Page 2 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 11 to 20 of 40

Thread: Tội ác Cộng Sản Việt Nam

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Tội Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165.000 Quân Dân Cán Chính VNCH

    » Tác giả: Đỗ Ngọc Uyển


    1. Tội Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165.000 Quân Dân Cán Chính VNCH

    Mang Kẻ Phạm Tội Ra Trước Công Lư và Mang Công Lư Tới Nạn Nhân

    Trong tháng 4/1975, cộng sản Bắc Việt – với sự yểm trợ và tiếp vận của khối cộng sản quốc tế –..đă mở một cuộc tấn công ào ạt bằng quân sự với chiến xa và trọng pháo vượt qua biên giới, chiếm đóng lănh thổ VNCH một cách phi pháp. Đây là một cuộc xâm lăng của khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai Việt Cộng. Theo công pháp quốc tế, VNCH hội đủ tám tiêu chuẩn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ. Do đó, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đă phạm tội ác xâm lược (the crime of aggression). Đây là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).

    Ngày Thứ Hai, 23/7/07, trên trang mạng của tờ The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đă trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đă kết luận rằng ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đă đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn – dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trong toàn cơi Việt Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đă bị giam cầm từ ba tới 10 năm và có một số người đă bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung b́nh là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7.000.000 năm. Đây là một tội ác h́nh sự mang tính lịch sử vô tiền khoáng hậu của lũ Việt gian cộng sản mà ngàn đời sau phải ghi nhớ.

    Cũng theo cuộc điều tra nói trên, cứ mỗi ba gia đ́nh tại Miền Nam, có một gia đ́nh có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đă có 165.000 người chết v́ bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết v́ bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165.000 nạn nhân này vẫn c̣n bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đ́nh họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rơ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đă và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà chánh phạm là tên Lê Duẩn… và ba tên đồng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng.

    Điều 7 của Đạo Luật Rome đă định nghĩa tội Thủ Tiêu Mất Tích Người “Enforced Disappearance of Persons” như sau:

    Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia hoặc một tổ chức chính trị, sau đó không nh́n nhận sự tước đoạt tự do của người ta và cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài. “Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time.”

    Theo định nghĩa trên đây, Việt Cộng đă phạm tội ác thủ tiêu mất tích người khi chúng lạm danh chính quyền của quốc gia để đưa ra những thông cáo lừa gạt để bắt và giam giữ một cách phi pháp – dưới cái nguỵ danh “học tập cải tạo” – và hành hạ cho tới chết bằng những đ̣n thù của chúng, và tiếp tục chôn giấu hài cốt của 165.000 quân dân cán chính VNCH trong vùng rừng núi với chủ tâm thủ tiêu mất tích. Đây là một tội ác chống loài người (a crime against humanity). Tội ác này thuộc quyền xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Ngoài tội ác đối với những người đă chết, cộng sản c̣n phạm thêm một tội ác chống loài người nữa đối với thân nhân của những người đă chết. Đó là hành động độc ác (inhumane act) với chủ tâm gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Hăy tự đặt ḿnh vào hoàn cảnh của những người mẹ, người vợ, người con… đă có con, có chồng, có cha…bị giam cầm hành hạ cho tới chết và thân xác bị chôn giấu tại một xó thâm sơn cùng cốc nào đó và tuyệt vô âm tín suốt 35 năm nay mới thấu được nỗi thống khổ trong tâm can họ!

    Điều 7 của Đạo Luật Rome đă định nghĩa những hành động độc ác của tội ác chống loài người này như sau:

    Những hành động độc ác có cùng một tính cách với chủ tâm gây thống khổ hay thương tích nghiêm trọng cho thân xác hay cho sức khoẻ về thể chất và tinh thần. “Other inhumane acts of a similar character intentionally causing great suffering or serious injury to body or to mental or to physical health.”

    Theo định nghĩa trên đây, cộng sản đă phạm tội ác chống loài người khi chúng chôn giấu trong rừng sâu 165.000 bộ hài cốt của quân dân cán chính VNCH đă chết dưới đ̣n thù của chúng với chủ tâm gây thống khổ “intentionally causing great suffering” suốt đời cho thân nhân của họ. Đây là cung cách trả thù phi pháp (extrajudicial retribution) của quân thảo khấu sống ngoài ṿng pháp luật. Tội ác này cũng thuộc quyền xét xử của ICC.

    Bổn phận của chúng ta, những người tù c̣n sống sót sau cơn đại hồng thuỷ là phải cất tiếng nói công chính, nêu rơ tội ác của chúng để mang bọn tội phạm này ra trước công lư và mang công lư đến cho những nạn nhân của chúng. Đây là bổn phận phải làm để trả lại danh dự cho 165.000 quân dân cán chính VNCH đă bị sát hại v́ đ̣n thù của Việt Cộng trong những cái gọi là trại cải tạo và để xoa dịu một phần nỗi đau thương của thân nhân những nạn nhân.

    Hai tội ác chống loài người trên đây của Việt Cộng là những tội ác h́nh sự có tính quốc tế và. được dự liệu tại Đạo Luật Rome. Trước khi đưa bọn tội phạm ra xét xử trước công lư, xin tŕnh bày tóm lược về Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The Rome Statute of the International Criminal Court)

    Sau một thời gian dài cố gắng thành lập một Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để xét xử và trừng

    phạt các cá nhân phạm bốn loại tội ác nghiêm trọng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm gồm: 1/ tội ác diệt chủng (the crime of genocide), 2/ tội ác chống nhân loại (crimes against humanity, 3/ tội ác xâm lược (the crime of aggression), 4/ và tội ác chiến tranh (war crimes), cuối cùng th́ một hội nghị đă được Liên Hiệp Quốc triệu tập tại Rome, Italy trong thời gian từ ngày 15/6/1989 đến ngày 17/7 /1989 với 160 quốc gia tham dự. Sau năm tuần lễ thảo luận và điều đ́nh căng thẳng, 120 quốc gia đă bỏ phiếu chấp thuận Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế cùng với bẩy quốc gia bỏ phiếu chống (Hoa Kỳ, Do Thái, Trung Cộng, Iraq, Qatar…) và 21 quốc gia bỏ phiếu trắng. Đạo Luật Rome gồm có – ngoài Lời Mở Đầu (Preamble) – 13 Phần (Part) với 28 Điều (Article). Các Điều 6, 7 và 8 liệt kê và định nghĩa các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh. Các Điều c̣n lại nói về quyền hạn, tổ chức và điều hành… của Toà Án.

    Theo quy định, Đạo Luật Rome sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc gia phê chuẩn. Senegal là quốc gia phê chuẩn đầu tiên và quốc gia thứ 66 đă phê chuẩn vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Đạo Luật Rome có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2002. Toà Án H́nh Sự Quốc Tế cũng được mở ra trong năm đó tại The Hague, Netherlands. Hiện nay đă có 110 quốc gia phê chuẩn Đạo Luật Rome và trở thành quốc gia hội viên (State party) của đạo luật này. Quốc hội Hoa Kỳ đă không phê chuẩn đạo luật này, nên Hoa Kỳ không phải là quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome.

    Toà Án H́nh Sự Quốc Tế là một tổ chức quốc tế độc lập, không trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Điều này có nghĩa là Toà Án H́nh Sự Quốc Tế độc lập về quyền tài phán, xét xử. Kể từ ngày 1-7-2002 trở đi, các quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome phải chấp nhận quyền xét xử (jurisdiction) của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế về những tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome khi những tội ác đó diễn ra tại các nước hội viên. Công dân của các quốc gia không phải hội viên (non State party) gây tội ác trên lănh thổ của các quốc gia hội viên cũng phải chịu sự xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Công Tố Viên Trưởng của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The ICC’s Chief Prosecutor) bắt đầu thụ lư và mở một cuộc điều tra về một vụ án khi nhận được tin tức về tội ác đang diễn ra do các quốc gia hội viên hoặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chuyển tới. Ngoài hai nơi cung cấp tin tức nói trên, Công Tố Viên c̣n có thể nhận tin tức từ các nguồn cung cấp khác như các cá nhân hay các tổ chức ngoài chính phủ (non-governmental organizations).

    Khi tội ác diễn ra trên lănh thổ của một quốc gia không phải hội viên, chỉ có Hội Đồng Bảo

    An Liên Hiệp Quốc mới có quyền chuyển thông tin về những tội ác đó cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Đây là trường hợp đă được áp dụng đối với Sudan, một quốc gia không phải hội viên. Bằng Nghị Quyết số 1593 năm 2005, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đă chuyển tới Toà Án H́nh Sự Quốc Tế t́nh trạng tội ác đă và đang diễn ra tại Darfur. Pḥng công tố đă mở các cuộc điều tra, và ngày 14-7-2008, Toà Án đă ban hành trát bắt giữ Ahmad Muhammed Harun (Ahmed Haroun), Bộ Trưởng Nội Vụ của Sudan và Ali Muhammed Ali Abd-Al-Rahman (a.k.a Ali Kushayb), một tư lệnh dân sự. Hai người này bị quy trách nhiệm về các tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh đă và đang diễn ra tại Darfur. Chính quyền Sudan đă từ chối bắt giữ và giải giao hai nhân vật nói trên cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Ngày 14-7-2008, Công Tố Viên Luis Mereno-Ocampo đă tŕnh bày những chứng cứ chứng minh rằng Tổng Thống Sudan phải chịu trách nhiệm về các tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đă và đang diễn ra tại Darfur. Ngày 4-3-2009, Toà Án H́nh Sự Quốc Tế đă ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Omar Hassan Al-Bashir của Sudan để trả lời trước công lư về năm tội ác chống nhân loại được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome: 1/ Tội giết người (Murder), 2/ Tội huỷ diệt chủng tộc (Extermination), 3/ Tội cưỡng bức chuyển vùng cư trú (Forcible transfer), 4/ Tội hành hạ (Torture), 5/ Tội hiếp dâm (Rape), và hai tội ác chiến tranh được dự liệu tại Điều 8 của Đạo Luật Rome: 1/ Tội cướp bóc (Pillaging), 2/ Tội trực tiếp tấn công có chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào trong cuộc tranh chấp thù địch.

    Cùng với việc ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Bashir, Toà Án H́nh Sự Quốc Tế cũng gửi một công văn yêu cầu nhà cầm quyền Sudan giải giao Tổng Thống Bashir cho Toà Án. Theo Nghị Quyết số 1593 năm 2005 của Hội Đồng Bảo An LHQ đă nói ở trên, chính quyền Sudan có bổn phận phải hợp tác với Toà Án. Tuy nhiên, không có hy vọng chính quyền Sudan sẽ bắt và giải giao Tổng Thống Sudan cho Toà Án. Chính quyền này đă nhiều lần tuyên bố rằng họ không nh́n nhận thẩm quyền của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Nếu Tổng Thống Bashir không ra tŕnh diện hoặc chính quyền Sudan không giải giao ông này cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế, ông ta sẽ bị coi như một kẻ đang đào tẩu, trốn tránh công lư (a fugitive from justice). Và kể từ nay, khi nào ông Bashir bước chân ra khỏi Sudan, đến một quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome và ngay cả những quốc gia không phải hội viên nhưng sẵn sàng hợp tác với Toà Án, ông ta sẽ bị bắt và giải giao cho Toà Án để trả lời trước công lư về những tội ác mà ông ta phải chịu trách nhiệm.

    Một điều quan trọng cần ghi nhận rằng lệnh bắt giữ để đưa ra toà án xét xử một tổng thống đang tại chức v́ những tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh…là hồi chuông cảnh báo nghiêm khắc cho những kẻ cầm quyền đang phạm những tội ác chống nhân loại có tổ chức quy mô tại Việt Nam như những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng rằng chúng sẽ phải đối diện với công lư bất kể quyền lực và cương vị của chúng.

    Tội ác thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH đă hiển nhiên không thể chối căi. Ngoại trừ một số rất ít hài cốt của họ đă đuợc thân nhân t́m cách chạy chọt cải táng, tuyệt đại đa số 165.000 bộ hài cốt c̣n lại đă và đang bị cộng sản chôn giấu để thủ tiêu với chủ tâm trả thù. Chánh phạm của tội ác chống loài người này là tên Lê Duẩn và các thủ phạm tiếp theo là những tên Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Vơ Văn Kiệt, Phan Văn Khải…và ba tên ṭng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Ngoại trừ những tên đă chết, tất cả những tên c̣n sống – sớm hay muộn – sẽ phải ra trước vành móng ngựa để trả lời về những tội ác giam cầm phi pháp và thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH và nhiều tội ác khác mà chúng đă phạm đối với dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian kể từ khi chúng cướp được chính quyền bằng khủng bố từ ngày 19/8/1945. Đảng cộng sản VN, một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, là một tổ chức tội ác tay sai có tính quốc tế. Sớm hay muộn, tội ác phải bị trừng phạt.

    Nguỵ quyền Việt Cộng không kư và phê chuẩn Đạo Luật Rome, nên cộng đồng người Việt hải ngoại không thể trực tiếp chuyển các tội ác chống nhân loại của chúng cho Công Tố Viên của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Tuy nhiên, chúng ta có thể tố cáo tội ác của chúng đến Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ (United Nations Human Rights Council) để yêu cầu uỷ ban này mở cuộc điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH và chuyển thông tin về những tội ác này cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để chuyển tiếp tới Toà Án Sự H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Sự kiện này đă có tiền lệ và chúng ta có thể áp dụng.

    Trước dư luận quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế về tội ác trong cuộc chiến tại Gaza, ngày 3-4-09, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ đă mở một cuộc điều tra về tội ác chiến tranh đă diễn ra tại dải Gaza trong cuộc chiến 22 ngày từ 27-12- 2008 tới 18-1- 2009. Toán điều tra gồm bốn chuyên viên cầm đầu bởi Thẩm Phán Richard Goldstone. Sau năm tháng điều tra, ngày 29-9-2009, Thẩm Phán Richard Goldstone đă tŕnh cho Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva báo cáo kết quả điều tra gồm 575 trang và kết luận rằng cả Do Thái và Palestine cùng phạm tội ác chiến tranh mang tính chất tội ác chống loài người. Báo cáo yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ đ̣i hỏi cả hai bên trong cuộc chiến – trong thời hạn sáu tháng – phải điều tra và xét xử những kẻ phạm tội. Nếu hai phe không thi hành, tội ác sẽ được chuyển cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư.

    Ngoài sự kiện kể trên, sau đây là hai trựng hợp điển h́nh về pháp lư quốc tế mà người Việt hải ngoại có thể áp dụng đối với những tên đầu sỏ Việt Cộng khi chúng ra khỏi nước.

    Ngày 14/12/09, trang mạng của báo Guadian.co.uk đă đưa tin về việc Ông Moshe Yaalon, Phó Thủ Tướng Do Thái, đă quyết định không đến tham dự một buổi lễ gây quỹ tại Luân Đôn trong Tháng 11/09, sau khi được cảnh báo rằng ông ta có thể bị bắt giữ v́ bị cho là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Quyết định của ông ta được đưa ra trong Tháng 10/09, một tuần lễ sau khi các luật sư của 16 người Palestine đă không thành công trong việc vận động một toà án tại Anh ban hành trát bắt giữ Ông Ehud Barak, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Do Thái, khi ông này viếng thăm Anh v́ bị cho là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza.

    Cũng nguồn tin nói trên cho biết ngày Thứ Bẩy 12/12/09, một toà án tại Luân Đôn đă ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái, cũng bị cho là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Lệnh bắt giữ này đă được huỷ bỏ vào ngày Thứ Hai 14/12/09 sau khi được biết Bà Tzipi Livni đă huỷ bỏ, không tham dự một buổi hội họp tại Luân Đôn vào ngày Chủ Nhật 13/12/09. Toà án đă ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni chiếu theo yêu cầu của các luật sư đại diện cho các nạn nhân người Palestine trong cuộc chiến tại Gaza. Bà Tzipi Livni là thành viên của nội các chiến tranh và bộ trưởng ngoại giao của Do Thái khi diễn ra cuộc tấn công vào dải Gaza vào cuối năm 2008.

    Khi những người Palestine vận động một toà án của Anh quốc ban hành trát bắt giam Ông

    Bộ Trưởng Quốc Pḥng và Bà cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái khi hai người này đến Anh quốc, họ đă dựa trên nguyên tắc pháp lư quốc tế về quyền xét xử phổ biến “universal jurisdiction or universality principle.” Quyền này dựa trên lập luận rằng tội ác đă phạm được coi như một tội ác chống lại tất cả “a crime against all” và bất cứ quốc gia nào cũng có quyền trừng phạt. Do đó, những nạn nhân và cũng là thân nhân của những người đă bị Việt Cộng thủ tiêu mất tích cũng có thể vận động để áp dụng nguyên tắc pháp lư quốc tế này đối với những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… khi chúng bước chân ra khỏi nước và đến những quốc gia có áp dụng nguyên tắc pháp lư quốc tế về quyền xét xử phổ biến.

    Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam là tổ chức chính danh nhất đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại để yêu cầu Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165.000 quân dân cán chính VNCH. Nếu Việt Cộng từ chối không cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ vào Việt Nam để mở cuộc điều tra này, điều đó chứng tỏ rằng chúng t́m cách chốn tránh tội ác của chúng.

    Nếu chúng ta vận động mà LHQ – một tổ chức giữ vai tṛ quan trọng trong việc h́nh thành Toà Án H́nh Sự Quốc Tế – v́ một lư do nào đó, không chuyển những tội ác chống loài người của Việt Cộng cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư, chúng ta vẫn c̣n cách đưa bọn tội phạm này ra trước công lư. Sớm hay muộn, chế độ cộng sản vô tổ quốc, phi dân tộc sẽ bị huỷ diệt. Chính những tên đầu sỏ đang tiếm quyền trong nưóc cũng đang thú nhận rằng chế độ của chúng đang tự diễn biến, đang tự chuyển hoá để tự huỷ diệt…Ngày đó không c̣n xa và một chính quyền chính thống của toàn dân Việt Nam sẽ hợp tác với LHQ để tổ chức một toà án h́nh sự đặc biệt có tính quốc tế như Toà Án Đặc Biệt tại Cam Bốt có tên Anh ngữ là Extraordinary Chamber in the Courts of Cambodia (viết tắt là ECCC) đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang v́ các tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng. Đây là một tiền lệ sẽ được thực thi tại Việt Nam sau này để xét xử những tên chánh phạm Việt Cộng đă phạm bốn nhóm tội ác có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome trong suốt những năm tiếm quyền của chúng.

    Mang Việt Cộng, bọn tội phạm có tính quốc tế, ra trước công lư và mang công lư tới các nạn nhân của chúng là điều cần thiết bởi v́ công lư là một thành tố không thể thiếu trong tiến tŕnh hoà giải dân tộc. “Justice is an indispensable ingredient of the process of national reconciliation.” Dân tộc Việt Nam đă bị phân hoá và chia rẽ, xă hội Việt Nam đă bị băng hoại trầm trọng bởi những di sản độc hại mà chế độ phi nhân cộng sản đă để lại cho dân tộc suốt 80 năm nay kể từ khi Hồ Chí Minh lén lút du nhập cái chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Mang bọn tội phạm này ra trước công lư là để mang lại hoà b́nh cho xă hội. “Justice and peace go hand in hand.” Sau hết, mang bọn tội phạm Việt Cộng ra trước công lư là một bài học cho các thế hệ tương lai để tránh những vết xe đổ của lịch sử.

    Đi Vào Bất Tử

    165.000 quân dân cán chính VNCH đă chết dưới đ̣n thù của cộng sản trong các trại tù cải tạo phải được tôn vinh là những người đă hy sinh v́ chính nghĩa quốc gia dân tộc. Tổ quốc sẽ ghi ơn họ như đă ghi ơn những người lính QLVNCH đă chiền đấu và hy sinh ngoài mặt trận để bảo vệ quê hương. Về phương diện tâm linh, tôi không tin rằng những người này đă chết mà chỉ tan mờ đi như h́nh ảnh những người lính trong cái điệp khúc của khúc ballad nổi tiếng một thời mà Đại Tướng Douglas MacArthur đă nhắc đến trong phần cuối của bài diễn văn từ biệt đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19-4-1951. Xin ghi lại nguyên văn và không chuyển ngữ:

    “Old soldiers never die; they just faded away.”

    Cũng xin ghi lại đây và không chuyển ngữ câu kết của bài diễn văn từ biệt nổi tiếng đă đi vào lịch sử của Đại Tướng MacArthur để những người lính chúng ta chiêm nghiệm.

    “And like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, a soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty.”

    “Good bye,”

    Đây cũng chính là h́nh ảnh của những chiến binh QLVNCH, những người đă đi chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc dưới ánh hào quang dẫn đường của Tổ Tiên Lạc Việt và đi vào bất tử.





    http://quanvan.net/index.php?view=st...2#.UKsLOGf4K_Y

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 1)
    Đặng Chí Hùng (Danlambao)
    -


    Đất nước Việt Nam đang trượt dốc đến suy tàn, đang từng bước rơi vào tay cộng sản Trung Quốc, mỗi người Việt Nam cần hành động cứu nước. Song song với việc thúc đẩy tranh đấu trong nước, chúng ta phải mạnh mẽ tố cáo trước thế giới tội ác của cộng sản Việt Nam. Việc đưa nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra ṭa h́nh sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hợp Quốc là cần thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có tiếng nói có giá trị hơn nữa. Kính đề nghị quư bạn đọc cung cấp thêm chứng cứ về tội ác của cộng sản đối với bản thân và gia đ́nh ḿnh, tội ác của CS tại quê hương ḿnh để giúp tôi đúc kết một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa sau khi bản cáo trạng này được đăng tải. Tôi kêu gọi các nạn nhân của chiến dịch tàn sát của đảng cộng sản Việt Nam năm 1968 hăy cùng tôi trả lại sự thật cho những cái chết oan khiên...

    *

    Kính thưa bạn đọc!

    Trong quá tŕnh t́m hiểu và nhận thức của ḿnh tôi đă sưu tầm được rất nhiều tài liệu, nhân chứng liên quan đến tội ác của đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh.

    Những bài viết “Những sự thật không thể chối bỏ” của tôi đă được ban biên tập Dân Làm Báo (danlambaovn.blogspo t.com) đăng tải tố cáo tội ác của chế độ độc tài cộng sản Việt Nam và cá nhân lănh tụ cộng sản Hồ Chí Minh đối với nhân dân Việt Nam.

    Như chúng ta đă biết đảng cộng sản Việt Nam với chính sách sắt máu đă đàn áp các đảng phái đối lập, tôn giáo, những nhà bất đồng chính kiến, những người tranh đấu cho sự tiến bộ xă hội là truyền thống, là việc làm thường xuyên từ khi đảng cộng sản cướp được chính quyền từ năm 1945 đến nay.

    Cuộc đấu tố “Cải cách ruộng đất” theo chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông từ năm 1953 đến 1957 đă cướp đi sinh mạng gần 200 ngàn người Việt và hậu quả của nó không những về người mà c̣n làm băng hoại đạo đức và văn hóa dân tộc.

