Chiến tranh và góa phụ trong xă hội Việt Nam
Hai phụ nữ Việt Nam tại nghĩa trang quân đội Biên Ḥa hôm 29/4/1975 AFP photo
Chiến tranh Việt Nam đă lại để lại hàng triệu goá phụ, và những đứa con côi cút bị mất cha, ĺa mẹ. Có người tiếp tục bước thêm bước nữa để t́m hạnh phúc mới, nhưng nhiều người đă ôm con, thờ chồng, sống cuộc đời pḥng không, chiếc bóng từ khi tóc hăy c̣n xanh.
Họ là những cánh hoa thời loạn ly bị cuốn đi trong cơn giông băo của chiến tranh. Những tấm gương trung kiên, hy sinh thầm lặng mà không hề nhận được huy chương, không một bó hoa và tên của họ cũng không bao giờ được khắc trên bia đá để nhiều người tưởng nhớ.
Những nỗi buồn câm lặng
Trong chương tŕnh hôm nay, nhân kỷ niệm ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi xin gởi đến quư độc giả h́nh ảnh của những goá phụ đáng kính mà chiếc bóng cô đơn của họ đă ẩn sâu sau những bức tường của những căn nhà hiu quạnh với những nỗi buồn câm lặng, chịu đựng một cách can trường.
Cuộc chiến Việt Nam đă chấm dứt cách đây 38 năm, nhà cửa đă mọc lên thay cho những hố bom. Những cánh đồng hoang lúa đă trổ bông. Cây đă nở hoa. Rừng xanh bao lần thay lá. Nhưng vết thương ḷng của nhiều thế hệ vẫn c̣n rỉ máu. Ḷng người vẫn chia cắt, ư thức hệ vẫn c̣n là một hố sâu ngăn cách chưa thể hàn gắn. Người dân trong nước vẫn chưa có cuộc sống b́nh yên, chưa t́m được tự do, hạnh phúc thật sự.
Đă có rất nhiều tài liệu, sách vở viết về "Cuộc chiến Việt Nam”.Tất cả đều cho rằng đây là cuộc chiến tranh khốc liệt, đẫm máu và đầy nước mắt. Nhưng con số thương vong chính xác vẫn chưa thống kê một cách đầy đủ. Theo Tổ chức Vietnam Agent Orange Relief & Resposibility Campain có trụ sở tại New York cung cấp th́ có khoảng 4 triệu người Việt Nam của hai bên đă thiệt mạng, bị thương, hoặc mất tích trong giai đoạn 1965-1975. Riêng quân đội Hoa Kỳ đă có 58,151 người hy sinh trên chiến trường miền Nam Việt Nam. (*)
Chỉ riêng tại Miền Nam đă có 800.000 trẻ em mồ côi. Hàng triệu goá phụ và ít nhất 10 triệu người trở thành vô gia cư (**).
Những câu chuyện về cuộc đời của những goá phụ là những nỗi thống khổ và sự mất mát của họ đă vượt qua không gian và thời gian. Làm thế nào họ thích ứng sau đó và bây giờ? Làm thế nào họ được an ủi, hỗ trợ, hoặc những ǵ họ đă cố gắng t́m kiếm để tạo dựng lại cuộc sống, t́m cho ḿnh và các con một tương lai hạnh phúc mới. Tất cả điều đó đă được khám phá trong những câu chuyện bi thảm dần dần được hé mở. Những bi kịch, đổ vỡ trong trái tim và cuộc đời họ rất thầm lặng như một mạch nước ngầm thấm sâu trong ḷng đất.
Sau năm 1975, cộng sản đă đưa hơn 1 triệu dân quân cán chính VNCH đi học tập cải tạo. Có người đă được trở về sum họp gia đ́nh. Nhưng có 165.000 người đă chết trong nhà tù cộng sản. (***) Miền Nam lại có thêm những goá phụ với cơi ḷng tan nát.
