừng của Miền Nam bằng cách phát minh ra một vùng văn học là vùng "Văn học đô thị Miền Nam 1954-1975". Người Cộng sản rất muốn đẩy hàng loạt tác giả, học giả hay chủ bút hoặc thư kư ṭa soạn lẫy lừng này vào một khu vực rất nhỏ hẹp đó, nhất là các tác giả di cư đă đóng góp rất lớn vào sự đa dạng của Văn học Miền Nam ngay khi nó khởi hành, để ăn khớp với lịch sử do họ viết, rằng họ mới là người kiểm soát được hầu như 90 phần trăm của Việt Nam Cộng ḥa. Nhóm tác giả di cư này c̣n là cái nhắm đặc biệt của người Cộng sản Việt Nam: họ đă di cư, nghĩa là họ chứng tỏ sự chống Cộng bằng hành động rất cụ thể. Hơn thế nữa, họ c̣n giúp làm vững Văn học Miền Nam bằng cách sáng lập, điều hành hay giữ trách nhiệm chủ nhiệm, chủ bút hoặc thư kư ṭa soạn nhiều tạp chí văn học để giúp một phần trong việc cộng thêm điều kiện cho các thế hệ nhà văn trẻ tiến lên, lập thành một nền văn học phong phú và khởi sắc đến nỗi nay, sau khi Việt nam Cộng ḥa và Văn học Miền Nam đă mất, chính người Cộng sản đă phải nghiên cứu về nó. Những nhà văn di cư này đă làm để chống Cộng sản, để tạ ơn phần đất đă cho họ một chỗ dung thân và để tạ ḷng tri kỷ mà không bao giờ có thể ngờ được rằng–60 năm sau khi người Cộng sản chiếm Miền Bắc rồi tiến chiếm Miền Nam 20 năm sau–những Tự do (thời Mặc Đỗ), những Sáng Tạo, những Thế kỷ 20, những Nghệ Thuật, những Văn, những Khởi Hành (Bộ cũ) vv nay tồn tại như những v́ sao tỏa sáng măi măi trong một bầu trời Văn học Miền Nam tự do lấp lánh.
Cho nên, nhóm chữ "văn học đô thị Miền Nam 1954-1975" trong văn sử của người Cộng sản luôn luôn phải đi đôi với "vùng bị tạm chiếm" trong lịch sử của người Cộng sản để dựng lại tử thi Mặt trận Giải phóng Miền Nam mà chính người Cộng sản đă an táng cái chết không ma chay của nó ngay sau 1975. Cho tới nay, khỏi cần dẫn chứng, ai cũng biết Mặt trận Giải phóng chỉ là một bức b́nh phong hữu danh vô thực để binh sĩ Miền Bắc có lư do có mặt ở Miền Nam. Chưa bao giờ người Cộng sản chiếm được vùng nào của Việt Nam Cộng ḥa, chưa bao giờ họ trương được lá cờ của họ tại bất cứ nơi đâu. Khi người nằm vùng của họ bị bắt th́ chính Văn bút Việt Nam, một tổ chức hợp pháp thuộc Việt Nam Cộng ḥa, xin cho ra khỏi tù. Những nhóm như Tŕnh Bầy vẫn được cho xuất bản, không phải v́ chính phủ Việt Nam Cộng ḥa không đủ sức bắt-họ-bỏ-bót, mà v́ họ được tự do, được chính phủ Việt Nam Cộng ḥa cho phép có những hành động thiên tả.
Đó là điều rất quan trọng cần được lưu ư khi so sánh giữa chế độ tự do trong Nam và độc tài ngoài Bắc. Chính v́ thế, chính v́ sự tự do đó mà nay rất nhiều nhà nghiên cứu hay nhà văn sinh trưởng hoàn toàn trong chế độ độc tài Cộng sản không cách nào hiểu được các nhà văn theo cộng sản "yêu nước cách mạng" trong chiến tranh 1954-1975 lại được sống và chống chính phủ Việt Nam Cộng ḥa ngay tại Sài g̣n mà hầu như không hề hấn ǵ, nghĩa là không riêng Tŕnh Bầy mà bất cứ tác giả nào cũng không cần tốn một viên đạn mà vẫn có thể đứng giữa thủ đô Sài g̣n đăng bài của tác giả ngoại quốc chống chính phủ Hoa Kỳ và bất đồng ư kiến với chính phủ Việt Nam cộng ḥa, một chính phủ của một quốc gia tự do. Cho nên, không bao giờ có một nền Văn học Đô thị Miền Nam1954-1975 nào hết mà chỉ có Văn học Miền Nam của Việt Nam Cộng ḥa.
Riêng trong vấn đề này, người viết nghĩ không có ǵ hay hơn là phỏng vấn các nhà văn Miền Nam–đối tượng nghiên cứu– xem ư kiến của họ ra sao. Để mở đầu, người viết sẽ phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Viên Linh. Xin xem phần Phụ lục dưới bài viết.
Bookmarks