    Cuộc Cách mạng văn hóa chống Nhân Văn Giai Phẩm 1957-1960: Hàng ngàn Trí thức, Nhà Văn, Nhà báo có tư tưởng dân chủ bị vào tù, nhiều người bị chết trong ngục tối.

    Chiến dịch “chống xét lại” từ năm 1963 tiếp tục bức hại hàng chục ngàn người trong có có cả những đảng viên, đồng chí của đảng.

    Dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh lúc đó đang là người đứng đầu đảng và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa năm 1958 đă chỉ đạo ông Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng chính phủ kư công hàm công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là của Trung Quốc. Ở đây ông Hồ Chí Minh và ông Phạm Văn Đồng mắc tội vi hiến, độc tài không thông qua quốc hội cũng như dân ư mà tự quyền đem đất đai tổ quốc cho nước khác.

    Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh c̣n vi phạm thỏa thuận ngưng bắn trong dịp tết Mậu Thân năm 1968 với chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa, và đă tàn sát 6000 dân thường tại thành phố Huế.

    Từ năm 1975, sau khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Ḥa nhằm “Thống nhất đất nước” thay v́ dùng chính sách “Ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lại dùng chính sách trả thù khốc liệt: đánh tư sản Miền Nam, cướp tài sản của mọi tầng lớp nhân dân, đẩy hàng triệu người lên vùng kinh tế mới thực chất là các trại lao động cưỡng bức tại những vùng rừng núi hẻo lánh; đưa hàng trăm ngàn sĩ quan binh lính của Việt Nam Cộng Ḥa vào các nhà tù không thời hạn, trải dài khắp đất nước Việt Nam.

    Sự trả thù khốc liệt đă khiến hàng triệu người phải t́m đường trốn chạy khỏi đất nước bằng đường biển tạo nên hiện tượng “thuyền nhân / boat people” của thế kỷ 20, khiến hàng vạn người bị chết trên biển.

    Từ năm 1990, sau khi khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhằm cứu nguy chế độ, nhà cầm quyền Cộng sản buộc phải cải cách kinh tế theo phương thức “kinh tế thị trường”, nhưng lại liên kết với đảng cộng sản Trung quốc tại “Hội nghị Thành Đô” (Trung Quốc) để duy tŕ chế độ độc tài cộng sản.

    Hàng ngàn người yêu nước tiếp tục bị bức hại, bị vào tù. Đảng cộng sản dùng chính sách “cộng sản hóa” các tôn giáo và các tổ chức xă hội: các sỹ quan an ninh đội lốt thầy tu, nhà sư xâm nhập hầu hết các nhà chùa Phật giáo và nhà thờ Thiên Chúa giáo.

    Những cơ sở tôn giáo nào chống lại chính sách này đều bị đàn áp khốc liệt. Những cái tên Thái Hà, Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Tam Ṭa, Con Cuông, Bát Nhă... trở thành những biểu hiện hăi hùng đối với người dân Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị đàn áp và phong tỏa triệt để. Đại lăo Ḥa Thượng Thích Quảng Độ (người được đề cử giải Nobel nhiều lần) bị tù và bị quản thúc đến nay vẫn chưa được tự do. Các cơ sở và thánh đường Phật Giáo Ḥa Hảo, Cao Đài bị tàn phá, các phật tử thường xuyên bị truy bức, đánh đập thậm chí bị thủ tiêu. Chỉ những cơ sở tôn giáo nào chấp nhận đường lối cộng sản, chấp nhận sự lănh đạo của đảng cộng sản th́ mới được hành đạo. Nhà cầm quyền cộng sản thường dùng những cơ sở này để quảng cáo trước thế giới cho chính sách tôn giáo của họ.

    Các tổ chức xă hội: Nghiệp đoàn, Phụ nữ, Thanh Niên, Nông dân... cũng bị tập trung trong một tổ chức “Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam” do một Ủy Viên Trung ương đảng cộng sản cầm đầu, thực chất đây là các cơ sở ngoại vi của đảng cộng sản, thực hiện chỉ thị của đảng cộng sản, kiềm tỏa mọi hành động và tư tưởng của người dân.

    Hiện nay tại Việt Nam hàng ngàn người Việt đang bị tù đày trong các nhà tù khắc nghiệt chỉ v́ bày tỏ ḷng yêu nước, bày tỏ chính kiến khác với đảng cộng sản, viết blog để bày tỏ quan điểm, không chấp nhận quan điểm tôn giáo do đảng cộng sản áp đặt.

    Tự do báo chí cũng không được tôn trọng. Dù hiến pháp của Việt Nam năm 1946 đă quy định quyền tự do ngôn luận và báo chí nhưng đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục vi phạm bằng việc cấm khiếu kiện tập thể, cấm tập trung và lập đoàn lập hội, cấm bày tỏ bất đồng chính kiến và cấm triệt để báo chí tư nhân.

    Đất nước Việt Nam đang trượt dốc đến suy tàn, đang từng bước rơi vào tay cộng sản Trung Quốc, mỗi người Việt Nam cần hành động cứu nước. Song song với việc thúc đẩy tranh đấu trong nước, chúng ta phải mạnh mẽ tố cáo trước thế giới tội ác của cộng sản Việt Nam. Việc đưa nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra ṭa h́nh sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hợp Quốc là cần thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có tiếng nói có giá trị hơn nữa.

    Kính đề nghị quư bạn đọc cung cấp thêm chứng cứ về tội ác của cộng sản đối với bản thân và gia đ́nh ḿnh, tội ác của CS tại quê hương ḿnh để giúp tôi đúc kết một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa sau khi bản cáo trạng này được đăng tải. Tôi kêu gọi các nạn nhân của chiến dịch tàn sát của đảng cộng sản Việt Nam năm 1968 hăy cùng tôi trả lại sự thật cho những cái chết oan khiên v́ trong lần tố cáo này có 2 nhân chứng đă từng là cán bộ cao cấp và trực tiếp thi hành mệnh lệnh giết hại dân lành ra làm chứng. Tôi đă động viên họ và họ sẵn sàng chuộc lại sai lầm của ḿnh bằng việc ra làm chứng và cung cấp tài liệu. V́ lư do an ninh nên tạm thời tôi chưa nêu tên thật của họ. Khi ra đối chất họ sẽ có đủ bằng chứng.

    Đây không phải là sự trả thù mà là việc làm cần thiết, phải trả lại sự thật cho lịch sử đồng thời là một bài học cảnh báo cho các chế độ cầm quyền tiếp theo. Mong bạn đọc góp ư chân t́nh và thẳng thắn, đóng góp, giúp đỡ để bản cáo trạng của chúng ta có chất lượng nhất và đến tay các tổ chức quốc tế.

    Kính mong được sự tiếp tay, hưởng ứng của quư độc giả.

    * Lưu ư: Bạn đọc thân mến!

    V́ đây là bản cáo trạng chi tiết gửi bạn đọc xem xét và góp ư rồi sau đó kư tên ủng hộ phong trào Toàn dân tố cáo của chúng ta dựa trên 2 loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” và “Những sự thật cần phải biết”, đă, đang và sẽ đăng tải trên Danlambao. Sau đó tôi xin được phép dựa trên bản cáo trạng này và những đóng góp ư kiến của bạn đọc được rút gọn lại một lần nữa đăng trên DLB. Lư do là cần có thêm những ư kiến đóng góp của bạn đọc thật bổ ích và LHQ cũng như các cơ quan công luận Quốc tế không thể đọc hết những ǵ dài ḍng, quá chi tiết. Nên chú trọng vào những hậu quả của đảng cộng sản và ông HCM gây ra cho dân tộc Việt Nam.
    ____________________ __________

    BẢN CÁO TRẠNG VỀ TỘI ÁC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ ÔNG HỒ CHÍ MINH

    Kính gửi:

    - Đại hội đồng LHQ (UN General Assembly).
    - Ông Tổng thư kư UN General Assembly (the eighth and current Secretary-General of the United Nations-UN) Ban Ki Moon.
    - Toàn thể các vị lănh đạo của tất cả các quốc gia trong LHQ.
    - Ông Chủ tịch Ṭa án Công lư quốc tế (International Court of Justice- ICJ) Peter Tomka.
    - Ông Chủ tịch Ṭa án H́nh sự quốc tế (President of the International Criminal Court- ICC) Song Sang-Huyn.
    - Bà ủy viên công tố Ṭa án H́nh sự quốc tế (Prosecutor of the International Criminal Court- ICC) Fatou Bensouda.
    - Bà Cao ủy Hội đồng Nhân quyền LHQ (the United Nations High Commissioner for Human Rights- OHCHR) Navanethem Pillay.
    - Ông Tổng thống Hoa Kỳ (President of USA) Barak Obama.
    - Ông Chủ tịch Hội đồng châu Âu (President of the European Council) Herman Achille Van Rompuy.
    - Ông Chủ tịch Quốc hội EU (President of the European Parliament) Martin Schulz.
    - Ông Chủ tịch Ủy ban Liên minh châu Âu (President of the European Commission) Manuel Durăo Barroso.
    - Bà Đại diện cao cấp của Liên minh châu Âu (EU) về đối ngoại và chính sách an ninh (High Representative of the Union for Foreign Affairs and Security Policy) Catherine Margaret Ashton.
    - Ông Chủ tịch Ṭa án Công lư của Liên minh châu Âu (President of the European Court of Justice- ECJ) Vassilios Skouris.
    - Ông Giám đốc điều hành hiện tại của Human Rights Watch (The current executive director of Human Rights Watch-HRW) Kenneth Roth.
    - Ông Phó Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dơi Nhân quyền (The Deputy Asia director of Human Rights Watch-HRW) Phil Robertson.
    - Ông đồng chủ tịch Hội Luật sư Quốc tế (Co-Chair International BAR Association-IBA) Stephen Denyer và ông Đồng Chủ tịch Hội Luật sư Quốc tế (Co-Chair International BAR Association-IBA) Ronaldo Camargo Veirano.
    - Ông chủ tịch hội Freedom House William H. Taft IV.
    - Ông chủ tịch Hội đồng châu Âu (President of The Parliamentary Assembly of the Council of Europe PACE) Jean-Claude Mignon.
    - Ông Tổng thư kư Tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International-AI) Salil Shetty.
    - Ông chủ tịch Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (International Federation for Human Rights - FIDH) Souhayr Belhassen.
    - Ông chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) M. P. de Brichambaut và ông tổng thư kư Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) Kanat Saudabayev.
    - Ông đại diện đặc biệt Liên minh châu Âu về Nhân quyền (EU Special Representative for Human Rights-EUSR) Stavros Lambrinidis.
    Kính thưa quí vị,

    Chúng tôi những người đồng kư tên dưới đây cùng tố cáo tội ác của Hồ Chí Minh, của đảng cộng sản Việt nam và của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng ḥa - giai đoạn 1945-1969 và tội ác của đảng cộng sản Việt Nam và của nhà nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam - giai đoạn 1969-2012 về 2 tội ác theo Hiến chương LHQ và theo Qui chế Rome 17th day of Juli 1998:

    a. Tội ác diệt chủng (The crime of genocide)
    b. Tội ác chống loài người (The crimes against humanity)

    Kính thưa quư vị,

    Trước khi đi vào nội dung bản cáo trạng th́ tôi xin nói qua về bản thân tôi và công việc tôi đang theo đuổi.

    Tôi vốn sinh ra sau năm 1975 có nghĩa là sinh sau cuộc chiến tranh giữa VNDCCH và VNCH. Tôi cũng được sinh ra trên đất Bắc Việt Nam ngay tại cái nôi của chủ nghĩa xă hội và đảng cộng sản Việt Nam. Bản thân gia đ́nh tôi có cha là bộ đội tham gia quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, c̣n mẹ tôi là viên chức - đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Xung quanh họ hàng tôi có bác (bên cha tôi) và cậu (em ruột mẹ tôi) là liệt sỹ khi chiến đấu trong hàng ngũ quân đội VNDCCH. Ngoài ra hiện nay gia đ́nh tôi có nhiều người thân công tác trong đội ngũ chính quyền nước CHXHCNVN. Họ phần lớn là đảng viên và tham gia đủ các lĩnh vực trong đó có cả An ninh, cảnh sát và quân đội... Tôi cũng đă được học tập dưới mái trường của CNXH, đă từng là một cán bộ đoàn của đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (tổ chức ban đầu của đảng cộng sản Việt Nam) và hiện nay đang là công dân nước CHXHCN Việt Nam.

    Nói như vậy để các quư vị hiểu rơ động cơ của tôi khi tiến hành công việc này không phải với mục đích “trả thù” hay “thù hận” ǵ đối với đảng cộng sản, ông Hồ Chí Minh và nhà nước CHXHCN Việt Nam. Động cơ chính của tôi đó là đem lại sự thật, sự công bằng cho những nạn nhân dưới ách thống trị của đảng cộng sản Việt Nam. Và trên hết tôi muốn công lư và sự thật phải được thực thi nhằm vạch trần bộ mặt thật của chế độ cộng sản Việt Nam.

    Tuy nhiên bản cáo trạng gửi tới quư vị ngày hôm nay không phải của riêng cá nhân tôi mà là nguyện vọng của rất nhiều đồng bào của tôi đang sống tại Việt Nam cũng như đồng bào của tôi đang sinh sống trên khắp thế giới. Tất cả chúng tôi cùng chung sức và chung ư tưởng để xây dựng nên bản cáo trạng này. Điều đó được thể hiện ở số chữ kư của chúng tôi gửi tới quư vị. Đó là nguyện vọng không chỉ cá nhân tôi mà là của cả dân tộc tôi. Tôi phải dùng từ dân tộc v́ nhân dân Việt Nam chúng tôi dù đi đâu, làm ǵ và có trở thành công dân nước khác vẫn luôn tự hào có cội nguồn dân tộc Việt Nam. Chúng tôi có sức mạnh đoàn kết và bằng chứng sự thật. Chúng tôi cần các quư vị bằng ánh sáng công lư và trung thực, giúp đỡ chúng tôi trong việc phân minh bản cáo trạng này. Chúng tôi tin rằng bằng lương tâm và trách nhiệm của ḿnh đối với loài người nói chung và đối với dân tộc Việt Nam chúng tôi nói riêng, quư vị sẽ có những hành động thiết thực lên án tội ác của đảng cộng sản Việt Nam, tội ác của ông Hồ chí Minh và tội ác của nhà nước CHXHCN Việt Nam để đem lại công lư cho những người đă mất, cho những người c̣n sống đang ngày đêm chịu oan khuất dưới ách độc tài của đảng cộng sản VN.

    Bằng tất cả trái tim và nhiệt huyết của ḿnh giành cho đất nước tôi và dân tộc tôi, tôi cùng đồng bào Việt Nam trên khắp thế giới chỉ muốn đem lại sự công bằng, công lư cho nhân dân chúng tôi bị đảng cộng sản tước bỏ gần 80 năm qua. Tôi không hề có bất cứ động cơ cá nhân hay chính trị cho đảng phái nào. Với tất cả danh dự và trách nhiệm của một người con Việt Nam, tôi xin cam đoan những ǵ gửi tới quư vị là trung thực và thẳng thắn.

    Kính thưa quư vị!

    Nhân dân Việt Nam chúng tôi đă từng sống trong một trại tù khổng lồ không hơn không kém từ trước năm 1975 (phần miền Bắc) và cả nước Việt Nam từ sau năm 1975 cho đến nay. Chính v́ vậy chúng tôi không thể ngồi yên khi công lư và nhân quyền tiếp tục bị đảng cộng sản Việt Nam chà đạp một cách thô bạo.

    Thay cho lời giải thích v́ sao chúng tôi làm bản cáo trạng này tới quư vị, chúng tôi xin mượn câu nói của nhạc sỹ Việt Khang đang bị giam cầm trong ngục tù cộng sản chỉ v́ viết bài hát kêu gọi ḷng yêu nước, chống ngoại xâm Trung Quốc: “BỞI V̀ CHÚNG TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM”!

    Kính thưa quư vị!

    Khi nói đến việc bảo vệ quyền con người, dù dưới góc độ nào, có nghĩa cũng đề cập đến việc bảo vệ nhân thân, các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tại Lời nói đầu Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (được Đại Hội đồng Liên Hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948) đă khẳng định: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền b́nh đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đ́nh nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và ḥa b́nh trên thế giới... Điều cốt yếu là quyền con người cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức... Các quốc gia thành viên đă cam kết, cùng với Liên Hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người”. Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ chung của tất cả các quốc gia và mọi dân tộc trên thế giới, trước hết là trên phương diện chính trị - pháp lư, sau là thực tiễn xă hội.

    Luật h́nh sự quốc tế là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế ghi nhận những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là các tội phạm quốc tế (và tội phạm có tính chất quốc tế - tội phạm xuyên quốc gia), đồng thời quy định hệ thống h́nh phạt và các chế định pháp lư có thể được áp dụng đối với những chủ thể vi phạm, cũng như tổng hợp những nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của các thành viên cộng đồng quốc tế, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong việc xử lư và pḥng, chống các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong đó có tội ác diệt chủng và chống lại loài người.

    Kể từ khi Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội phạm diệt chủng (Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide - CPPCG) có hiệu lực vào tháng 1 năm 1951 khoảng 80 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc đă thông qua luật kết hợp các quy định của các CPPCG vào pháp luật quốc gia của họ, và một số thủ phạm diệt chủng đă được t́m thấy có tội, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của pháp luật như vậy, chẳng hạn như Nikola Jorgic, người bị kết tội diệt chủng ở Bosnia vào một ṭa án Đức.

    Sau khi tối thiểu 20 quốc gia đă trở thành các bên tham gia Công ước, nó đến như luật pháp quốc tế có hiệu lực vào ngày 12 tháng một năm 1951. Tuy nhiên tại thời điểm đó, chỉ có hai trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc (HĐBA) là các bên tham gia hiệp ước: Pháp và Trung Quốc. Cuối cùng Liên Xô phê chuẩn vào năm 1954, Vương quốc Anh vào năm 1970, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa năm 1983 (đă thay thế nước Cộng ḥa Đài Loan dựa trên của Trung Quốc vào Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc trong năm 1971), và Hoa Kỳ vào năm 1988 và cho đến những năm 1990 của pháp luật quốc tế về tội ác diệt chủng đă bắt đầu được thực thi.

    Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc số 1674, được thông qua bởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 28 tháng tư 2006: “Tái khẳng định quy định của điều 138 và 139 của Văn kiện thế giới năm 2005 Kết quả Hội nghị thượng đỉnh về trách nhiệm bảo vệ các quần thể từ tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc và tội ác chống lại nhân loại.”
    Theo: Resolution Resolution 1674 (2006).
    Có thể xem thêm ở địa chỉ: http://www.un.org/News/Press/docs/2006/sc8710.doc.htm

    Kể từ khi CPPCG có hiệu lực vào tháng 1 năm 1951 khoảng 80 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc đă thông qua luật kết hợp các quy định của CPPCG các thành luật, thành phố trực thuộc Trung ương của họ.

    Đồng thời LHQ cũng thông qua yêu cầu tất cả các bên có liên quan thực hiện đúng các nghĩa vụ đối với họ theo quy định của pháp luật quốc tế, đặc biệt là những người nằm trong các Công ước Hague 1899 và 1907 và các Công ước Geneva năm 1949 và Nghị định thư bổ sung của họ năm 1977, cũng như với các quyết định của Hội đồng Bảo an.

    Cụ thể tại Việt Nam:

    Kính thưa quư vị!

    Dựa trên các điều luật của LHQ đă thông qua và ban bố:

    a. Căn cứ điều 2 khoản 1 Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948 của HĐBA LHQ;

    b. Căn cứ điều 6 khoản 1,2,3 và 4 của công ước ICC năm 2007;

    c. Căn cứ điều 4 Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc số 1674, được thông qua bởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 28 tháng tư 2006;

    d. Quy chế Rome 17/07/1998 (http://untreaty.un.org/cod/icc/index.html);

    e. Căn cứ vào Bộ luật nhân quyền năm 1976 của LHQ;

    f. Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, ban hành năm 1948;

    g. Công Ước Quốc Tế về những quyền Dân Sự và Chính Trị, năm 1966;

    h. Công Ước Quốc Tế về những quyền Kinh Tế, Xă Hội và Văn Hóa, năm 1966;

    i. Công ước quốc tế về bảo vệ nạn nhân chiến tranh được kư kết 12.8.1949 tại Geneve;

    k. Công ước về trẻ em năm 1989 (thông qua và để ngỏ cho các quốc gia kư, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.). Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, trong Nghị quyết số 50/155 ngày 21 tháng 12 năm 1995, thông qua việc sửa đổi khoản 2, điều 43 của Công ước Quyền trẻ em, bằng cách thay từ “mười” bằng từ “mười tám”. Việc sửa đổi này có hiệu lực vào ngày 18 tháng 11 năm 2002 khi được chấp nhận bởi đa số 2/3 của các quốc gia thành viên.

    l. Công ước Quốc tế về Bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành viên gia đ́nh họ, 1990 (được thông qua theo Nghị quyết A/RES/45/158 ngày 18/12/1990 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc)

    Chúng tôi, toàn thể 90 triệu người dân đang sinh sống tại Việt Nam và hàng triệu người dân đang sống trên khắp thế giới cùng kư tên gửi tới quư vị bản cáo trạng với những nội dung như sau:

    1) Tội Ác Xâm Lược (The crime of Aggression);
    2) Tội Ác Chiến Tranh (War Crimes);
    3) Tội Ác Diệt Chủng (The crime of Genocide);
    4) Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity);
    5) Vi phạm Bộ luật Nhân Quyền quốc tế (International Bill of Human Rights)

    Chúng tôi xin chia ra các giai đoạn thời gian cụ thể:

    A. Giai đoạn 02/09/1945 - 02/09/1969:

    Đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh đă vi phạm nhân quyền, diệt chủng, vi hiến và chống lại dân tộc, chống lại loài người, gây chiến xâm lăng cụ thể là các sự kiện nổi bật sau:

    - Tiến hành chính sách cải cách ruộng đất man rợ tại VNDCCH.

    - Đàn áp nhân dân, trí thức về kinh tế, tư tưởng (điển h́nh là vụ án Nhân văn Giai phẩm hay các trường hợp của luật sư Nguyễn Mạnh Tường...)

    - Gây chiến tranh xâm lăng một nước có chủ quyền được LHQ công nhận (VNCH).

    - Tàn sát nhân dân vô tội qua vụ thảm sát Mậu thân 1968 tại Huế.

    - Công nhận chủ quyền Việt Nam cho nước khác khi không qua quốc hội (Công hàm 1958 công nhận HS-TS là của Trung Quốc).

    - Tiêu diệt những người yêu nước nhưng không cộng sản: Điển h́nh là vụ án của cụ Phan Bội Châu.