Tôi được tiếp xúc với bà Trần Thanh Minh, người goá phụ có chồng là Giảng Viên Tâm Lư Chiến tại trường Vơ Bị Đà Lạt, bị cộng sản bắt giam và ông đă chết trong tù. Bà một ḿnh phải nuôi bốn đứa con nhỏ, cháu lớn nhất mới vừa 6 tuổi và cháu nhỏ nhất mới vài tháng tuổi. Bà đă kể lại hoàn cảnh của mẹ con bà sau cái chết của chồng:
“Ông xă tôi ra đi lúc đó tôi mới có 35 tuổi. Nhưng mà sau 20 năm ở lại với bao nhiêu những đau khổ, vật lộn với miếng ăn. Tôi đă đi bán bánh tôm, bánh cuốn ở Hồ Con Rùa. Tôi đă đi chạy thuốc tây. Tôi đă bán quà cho học tṛ ở trong những căng-tin trong trường. Có thể nói rằng ai sai cái ǵ làm cái đó. Ḿnh làm hết cái khả năng của ḿnh cũng không đủ nuôi con. Cho nên cái mong ước lúc bấy giờ, tôi chỉ cầu xin làm sao cho các con tôi đủ ăn, sống một cuộc đời không phải đói rét.”
Trong bài hồi kư “Chuyện Buồn Người Vợ Tù” bà đă viết “Thế là xong, là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó, tôi sống cũng như chết rồi….” Bà đă kể thảm cảnh chết đói của chồng khi đi học tập cải tạo tại Miền Bắc với tâm trạng bồi hồi và xúc động:
“Cô Phong Thu biết tù cải tạo không tức là họ đưa đi vào rừng vào núi để làm một cái nhà tù lớn để ở trong đó lao động cuốc đất, trồng cây. Nhưng mà hơn một năm trời không có tin tức ǵ hết. Sau đó là nhà nước cho đi thăm nuôi. Nhưng tôi không được may mắn hơn mọi người. Khi ở trong Nam là c̣n được đi thăm. Nhưng khi họ chuyển nhà tôi đi ra Bắc. Tôi ra tới chỗ mới biết chồng tôi đă chết ở Vinh, Nghệ Tĩnh. Theo lời các anh kể lại là lúc bấy giờ không có ăn phải ăn lá cây chín ngày, không thuốc men là phải chết thôi. Tôi nghĩ là không thể nào quên được hết cái cảm giác trước khi tôi gục xuống th́ tôi thấy như là có vật ǵ nó đập vào tôi, tối đen và có ánh sáng li ti phát ra. Tôi ngất đi.”
Khi tôi hỏi bà suy nghĩ ǵ về cuộc chiến đă qua và bà có ư kiến ǵ với chính sách cai trị của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội. Bà chỉ buồn bă nói:
“ Chuyện đă qua th́ tôi không có chính trị cho nên tôi cũng chẳng có ư kiến ǵ nhưng tôi không đồng ư với những chính sách mới là tại sao cứ phải làm khổ nhau? Tại sao không dùng những chất xám, những bộ óc siêu việt để mà xây dựng lại đàng này lại đem người ta vào rừng sâu, nước độc rồi để cho người ta đói khát chết dần, chết ṃn. Rồi để cho vợ con người ta khổ sở đi kinh tế mới.
Không có một gia đ́nh nào tôi thấy trọn vẹn hết. Người ta cố đi t́m tự do. Tại sao người ta phải đi t́m? V́ người ta khổ quá. Người ta không có ăn. Sống không được nói. Lúc nào cũng bị kiềm kẹp, lúc nào cũng lo sợ. Thành ra chính tôi đă dẫn những đứa con tôi đi vượt biên. ”
Bà đă đưa các con đi vượt biên 20 lần nhưng không thoát và phải đi tù nhiều lần. Trong nhà tù đói khát và hết sức khủng khiếp mà cho đến nay đă mấy chục năm bà vẫn không bao giờ quên.
C̣n tiếp...
Bookmarks