    B. Giai đoạn 1969 đến 1975:

    - Tiếp tục gây chiến tranh phi nghĩa với VNCH gây đau thương cho dân tộc trong đó có những thảm họa kinh hoàng như “Đại lộ kinh hoàng” 1972 tại Quảng Trị.

    - Vi phạm hiệp ước Paris 1973.

    - Sử dụng trẻ em trong chiến tranh - vi phạm luật về chiến tranh và sử dụng trẻ em.

    - Đày đọa các tù b́nh trong chiến tranh.

    C. Giai đoạn 1975 đến nay:

    - Trả thù man rợ quân dân, cán chính một nước (VNCH) sau khi cưỡng chiếm nước này.

    - Cướp tài sản của nhân dân Miền Nam thông qua chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản.
    - Đẩy hàng trăm ngàn người phải ra biển gây nên nạn thuyền nhân nổi tiếng và đau thương cho dân tộc Việt Nam.

    - Vi phạm luật nhân quyền và chống loài người: bắt bớ nhưng người phản đối và bất đồng chính kiến yêu nước như bắt giam T.S Cù Huy Hà Vũ, L.S Lê Công Định, Doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Nhà giáo Đinh Đăng Định, Nguyễn Xuân Nghĩa, Linh mục Nguyễn Văn Lư, Nhạc sỹ Việt Khang, Trần Vũ Anh B́nh, Sinh viên Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha...

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 1)
    Đặng Chí Hùng (Danlambao) -
    P2


    Chúng tôi xin gửi tới quư vị nội dung cáo trạng cụ thể sau đây.

    Giai đoạn 02/09/1945-02/09/1969:

    Phần 1: Sự kiện Cải cách ruộng đất tại VNDCCH:

    Cách đây gần 60 năm, một biến cố lớn lao đă xảy ra ở Bắc Việt. Người Cộng sản gọi đó là “cuộc cách mạng long trời lở đất” c̣n lịch sử ghi nhận nó như “cuộc Cải cách Ruộng đất kinh thiên động địa” đầy máu và nước mắt v́ đă gây ra cái chết cho khoảng nửa triệu đồng bào.

    Những kẻ tạo nên biến cố đau thương này chính là Hồ Chí Minh và đảng Lao động VN (một biến tướng của đảng cộng sản Việt Nam). Do mù quáng thấm nhiễm một học thuyết chủ trương quốc hữu hóa mọi phương tiện sản xuất để dễ dàng khống chế toàn xă hội, do nô lệ tuân hành sự chỉ đạo của các lănh tụ Trung Cộng và Liên Xô, do ư đồ khuất phục nhân dân bằng khủng bố đe dọa và bóp bao tử, do toan tính tước mọi phương tiện sinh hoạt của các tôn giáo, hàng lănh đạo CSVN đă đề ra một chương tŕnh Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) bằng đủ biện pháp nham hiểm và tàn nhẫn, qua một công cụ hết sức đặc biệt và chưa từng có là Ṭa án nhân dân với những màn đấu tố mà cho đến nay vẫn là một nỗi kinh hoàng cho dân Việt.

    Theo hầu hết các nhà nghiên cứu, cuộc CCRĐ đă kéo dài 7 năm (1949-1956), trải qua 5 giai đoạn, đánh dấu bằng những sắc lệnh, ban đầu nhẹ nhàng và mỵ dân, tiến dần đến sắt máu và triệt để với Sắc luật về CCRĐ (14-6-1955), cho phép nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của những “tên thực dân, địa chủ gian ác, cường hào ác bá, Việt gian phản động”, truất hữu đất đai của các tôn giáo, gọi là để phân chia lại cho nông dân không đất, gia đ́nh thương binh, chiến sĩ, liệt sĩ... Thế nhưng chính việc quy định thành phần xă hội, phân chia tài sản một cách bất công và với thâm ư tước đoạt quyền tư hữu đất đai đă gây nên bao cảnh giết chóc cùng đổ vỡ. Và rồi, những kẻ được phân chia ruộng đất sau đó phải trả lại tất cả cho nhà nước qua Hợp tác xă...

    Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lẽ không biến cố nào đau thương bằng sự kiện ấy. Đau thương v́ đó là cuộc đảo lộn xă hội nông thôn Việt Nam một cách toàn diện từ kinh tế tới văn hóa đến luân lư do một chủ trương cải tạo nông nghiệp quá ư lạ lùng và tàn nhẫn. V́ đó là cuộc tàn sát trực tiếp lẫn gián tiếp gần nửa triệu nông dân chỉ trong thời gian ngắn mà không phải bằng bom đạn chiến tranh. V́ kết quả có được chỉ là sự suy sụp nông nghiệp, tan hoang làng xóm, đổ vỡ t́nh người, băng hoại đạo đức, ách nô lệ khoác lên toàn thể nhân dân miền Bắc.

    Đến tận hôm nay, nhà cầm quyền cộng sản vẫn tiếp tục tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân, và các ṭa án nhân dân vẫn tiếp tục là công cụ cộng sản dùng để bịt miệng, trói tay, giam thân những ai muốn đ̣i công lư và sự thật. Thành ra, việc nh́n lại cuộc Cải cách Ruộng đất là một kiểu ôn cố tri tân cần thiết cho mọi người dân Việt. Và cũng là điều cần thiết để đem lại công lư cho những người đă khuất.

    Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh đă thực hiện CCRĐ trong tính toán của ḿnh và theo tinh thần của “đàn anh” Trung Quốc cộng sản (Trung cộng) làm trong “Cải cách văn hóa”.

    Điều này cũng không có ǵ quá ngạc nhiên v́ trong các chế độ cộng sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức xă hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu ḅ và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc, xẻng v.v...

    Thực chất vấn đề là nó biến cuộc nổi dậy theo cách gọi của Việt Minh thành một cuộc trả thù đẫm máu. Nó không khác ǵ một cuộc diệt chủng áp dụng lên chính đồng bào của ḿnh.

    Chiến dịch CCRĐ xảy ra vào giai đoạn mà đảng Cộng sản Việt Nam đă củng cố được địa vị lănh đạo và quyền lực. Sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, đảng cộng sản đă tiêu diệt các lực lượng và đảng phái quốc gia cũng như dân tộc khác từ năm 1946. Trong giai đoạn từ 1946 đến 1950, đảng cộng sản Việt Nam bị tách biệt với phong trào cộng sản Quốc tế, không thể nhận sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc và v́ c̣n yếu nên c̣n cần sự hợp tác của các thành phần không Cộng sản trong hàng ngũ Việt Minh. Khi đảng cộng sản Trung Quốc chiếm được chính quyền tại Trung Quốc tháng 10-1949, biên giới Việt Nam–Trung Hoa thông thương được.

    Cộng sản Việt Nam được Trung cộng viện trợ vũ khí, huấn luyện cán bộ. Lúc đó đảng cộng sản cũng đă nắm vững t́nh h́nh trong nước nên có thể thi hành biện pháp có tính cách Cộng sản mà trước đây đảng cộng sản chưa thể làm v́ chưa đủ sức chống đỡ với sự phản đối của quần chúng và các tổ chức không theo cộng sản.

    Chiến dịch Cải cách Ruộng đất và một số các chiến dịch thuộc vào giai đoạn hai trong sách lược cách mạng vô sản của đảng Cộng sản: giai đoạn đầu là Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân, giai đoạn hai là giai đoạn Cách mạng Xă hội Chủ nghĩa. Chỉ từ giai đoạn hai trở đi th́ các đặc tính của cộng sản mới lộ ra. Đây là chiêu lừa đảo rất tinh vi của cộng sản. Họ lợi dụng cách mạng dân tộc để lừa bịp nhân dân chiến đấu, đóng góp cho chế độ độc tài kéo dài đến ngày hôm nay.

    Tại văn kiện đại hội đảng để thực hiện việc cải cách ruộng đất (Nhà xuất bản chính trị đảng cộng sản Việt Nam- trang 5) có đánh giá:

    “...Việc đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nông dân đă được đặt ra ngay từ khi thành lập Đảng. Đây là vấn đề bức thiết cần phải thực hiện trong thời gian tới đây. Chúng ta nhận thấy rằng từ có từ 90% đến 95% dân chúng Việt Nam là nông dân, và trong số này th́ chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông, c̣n đa số đều là người làm thuê, làm mướn, tá canh, tá điền. Do đó, chúng ta muốn làm cách mạng xă hội phải lôi cuốn được khối đa số đó, phải thỏa măn khối đa số đó bằng quyền lợi để tiến hành cách mạng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xă hội...”

    Như vậy, qua đây có thể thấy đảng cộng sản chỉ muốn lợi dụng số đông nông dân có dân trí kém để thúc đẩy một cuộc cướp bóc, trả thù đẫm máu với giai cấp trí thức hơn. Họ nhằm hai mục tiêu:

    (1) Đạt được ư nguyện cướp bóc, trả thù;

    (2) lợi dụng đó làm bàn đạp cho chế độ đảng trị khi trói buộc lợi ích của nông dân vào tḥng lọng giăng sẵn.

    Tất cả các văn bản, công văn về CCRĐ có trong cuốn: Tập hợp văn kiện văn bản của đảng trước 1975 (Nhà xuất bản văn hóa- của đảng cộng sản) và một số lưu tại thư viện quốc gia Việt Nam. Đây là các tài liệu của đảng cộng sản, được đảng cộng sản công khai. Quư vị có thể kiểm chứng. Hoặc có thể truy cập vào:
    http://thuvienphapluat. vn/van-ban/Tien-te-Ngan-hang/Sac-lenh-89-SL-an-dinh-the-le-giam-tuc/36584/noi-dung. aspx
    sẽ có đầy đủ các văn bản tại phần trên (Website này là thư viện pháp luật của bộ tư pháp Việt Nam).
    Hoặc links sau: http://vbqppl. moj. gov. vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail. aspx?ItemID=1106
    của bộ tư pháp chính phủ CHXHCNVN lưu trữ.

    1. Tiến hành:

    Từ 1949 đến 1956, Việt Minh Cộng sản mở năm đợt Cải cách Ruộng đất (CCRĐ). Sau mỗi đợt, Việt Minh tổ chức hội nghị rút ưu khuyết điểm, để rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu (1949 và 1950), Việt Minh thực hiện cải CCRĐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân trong hoàn cảnh chiến tranh.

    Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp CCRĐ triệt để, v́ lúc đó mối liên hệ Xô-Trung c̣n b́nh thường và v́ Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng. (Links: http://tennguoidepnhat.net/2012/04/0...89;c-nam-1950/) Đây là trang web của ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.

    Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh đă phát biểu: “Về lư luận, đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam... Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Trích Hồ Chí Minh toàn tập-Sách của đảng cộng sản Việt Nam). Chẳng những thế, cũng trong Đại hội này, Hồ Chí Minh c̣n nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông th́ không thể sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)

    Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2, Việt Minh cử người sang Trung cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng sản các nước Á Châu như Indonesia, Mă Lai, Thái Lan, Pakistan, Philipin, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ theo đường lối Trung cộng. Phái đoàn nầy trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức" ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.

    Các thành phần theo quy định của Việt Minh cộng sản. Đối với các thành phần nông nghiệp, VM ra sắc lệnh vào tháng 3-1953 ấn định các thành phần xă hội ở nông thôn như sau (Bernard Fall, sđd. tr. 283):

    Địa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác. Địa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đăi bần nông và bần cố nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp).

    Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác.

    Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay ḅ), và trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).

    Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô.

    Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống. (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188).

    Đường lối đấu tranh CCRĐ là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ. (Trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ- thư viện pháp luật Việt Nam).

    Khích động khát máu - "Thà chết mười người oan c̣n hơn để sót một địch": Để khích động nông dân hưởng ứng cuộc CCRĐ, ban cải cách phải theo đúng ba giai đoạn đề ra do sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:

    Thứ nhất: kích động tâm lư quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ về thực hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu chuỗi".

    Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững t́nh h́nh các gia đ́nh trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành phần xă hội đă được Ủy ban hành chánh địa phương sắp xếp theo Sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó, đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Đây là cơ hội giải quyết những ân oán đă có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.

    Thứ ba: Thiết lập ṭa án nhân dân để xét xử những "kẻ có tội với nhân dân". Để việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng LĐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu tố.

    Trong năm 1953, mọi việc đă chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRĐ, nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc, chính phủ Việt Minh bận giải quyết chiến trường, vận động ngoại giao, rồi kư kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRĐ tạm đ́nh hoăn v́ sợ tiếng vang lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ đ́nh hoăn CCRĐ chứ không băi bỏ.

    Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng Lao Động cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng Trị). Ổn định xong t́nh h́nh, đảng Lao động mở lại cuộc CCRĐ giai đoạn 5. Lần này việc tổ chức có quy củ rơ ràng, do Ủy ban CCRĐ đứng đầu.

    Ủy ban cải cách: gồm hai cấp trung ương và địa phương.

    Cấp trung ương: do Tổng bí thư đảng Lao động là Trường Chinh - Đặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là ủy viên Bộ chính trị) và Hồ Viết Thắng (ủy viên Trung ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc Cải cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đă từng đi học ở Trung cộng, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở "Trung tâm đào tạo cán bộ Cải cách Ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.

    Cấp tỉnh: Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đă được đào tạo về các tỉnh tổ chức các đoàn CCRĐ. Trung b́nh mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông, nhất là những người đă từng có kinh nghiệm tham gia các CCRĐ trước đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Ủy ban CCRĐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó "nhất đội nh́ trời", được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185).

    Nguyên tắc hành động căn bản của các Ủy ban CCRĐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người oan c̣n hơn để sót một địch" (trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ - thư viện pháp luật Việt Nam). Chính câu khẩu hiệu nầy đă đưa đến việc giết hại tràn lan biết bao nhiêu lương dân vô tội.

    Câu khẩu hiệu này xuất hiện trong bài diễn văn của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch". Phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lư đă bị xâm phạm là:

    Không xử phạt các tội đă phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra. Trách nhiệm của phạm nhân th́ chỉ một ḿnh phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đ́nh. Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá tŕnh truy tố và xét xử; khi bị can ra trước ṭa không được xiềng xích và không được dùng nhục h́nh.

    Đoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRĐ hoạt động theo kiểu khủng bố: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hăi mà toàn thể dân chúng và cả các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hăi, v́ bất cứ ai cũng có thể bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.

    Ṭa án nhân dân: Sắc lệnh năm 1953 cũng như Sắc lệnh năm 1955 đều thiết lập ṭa án nhân dân để xét xử những tội phạm trong CCRĐ. Ṭa án nầy được tổ chức ở những vùng có cải cách, chánh án là một đội viên trong đội cải cách, biện lư (công tố) là một nông dân hay bần nông đă từng làm việc (gia nhân, tá điền...) trong nhà của bị cáo, biết rơ lư lịch khổ chủ. Các quan ṭa nầy chỉ là những kẻ dốt nát, lâu nay thấp kém, bỗng chốc được cất nhắc lên địa vị quan trọng, nên hạch sách trả thù, moi ra hay bịa đặt mọi thứ gọi là thói hư tật xấu của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm ô, để đấu tố. Đặc biệt trong ṭa án nhân dân không có người đóng vai tṛ luật sư biện hộ, và cũng chẳng ai dám biện hộ cho bị cáo cả. Quân đội bảo vệ ṭa án và những người tham dự đều là những người do cộng sản sắp đặt trước, ḥ hét khuyến khích người đóng vai "công tố", bằng cách chửi rủa hoặc tố cáo thêm những “tội ác”.

    2. Hậu quả của cải cách ruộng đất:

    Cộng sản độc quyền đất đai:

    a. Theo nguồn tin từ phía Liên Xô, cuộc Cải cách Ruộng đất đă tịch thu 702.000 mẫu tây ruộng đất, 1.846.000 nông cụ, 107.000 trâu ḅ, 22.000 tấn thực phẩm. Tất cả những thứ đó đă được chia lại cho 1.500.000 gia đ́nh nông dân và bần nông. Như thế mỗi gia đ́nh nhận được 0,46 mẫu tây, một nông cụ, và những gia đ́nh 13 người mới nhận được một con trâu hay ḅ. Theo tác giả Bernard Fall, một gia đ́nh nông dân bốn người cần có ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).

    b. Hoặc tài liệu của đảng cộng sản trích trong cuốn: (Những điều cần nh́n lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN): “Cải cách Ruộng đất đă tịch thu của bọn địa chủ và cường hào 760,000 mẫu ruộng đất canh tác, 112,.000 con trâu ḅ và gia súc, 26,000 tấn thực phẩm, lương thực... Sự phân chia đất đai theo đơn vị gia đ́nh, dựa trên số thành viên thực sự lao động và không dựa trên giới tính.”

    Tuy chia đất cho nông dân, nhưng sau cuộc CCRĐ, cộng sản tổ chức những hợp tác xă nông nghiệp, và ép nông dân phải gia nhập hợp tác xă nông nghiệp. Quá khiếp sợ trước cảnh tra tấn trong CCRĐ, không một nông dân nào dám phản đối. Thế là tất cả nông dân phía bắc vĩ tuyến 17 đều phải gia nhập hợp tác xă nông nghiệp. Khi vào hợp tác xă, ruộng đất riêng tư của nông dân đều phải nạp cho hợp tác xă, và trở thành ruộng đất tập thể của hợp tác xă. Thế là chẳng những số đất đă được chia, mà cả đất đai do cha ông để lại, cũng đều bị lọt vào tay hợp tác xă, tức vào tay nhà cầm quyền cộng sản. Toàn thể nông dân nay trở thành vô sản, và nhà cầm quyền cộng sản trở thành chủ nhân ông độc quyền của tất cả ruộng đồng nông thôn. Thật là một tiến tŕnh cướp đất rất hoàn hảo, mà không một nông dân nào dám lên tiếng tố cáo.

    Số lượng người bị giết:

    Những địa chủ “Việt gian” hay địa chủ “cường hào ác bá” đều bị tử h́nh. Trong trường hợp họ đă qua đời trước đó lâu ngày, vợ con họ bị đem ra xét xử và kết quả không khác. Những địa chủ Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc) hay Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách), dầu đă theo Việt Minh tham gia kháng chiến cũng bị tử h́nh. Những địa chủ các đảng bù nh́n của chế độ Hà Nội như đảng Dân chủ, đảng Xă hội cũng chịu y số phận.

    Khi bị tử h́nh, bản án tử h́nh được thi hành ngay tại chỗ bằng nhiều cách: bị bắn, bị trấn nước chết, bị phơi nắng (không được ăn uống), hoặc bị đánh đập cho đến chết. Nhiều khi nạn nhân qua đời, thân nhân không được cho phép chôn cất, xác bị để phơi nắng mưa. Gia đ́nh quá đau ḷng, phải hối lộ các chức việc, rồi ban đêm đến ăn cắp xác đem đi chôn.

    a. Dựa vào tài liệu các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm, cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120.000 đến 200.000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).

    b. Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xă, có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172.008 người, trong đó có 123.266 người (71,66%) sau này được xác nhận đă bị giết oan.

    c. Trong chiến dịch CCRĐ giết người có chỉ tiêu rơ ràng, cái chỉ tiêu ác độc ấy phải giết địa chủ ở mỗi xă cho đủ 5% dân số hoặc nhiều hơn càng tốt, càng được khen thưởng. Theo nhà văn Tô Hoài: “Thế mà vượt hết, thắng lợi lớn, toàn đoàn truy được hơn năm trăm địa chủ lọt lưới, đến bước ba đưa tỷ lệ 5% lên 7,24% đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ về chính trị cũng như về kinh tế”. (Ba người khác - trang 206)

    d. Nhà văn Trần Mạnh Hảo, rất bức xúc với cái tỷ lệ giết người trong chiến dịch CCRĐ ở làng của ông cao hơn các nơi khác: “Làng tôi là làng công giáo Bùi Chu Phát Diệm, là làng tề, làng bị gọi là ác ôn, nên chỉ tiêu địa chủ trên giao nặng nhất: phải bắt cho được 15% địa chủ là B́nh Hải Đoài. Nghĩa là cứ 100 người dân th́ phải nộp cho bác và đảng 15 tên địa chủ”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)

    Chính v́ các đội cải cách thi đua lập thành tích cho nên con số người dân vô tội đă bị giết một cách dă man đưa con số lên đến hàng trăm ngàn:

    e. “Ông Bùi Tín, một người bất đồng quan điểm với chính phủ Việt nam cũng nêu lên con số nạn nhân là 500.000 người do Michel Tauriac, nhà văn người Pháp đưa ra. Bùi Tín cho rằng con số nầy cũng hợp lư nếu kể cả người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử” (Wikipedia tiếng Việt online ngày 19-5-2006).

    f. “Một ư kiến cực đoan là của Hoàng Văn Chí, người tin rằng 5% dân số miền Bắc (675.000 người đă chết). Cuốn sách From Colonialism to Communism của ông nầy đă có tác động mạnh đến cuộc tranh luận về vấn đề con số” (BBC online ngày 28-12-2006).

    d. Các con số có thể kiểm chứng thêm tại links sau:
    http://quanvan.net/index.php?view=st...4#.ULTfNNkcjPg

    g. Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá tŕnh thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất th́ 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.

    Hay như trong cuốn Ownership Regimes in Vietnam có đoạn nêu lên con số người chết là: 165.230 người bị bắt oan sai và có khoảng 70% trong số này bị giết hại bằng tử h́nh tại chỗ hoặc chết trong ngục tù.

    Nền nông nghiệp bị suy sụp:

    Thông thường, nhà cầm quyền tổ chức CCRĐ nhắm giải quyết những sai lầm của nền nông nghiệp cũ, giúp nông gia tăng gia sản lượng nông nghiệp, thăng tiến đời sống dân chúng. Nhưng cuộc CCRĐ của Cộng sản chấm dứt năm 1956 lại đi đến kết quả ngược lại: đời sống nông dân tụt hậu, sản lượng giảm xuống rơ rệt. Lư do v́ trong các giai đoạn đầu của cuộc Cải cách, đất đai bị chia thành nhiều mảnh nhỏ. Nông dân mới nhận đất chưa có kinh nghiệm tổ chức sản xuất, thiếu tài chánh để mua trâu ḅ dụng cụ, phân bón để cày cấy. Sau đó, vào cuối giai đoạn 5, việc suy sụp kéo dài nhiều năm v́ nhà nước cộng sản đưa ra kế hoạch hợp tác lao động, tổ chức hợp tác xă nông nghiệp và những nông trường quốc doanh tập thể từ khoảng năm 1957, 1958. (Bernard Fall, sđd. tt. 284-287).

    Đảo lộn luân lư xă hội, tiêu diệt t́nh người:

    Chiến dịch CCRĐ của cộng sản đă khủng bố tinh thần dân chúng, làm cho mọi người sợ hăi khép ḿnh vào kỷ luật cai trị cộng sản, và nhất là đánh tan nề nếp xă hội cũ, làm sụp đổ nền tảng luân lư cổ truyền của dân tộc, tiêu diệt tận gốc rễ t́nh cảm giữa người với người. Trong khi quyết tâm thực hiện phương châm “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” (nghĩa là tiêu diệt từ trên xuống dưới bốn thành phần trí thức, phú thương, địa chủ, cường hào), cộng sản đă khuyến khích, ép buộc, đe dọa mọi người tố cáo, đấu tố lẫn nhau, dù đó là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Do đó, chẳng những đă xảy ra cảnh đấu tố giữa người với người ngoài xă hội, mà trong gia đ́nh cũng xảy ra cảnh đấu tố với nhau giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, và anh chị em.


    Những h́nh ảnh đấu tố do nhiếp ảnh gia Liên Xô
    Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp tại Việt Nam 1955.

    a. Nhạc sĩ Trịnh Hưng, hiện đang ở bên Pháp, là người bạn thân vừa về thăm thi sĩ Hữu Loan và kể lại câu chuyện có liên quan đến tác giả bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim như sau:

    “Ông ấy kể tôi nghe là: Lúc ấy, ông ấy là trưởng Ban Tuyên huấn của Đoàn 304, do tướng Nguyễn Sơn phụ trách, quân đội th́ đói khổ lắm, chỉ có ăn khoai, ăn sắn, không có gạo mà ăn... Ông địa chủ đó th́ giàu, tháng nào cũng đem gạo đến, để nuôi quân cho... Chính tướng Nguyễn Sơn tháng nào cũng làm lễ vinh danh cho ông ta, ban thưởng huân chương.

    “Năm 1953, bị đấu tố, lan đến Thanh Hóa, ông bà địa chủ ấy bị giết chết. Nhà th́ chỉ có một cô con gái thôi. Nó cấm tất cả mọi người, con trai, hay con gái, không được kết hôn với con nhà địa chủ, không được nuôi con nhà địa chủ.

    “Ông ấy (nhà thơ Hữu Loan) thấy bực quá, mới bỏ về làng, đi qua làng ấy, ông ghé vào thăm, ông biết rằng ông bà cụ bị giết rồi, cô con gái không ai nuôi cả, cô ấy phải đi mót sắn, mót khoai ở ngoài đồng, ăn sống, để sống thôi, quần áo rách rưới bẩn thỉu lắm, ngủ ở đường, ở đ́nh làng, ông thấy thế, thương hại và đem về nhà nuôi... và bây giờ là vợ ông ấy!” (RFA online ngày 19-5-2006)

    b. Nhà văn Trần Mạnh Hảo, người bị đuổi ra khỏi đảng CSVN năm 1989 và đuổi khỏi biên chế nhà nước viết cuốn “Ly thân” có bài “Độc quyền chân lư là thủ tiêu chân lư”, đoạn ông viết về CCRĐ:

    “Ông đội (tên gọi cán bộ CCRĐ từ trung ương phái về) từ trên bàn xử án xông tới sát ông Luân bị trói, bị chôn chân tới đầu gối trong chiếc “hố đấu tố”, đoạn hét: “mày có hô CCRĐ muôn năm không?” Ông Luân trợn mắt, đôi mắt sưng tấy, ḷi cả con ngươi ra...

    “Sau đó, ông đội lên bàn xử án, tuyên bố thay mặt đảng và bác vĩ đại, tuyên án xử tử h́nh gián điệp Quốc Dân đảng Luân, lệnh du kích xă lên đạn rốp rốp thị uy; đoạn trói nghiến ông Luân vào cọc bắn trên ruộng cạn mùa đông đang rét...

    “Ông Luân bị bắn bằng bốn cây súng trường. Bốn phát đạn cùng lúc đều trúng vào ngực ông Luân phụt máu, khiến ông gục xuống liền, cái giẻ nhét miệng ông bị máu trào ra, rơi bịch xuống như một cục máu đông, hay một mảnh phổi vở tràn ra ngoài”. (Thời Luận ngày 1-4-2006)

    c. Dưới đây là chuyện của cựu trung tá QĐND Trần Anh Kim, hiện đang ngồi tù 5 năm rưởi về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” đă trả lời phỏng vấn của Việt Hùng, phóng viên đài RFA kể về hoàn cảnh của gia đ́nh ông bị xử một cách dă man trong chiến dịch CCRĐ như sau:

    “Đến CCRĐ, sau năm 1954 giải phóng, sau đó giảm tô, đến CCRĐ th́ người ta quy cho ông tôi là địa chủ, và quy cho bố tôi là QD đảng. Bố tôi là Phó bí thư QD đảng và bác tôi là Bí thư QD đảng. Bác tôi bị bắn luôn, ông ấy nhận th́ bị bắn luôn. C̣n bố tôi th́ kiên quyết không nhận. Không nhận th́ người ta tra tấn, người ta thắt hai dây thừng vào hai ngón chân cái rồi người ta kéo lên sàn nhà, bố tôi đau quá, kêu khóc xin thả xuống. Kêu khóc quá to th́ người ta, lấy rơm, lấy rạ nhét vào mồm...

    “Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi thôn là mấy địa chủ th́ cứ thế mà người ta đưa lên thôi. Cuối cùng cũng bị tù không án hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi đi tù nhiều. Tức là tay th́ trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân th́ cùm, quần áo th́ chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi”. (RFA online ngày 19-5-2006)

    d. Để cổ vũ cho phong trào diệt chủng “Thà sai hơn bỏ sót”, cộng thêm với việc “Thi đua lập thành tích chống phong kiến” đă gây t́nh trạng “kích thành phần”,“nống thành tích”, cố t́m ra nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá... để có được bằng khen, huân chương, để ngoi lên địa vị cao hơn... hai nhà thơ cộng sản lúc bấy giờ thi nhau làm thơ cổ động chiến dịch một cách hiếu sát như sau:

    1- Tố Hữu:
    “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghĩ
    Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
    Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung ḷng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin… bất diệt”
    (Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 37)

    2- Xuân Diệu:
    “Anh em ơi! quyết chung ḷng
    Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tư thù
    Địa hào đối lập ra tro
    Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
    Thắp đuốc cho sáng khắp đường
    Thắp đuốc cho sáng đ́nh làng đêm nay
    Lôi cổ bọn nó ra đây
    Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi”.
    (Trăm hoa đua nở trên đất Bắc- trang 38)

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 1)
    Đặng Chí Hùng (Danlambao) -
    P3


    Lời kể của người trong cuộc:

    a. Ông Nguyễn Minh Cần, một người từng là phó Chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội và trực tiếp tham gia chiến dịch sửa sai cũng phân tích về những hậu quả của cuộc CCRĐ. Trong cuộc phỏng vấn BTV đài Á Châu tự do - Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần sau đây:

    Nguyễn An: Thưa ông, bây giờ trở lại cuộc CCRĐ cách đây 50 năm. Theo ông th́ cuộc CCRĐ đó để lại những hậu quả ǵ, di hại ǵ?

    Ông Nguyễn Minh Cần: Cái CCRĐ ở miền Bắc Việt Nam để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng về rất nhiều mặt.

    Nguyễn An: Xin Ông vui ḷng phân tách từng điểm một!

    Ông Nguyễn Minh Cần: Điểm thứ nhất: Đây là một cuộc tàn sát dân lành một cách vô tội vạ. Nếu nói theo từ ngữ hiện nay th́ phải nói đây là một cuộc diệt chủng v́ kỳ thị giai cấp. Bỗng dưng lập ra lệnh CCRĐ, đưa những đoàn người về và tha hồ qui người ta lên là địa chủ.

    Trên 172.000 người là nạn nhân. Tôi c̣n phải nói đến số người mà người ta oan ức quá, bực bội quá, người ta tự tử. Số đó cũng không phải là ít. Theo tôi, hậu quả đó rất lớn, nó gây ra một tâm trạng sợ sệt, khủng khiếp của người dân.

    Hậu quả thứ hai là phá hoại truyền thống ḥa hiếu của nông thôn, là v́ từ trước ai nói dù rằng có thể có bóc lột, có thể có ǵ đấy với nhau, nhưng người nông dân sống với nhau là lá lành đùm lá rách, rất ḥa hiếu với nhau.

    Cuộc CCRĐ về xúi người này bới móc tội lỗi của người kia, và có thể những tội hoàn toàn không có cũng bới ra. Và dựa vào những thù cũ rồi gây ra thù hận giữa các tầng lớp với nhau. Chính cái đó nó phá hoại truyền thống đoàn kết lâu đời của người VN ḿnh ở nông thôn.

    Nguyễn An: Thưa ông, có phải ông muốn nói rằng cuộc CCRĐ đặt trên cơ sở là gây sự căm thù để phát động quần chúng, và sau đó sự căm thù đó lớn rộng và nó tiếp tục c̣n lại sau khi cuộc CCRĐ đă chấm dứt không?

    Ông Nguyễn Minh Cần: Đúng như vậy.

    Nguyễn An: Thưa điểm thứ ba là ǵ?

    Ông Nguyễn Minh Cần: Hậu quả thứ ba là phá hoại đạo lư luân thường của dân tộc. Từ xưa đến nay cha đối với con, mẹ đối với con, vợ chồng đối với nhau, họ hàng cha chú đối với nhau đều có một luân thường đạo lư. Nhưng CCRĐ về xúi giục con tố cha, vợ tố chồng, nàng dâu tố mẹ chồng, bố chồng v.v... đấu đá lẫn nhau như vậy.

    Nguyễn An: Và gọi mày tao mi tớ hết?

    Ông Nguyễn Minh Cần: Vâng. Như vậy, luân thường đạo lư tan hoang.

    Nguyễn An: Thưa ông, theo ông th́ những cái mà phá hoại nền tảng luân lư đạo đức, rồi sự ḥa hiếu ở trong nông thôn đó cách đây 50 năm th́ được khai thác tối đa để hoàn thành cuộc CCRĐ... tinh thần như thế sau bao nhiêu lâu mới phục hồi được? Hay bây giờ nó vẫn c̣n là những vết thương rỉ máu?

    Ông Nguyễn Minh Cần: Theo tôi, v́ cho đến nay chưa có một sự sám hối rơ ràng. Chưa có một tuyên bố rằng chính sách hận thù giai cấp là một chính sách không đúng. Phải nói thật rằng bây giờ th́ 50 năm đă qua th́ người ta yên như vậy, nhưng ḷng hận cũ không phải là đă hết.

    C̣n một điểm tôi cũng muốn nói nữa là hậu quả thứ tư: Nó phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của dân tộc. V́ khi làm CCRĐ th́ các ông đều có cái ư hướng là tiêu diệt các tôn giáo, chèn ép các tôn giáo, tước đoạt tài sản của các tôn giáo để làm cho các tôn giáo không tồn tại được một cách độc lập.

    b. Hỏi chuyện nhà văn Vũ Thư Hiên

    (Phóng viên báo CE, 2006 - http://www.doi-thoai.com/vth_vuthuhien13.html)

    CE: Vừa qua, một số tổ chức chính trị tại hải ngoại có tổ chức kỷ niệm 50 năm Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam. Thưa nhà văn Vũ Thư Hiên, ông có nghĩ rằng đây cũng lại là một sự ôn nghèo kể khổ theo truyền thống lâu nay của dân tộc ta không ạ?

    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Bạn nghĩ rằng "ôn nghèo kể khổ" là truyền thống của dân tộc ta ư? Thế th́ khổ thật đấy. "Ôn nghèo kể khổ" chỉ là một cách khêu gợi ḷng căm thù của quần chúng đối với các giai cấp bóc lột, nói theo cách của cán bộ Cải cách Ruộng đất vào thập niên 50 của thế kỷ trước. Tôi không thấy có "một số" tổ chức chính trị hải ngoại kỷ niệm 50 năm Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam. Tôi biết có một tổ chức làm chuyện đó là Mạng Lưới Dân Chủ, dưới đầu đề "Không quên những nạn nhân Cải cách Ruộng đất", tại Berlin. Nhưng không nên nghĩ đó là một sự "ôn nghèo kể khổ" tương đương với cái "ôn nghèo kể khổ" từng diễn ra ở nông thôn Việt Nam.

    CE: Thưa, vào cái hồi Cải cách Ruộng đất xảy ra ấy, ông đă bao nhiêu tuổi, và ông đang làm ǵ? Ở đâu?

    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Hồi ấy tôi mới 20 tuổi. Tôi c̣n rất ngây thơ về chính trị. Tôi tin thật ở khẩu hiệu "người cày (phải) có ruộng", nên phải làm Cải cách Ruộng đất. Nghĩa là tôi tin ở sự lănh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản. Tôi lúc đó làm nghề quay phim. Tôi làm phụ quay phim cho nhà quay phim Liên Xô Eshurin trong ê-kíp làm phim "Việt Nam trên đường thắng lợi" (hay "Việt Nam chiến đấu", theo tên Nga) của đạo diễn Roman Karmen. Đội của Eshurin có trách nhiệm quay một đoạn về Cải cách Ruộng đất tại Thanh Hóa. Cảnh cha con người nông dân kéo cày thay trâu ngày nay được coi như ảnh tư liệu trong các bảo tàng Việt Nam về đời sống nông dân trong thời Pháp thuộc là do tôi chụp chính trong thời kỳ đó, ở gần đầm Rủn, Thanh Hóa. Đó là một cảnh dựng lại để quay phim, không phải cảnh thật. Hồi ấy tôi thành thật tin rằng có thể dựng lại các cảnh cũ để rồi thừa nhận nó là thật, miễn nó giống thật. Cái đó nằm trong quan niệm của cái gọi là hiện thực xă hội chủ nghĩa.

    CE: Đă có rất nhiều người nói về khí thế của nhân dân ta trong những ngày Cải cách Ruộng đất... Theo ông, cái hừng hực như lửa ấy ở đâu mà có, tại sao nó duy tŕ được và sự duy tŕ ấy được bao nhiêu lâu?

    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Khí thế hừng hực trong Cải cách Ruộng đất? Tôi không trực tiếp tham gia cuộc Cải cách Ruộng đất (khi nó diễn ra tôi đang học ở Moskva), tôi không làm chứng được cho cái khí thế ấy. Nhưng tôi tin rằng nó đă có, bằng vào cái mà tôi thấy trong cuộc giảm tô giảm tức đi trước Cải cách Ruộng đất từ năm 1953. Người nông dân được (hay bị) tuyên truyền rằng phải đánh đổ địa chủ cường hào gian ác th́ đời sống của họ mới khá hơn, th́ họ ào ào theo. Ai chẳng muốn đời sống khá hơn, nhất là trong khi đời sống hiện tại th́ lại quá cay cực? Đáng buồn là trong khí thế đi t́m cái đời sống khá hơn người ta quên bẵng nhiều thứ: đạo đức, t́nh thương yêu giữa con người với con người, quyền con người của người khác... Đảng cộng sản khuyến khích sự quên đó.

    CE: Thưa nhà văn Vũ Thư Hiên, ông có được chứng kiến một cuộc đấu tố nào không? Người ta đă tiến hành nó như thế nào vậy?

    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Tôi được chứng kiến một cuộc đấu tố duy nhất. Đó là cuộc đấu địa chủ Nguyễn Bá Ngọc tại Thanh Hóa. Tôi, với tư cách người quay phim, tôi được có mặt ở mọi chỗ. Kể chuyện người ta tiến hành nó như thế nào th́ dài lắm. Tôi nói tóm lại: nó được bố trí chu đáo như một vở tuồng. Những người nông dân được tập đấu (tố cáo tội ác của địa chủ) nhiều ngày trước khi có đấu thật. Đến khi đấu thật th́ đấu lưng trước (tức là địa chủ quay lưng lại người đấu), sau mới đấu mặt (mặt đối mặt). Sở dĩ phải làm như thế là v́ nhiều khi người đấu nh́n thấy mặt người bị đấu th́ không nỡ đấu nữa (cũng là bà con lối xóm với nhau cả!). Đến cả địa chủ cũng được các đạo diễn (ông đội) hướng dẫn tỉ mỉ: phải quỳ thế nào, không được phép ngẩng mặt lên khi nghe những câu không đúng (các ông bà nông dân bao giờ cũng đúng, đảng bao giờ cũng đúng...) Rất phường tuồng. Buồn cười không chịu được. Nhưng chỉ dám cười thầm. Có lẽ ai cũng thấy cái chất buồn cười trong hoàn cảnh rơi nước mắt ấy. Nhiều chuyện thương tâm lắm.

    CE: Thưa... Trước, trong và sau cuộc Cải cách Ruộng đất, ông đă có lần nào, lúc nào được tiếp xúc với những nạn nhân của nó, và ông thấy, thái độ, t́nh cảnh của họ trong từng giai đoạn như thế nào?

    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Trước hết, tôi xin nói lại điều tôi đă nói nhiều lần: đảng cộng sản cầm quyền ở nước nào cũng rất giỏi sản xuất ra kẻ thù. Trong kháng chiến chống Pháp, khi chưa có viện trợ của Trung Quốc, bộ đội sống nhờ dân, mà chủ yếu là những người nông dân lớp trên, một số sau này được quy thành địa chủ cường hào gian ác. Không có họ, bộ đội không có cái ăn để đánh Pháp. Tôi biết điều đó một cách chắc chắn bởi lúc ấy tôi ở trong bộ đội. Tức là đảng cộng sản đă bịa cho những người nông dân giàu vai tṛ kẻ thù. Ngay cả trong trường hợp họ giàu có, họ cũng không dĩ nhiên phải chống cách mạng giải phóng dân tộc. Bằng chứng là phần nhiều đảng viên Quốc dân đảng thuộc tầng lớp này. Về sau này những kẻ thù do đảng cộng sản bịa ra rồi có trở thành kẻ thù thật của Đảng th́ cũng đáng lắm. Tất nhiên, sau CCRĐ t́nh cảnh địa chủ (hay những người bị quy là địa chủ) thê thảm lắm. Đến cả con cái họ cũng bị trù dập, không cho đi học, không cho đi làm. Đảng CS thù dai lắm, thù theo sách (chứ người ta lúc ấy có thù ǵ Đảng đâu), đă thế lại c̣n hẹp ḥi đến tởm lợm. Chẳng cứ con cái địa chủ, con cái tư sản cũng vậy. Con cái những người bị coi là đối tượng cách mạng cũng thế. Trong chuyện này gia đ́nh tôi có kinh nghiệm bản thân. Tốt nhất là đừng có chơi với một Đảng như thế. Đă trót bắt tay nó th́ nhớ xem lại tay ḿnh c̣n mấy ngón.

    CE: Người ta bảo, vào những ngày ấy, có thể thấy bóng dáng của các cố vấn Trung Quốc ở khắp mọi nơi... Điều đó có đúng không, thưa ông... Đă có lúc nào ông có dịp được tiếp xúc với một trong những ngài cố vấn đó không? Cảm tưởng của ông về các ngài như thế nào?
    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Điều đó không đúng. Cố vấn Trung Quốc có ở cấp Trung ương và ở các Đoàn ủy Cải cách ruộng đất. Nhưng họ rất ít lang thang ngoài đường để t́m cà phê. Tôi chưa gặp họ ở khắp mọi nơi như bạn hỏi.

    CE: H́nh như những người lănh đạo đảng CSVN thích dùng mấy chữ cải cách, cải tạo... Sau cuộc Cải cách Ruộng đất này, theo từng thời kỳ của cách mạng, họ c̣n có những cuộc cải tạo tư sản tư thương ở miền Bắc và miền Nam, cải cách giáo dục, cải cách hành chính, cải cách tiền tệ, lương bổng, cải tạo thanh thiếu niên hư hỏng, cải tạo gái măi dâm, cải tạo bọn chích choác x́ ke, ma túy... và đặc biệt là cuộc cải tạo hàng triệu sỹ quan và những người đă phục vụ trong chính quyền Sài G̣n trước 1975, ư kiến ông về vấn đề này như thế nào?

    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Những người cộng sản Việt Nam chỉ thích chữ cải tạo thôi. Mọi thứ cải tạo: cải tạo tư tưởng, cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, tập trung cải tạo... được tiến hành trong sự chủ động. C̣n cải cách th́ họ không thích đâu. Họ cho rằng cải cách không có tính chất cách mạng, triệt để, một thứ cải lương. Người ta phải dùng từ cải cách là khi nào muốn giảm nhẹ trọng lượng chính trị của câu nói. Hoặc một cái ǵ đó chưa đáng để gọi là cải tạo.

    CE: Thưa nhà văn Vũ Thư Hiên! Cuộc trao đổi của chúng ta đă hơi dài. V́ thời gian không cho phép, nên xin hỏi ông câu cuối cùng: Xin ông nói một đôi điều tóm lại về bản chất của những cái gọi là cải cách, cải tạo ấy?

    Nhà văn Vũ Thư Hiên: Bản chất của cải tạo, cải cách? Nên chăng dùng chữ mục đích? Mọi hành động của Đảng cộng sản bao giờ cũng chỉ nhằm đoạt lấy và giữ cho chặt chính quyền. Bạn thấy đấy: trong bất cứ lĩnh vực nào có nảy sinh mâu thuẫn và đấu tranh th́ Đảng cộng sản đặt ngay vấn đề ai thắng ai? Tất nhiên Đảng cộng sản phải thắng.

    CE: Xin cảm ơn ông và chúc ông dồi dào sức khỏe.

    c. Học giả Hoàng Xuân Hăn nói lên cái nhận định của ḿnh về chiến dịch CCRĐ khi trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê trên đài RFA:

    “Cái mất mát lớn bởi sai lầm trong CCRĐ là nó phá vỡ mất cái nông thôn Việt Nam và phá vỡ mất ḷng tin. Cái nguy hại của CCRĐ là ở chỗ nó phá vỡ một tế bào quan trọng vào bậc nhất của xă hội Việt Nam lúc bấy giờ là làng quê”. (Người Việt ngày 7-9-2004).

    d. Cố thủ tướng CSVN Vơ văn Kiệt, người có nhiều trăn trở trong việc làm của ḿnh đă qua, ông cũng nói lên quan điểm của ḿnh về chiến dịch CCRĐ sau khi đă không c̣n chức vụ ǵ trong chính phủ:

    “Trong các chiến dịch CCRĐ và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đă không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế” nhằm khẳng định đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh của đất nước.”

    e. Ông Đoàn Duy Thành, nguyên phó thủ tướng chính phủ, người đă từng kể về mật lệnh Z 30 tịch thu nhà hai tầng trở lên hồi sau năm 1975 viết về CCRĐ trong cuốn “Lư luận HCM” ông nói lên cái nhận định của ḿnh về cái chiến dịch này:

    “Những sai lầm của CCRĐ đă để lại hậu quả lâu dài cho dân tộc, cho đất nước, là sự hận thù, sự lừa dối, xảo trá, vu khống như: tố điêu, ép cung, bịa chuyện... gây tai họa cho bao gia đ́nh, làm mất đi những truyền thống tốt đẹp về gia đ́nh, họ hàng, làng xóm, mà cha ông ta đă dày công xây dựng hàng ngh́n năm...

    “Những sai lầm trong việc đấu tố không chỉ có trong CCRĐ, mà cũng phổ biến trong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, nhưng cải tạo công thương chỉ làm ở một số thành phố và tiến hành sau CCRĐ nên phần nào giảm bớt sai lầm, khuyết điểm, tác hại của nó cũng chỉ thu hẹp trong một số thành phố”. (Bauxite Việt Nam online ngày 16-11-2010)

    f. Cụ Nguyễn Văn Trấn, một lăo thành cách mạng nổi tiếng của miền Nam trong quyển “Viết cho Mẹ và Quốc hội” cho chúng ta thấy được rơ ràng sự nô lệ của chính phủ Hồ chí Minh trước đế quốc Trung cộng là như thế nào. Họ ngửa tay nhận viện trợ của Trung cộng để đánh Pháp, Mỹ giải phóng dân tộc, nhưng lại tṛng vào cổ dân tộc một ách thống trị nguy hiểm hơn, tàn bạo hơn và lâu dài hơn.

    “Ác hết sức là cố vấn Trung quốc hiến cho cái kế Phóng tay. Phóng tay! Nói nôm na (theo Nam bộ) là “cứ việc làm mạnh thả cửa”. Và họ dẫn lời vàng ngọc ngụy biện, “à la” Mao Trạch Đông.

    “Kiểu uông tất tu quá chỉnh”. Có nghĩa là: muốn uốn khúc cây cong, ắt phải kéo nó quá chiều.

    “Trời ơi! đảng của tôi đă nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó trở lại giết chết bao vạn sanh linh...

    Có lần anh chị em Nam bộ “Đại biểu” tôi đến gặp ông già Tôn mà hỏi, tại sao ổng để cho CCRĐ giết người như vậy?”

    “Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi, liền đứng dậy bước ra khỏi ghế, vừa đi và nói: “Đụ mẹ, tao cũng sợ nó, mầy biểu tao c̣n dám nói cái ǵ?

    “Quả thật, lúc CCRĐ c̣n nghe theo Chệt mà phóng tay phát động ai mà có ư kiến với nó th́ sẽ bị quy là có tư tưởng địa chủ”. (VCMVQH- trang 266-267)

    g. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, một nhà trí thức trẻ lớp hậu sinh góp lời nhận định về công cuộc CCRĐ của HCM khi trả lời phỏng vấn của Duy Ái đài VOA:

    “Theo tôi cột mốc rơ nhất cho sự phi dân chủ hóa để trở thành độc tài toàn trị của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, một cái tên rất dân chủ, là việc đảng Lao Động VN phát động CCRĐ, được cụ Hồ gọi là “cách mạng long trời lở đất”, vào năm 1953. Bao trùm toàn bộ “cách mạng” này là sự tùy tiện của chính phủ cụ Hồ trong việc bắt giữ, hành hạ, bắn giết, tịch thu gia sản đối với hàng trăm ngh́n người Việt Nam. Các thủ tục tư pháp thông thường đă có từ thời thực dân Pháp hay các quy định phải tôn trọng pháp luật và quyền con người được ghi trong Hiến pháp 1946 đều không được đếm xỉa trong CCRĐ”. (VOA online ngày 15-9-2010)

    3. Ông Hồ Chí Minh - người chỉ đạo CCRĐ:

    a. Người viết ra cương lĩnh hành động làm tiền đề cho CCRĐ:

    Ông Hồ Chí Minh đă hiểu rất rơ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi c̣n ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông ta tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lănh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 08/02/1928, ông viết:

    "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những kư ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những kư ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân ủy nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lănh tụ của nông dân cách mạng". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265).

    Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung quốc, gia đ́nh đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đă tổ chức và lănh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).

    Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược thứ hai của Đảng cộng sản ghi rơ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lănh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 297). Chương tŕnh hành động th́ hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Chúng ta nên nhớ các văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.

    Ít tháng sau, ĐCS đă lănh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến.

    Kết luận: Ông Hồ Chí Minh là người chỉ ra đường lối của CCRĐ đẫm máu. Ông ta là người phát biểu và người viết các cương lĩnh hoạt động cho đảng cộng sản. Vậy tội của ông ta có thể xem là chủ mưu. Tuy nhiên để rơ ràng hơn xin quư vị chú ư các điểm sau đây.

    b. Những hành động cụ thể:

    Ngày 25/01/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, ông Hồ Chí Minh chủ tọa, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.

    Ngày 12/04/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 /SL về Cải Cách Ruộng Đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.

    Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đă quyết định tiến hành CCRĐ.

    Trong báo cáo trước Quốc hội khóa I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đă phát biểu "Phương châm của Cải Cách Ruộng Đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Hành động kêu gọi “ phóng tay” chính là sự cổ vũ giết người của Hồ Chí Minh.

    Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đă ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đă giết hại không biết bao con người vô tội.

    c. Ông Hồ Chí Minh gọi cuộc tắm máu nhân dân là “Chiến thắng”:

    Trong hội nghị “Tổng kết thành tích Cải cách nông nghiệp đợt 5”, Hồ Chí Minh đă gởi văn thư đề ngày 1-7-1956 cho đoàn cán bộ CCRĐ, trong đó có đoạn viết:

    “Bác thay mặt Đảng và chính phủ gởi lời an ủi gia đ́nh những cán bộ đă hy sinh v́ nhiệm vụ, đợt 5 Cải cách Ruộng đất rất gay go, phức tạp. Song nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ, nhờ nông dân hăng hái đấu tranh nên chính sách Cải cách Ruộng đất đă thu được thắng lợi to lớn... Giai cấp địa chủ đă bị đánh đổ, các tổ chức ở xă đă được trong sạch hơn v. v... và bản thân cán bộ được thử thách, rèn luyện...”

    Trong một lá thư, đề ngày 18/08/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đă hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp:

    "Cải Cách Ruộng Đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại v́ kẻ địch phá hoại điên cuồng; v́ một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; v́ sự lănh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đă xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507).

    Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đă được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta dẫm lên nó, nó cũng giăy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế". (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).

    Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 06/01/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố:

    "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đă phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân th́ Đảng đă cương quyết phát động quần chúng Cải Cách Ruộng Đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đă liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).

    4. Kết luận phần 1:

    Kính thưa quí vị!

    Trong sự kiện cải cách ruộng đất này đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh đă vi phạm hiến chương LHQ về nhân quyền cũng như vi phạm tội ác diệt chủng và chống lại loài người.

    Nhân dân Việt Nam yêu chuộng tự do và ḥa b́nh luôn mong muốn những tội ác đó cần phải được lên án và làm rơ trước cộng đồng quốc tế.

    Phần 2: Vụ án nhân văn giai phẩm:

    1. Giới thiệu về Nhân Văn – Giai Phẩm:

    Nói về Cải cách ruộng đất th́ đó là một cuộc thảm sát với phú nông, địa chủ... trong đó có phần lớn là oan sai. Nhưng nhắc đến Nhân văn Giai phẩm lại là câu chuyện khác. Lần này đến trí thức cũng bị tiêu diệt. Lư do rất đơn giản cho sự tiêu diệt đó là họ dám viết, dám nghĩ đúng với những ǵ họ nhận thấy được từ xă hội thối nát của cộng sản. Họ cần nghệ thuật gắn liền với tư tưởng tự do, dân chủ nhưng... đó là cái gai trong mắt cộng sản.

    Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính trị, đ̣i tự do dân chủ của một số văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.

    Phong trào này có một tờ báo cho ḿnh với tên gọi Nhân Văn, đây là một tờ báo chuyên về văn hóa, xă hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội. Đứng đầu tờ báo là ông Phan Khôi làm chủ nhiệm và ông Trần Duy làm thư kí ṭa soạn. Ngoài ra nó c̣n cùng với tạp chí Giai Phẩm, h́nh thành nên nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm (NVGP).

    Mục tiêu hoạt động của nhóm NVGP là giúp cho sự tự do suy nghĩ, tự do trong sáng tác của các văn nghệ sĩ. Họ muốn hướng tới một quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật thực sự. Nghệ thuật theo tiêu chí của nhóm này phải tách khỏi chủ trương tô hồng cách mạng giả dối của văn nô cộng sản. Xin nêu ra đây một số ví dụ nhỏ để thấy chủ trương hết sức hợp lư của nhóm NVGP trong vấn đề trung thực, dân chủ trong xă hội VNDCCH lúc đó.

    Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng giêng năm 1956, do nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài “Nhất định thắng” của nhà thơ Trần Dần, miêu tả hoàn cảnh đời sống miền Bắc xă hội chủ nghĩa trong những ngày đầu đất nước chia cắt, tác giả bài thơ bị qui kết chống phá, “bôi đen” chế độ, với những câu thơ nổi tiếng:

    Tôi bước đi
    không thấy phố
    không thấy nhà
    Chỉ thấy mưa sa
    trên màu cờ đỏ...

    Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của ông Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê b́nh trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 4 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956. Trong số cuối cùng, Nhân văn số 5, ông Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với t́nh h́nh thực tế lúc bấy giờ.

    Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành. Tổng cộng Nhân Văn ra được 5 số báo và Giai Phẩm ra được 4 số báo (Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956) trước khi phải ngừng xuất bản.

    Sau đó, hầu hết các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xă hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài: Lê Đạt, Trần Dần, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương, thậm chí có người bị giam giữ trong một thời gian dài và tiếp tục bị giám sát trong nhiều năm sau khi măn tù như trường hợp ông Nguyễn Hữu Đang. Dư luận chung thường gọi đây là “Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm.”

    Trong số này đa phần là những nghệ sĩ nổi tiếng, là tinh túy của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Họ thực sự là những tri thức đáng kính với những tư tưởng tự do, dân chủ nhưng đă bị đảng cộng sản ḱm kẹp và bức bách cả về tư tưởng lẫn thân thể. Ắt hẳn chúng ta không thể nào quên một Hữu Loan đằm thắm nhưng cương trực với “Màu tím hoa sim” bất hủ. Ấy vậy mà ông cũng như hàng chục văn nghệ sĩ ấy đă bị đảng cộng sản vu khống, chụp mũ cho tư tưởng chống đảng, phản động.

    Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm quy tụ những người trí thức can đảm nhất ở miền Bắc Việt Nam trong thời đại của họ. Sau bài thuyết tŕnh của Nguyễn Mạnh Tường, trong hai số báo Nhân Văn vào tháng 11 năm 1956, Nguyễn Hữu Đang đă hai lần nêu cao chủ trương phải thiết lập một chế độ pháp trị. Ông nêu ra những điều trong hiến pháp năm 1946 bảo đảm các công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do hội họp, tự do cư trú, tự do đi lại, vân vân. Điều 11 nói: “Tư pháp chưa quyết định th́ không được bắt bớ giam cầm người công dân Việt Nam” nhưng ngay trong thời đó các nhà trí thức như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Đặng Đ́nh Hưng cũng bị đi “cải tạo” không thời hạn; các văn nghệ sĩ như Trần Dần, Tử Phác vô cớ bị bắt giam.

    Nhân Văn Giai Phẩm là một đợt bộc phát trào lưu tư tưởng dân chủ ở miền Bắc Việt Nam có tiền đề ngay từ khi h́nh thành nhà nước VNDCCH lưỡng sinh giữa DCTS và toàn trị cộng sản tiến dần đến mô h́nh kiểu chủ nghĩa Mao, phát sinh trên nhiều lĩnh vực đời sống xă hội nhưng mạnh mẽ nhất là lĩnh vực ngôn luận mà lực lượng hăng hái nhất là trí thức khoa học xă hội và văn nghệ sỹ, tập trung xung quanh hai ấn phẩm là báo Nhân Văn và tập san Giai Phẩm.

    Có lẽ cần phải cho mọi người nghe ư kiến của ông Nguyễn Hữu Đang trả lời Thụy Khuê ngày tháng 9- 1995 khi bà hỏi thực chất của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là ǵ:

    “Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, th́ đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản đâu, mà là chống cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Đông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao trạch Đông đưa đến nhiều hiện tượng- nói là chuyên chính th́ chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm... Nó gay gắt ghê lắm!”

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 1)
    Đặng Chí Hùng (Danlambao) -
    P4



    2. Tội ác!

    Tập tài liệu tựa đề “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước ṭa án dư luận” do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội NVGP của đảng cộng sản Việt Nam. Trong phần cuối cuốn sách, có một chương nhỏ, trích “những lời thú tội” của các thành viên NVGP, c̣n hầu như toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội”, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhă ngay từ miệng, hoặc từ ng̣i bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của ḿnh đă tham gia NVGP.

    Tập tư liệu dày 370 trang này - chứng tích một thời mà chữ nghĩa đă đạt tới đỉnh cao của sự bồi bút - c̣n hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của cuộc đấu tố. Đồng thời nó cũng gián tiếp trả lời những lập luận gần đây, cố t́nh hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc của phong trào NVGP thành một cuộc “đánh đấm nội bộ”, tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ ǵ đến vấn đề tự do tư tưởng.

    Trong cuốn sách đó có viết:

    “Nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đ̣i "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao 'sứ mạng chống đối' của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.

    Nhóm 'Nhân Văn - Giai Phẩm; phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên 'con người' trừu tượng, thực ra chúng đ̣i văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.

    Nhóm 'Nhân Văn - Giai Phẩm' hằn học đả kích nền văn nghệ xă hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xă hội chủ nghĩa, chúng đ̣i đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.

    Nhóm 'Nhân Văn - Giai Phẩm' phản đối sự lănh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đ̣i 'trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ', thực ra chúng đ̣i đưa quyền lănh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.”

    Điều này cho thấy sự quy chụp táo tợn và trơ trẻn của đảng cộng sản với những văn nghệ sĩ thực thụ muốn dùng ng̣i bút nghệ thuật vào đóng góp cho dân chủ. Hành động đánh phá và quy chụp này cho thấy đảng cộng sản độc tài chính là kẻ thù không đội trời chung của tự do, dân chủ.

    Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người dập tắt phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Trong cuốn “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm” trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hóa, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đă nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:

    “Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm;” (trg 9. Sđd).

    Hay có đoạn:

    “Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của ḿnh, cố t́nh chống lại cách mạng và chế độ”. (trg 17. Sđd).

    Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm như sau:

    “Những tư tưởng chính trị thù địch Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản. Xuyên tạc mâu thuẫn xă hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lănh đạo. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xă hội chủ nghĩa. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, găi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.”

    Đến đây ta có thể thấy đội ngũ văn nô của đảng cộng sản đă cố t́nh nhào nặn lên một h́nh tượng ngược lại hoàn toàn với những ǵ được coi là sự thật về NVGP. Đảng cộng sản đă cố t́nh quy chụp một cách vô lư những trí thức dám nói thẳng thật về những nghịch lư trong xă hội độc tài cộng sản.

    Đối với văn nghệ do đảng cộng sản Việt Nam lănh đạo, Trường Chinh là người đă đưa các quan điểm văn nghệ của Mao Trạch Đông vào hoạt động Văn hóa Cứu quốc từ năm 1943, kiên tŕ bảo vệ nó cho tới khi đổi mới, đă tạo ra rất nhiều vụ án văn nghệ khác nữa, là nhân tố chính làm cho nền văn nghệ Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền nhưng tụt hậu so với sự phát triển chung của văn nghệ nhân loại. Trường Chinh th́ xuyên suốt các văn kiện từ khởi thủy cho đến sau này đều dựa trên các nguyên lư văn nghệ của Mao Trạch Đông: "bắt văn nghệ phục vụ chính trị, lấy mục tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên truyền như là một mệnh lệnh tuyệt đối cho văn nghệ sĩ". Chưa bao giờ thấy ông đưa ra các yếu tố tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do ngôn luận làm điều kiện cho sự thành công của nền văn hóa xă hội chủ nghĩa. Ấy là chưa nói đến phương pháp lập luận của Trường Chinh đầy chất ngụy biện, giả dối, phản khoa học, thực dụng về chính trị. Rất nhiều mệnh đề của ông khi đưa vào vận hành quản lư văn nghệ đều đi ngược lại với tinh thần của nó. Và chính bản thân ông trong một số trường hợp cụ thể đối với một số tác phẩm đă thể hiện thái độ hẹp ḥi, thiển cận, quy chụp, trù dập văn nghệ sĩ.

    Ngược lại Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đ́nh Thi quan niệm:

    “... để thực hiện nền văn hóa mới, trước hết chúng ta phải củng cố nền độc lập hoàn toàn và làm thực hiện chính thể dân chủ cộng ḥa triệt để... Ban bố triệt để quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, chính là cởi mở cho văn hóa trở nên sầm uất, và đem một luồng sinh khí mạnh mẽ thổi vào cái văn hóa bao lâu phải sống trong những pḥng ngục chật hẹp, thiếu ánh sáng, thiếu hơi nóng của mặt trời. Sách vở và báo chí được xuất bản tự do, nền văn nghệ của ta mới có thể dồi dào phong phú”.

    Chính v́ có sự khác biệt quá lớn về tư tưởng và những yếu tố chính trị trong việc tồn vong của đảng cộng sản trước những bài viết phơi bày sự thật, đảng cộng sản đă trả thù hèn hạ với những người thuộc nhóm NVGP.

    Ngày 10-12-1959 Ṭa án nhân dân Hà Nội khai mạc phiên ṭa xử Vụ án gián điệp hoạt động phá hoại hiện hành. Nội dung bản án kết tội như sau:

    “Chúng là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành, hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lư đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc.”

    Kết quả tuyên án như sau:

    Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
    Lưu Thị Yến tức Thụy An 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù,
    Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức 10 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
    Phan Tại 6 năm tù giam, 3 năm quản chế.
    Lê Nguyên Chí 5 năm tù giam, 3 năm quản chế....

    Ngoài ra sau đó c̣n tiếp tục có những hoạt động là dư âm hậu quả của NVGP về sau này:

    Năm 1960: Phùng Cung bị bắt. Lư do: Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất măn, chống đối, phản động.

    Năm 1968: Vụ án xét lại chống Đảng. Bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Đ́nh Huỳnh, Đặng Kim Giang, Trần Minh Việt, Trần Thư, Vũ Thư Hiên, Lê Trọng Nghĩa, Huy Vân... Nhiều văn nghệ sĩ nhất là những người đi học ở Liên Xô về hoặc có quan hệ với Liên Xô bị đưa vào diện phân biệt đối xử.

    Năm 1982: Hoàng Cầm bị bắt cùng Hoàng Hưng v́ việc định đưa tập thơ Về Kinh Bắc ra nước ngoài. Hoàng Cầm bị giam 18 tháng, Hoàng Hưng bị giam 39 tháng.

    Về sau này, các nhà trí thức trong NVGP khi viết hồi kư hoặc phát biểu về quăng đời trong tăm tối của ḿnh trong lao tù cũng như trong cuộc sống thường nhật đă miêu tả rất rơ về những cái ác mà đảng cộng sản gây ra cho họ.

    Luật sư Nguyễn Mạnh Tường qua bài phát biểu rất quan trọng trước Mặt trận Tổ quốc Hà Nội ngày 30-10-1956 đă phân tích những sai lầm của chính quyền đi từ sai lầm CCRĐ ở nông thôn sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ. Ông chỉ ra nguồn gốc các sai lầm đó và tŕnh bày những nguyên tắc để sửa sang lại bộ máy pháp luật, chính trị của đất nước. Ông phê phán khẩu hiệu: "Thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch không những quá tả một cách vô lư mà c̣n phản lại cách mạng". Năm 1992 tại Paris nhà xuất bản Quê mẹ của Vơ Văn Ái in cuốn hồi kư bằng tiếng Pháp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Un Excommunié (Kẻ bị khai trừ) với tiểu tựa Hanoi 1954-1991: Procès d'un intellectuel (Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức). Cuốn sách nêu lên những sự thật khi bị o ép, theo dơi của đảng cộng sản với ông trong cuộc sống đói khổ, thiếu thốn.

    Những sự việc bỉ ổi của đảng cộng sản c̣n thể hiện qua việc đối xử bất công với nhà thơ ưu tú Hữu Loan. Hay như một người nữ nghệ sỹ Thụy An đă phải chịu cảnh mù ḷa, tàn tạ trong nhà tù cộng sản được miêu tả qua cuốn sách “Thép đen” của Đặng Chí B́nh.

    Ngoài ra năm 2001 Nhà xuất bản Văn Nghệ California Hoa Kỳ xuất bản cuốn nhật kí của Trần Dần tên là “Trần Dần” ghi trích những ghi chép của Trần Dần trong hai thời kỳ CCRĐ và NVGP 1954-1960. Đặc biệt đây là một cuốn sách thật nhất về NVGP, về cuộc sống thời kỳ này của dân tộc mà người ta không thể t́m thấy các h́nh ảnh rớm máu ấy trong các tác phẩm tuyên truyền công khai ở miền Bắc. Cùng với đó c̣n có một số cuốn khác đề cập đến NVGP như: “Hồi kư Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên do NXB Văn nghệ ở Hoa Kỳ...

    Với các nhà trí thức yêu nước hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật th́ việc quy chụp họ phản động đă là một tội ác. V́ vũ khí chiến đấu cho công bằng dân chủ xă hội của họ chính là ng̣i bút và tác phẩm. Kết luận vu khống của đảng cộng sản giành cho họ là một tội ác. Nhưng chưa dừng lại ở đó. Đảng cộng sản c̣n bắt họ vào tù, đày ải và hành hạ họ trong cuộc sống. Đó là một tội ác không thể chấp nhận được đối với trí thức.

    3. Những kẻ chủ mưu:

    Như đă nói ở trên, Trường Chinh và đảng cộng sản của ông ta chính là kẻ thù trực tiếp trong vụ án NVGP. Trường Chinh chủ trương áp đặt tư tưởng của đảng và của Mao cho các văn nghệ sĩ trí thức lúc đó. Đi cùng với Trường Chinh là đội ngũ văn nô như Tố Hữu, Đặng Thái Mai ra sức tuyên truyền và bôi nhọ nhóm NVGP như một "lũ phản động". Họ dùng đến cả ṭa án của độc đảng để đẩy những con người vô tội vào tù.

    Nhưng trên thực tế có một kẻ thủ ác giấu mặt hết sức nham hiểm đó là ông Hồ Chí Minh. Như chúng ta đă biết tôi từng chứng minh về hệ thống chính trị trong đảng cộng sản Việt Nam trong các phần trước. Ông Hồ Chí Minh thực sự là kẻ chỉ đạo và viết ra chủ trương của các hành động của đảng cộng sản.

    Trên thực tế, Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ tịch đảng và Tổng bí thư từ (9/1956 đến 9/1960). Như vậy NVGP rơ ràng xảy ra trong thời kỳ ông Hồ phải là người có quyền lực chính trị cao nhất, lúc này Lê Duẩn cũng chưa có vai tṛ rơ rệt. Vậy ông Hồ không thể vô can trong sự việc này.

    Trong hội nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp từ ngày 25/8/56 đến 24/9/56), Trường Chinh bị "nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm" trong công tác cải cách ruộng đất, phải tự kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương, bị loại ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp Hành Trung ương Đảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ Tịch Đảng và Tổng bí Thư từ (9/1956 đến 9/1960). Sau đó là thời kỳ Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư (9/1960 đến 7/1986), xảy ra vụ Xét Lại Chống Đảng.

    Vụ NVGP xảy ra dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư

    Tháng Giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân vừa ló dạng thể hiện tự do sáng tác, đă bị dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu là Trường Chinh đă giao cho Tố Hữu, người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần Dần và Lê Đạt trong việc phê b́nh tập thơ Việt Bắc, xử lư vụ Giai phẩm mùa xuân theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.

    Ngày 9/12/1956 Hồ Chí Minh kư sắc lệnh báo chí. Đóng cửa Nhân Văn. Phong trào NVGP bị dập tắt lần thứ nh́, tháng 12/56. Tháng 2/57 trong Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, họp từ 20 đến 28/2 tại Hà Nội, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát âm mưu phản động" của nhóm NVGP.

    Như vậy ta có thể thấy trong tháng 8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng kể:

    Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư. Phong trào NVGP phát triển trở lại. Quyết định cho phép Hội văn nghệ tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, theo đường lối Liên Xô, trong tháng 8/1956, rơ ràng không thể là của một Trường Chinh đă mất chức quyết định được. Người quyết định về việc này chỉ có thể là Hồ Chí Minh đứng đầu đảng và nhà nước chứ không thể là ai.

    Cuối năm 57: Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, tháng 2/58 việc thanh trừng NVGP được tổ chức quy mô và toàn diện trong hai lớp đấu tranh Thái Hà.

    Lần này nữa, trách nhiệm hẳn cũng đến từ từng cao nhất của cấp lănh đạo của ông Hồ Chí Minh v́ tôi đă từng chứng minh ở các phần trước, ông Hồ luôn coi tư tưởng của Mao là kim chỉ nam cho hành động “Tư tưởng của Mao không thể sai.”
    Trả lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố:

    “Cái việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc ǵ mà có dư luận kêu ca, thắc mắc th́ không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lănh tụ mà người ta suy tôn tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. V́ cái lư do nó là như thế. Thực chất th́ cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa trong bộ máy lănh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những người lănh đạo.”

    Ngoài ra ông Hồ Chí Minh c̣n là người viết cuốn: “Truyện về chiến sĩ thi đua” nhằm đưa ra tư tưởng. Cuốn sách này đă tiến hành định hướng cho nền văn học nước nhà phải theo sự chỉ đạo của đảng, của ông Hồ trong viết thế nào và viết cái ǵ. Vậy ông ta chính là kẻ chủ trương cho trào lưu chống lại NVGP.

    Trong cuốn “Điều đọng lại” in năm 1992 tại nhà xuất bản Văn Hóa của đảng cộng sản Việt Nam cũng có đoạn trang 121: “Bác Hồ đă chỉ đạo việc cách mạng trong các loại h́nh nghệ thuật. Không thể để cho việc ca tụng thói hư tật xấu của chủ nghĩa tồn tại trong xă hội chúng ta. Những kẻ chống đối lại đường lối của đảng cần phải nghiêm khắc xem xét lại”. Việc này cho thấy ông Hồ hoàn toàn ủng hộ và c̣n chỉ đạo cấp dưới về chủ trương xét lại với những nhóm có tư tưởng dân chủ như NVGP là một ví dụ.

    Ông Hồ Chí Minh đă dùng ảnh hưởng của ḿnh để tiến hành viết sách định hướng cho nền nghệ thuật Việt Nam, ông ta có một vai tṛ quyết định trong vấn đề chính sách và chủ trương trong hệ thống chính trị. Ông ta cũng phải chịu trách nhiệm lớn lao trong vụ việc NVGP. Đó là sự thực không thể chối bỏ.

    4. Kết luận phần 2:

    Kính thưa quư vị!

    Trong khuôn khổ phần 2 này chúng tôi đă gửi tới quư vị vụ án NVGP là một tội ác chính trị mà đảng cộng sản gây ra cho giới trí thức. Sau cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu th́ hành động bức bách bỏ tù những nhà trí thức cũng là một hành động cho thấy chủ trương độc tài ngay từ trong tư tưởng của chế độ cộng sản tại Việt Nam.

    Vụ án này gióng lên một hồi chuông về nhân quyền không được tôn trọng tại Việt Nam và các quy tắc về dân chủ, pháp luật dưới sự lănh đạo của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đă hoàn toàn vị phá bỏ. Con người bị bức bách và dồn ép về mặt tư tưởng để đến mức mất hết nhân quyền!.

    (c̣n tiếp)


    Đặng Chí Hùng
    danlambaovn.blogspot .com

    ____________________ __________________

    Thân gửi các bạn trong thôn Danlambao,

    Theo như lời của tác giả Đặng Chí Hùng:

    “Việc đưa nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra ṭa h́nh sự quốc tế và Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hợp Quốc là cần thiết. Tuy nhiên cần nhiều chứng cứ cụ thể hơn nữa để có tiếng nói có giá trị hơn nữa... Kính đề nghị quư bạn đọc cung cấp thêm chứng cứ về tội các của cộng sản đối với bản thân và gia đ́nh ḿnh, tội ác của CS tại quê hương ḿnh để tôi thành một bộ hồ sơ hoàn chỉnh hơn nữa sau khi bản cáo trang này được đăng tải.”

    Dân Làm Báo kêu gọi các bạn phản hồi trong bài viết này với tinh thần nêu trên. Tất cả những phản hồi không nằm trong nội dung của bài viết, Dân Làm Báo buộc sẽ phải xóa bỏ. Mong các bạn cùng hưởng ứng.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 2)


    Đặng Chí Hùng -


    Để tiếp nối Phần 1 của Bản cáo trạng đă đăng tạiDanlambao, tôi xin gửi đến bạn đọc bài số 2 này để bạn đọc tiếp tục t́m hiểu và góp ư về những sự thật cần phải cho thế giới thấy được tội ác cũng như bản chất tàn độc và dối trá của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đối với dân tộc Việt Nam.



    Giai đoạn 02/09/1945-02/09/1969:

    I. Gây chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa là một nước có chủ quyền được Liên Hiệp Quốc công nhận

    Kính thưa quư vị!

    Do bối cảnh lịch sử diễn ra sau thế chiến lần thứ 2 và sự trỗi dậy bành trướng của chủ nghĩa cộng sản nên tại Việt Nam chúng tôi tồn tại hai nước theo hiệp định Geneve 1954. Đó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (miền Bắc) và Việt Nam Cộng Ḥa (miền Nam).

    Việt Nam Cộng Ḥa một quốc gia đă được thành lập và đó là một quốc gia độc lập được quốc tế công nhận. Điều này được minh chứng qua các bằng chứng lịch sử và tài liệu hết sức rơ nét và cụ thể sau đây:

    a. Theo như tuyên bố của chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) về sự độc lập và dân chủ của ḿnh th́ thực tế VNCH đă được 56 quốc gia trên thế giới công nhận trong khi đó th́ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) lúc đó chỉ được có 10 nước cộng sản công nhận. Hăy đọc đoạn sau:

    “Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đă đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xă hội, đă được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đă có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy tŕ quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đă đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đă được tăng đáng kể: Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài G̣n được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.” - (Tuyên Bố Của VNCH Về V/Đ Thống Nhất Đất Nước, Nguyễn Hội)

    b. Trong cuốn sách “Chỉ dẫn lịch sử” của nhà xuất bản quốc gia Liên Xô do nhóm tác giả tại viện nghiên cứu lịch sư Liên Bang Xô Viết tại trang 42 có viết:

    “Việt Nam Cộng Ḥa là một Quốc Gia Hợp Pháp được công nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới qua Hiệp Định Genève 1954, đă từng có quy chế là một quốc gia quan sát viên của Liên Hiệp Quốc. Từ năm 1954 cho đến năm 1975.”

    Như vậy ta có thể thấy được rằng ngay người đàn anh cộng sản Liên Xô của cộng sản Việt Nam cũng phải công nhận tính chính danh và hợp pháp của nước Việt Nam Cộng Ḥa mà bất cứ nước nào cũng không có quyền xâm phạm.

    c. Trong tài liệu của Liên Hiệp Quốc lưu chiểu tháng 2/1998 có ghi tại danh sách thành viên mục 3 trang 236 về Việt Nam Cộng Ḥa có đoạn: “84 quốc gia trên thế giới đă từng đặt nền tảng bang giao với Nước Việt Nam Cộng Ḥa từ 1954-1975.”

    d. Tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xă hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp – Trong cuốn sách của ḿnh mang tên “Đối nghịch” ở trang 236 c̣n viết:

    “Về cơ bản chính quyền nước Việt Nam Cộng Ḥa là một chính quyền hợp hiến được Liên hợp quốc và đa phần các nước công nhận, tuy nhiên những nước thân Liên Xô và Trung Hoa không công nhận điều đó v́ họ không muốn Việt Nam có bàn chân của Mỹ và đống minh…”

    Thưa quư vị, đây chỉ là 4 trong vô vàn tài liệu mà chúng tôi cũng có thể cung cấp thêm để chứng minh Việt Nam Cộng Ḥa là một quốc gia hợp hiến và đă được quốc tế công nhận.

    Tuy nhiên đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh đă mượn vũ khí của Trung cộng và Liên Xô để tiến đánh xâm chiếm một quốc gia độc lập khác nhằm áp dụng tư tưởng cộng sản độc tài cho cả đất nước Việt Nam chúng tôi.

    Điều này minh chứng bằng các luận chứng mà chúng tôi xin gửi tới quư vị ngay sau đây. Việc xâm chiếm một quốc gia độc lập có chủ quyền khác là vi phạm hiến chương Liên Hiệp Quốc và quy tắc ứng xử quốc tế. Đề nghị quư vị xem xét các luận chứng tôi nêu ra để có được sự công b́nh nhất cho nhân dân Việt Nam nói chung và trả lại sự thật cho lịch sử Việt Nam chúng tôi.

    Kính thưa quư vị!

    Ngoài việc VNCH được quốc tế công nhận là một quốc gia độc lập ra th́ bản thân VNCH cũng không chủ trương tấn công VNDCCH mà tập trung vào việc xây dựng kinh tế và đời sống cho nhân dân.

    Bằng chứng là đời sống nhân dân được nâng cao và cải thiện một cách đáng kể, mọi mặt từ chính trị, kinh tế, chính trị… được phát triển đáp ứng nhu cầu dân sinh trong nước. Quư vị có thể tham khảo những con số trích dẫn cụ thể về mọi mặt qua sự so sánh và liệt kê tại Danlambao: “Những sự thật cần phải biết – Bài 2 – VNCH nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người”

    Kính thưa quư vị!

    VNDCCH dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản không chấp nhận một thực tế là nhân dân Việt Nam cần phải được tự do lựa chọn thể chế chính trị cho ḿnh. Chính v́ muốn áp đặt chế độ cộng sản độc tài nên ông Hồ và đảng cộng sản đă theo lệnh và nhận sự chi viện của Trung cộng để gây chiến phi nghĩa nhằm xâm lược một quốc gia khác đó là VNCH.

    1. Trong “Những sự thật không thể chối bỏ – Bài 9 – Hồ Chí Minh và âm mưu Hán hóa VN”khi tôi đă giới thiệu về tác giả Trung cộng - Hà Cẩn (Viện Văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi NXB Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 198 nói về chiến Tranh Việt Nam. Đoạn đó tạm dịch như sau:



    “Với sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung Hoa mà đứng đầu là Mao chủ tịch th́ nhân dân miền Bắc đủ sức chi viện và lănh đạo các cuộc đánh bom, gài ḿn, nổi dậy tại Miền Nam của ông Diệm.”

    Như vậy trên thực tế Trung cộng đă chỉ đạo và tài trợ cho VNDCCH vũ khí để họ tiếp tục “lănh đạo” nhân dân Miền Nam “khủng bố” và nổi dậy thông qua các hành động đặt bom, cài ḿn mà chính Hà Cẩn nêu đích danh.

    Những hành động đó được gọi là ǵ? Là khủng bố chứ không thể khác. Một nhà nước đi kích động việc khủng bố và xâm lăng nước khác là hoàn toàn phi pháp. Đảng cộng sản Việt Nam biện hộ bằng luận điệu “Chống Mỹ cứu nước” nhưng điều này hoàn toàn không đúng. V́ bằng các tài liệu ngay sau đây của chính phía cộng sản đă cho thấy điều này là mâu thuẫn.

    2. Trên trang chính dư địa chí của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tại links:

    http://www3.thuathienhue.gov.vn/Geog...x?sel=3&id=279. Có đoạn viết:

    “Tháng 11/1957, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp tại bản Ấp Rùng, xă Thượng Long miền Tây Thừa Thiên Huế. Hội nghị đă quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành căn cứ cách mạng. Tỉnh ủy bố trí cán bộ từ đồng bằng lên, cùng với một số cán bộ đă cắm bản từ trước kiên tŕ bám trụ. Dưới sự lănh đạo của Đảng, đồng bào nhanh chóng giác ngộ, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ bằng vũ khí thô sơ đă nảy sinh trong phong trào quần chúng.

    Giữa lúc phong trào cách mạng miền núi Thừa Thiên Huế đang có bước chuyển biến quan trọng th́ ánh sáng Nghị quyết 15 (1/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) về đường lối cách mạng miền Nam được truyền đến Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Tỉnh ủy khẩn trương tổ chức học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương. Một trong những nhiệm vụ chiến lược của Nghị quyết Trung ương 15 là việc mở đường 559 – đường Hồ Chí Minh. Miền núi Thừa Thiên Huế với con đường 559 nối liền mạch máu với cả nước từng bước trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng.”

    Cũng trên trang này ở bài viết khác có những đoạn:

    “Sau năm 1963, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tích cực, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt nhằm đưa phong trào lên một thời kỳ mới, thời kỳ phá ḱm, giành dân, đưa phong trào đồng bằng lên thế đấu tranh chính trị, quân sự, tiến công địch bằng cả ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận.

    Đầu năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trương: “Phát huy sức mạnh của quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự sụp đổ của chính quyền Sài G̣n mà tổ chức lực lượng, tiến công mạnh mẽ, đều khắp, làm tan ră, tê liệt chính trị, tư tưởng và tổ chức, phá ấp chiến lược, chuẩn bị thiết thực cho việc phá thế ḱm kẹp của địch”. Thực hiện chủ trương trên, nhân dân Thừa Thiên Huế bước vào phong trào đồng khởi đồng bằng năm 1964.

    Đến mồng 5 rạng ngày 6/7/1964, phong trào đồng khởi diễn ra khắp vùng đồng bằng trong tỉnh. Ở phía Bắc tỉnh, nhân dân nhiều xă nổi dậy phối hợp với bộ đội và đội công tác vơ trang tiến hành tấn công địch, phá ấp chiến lược, xóa bỏ ngụy quyền, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự quản của nhân dân. Phong trào Đồng Khởi đă mở ra một vùng giải phóng rộng lớn gồm nhiều xă: Phong Sơn, Phong An, Phong Thái, Phong Ḥa, Phong B́nh, Phong Chương (Phong Điền), Phong Nhiêu, Quảng Thái (Quảng Điền) và Hương Vân, Hương Thọ, Hương Hồ, Hương Mai, Hương Thái, Hương B́nh, Hương Thạnh (Hương Trà). Ở phía Nam, lực lượng vũ trang phối hợp với nhân dân tấn công và nổi dậy giải phóng các xă Phú Đa, Phú Hồ và một số thôn của Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Xuân, Phú Lương (Phú Vang); Lộc An, Lộc Tụ (Phú Lộc); nhiều thôn xă của xă Thủy Bằng, Thủy Thanh, Thủy Phương (Hương Thủy)…”

    (links: http://www3.thuathienhue.gov.vn/Geog...x?sel=3&id=280)

    Qua hai đoạn trích trên đây cho thấy xuyên suốt quá tŕnh trước năm 1965 mặc dù chưa hề có quân Mỹ tại VNCH và đặc biệt là những chính sách của nền Đệ nhất Cộng ḥa như “Người cày có ruộng” hay “Cải cách kinh tế” đă làm cho đời sống nhân dân đi dần vào ổn định th́ hành động của đảng cộng sản chỉ đạo hoàn toàn là dùng bạo lực khủng bố nhân dân, chính quyền và xâm phạm quyền tụ chủ của đất nước khác. Những kích động bạo lực đó minh chứng cho chủ trương sắt máu của đảng cộng sản.

    3. Cuốn sách “Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam” của nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tái bản năm 2000 có những đoạn:

    “Trong giai đoạn 1957-1959, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn. Hàng loạt cơ sở của ta bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm phát hiện và bắt giữ. Tháng 1/1959, diễn ra hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam, đă quyết định cho phép lực lượng miền Nam sử dụng bạo lực để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm.

    Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang để lật đổ chính quyền Mỹ-Diệm, cao trào diễn ra ở các địa phương: Bắc Ái (02/1959), Trà Bồng (08/1959)… phong trào lan nhanh ra khắp miền Nam, đặc biệt là phong trào Đồng khởi ở tỉnh Bến Tre.

    Điều này cũng được chính quyền cộng sản hiện nay công nhận qua đoạn trích trên báo của chính quyền tỉnh Bến Tre:

    “Tháng 12-1959, Hội nghị đại biểu các tỉnh miền Trung Nam Bộ được triệu tập để truyền đạt Nghị quyết 15 của Trung ương và bàn chủ trương chuyển hướng phong trào. Đêm 2-1-1960, Hội nghị cán bộ lănh đạo Bến Tre do Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ Cày để truyền đạt nghị quyết của Trung ương và bàn kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá thế kiềm kẹp của địch. Nghị quyết của hội nghị là phát động một tuần lễ nổi dậy đồng loạt trong tĩnh từ 17-1-1960 đến 25-1-1960. Ngày 17-1-1960, theo kế hoạch đă định, cuộc Đồng khởi nổ ra thắng lợi đúng như dự kiến tại 3 xă Định Thủy, Phước Hiệp, B́nh Khánh (Mỏ Cày).”
    http://www.bentre.gov.vn/index.php?o...=301&Itemid=47

    Nhưng trên thực tế th́ vào thời điểm đó, trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa chưa hề có bóng dáng người lính Mỹ tham chiến nào mà chỉ là những cố vấn quân sự để xây dựng quân đội một quốc gia mới thành lập cũng như các nhân viên của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ phát triển hạ tầng cơ sở, y tê và giáo dục… Vậy mà người cộng sản đă có hành động là kích động khủng bố nhân dân nước Việt Nam Cộng Ḥa và âm mưu gây chiến để có thể nhuộm đỏ đất nước. Để thực hiện âm mưu này người cộng sản thú nhận.

    Để kết hợp với sự kiện “Đồng Khởi” được kích động bởi Trung ương đảng cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa th́ đảng cộng sản cũng tiến hành công cuộc xâm chiếm chủ quyền một nước khác một cách bất hợp pháp một cách có hệ thống. Họ cho thành lập đoàn 559 khi chưa có bóng dáng quân Mỹ tại Việt Nam Cộng Ḥa với khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước”.

    Đây là nguyên văn bài viết trên trang của ban tuyên giáo trung ương VNDCCH tại nguồn dẫn:
    http://www.tuyengiao.vn/Home/Viet-La...-biet-viet-lao

    “Ngày 19-5-1959, “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” – Đoàn 559 ra đời, với nhiệm vụ mở đường, đưa đón cán bộ, bộ đội, vũ khí, đạn được, lương thực… từ miền Bắc vào miền Nam và vận chuyển vật chất giúp nước bạn Lào. Được khai sinh vào ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5), đường mang tên “Đường Hồ Chí Minh”.”

    Như vậy đảng cộng sản đă chủ trương “đồng khởi” kết hợp với xâm chiếm VNCH – một quốc gia hợp pháp ngay từ khi quân Mỹ c̣n ở tận đâu đó bên nhà của họ. Trên thực tế người Mỹ trước năm 1965 chỉ vào VNCH dưới dạng cố vấn xây dựng quân đội cũng như hoạt động nhân đạo. (Xem “Những sự thật cần phải biết” – Bài 2 – VNCH – Nạn nhân của chính sách ngậm máu phun người).

    Sự gây chiến xuất phát từ âm mưu nắm quyền cai trị nhân dân Việt Nam hết sức độc tài của đảng cộng sản Việt Nam là có âm mưu và hệ thống được sắp đặt t́nh vi. Bằng các biện pháp tuyên truyền mị dân mà nhân dân Việt Nam cho đến nay chúng tôi mới thấu hiểu hết được các âm mưu đó. Chính v́ vậy chúng tôi tha thiết mong mỏi quư vị xem xét các bằng chứng tội ác cho thấy những ǵ đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh đă làm là hết sức độc ác, vô nhân đạo và vi phạm hiến chương quốc tế.



    Cuộc chiến xuất phát từ những người cộng sản đem lại nhiều hậu quả tang thương cho nhân dân Việt Nam đến ngày nay. Những điều đó xin quư vị đọc lại những ǵ chúng tôi tổng hợp sơ bộ về các cuộc khủng bố nhằm vào nhân dân Việt Nam Cộng Ḥa tại bài viết: Những sự thật cần phải biết – Nổi dậy hay khủng bố?

    Bên cạnh đó, những con số về hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược một quốc gia có chủ quyền khác c̣n nghiêm trọng hơn rất nhiều. Chính đảng cộng sản Việt Nam cũng đă thừa nhận việc Mỹ hoàn toàn không có khả năng can thiệp trực tiếp vào Việt Nam sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Tại sao VNDCCH lại phải bán HS-TS cho Trung cộng (1958) để gây chiến? V́ đó thực chất là một cuộc chiến phi nghĩa gây đau thương cho dân tộc Việt Nam. Bằng chứng cho thấy đảng cộng sản công nhận trước 1965 th́ Mỹ không có khả năng trực tiếp can thiệp quân sự vào Việt Nam được thể hiện trong cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”(NXb Sự thật – Cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) có viết:

    “Sự thật là sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ không có khả năng can thiệp quân sự trực tiếp vào Đông Dương”

    (link: http://sachhiem.net/LICHSU/NXB_ST/NXBSuThat_2.php)

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 2)
    P2


    Kính thưa quư vị!

    Thực chất người Mỹ chỉ vào Việt Nam sau khi cộng sản đă khai chiến và họ vào với mục đích bảo vệ quyền độc lập của VNCH đang tiến hành dân chủ hóa. Và chúng tôi cũng thấy rằng dù đảng cộng sản rêu rao “Mỹ xâm lược” Việt Nam nhưng chúng tôi không thấy Mỹ lấy một tấc đất, một ḥn đảo, hay một cái mỏ Boxit nào như Trung cộng đang làm? Đó là minh chứng cho sự ngụy biện của đảng cộng sản cho sự hiếu chiến của họ.

    Thứ nhất, trong bài “Những sự thật không thể chối bỏ – Phần 6” có đề cập đến 2 bức thư mà Hồ Chí Minh gửi Stalin để xin chỉ thị về Cải Cách Ruộng Đất và xin vũ khí. Hai bức thư được viết năm 1952 (đă post bản in và link kiểm chứng). Vấn đề được đặt ra khi là năm 1952 không có cuộc chiến nào lớn với Pháp và tại sao tôi khẳng định việc xin vũ khí này lại liên quan đến cuộc chiến sau này với VNCH th́ xin được tŕnh bày như sau:

    Đầu tiên chúng ta đều biết rằng thời điểm 1952, Việt Minh chỉ đối đầu với Pháp tuy nhiên không có những cuộc chiến lớn xảy ra nhưng việc yêu cầu Liên Xô cấp vũ khí đơn thuần chỉ là để phục vụ cuộc chiến Việt-Pháp.

    Nhưng phát hiện từ một tài liệu của Liên Xô đă chứng minh sự kiện xin vũ khí của ông Hồ không đơn giản chỉ là để đánh nhau với Pháp mà c̣n là chuẩn bị cho t́nh huống đánh nhau với Mỹ. Như chúng ta đă biết việc Trung cộng mong muốn có cuộc chiến Việt-Pháp nhằm triệt tiêu nội lực dân tộc (Những sự thật không thể chối bỏ – Bài 10 – Triệt tiêu nội lực dân tộc) và lấy lại đất người Pháp dành cho Việt Nam (xem mục A). Nhưng ở bài 10 đă cho thấy Trung cộng không dám chắc về một cuộc chiến mà chiến thắng hoàn toàn thuộc về Việt Minh nên họ đă chuẩn bị cho một cuộc chiến khác nếu Mỹ nhảy vào Việt Nam. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” - xuất bản năm 1999 bởi nhóm tác giả đă từng hoạt động tại KGB bởi nhà xuất bản quân đội Liên Bang Nga nói về hoạt động t́nh báo của Liên Xô có đoạn trang 126:

    “Khả năng rất lớn là Mỹ sẽ có vai tṛ quan trọng trong việc thiết lập ḥa b́nh ở Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Trung quốc cũng hiểu điều này. Chính v́ thế Liên Xô phải chuẩn bị cho t́nh huống xấu nhất là chủ nghĩa tư bản ngự trị tại nơi mà Liên Xô đang mong muốn xây dựng chủ nghĩa Xă hội…”

    Như vậy thời điểm mà ông Hồ viết thư xin vũ khí 1952 th́ Liên Xô đă tiên đoán Mỹ có khả năng phải can thiệp vào Việt Nam.

    Và cuốn sách cũng nói lên sự kiện liên quan đến hai bức thư xin vũ khí của ông Hồ:

    “Đồng Chí Stalin đă thông tin cho Việt Minh thông qua bộ ngoại giao Liên Xô để Việt Minh có đề xuất trong việc chuẩn bị tinh thần chiến đấu lâu dài và công việc chuẩn bị cho Cải cách ruộng đất…” (Trích trang 129).

    Như vậy qua hai dẫn chứng cho thấy Liên Xô đă chỉ đạo cho ông Hồ phải chuẩn bị ngăn cản Mỹ bằng mọi cách nếu sau này xảy ra, và việc ông Hồ xin vũ khí cũng nằm trong kế hoạch đó. Và qua đây cho thấy sự hiếu chiến của phe cộng sản thông qua sự thể hiện của ông Hồ và đảng cộng sản để triệt tiêu ư thức hệ đối lập mà ư thức hệ đó lại là ư thức hệ tự do, dân chủ và nhân bản.

    Thứ hai, thật ra, sau Hiệp ước Genève ngày 20-07-54, Việt Nam Cộng Ḥa đă được hưởng vài năm thanh b́nh thịnh trị. Cuộc chiến chỉ bắt đầu tái phát với một quy mô khá rộng lớn vào ngày tỉnh Phước Thành (cũ) bị quân đội cộng sản tấn công với sự hy sinh của vị Thiếu tá Tỉnh trưởng và căn cứ Trảng Sụp của Trung đoàn 32, thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh bị VC tấn công vào đêm 25-01-60 với sự hy sinh của hơn 20 quân nhân VNCH và sự thất thoát trên 1,000 vũ khí (trích Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi (Hồi kư I), Văn Hóa, Houston, Texas 2002, tr. 349, 351.) (“Năm 1959, sư đoàn (SD) khinh chiến 13, đóng tại Bến Kéo, Tây Ninh và SĐ 11 đóng ở Hậu Giang được sáp nhập thành SĐ 21 dă chiến. Trung đoàn (TrĐ) 39 của SĐ 13 cũ sáp nhập vào TrĐ 32 của SĐ 11 thành TrĐ 32 của SĐ 21 tân lập”).

    Chính v́ vậy có thể tạm gọi cuộc nội chiến đó là “Cuộc Chiến 1955-1975” mà không là “Cuộc Chiến 1960-1975”? Sau Hiệp ước Genève, Việt Minh tiếp tục cuộc chiến một cách âm thầm bằng cách chôn dấu vũ khí, đạn dược và gài cán bộ, cán binh lại Miền Nam VNCH để tiếp tục cuộc chiến. Theo ước tính của Hoa Kỳ và Chính phủ Quốc gia, có khoảng từ 5000 đến 10000 người được huấn luyện và cài lại Miền Nam với tư cách cán bộ (trích trong cuốn sách của CIA và chính phủ Mỹ thuộc loại mật: The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, “Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960”, Beacon Press, Boston, 1971, tr. 242-269).

    Nhưng theo một tài liệu do đảng cộng sản ấn hành, Việt Minh đă để lại Miền Nam 60,000 đảng viên (trích trong Tổng Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học, Hà Nội, 1996):

    “Cán bộ và đảng viên được đặt dưới quyền lănh đạo của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ. Vào ngày cuối cùng của thời hạn tập kết ở Cà Mau, sau khi chúng ta đánh lừa địch bằng cách giả bộ lên tàu tập kết, đồng chí Lê Duẩn đă t́m cách rời khỏi tàu vào lúc nửa đêm để ở lại”.

    Như vậy, rơ ràng Miền Bắc đă chuẩn bị tấn công Miền Nam ngay khi Hiệp ước Genève chưa kịp ráo mực, chứ không phải v́ Miền Nam không chấp nhận tổng tuyển cử vào năm 1956 hoặc v́ có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Miền Nam mà đang cộng sản luôn t́m cách tuyên truyền mị dân.

    Thứ ba, trong bộ môn lịch sử chương tŕnh lớp 12, đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền:

    “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

    Nhưng thực chất th́ sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đ́nh Diệm kư Hiệp ước quân sự với Mỹ, th́ miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá…

    Người Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô Đ́nh Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Điều này ai cũng biết cả. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH (xin xem lại - Những sự thật không thể chối bỏ – Bài 3 – Bác, đảng đă bán những ǵ và để làm ǵ?). Vậy th́ vào thời điểm 20/12/1960, làm ǵ có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm ǵ đă có ai xâm lược mà chống? Đảng cộng sản phải chống ai, chống cái ǵ vào năm 1960? Chính sự mâu thuẫn trong lời nói của cộng sản cũng cho thấy bản chất nói dối, lật lọng trong việc kích động chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam.

    Thứ tư, những dữ kiện trong cuốn sách “MAO: The Unknown Story” được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House của tác giả Jung Chang và Jon Halliday. Jung Chang là một hồng vệ binh của Trung cộng, (xem lại bài viết của tác giả Truyền Tấn tại links: http://danlambaovn.blogspot.com/2012...bai-viet-nhung. html#.UCICfYRZNWs). Xin phép được trích lại đoạn trong cuốn sách trang 470 trích:

    “Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đă có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo t́nh huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam, ngay cả có thể xâm chiếm miền Bắc giáp giới với Trung quốc. Được như vậy, nếu Mỹ oanh kích những căn cứ nguyên tử của ông ta, bộ binh Trung quốc sẽ tràn vào Việt Nam và bao trùm quân Mỹ như đă xảy ra ở chiến tranh Triều Tiên. Để thực hiện kế hoạch nầy, năm 1964 Mao thúc ép CSVN đẩy mạnh chiến tranh Đông Dương. Mao huấn thị Bắc Việt tránh đụng độ lớn, và cào xới khắp diện địa… biến thành cuộc chiến rộng lớn là tốt nhất. Mao bảo Bắc Việt phải đưa thêm Bộ Đội vào miền Nam, và đừng sợ sự can thiệp của Mỹ. Ông ta nói, cùng lắm là như chiến tranh Triều Tiên. Bộ đội Trung Cộng đă sẵn sàng. Nếu Mỹ tấn công Bắc Việt, Bộ Đội Trung Cộng sẽ tràn qua ngay, họ đang muốn có chiến tranh.”

    Như vậy những phần trích dẫn quư vị sẽ thấy 2 điều chính Mao chỉ huy ông Hồ đưa quân gây chiến với Miền Nam và trên thực tế dẫn chứng thứ 4 của tôi ở trên đă chứng minh Mao đă đưa quân vào Việt Nam chiến đấu cho thấy: Hồ Chí Minh đă được lệnh của Mao đem quân gây chiến với miền Nam.

    Kính thưa quư vị!

    Chính v́ theo đuổi chính sách khủng bố và chiến tranh leo thang nhiều năm nên con số thương vong cũng như tổn hại sau cuộc chiến xâm lược phi nghĩa của VNDCCH đối với VNCH là những con số khủng khiếp mà tôi xin gửi tới quư vị sau đây.

    1. Quân đội VNDCCH dưới sự chỉ đạo của ông Hồ và đảng cộng sản đă gây ra các cuộc khủng bố, pháo kích gây thương vong cho dân thường mà hậu quả của nó là hết sức tàn khốc đối với nhân dân VNCH. Xin quư vị xem phần tổng kết trong bài viết “Những sự thật cần phải biết – Bài 3 – Nổi dậy hay khủng bố”.

    2. Ngoài ra c̣n có cuộc tắm máu nhân dân vô tội trong cuộc chiến phi nghĩa mà VNDCCH gây ra đối với nhân dân VNCH trong tết Mậu Thân 1968 mà ở phần II sau đây tôi xin gửi tới quư vị tội ác của ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam.



    3. Tổng kết cuộc chiến phi nghĩa mà ông Hồ và đảng cộng sản đă gây ra cho chúng ta những con số khủng khiếp mà tôi xin gửi tới để quư vị tham khảo sau đây.

    Thứ nhất, Theo Wiki:
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB...%E1%BB%87t_Nam)

    “Chiến tranh Việt Nam đă gây ra cái chết của từ 2 đến 5 triệu người Việt (tùy từng nguồn khác nhau). Trong số các nước đồng minh của Việt Nam Cộng ḥa, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn quốc bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351 chết và bị thương; c̣n Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể…

    Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là: 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân vẫn mất tích (chưa t́m được xác) 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.

    Theo tư liệu giải mă của Chính phủ Việt Nam năm 1995 cũng như sự xác nhận của các viên chức chính phủ từng tham gia vào cuộc chiến. Trong một phim tài liệu tŕnh chiếu trên kênh truyền h́nh The History Channel, có rất nhiều viên chức của Việt Nam trong các cuộc phỏng vấn đă xác nhận con số gần đây từ tài liệu giải mă, và số chiến binh tử trận của Quân đội Nhân dân Việt Nam (hay c̣n gọi là quân Giải phóng Miền Nam) vào khoảng 1,1 triệu, bao gồm 300.000 mất tích. Cần lưu ư, số thiệt mạng không chỉ bao gồm số thiệt mạng trong chiến đấu, mà c̣n bao gồm số thiệt mạng do bệnh tật, tai nạn, kiệt sức…, và cũng không chỉ gồm lính chiến đấu mà c̣n gồm bộ phận không tham gia chiến đấu như cán bộ dân chính, cơ sở chính trị ngầm, tổ chức dân vận…

    Quân đội Mỹ trước đây ước đoán hành động quân sự của họ đă giết chết khoảng 500.000 quân đối phương, trong lúc 400.000 bị tiêu diệt bởi các lực lượng đồng minh (900.000 tổng số)…

    Quân lực VNCH cũng tổn thất 250.000-316.000 tử trận hoặc mất tích và 1.170.000 bị thương.

    Con số 220.357 tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc pḥng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 316.000 tử trận.

    Về dân sự 900.000 đến 4.000.000 chết: Bộ Lao động Thương binh và Xă hội Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995, hai triệu thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đă chết khoảng giữa năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả của các chiến dịch không quân của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời.”

    Thứ hai, theo tác giả Marc Leepson, ed, Webster’s New World Dictionary of the Vietnam War. New York: Simon and Schuster, 1999. – th́ cũng có khoảng 4,5 triệu người Việt cả hai miền bị chết cho thấy tính chất phi nghĩa của cuộc chiến mà VNDCCH đă gây ra tổn hại như thế nào với nhân dân chúng tôi.

    Thứ ba, “Một bước đi lớn” - bởi nhóm tác giả đă từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động t́nh báo của Liên Xô ở trang 400 có viết:

    “Hơn 4 triệu sinh mạng người Việt đă đổ xuống v́ sự tranh giành cho địa vị của đảng cộng sản và chế độ do người Mỹ giúp sức…”

    Thứ tư, trong bản tổng kết của đảng cộng sản Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam được thông qua bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam ngày 23/09/1978 đă cho biết có khoảng 4,7 triệu người dân Việt chúng tôi nằm xuống trong cuộc chiến 10.000 ngày.

    II. Tội ác tết Mậu Thân 1968 của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản


    Kính thưa quư vị!

    Một trong những tội ác thuộc loại diệt chủng mà đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ gây ra cho nhân dân chúng tôi đó là giết hại gần 5000 người dân một cách man rợ bằng cách chôn sống, chặt đầu…

    Mời quư vị đọc các tài liệu mà chúng tôi đă trích dẫn trong bài viết “Những sự thật không thể chối bỏ – Bài 14 – Ai làm cho Huế đau thương” để thấy tội ác của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân Việt Nam là cực kỳ to lớn trong vô vàn tội ác chiến tranh mà tôi đă nêu lên ở trên.

    1. Người dân Huế bị giết hại vô tội:

    Đầu tiên, theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970 trong cuốn sách “Vietcong Strategy of Terror”:

    “Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn c̣n mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:


    Tổng số dân sự tử vong: 7.600 – chết lẫn mất tích


    Chiến trường: 1.900 bị thương v́ chiến cuộc; 944 thường dân chết v́ chiến cuộc


    Nạn nhân của những vụ giết tập thể:

    1.173 – số tử thi t́m trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968

    809 – số tử thi t́m trong đợt nh́, kể cả t́m thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969

    428 – số tử thi t́m trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) – tháng 9 năm 1969.

    300 – số tử thi t́m trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969

    100 – số tử thi t́m thấy các nơi trong năm 1969

    1946 – mất tích (tính đến năm 1970)”.

    Qua đó có thể thấy được tính chất dă man của cộng sản của nước VNDCCH đối với nhân dân VNCH. Tuy nhiên bên cạnh con số của Douglas Pikes cũng cần phải phân tích sự xuất hiện của hai ư kiến khác thuộc về phía những người Mỹ.

    Trích dẫn từ wiki – (http://vi.wikipedia.org/wiki/Thảm_sá...#7853;u_Thân):


  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 2)
    P3


    Theo Gareth Porter (“The 1968 ‘Hue Massacre”. Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974.), một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di dân và An sinh Xă hội Việt Nam Cộng ḥa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người[5], chứ không phải các con số 944 và 7.600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa đưa ra[6]. (Các con số 944 và 7.600 này đă được Pike Douglas dùng trong thống kê của ḿnh.)

    Về các con số cụ thể tại các địa điểm khai quật, Gareth Porter[4] viết:

    “… tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với b́nh quân 9 tử thi mỗi mộ. Nhưng khi Steward Harris [phóng viên Thời báo Luân Đôn] được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150. Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này c̣n làm giảm tổng số hơn nữa.”.

    Cũng theo Gareth Porter, Alje Vennema [7], một bác sỹ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngăi và đă t́nh cờ có mặt tại Bệnh viện Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân, nói tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đă được tuyên bố chính thức.

    Nếu để lấy các con số của Gareth Porter và Alje Vennema để bào chữa cho tội ác của cộng sản th́ cũng phải nhận thấy rằng: thực tế Porter và Vennema chỉ nói đến con số của 1 địa điểm là trường Trung học Gia Hội và bệnh Viện Huế. Cứ tạm coi con số đó là đúng đi chăng nữa th́ với hàng chục điểm nhân dân bị chôn sống, chặt đầu đi th́ con số lên tới hàng ngh́n có đúng không? Có là tội ác không? Hơn thế nữa nhưng quan điểm của Porter và Vennema dựa trên những ǵ họ nh́n thấy ngay sau tết nên thống kê con số của họ không thể chính xác bằng Pikes khi anh này nắm những con số của chính phủ Mỹ và được thống kê tận cho đến năm 1970.

    Thứ hai, phóng viên Thiện Giao của đài RFA qua bài “Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước” th́ theo ông Nguyễn Lư Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại:

    “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm t́m được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia đ́nh Nạn nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đ́nh kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4.000 gia đ́nh. Người ta ước tính vào khoảng 6.000 người. Có nhà báo ước tính 5.000 người. Chúng tôi cho con số 5.000 đến 6.000 là không sai lệch lắm đâu…”

    “Đỉnh điểm là Khe Đá Mài, thuộc núi Đ́nh Môn Kim Ngọc, tại đây khoảng 400 bộ hài cốt đă được t́m thấy. Những hài cốt t́m thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, xă Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.”

    “Cộng Sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15-16 tuổi đến ông già 60-70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói”.

    Như vậy con số gần 5000 ngh́n người chết oan đă được nói tới cũng như thêm khẳng định một tội ác của đảng cộng sản.

    Thứ ba, Theo ông Nguyễn Phúc Liên Thành khi trả lời phỏng vấn của RFA tháng 1-2008, thời điểm mậu thân 1968 tại Huế ông đang giữ cương vị Phó trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên th́:

    “Những báo cáo của các cuộc Cảnh sát các xă thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xă báo cáo, khoảng 5.300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên”…

    Và qua đây con số xoay quanh 5000 nạn nhân lại được đề cập đến như một sự khẳng định về tội ác của cộng sản.

    Thứ tư, Theo phúc tŕnh của chính phủ Hoa Kỳ tại cuốn sách có nội dung mật “The Pentagons papers” trang 128 có viết:

    “Sự thật ước tính có khoảng từ 4600 đến 5200 người bị chặt đầu hoặc chôn sống trong thảm sát ở Huế năm 1968. Đa phần họ là nhân viên hành chính và dân thường…”

    Lại thêm một tài liệu khẳng định số người lên đến hàng 4000-5000 người chết oan bởi bàn tay sắt máu của cộng sản độc tài.

    Tuy nhiên nếu với chỉ 4 dẫn chứng trên th́ chưa đủ sức nặng để khẳng định tội ác tày đ́nh của đảng cộng sản. Họ sẽ cho rằng bài viết của tôi chỉ đưa ra những con số của phe “Chống cộng”. Vậy xin nêu ra đây những con số khủng khiếp mà “phe của họ” đă nói để thấy sự thật kinh khủng thế nào.

    Thứ năm, trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của J. Leroy - một nhà hoạt động xă hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp – đă có những phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các đảng phái khác. Cuốn sách có dẫn chứng về cuộc chiến Việt Nam như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ư thức hệ. Trong trang 237 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội dung:

    “Việc coi đối thủ về ư thức chính trị là kẻ thù đôi khi bị đẩy đi quá xa. Cuộc chiến ở Việt Nam là một minh chứng. Nói riêng về cuộc sự kiện thảm sát ở Huế – thành phố miền Trung Việt Nam năm 1968 là một nỗi đau lớn. Có khoảng 5000 ngh́n người bị chết oan uổng dù họ chỉ là dân thường đi làm công ăn lương cho chính quyền cộng ḥa. Người Miền Bắc coi những người cùng ḍng máu này là những kẻ thù địch. Thật oan cho họ khi họ không phải là những người cầm súng hoặc tham gia gián tiếp vào các hành động quân sự…”

    Vậy người cộng sản Pháp này nói ǵ? Ông ta đă nói đến con số khoảng 5000 người chết oan do cộng sản gây ra. Sự thật thật khủng khiếp.

    Thứ 6, trở lại “Những Sự Thật Không Thể Chối Bỏ – Bài 9 – Hồ Chí Minh và âm mưu Hán hóa toàn diện VN” khi tôi đă giới thiệu về tác giả Trung cộng Hà Cẩn (Viện Văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 202 nói về chiến Tranh Việt Nam. Đoạn đó có đoạn tạm dịch như sau:

    “Với khoảng 4.900 người bị chết oan trong cuộc tổng tiến công vào Huế mùa xuân năm 1968, uy tín của đảng cộng sản và mặt trận giải phóng Miền Nam bị ảnh hưởng rất nặng nề. Việc đổ tội cho cấp dưới không đem lại hiệu quả cao…”

    Lại một cuốn sách của người cộng sản Trung Quốc thân tín với đảng cộng sản Việt Nam vạch mặt chính những đồng chí của ḿnh. Thật là khủng khiếp.

    Thứ 7, trên tờ tạp chí Quân Đội – báo của quân đội cộng sản số 21, năm 1968 trang 03 có bài viết của tác giả Văn B́nh ca ngợi chiến thắng của cộng sản trong tết Mậu Thân:

    “Chúng ta đă đánh nhanh, thắng nhanh tiêu diệt được hàng ngh́n tên địch để giải phóng Huế, Sài G̣n. Tại mặt trận Huế, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đưa ra xét xử công khai hàng ngh́n tên có tội ác với nhân dân…”

    Chúng ta thấy ǵ ở bài viết? Tác giả của đảng không dám viết thẳng về số người bị giết oan là bao nhiêu nhưng với con số hàng ngh́n th́ những nghi vấn và những con số khách quan trên kia là hoàn toàn có cơ sở v́ cộng sản luôn giấu nhẹm tội ác của ḿnh.

    Thứ 8, rất nhiều tài liệu nước ngoài đă được giải mật và các tư liệu nước ngoài cho các quư vị và chúng tôi thấy những sự thật kinh hoàng mà cần có bàn tay can thiệp và lên án của cộng đồng quốc tế. Có nhiều tác giả đă viết về sự kiện này, xin gửi tới các quư vị các bài viết liên quan đến sự thật này các bài viết của nhiều tác giả đăng trên Danlambao:
    - Chuyên đề Mậu Thân – Bài 1 – Cộng sản tự hào về thảm sát ở Huế
    - Chuyên đề Mậu Thân – Bài 2 – Một vụ thảm sát b́nh thường vào đầu xuân 1968…
    - Chuyên đề Mậu Thân – Bài 3 – Tất cả đều bị đập bể đầu
    - Chuyên đề Mậu Thân – Bài 4 – Đă t́m thấy ngót 2.000 xác
    - Đồng bào Huế gửi “quà Xuân” cho nữ đạo diễn Lê Phong Lan
    - Lê Phong Lan và bộ phim: “Chạy tội cho CSVN”
    - Mậu Thân 1968: Kẻ đồ tể & Nhân chứng sống
    - Kỷ vật Mậu Thân
    - Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này!?
    - Nỗi đau Tết Mậu Thân chưa có phút nào nguôi!
    - Phim Mậu Thân 1968 – một canh bạc bịp
    - 45 năm sau Mậu Thân – Máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế
    - Mậu Thân trong tâm khảm một nhà thơ
    - Nghệ thuật dối trá
    - Những sự thật không thể chối bỏ (phần 14) - Ai làm cho Huế đau thương?
    - Hăy nói trước ngày chết
    - Mậu thân Huế – Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Ḥa
    - Mậu Thân 1968: “Guinness” nói láo của CSVN
    - Vị Thẩm Phán Cuối Cùng: Lương Tâm

    Thứ 9, kính thưa quư vị! Chúng tôi c̣n nhận được tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” – bởi nhóm tác giả đă từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động t́nh báo của Liên Xô (đă giới thiệu ở bài“Những sự thật không thể chối bỏ – Bài 13 -Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” có đoạn ở 333:

    “Trong chiến dịch tấn công thử sức kháng cự của quân đội Miền Nam, đă có khoảng 5.500 người dân bị xử tử v́ có liên quan đến chính quyền Sài G̣n mà sau đó người Mỹ và chính quyền Sài G̣n lấy đó làm khẩu hiệu để lên án quân đội VNDCCH…”

    Như vậy rơ ràng tài liệu của phía Liên Xô cho thấy những người dân Huế vô tội bị phía VNDCCH dưới sự chỉ đạo của ông Hồ và đảng cộng sản giết hại.

    Qua các dẫn chứng của các bên liên quan cho thấy con số từ 4000-5000 là con số người chết oan trong tết mậu thân 1968 ở Huế mà chúng tôi thông báo cho quư vị là một con số khủng khiếp mà cho đến nay chúng tôi vẫn chưa thất có công lư cho những oan hồn đă khuất cũng như thân nhân của đồng bào chúng tôi.

    Vấn đề con số chính xác đến từng người không phải là vấn đề quá quan trọng. Ở đây là dù với con số hàng ngh́n, 4000 hay 5000 ngh́n cũng cho thấy tội ác mà cộng sản đă gây ra cho nhân dân Huế vô tội. Đó là tội ác giết người cần phải được lên án.

    2. Đảng cộng sản đă giết hại đồng bào vô tội:

    Cần phải làm rơ hai việc ở đây đó là: Ai đă giết hại đồng bào Huế và giết bằng cách nào. Điều này phản bác lại luận điệu của cộng sản Việt Nam là đa phần nhân dân chết do đạn pháo, máy bay trực thăng bắn và lính của mặt trận GPMNVN được chôn cất chung với nhân dân. Chúng tôi xin khẳng định tội ác trong tết Mậu Thân tại Huế hoàn toàn là do những người cộng sản gây nên. Những người chết do tên bay đạn lạc không phải là không có. Nhưng xin đi sâu vào sự việc hàng ngh́n người bị chôn sống và chặt đầu oan tại Huế.

    Cho đến nay nhiều nhân chứng và người thân của những nạn nhân tại Huế c̣n sống để khẳng định điều này. Chúng tôi xin dùng nhiều tài liệu để chứng minh sự dă man của đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân Huế.



    Thứ nhất, đọc hồi kư của Lê Minh, trong vai tṛ tư lệnh chiến trường Huế Tết Mậu Thân – Nguyên Bí thư Thừa Thiên Huế đă tâm sự trong Hồi Kư của ḿnh trang 137:

    “Tôi thấy cần phải nói đến một điều đáng buồn. Về sự tang tóc trong biến cố Mậu Thân (…) c̣n lại một mặt của vấn đề, việc trừng trị những người có tội ác với nhân dân đă nổi dậy (…) Rốt cuộc là đă có những người bị xử oan trong chiến tranh. Dù lư do thế nào th́ trách nhiệm vẫn thuộc về lănh đạo, trong đó có trách nhiệm của tôi. (…)”

    Chúng ta thấy vị tư lệnh chiến trường của cộng sản này nói ǵ? Đó là những người bị xử oan mà ông ta đă thừa nhận. Cùng đó ông ta cũng nói đến những người bị cho là tội ác với nhân dân. Xin nhớ rằng những người đó chỉ là những người làm hành chính và cộng sản lại đỗ thừa cho sự “nổi dậy” của nhân dân giống như họ từng đổ tội cho bần nông trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Vậy xin hỏi những ủy ban mà người cộng sản lập ra để lam ǵ? Họ luôn tuyên truyền là lực lượng cách mạng đại diện cho nhân dân vậy sao lại để nhân dân làm bừa? Đó chỉ là một hành động đỗ thừa tội ác cho nhân dân của đảng cộng sản.

    Thứ hai, xin quay lại nội dung cuộc phỏng vấn của Thụy Khuê với Hoàng Phủ Ngọc Tường khi ông này đến Pháp (xem toàn bộ bài phỏng vấn ở đây:http://nghianhan.multiply.com/notes/item/53). Bài phỏng vấn có những đoạn:

    “TK: Nh́n từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đă xảy ra trong một tŕnh tự như thế nào?

    HPNT: Huế Mậu Thân đă xảy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đă được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng c̣n lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đă ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy ḷng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đ́nh người Huế đă phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nh́n từ lương tâm dân tộc, và nh́n trên quan điểm chiến tranh cách mạng.

    Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lănh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi v́ t́nh trạng giết chóc bừa băi như vậy, đă không xảy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với t́nh trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài G̣n thời ấy.”

    Như vậy ta có thể thấy ǵ ở đoạn trích này. Đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường đă thừa nhận chính những người cộng sản gây ra với nhân dân là oan sai cho nhiều người dân. Bỏ qua sự biện hộ đây chỉ là một sai lầm cục bộ v́ kẻ giết người luôn t́m cách biện hộ cho ḿnh bằng một lư do mơ hồ mà nhất là đảng cộng sản. Chúng ta thấy một sự thật là thêm một người phe đảng công nhận họ có giết người oan sai.

    Thứ ba, theo hồi kư của Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng ḥa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), th́:

    “Trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đă bị xử tử v́ thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng ḥa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân…) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận”.

    Chúng ta thấy ở đây người cộng sản đă thừa nhận chính họ đă giết những người vô tội không tham gia chiến đấu hoặc viên chức chính trị. Đây là một bằng chứng cho thấy tội ác của đảng cộng sản với những người vô tội.

    Thứ tư, tác giả Marilyn B. Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990 (New York: Harper Perennial, 1991) ghi lại:

    “Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ… khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay v́ thả họ ra hay bắt theo làm tù binh – với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài G̣n và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế…”

    Lại thêm một bằng chứng cho thấy sự tà ác của đảng cộng sản dù cho họ có cho rằng con số ít thế này. Nhưng tội ác giết tù binh là không thể chấp nhận được. Ngoài ra là những vụ xử công khai những người chỉ làm hành chính.

    Thứ năm, theo Douglas Pike, “Vietcong Strategy of Terror” th́ có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử:

    “Giai đoạn đầu là một loạt các cuộc xử án công cộng kéo dài khoảng 5-10 phút do giới chức trong quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng dựng lên. Bị cáo luôn bị kết án “có tội với nhân dân”.

    Giai đoạn nh́, khi họ cho rằng họ sẽ giữ được Huế lâu dài, quân Mặt trận Giải phóng bắt đầu tiến hành công tác giáo dục tư tưởng yêu nước cho quần chúng. Những ai bị t́nh nghi có thái độ chống cách mạng từ từ bị truy lùng trong giai đoạn này. Người theo đạo Công giáo, các nhà trí thức, thương gia, và đám người bị tội làm ‘tay sai Đế quốc’ bị chiếu cố để “tạo dựng xă hội mới”.

    Giai đoạn sau cùng, khi thấy rơ họ đang bị đánh bật ra khỏi Huế, quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng thi hành những vụ thủ tiêu nhân chứng – bất cứ ai biết mặt họ, nh́n thấy những tội ác trong lúc Huế bị chiếm đều bị giết và chôn mất xác.”

    Rơ ràng đây là một hành động tàn bạo của đảng cộng sản với cánh tay nối dài của ḿnh là lực lượng MTDTGPMN đă gây ra với nhân dân vô tội tại Huế.

    Thứ sáu, như trên chúng tôi đă giới thiệu cuốn sách “Đối nghịch” của J. Leroy th́ ngoài việc ông ta khẳng định về số người chết oan trong sự kiện thảm sát tết Mậu Thân th́ trong trang 240 ông cũng viết tiếp:



    “Mấu chốt ở vấn đề của Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam thi hành lệnh của ai trong vụ thảm sát. Họ nghe ai khi bản thân họ có chỉ huy là người của đảng cộng sản cử vào, số quân tham chiến từ miền bắc gửi vào cho đến năm 1970 chiếm hơn 80% Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam”

    Vậy th́ rơ ràng đảng cộng sản Việt Nam chính là kẻ gây nên tội ác với nhân dân Huế năm 1968. Trong bài “Những sự thật không thể chối bỏ – Bài 13 – Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” tôi đă chứng minh ở luận điểm: Sau khi phân chia đất nước theo hiệp định Geneve th́ đảng cộng sản liền ém quân và cán bộ đầu năo ở lại chỉ đạo chống phá miền Nam từ những năm 1960 (khi Mỹ chưa đổ quân tham chiến vào Việt Nam). Vậy th́ cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 chính là do chính sách của đảng cộng sản gây nên.

    Thứ bảy, Tạp chí Time của Mỹ số ra ngày 31-10-1969, trong bài “The Massacre of Hue”(Cuộc thảm sát ở Huế) đă đặt câu hỏi: “Điều ǵ đă khiến Cộng Sản tàn sát?” Rồi tạp chí này trả lời:

    “Nhiều người dân Huế tin rằng lệnh hành quyết được đưa thẳng từ Hồ Chí Minh xuống. Tuy nhiên, có lẽ chắc chắn hơn, đơn giản là Cộng Sản đă mất tinh thần. Họ đă bị nhồi sọ để tin tưởng rằng nhiều người dân miền Nam sẽ xuống đường tranh đấu cùng với họ trong cuộc tổng tấn công vào dịp Tết. Nhưng điều đó đă không xảy ra, và khi trận chiến ở Huế bắt đầu nghiêng về phía quân đồng minh, Cộng Sản đă hoảng sợ và giết sạch các tù nhân.”

    Như chúng ta đă biết tờ tạp chí Time được người cộng sản hết sức coi trọng và họ cho rằng đây là một tạp chí có thể “chấp nhận” được theo ư họ. Nhưng bài viết cho thấy sự thật là cộng sản rất tàn ác với nhân dân.

    Thứ bảy, ngày 24-1-2008, ông Bùi Tín cũng đă đưa ra luận điệu tương tự khi trả lời phỏng vấn:

    “Khi quân Mỹ đổ bộ lại từ Phủ Bài trở ra để lấy lại Huế th́ anh em họ trói, di chuyển đi hàng mấy trăm tới hàng ngh́n người. Do vướng chân, mệt, rồi bị pháo bắn ở ngoài biển vào dữ dội cho nên do phần lớn do tự động các chỉ huy trung đội tới trung đoàn đồng lơa với nhau để thủ tiêu không cho cấp trên biết”.

    Bỏ qua luận điệu về sự tự phát theo cách nói của cộng sản th́ hành động giết người với nhân dân là có thật và tội ác này chính là của các cán bộ đảng viên cộng sản gây nên (cán bộ chỉ huy trung đội tới trung đoàn đều là đảng viên cộng sản cao cấp). Tại sao khi họ tự phát gây ra sau này không bị kỷ luật nếu đảng cộng sản thực tâm không muốn giết dân? Đó chính là điểm mâu thuẫn của những lời bao biện cho tội ác của cộng sản. Với những hành vi giết người vô tội không theo chủ trương của đảng th́ nếu ở Mỹ hay các nước dân chủ khác, các vị chỉ huy đó chắc hẳn ra toàn án binh thậm chí tử h́nh. Nhưng ở đây họ vô sự, thăng quan tiến chức. Chỉ có thể là: Đó là chủ trương của đảng cộng sản.



    Thứ tám, khi tôi có cuộc tiếp xúc với một cán binh cộng sản trực tiếp vào một trong những vụ thảm sát tại Khe Đá Mài - Huế năm 1968 ông đă kể cho tôi nghe như sau:

    “Khi trung đoàn của chú được lệnh tiến chiếm khu vực Khe Đá Mài th́ đă được anh em du kích nội thành giao cho 23 người dân mà ban tuyên huấn liệt kê danh sách cho là có quan hệ với Mỹ – Ngụy. Có 9 người được cấp trên cho xe đến đón đi tới một nơi nào đó chú không rơ v́ theo như anh giao liên cho biết họ là con em nhà sỹ quan “ngụy” cao cấp cần có cấp trên xử lư. C̣n lại 14 người cấp trên ra lệnh cho trung đoàn phải có trách nhiệm thủ tiêu ngay v́ có tội với nhân dân. Theo gợi ư của chính trị viên và trung đoàn trưởng, chú có trách nhiệm chọn 30 chiến sỹ đưa những người dân này trói lại rồi theo lệnh trên chôn sống để tiết kiệm đạn dược…”

    Rồi ông c̣n nói với tôi:

    “Chú là trung đội phó của trung đội tự vệ nhân dân. Chú đă thực hiện lệnh cấp trên tham gia xử chôn sống 14 người ở khe Đá Mài – Huế. Chú xin nhận trách nhiệm nếu phải ra ṭa án làm chứng. Chú muốn chú sống quăng đời c̣n lại thanh thản và con cháu chú không bị quả báo…”

    Kính thưa quư vị!

    Vị cán binh cộng sản này đă sẵn sàng ra làm chứng tại Liên Hiệp Quốc nếu có thể để cùng nhân dân chúng tôi vạch trần tội ác của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản và cũng là để chuộc lại một phần lỗi lầm của những người như vị cán binh cộng sản này gây ra cho đồng bào Huế năm 1968.

    Thứ chín, cuốn hồi kư của một nữ cán binh cộng sản tham gia chặt đầu nhân dân Huế đă ghi lại như sau:

    “Ḿnh không thể nh́n cảnh tượng anh em dùng cuốc và dao to bản để phang vào đầu người dân. Đêm đó ḿnh không ngủ được v́ ám ảnh. Rồi ḿnh đă phải xin phép cấp trên cho nằm lại hầm 1 tuần. Khủng khiếp quá!…”

    Kính thưa quư vị!

    Tất cả nhân chứng đó c̣n ở Việt Nam và v́ lư do an ninh của chúng tôi nên xin phép quư vị nếu có thể khi ra ṭa án chúng tôi xin cung cấp đầy đủ bằng chứng và nhân chứng tới quư vị.

    Qua nhiều dẫn chứng, chúng ta đă thấy chính những người cộng sản của nước VNDCCH và những người trung lập đă thừa nhận cuộc thảm sát là do đảng cộng sản với cánh tay nối dài của họ là MTGPMN gây ra cho quốc gia và người dân của VNCH. Những bao biện do bị tên bay đạn lạc không thể chấp nhận khi họ công khai thừa nhận những vụ việc xử tù nhân cả công khai lẫn thủ tiêu.

    Như vậy tội ác của đảng cộng sản là hết sức rơ ràng. Nhưng ai là kẻ đứng đầu chỉ huy cuộc thảm sát ấy.

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bản cáo trạng tội ác của đảng CSVN và ông Hồ Chí Minh (bài 2)
    P4


    Xin được tŕnh bày sau đây với quư vị!.

    Từ lâu vài tṛ của đảng cộng sản là rơ rệt trong cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế. Nhưng ông Hồ th́ sao? Trong loạt bài Những Sự Thật Không Thể Chối Bỏ tôi cũng đă chứng minh ông Hồ Chí Minh là thủ phạm, chủ mưu những đàn áp, tàn sát trong Nhân Văn Giai Phẩm hay Cải Cách Ruộng Đất. Sự việc thảm sát mậu thân Huế cũng nằm trong tầm tay của kẻ sát nhân này cũng không có ǵ là lạ. Chúng tôi xin tŕnh bày thêm sau đây một sự thật đó là chính ông ta là kẻ chủ mưu trong cuộc thảm sát này. Xin được đưa ra bằng chứng cụ thể dưới đây.

    Thứ nhất, trong bài “Những sự thật không thể chối bỏ – Bài 2 – Hồ Chí Minh và vai tṛ trong công hàm 1958” tôi đă chứng minh đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức mà ông Hồ nắm quyền toàn bộ. Như vậy về cơ bản ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm chính về vụ việc này.

    Cũng cần nói thêm, dưới sự lănh đạo chặt chẽ và sắt máu của cộng sản, không có một người nào dưới quyền đảng Cộng Sản mà không bị kiểm soát, không có một người nào dưới quyền cộng sản mà có thể tự ư làm bất cứ điều ǵ họ nghĩ. Nhất nhất họ đều phải theo chỉ thị của đảng bộ và của cấp trên. Do đó, việc tàn sát trong cuộc chiến Tết Mậu Thân hoàn toàn là chủ trương chính sách của đảng CSVN.

    Đảng Cộng Sản là một đảng chính trị tổ chức chặt chẽ, rất có kỷ luật. Bất cứ đơn vị quân đội cộng sản nào cũng có một chính ủy (ủy viên chính trị) để điều khiển công việc, đứng trên và quyền hành hơn cả đơn vị trưởng. Do đó, không thể đổ lỗi cho các cán binh cộng sản rút lui nên mới tàn sát bừa băi, và cũng không thể đổ lỗi cho các đơn vị địa phương hay tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đă phạm sai lầm hoặc giết người để tự vệ.



    Chắc chắn phải có kế hoạch chính sách do trung ương hoặc do các đảng ủy cộng sản quyết định, khi tiến th́ làm ǵ, khi rút lui th́ làm ǵ, các đơn vị thừa hành hoặc các cán binh mới dám tàn sát dân chúng một cách vô nhân đạo, tàn bạo nhất trong lịch sử Việt Nam và cả lịch sử thế giới. Hiếu sát, giết người bừa băi là một đặc tính căn bản của cán bộ cộng sản học được từ các lănh tụ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh. Như thế, đảng CSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về việc tàn sát trong cuộc chiến tết Mậu Thân năm 1968. Và người đứng đầu không ai khác chính là ông Hồ Chí Minh.

    Thứ hai, tại “Nghị quyết của hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng”, in trong Văn kiện đảng toàn tập, Tập 24, 1963, (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2003) có viết:

    “Tháng Mười hai năm 1963, chỉ một tháng sau khi tổng thống Việt Nam Cộng ḥa Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đă họp tại Hà Nội để bàn luận và thông qua Nghị quyết hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành. Nghị quyết này nhận định rằng “tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ là hướng phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam để đạt tới toàn thắng”. Trung ương Đảng dự tính khả năng chiến thắng cuộc chiến một cách nhanh chóng, trước khi Mỹ quyết định có nên điều các đội quân Mỹ tới cứu chế độ Việt Nam Cộng ḥa hay không. Vẫn duy tŕ đường hướng chung về việc tiến hành một cuộc “chiến đấu lâu dài” ở miền Nam, Nghị quyết 9 kêu gọi một nỗ lực đến mức tối đa nhằm “tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới”.

    Như vậy chúng ta có thể thấy được điều ǵ? Đó là cuộc tấn công vào Huế mà đỉnh điểm vụ thảm sát nêu trên đă được vạch kế hoạch ra từ thời điểm năm 1963. Thời điểm đó ông Hồ con chưa bị ông Lê Duẩn lấn át và cô lập. Vậy th́ ông Hồ chính là kẻ vạch ra chủ trương tổng công kích và nổi dậy đẫm máu đó trong vai tṛ kẻ đứng đầu đảng cộng sản.

    Thứ 3, như trong phần trước tôi đă chứng minh ông Hồ chính là kẻ làm tay sai bán nước cho Trung cộng, làm chư hầu và âm mưu làm suy yếu nội lực dân tộc. Và trước cuộc tổng công kích đẫm máu ông ta đă có liên hệ với Trung cộng.

    Ngày 04/07/1967, 2 ông Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng đă sang Trung Cộng để tường tŕnh Bắc Kinh t́nh h́nh và chiến lược quân sự, bao gồm cuộc tổng tấn công này.

    Phạm Văn Đồng đă báo cáo Chu Ân Lai như sau: “Một số chiến lược đang được áp dụng trên chiến trường miền Nam theo lời đề nghị khi trước của các đồng chí”. Chiến tranh nhân dân là chiến lược đă được áp dụng trên chiến trường miền Nam. Chiến lược này do Mao Trạch Đông đề xướng, chủ yếu là “lấy nông thôn bao vây thành thị” và “vũ trang tổng tấn công và nổi dậy”. Chiến lược này được sử dụng như kim chỉ nam cho cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968.

    Trong buổi họp, Chu Ân Lai than thở, ông và các đồng chí của ông đều đă trên dưới bảy mươi, và nhấn mạnh: “Mặc dù tôi đă già, tham vọng vẫn c̣n đó. Nếu chiến tranh ở miền Nam không chấm dứt vào năm tới, tôi sẽ thăm các đồng chí và tham quan”. Năm tới mà Chu Ân Lai muốn nhấn mạnh là Mậu Thân 1968.

    Những câu nói trên được trích trong cuốn “Biên niên sử đảng cộng sản Việt Nam” – NXB Quân đội năm 1983. Điều mà chúng ta cần đặt câu hỏi là khi ông Phạm Văn Đồng nói đă áp dụng chiến lược của các đồng chí. Đó là chiến lược ǵ? Đó chính là việc thực hiện tổng công kích đẫm máu mà tôi đă chứng minh Trung cộng muốn Việt Nam đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng.

    Thứ tư, bản chất hiếu chiến giết người của ông Hồ c̣n được chính bản thân ông ta thể hiện qua bài thơ chúc tết trước cuộc tàn sát kinh hoàng Mậu Thân năm 1968. Bài thơ của ông ta như sau:

    “… Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

    Thắng trận tin vui khắp nước nhà

    Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
    Tiến lên!
    Toàn thắng ắt về ta.”
    (trích: http://nguoicaotuoi.org.vn/Story.asp...&zone=3&ID=153

    của báo Người cao tuổi đảng cộng sản Việt Nam).

    Bài thơ như một lời cổ động đánh nhau trong thời điểm mà người dân Việt Nam phải ăn tết cổ truyền. Đây là bằng chứng cho thấy tính hiếu chiến của ông Hồ. Thành ngữ Việt Nam có câu“Trời đánh tránh miếng ăn” - Nói rộng ra là tết cổ truyền là ngày ăn chơi của nhân dân dù Nam, dù Bắc, nhưng ông Hồ Chí Minh lại thúc giục đánh nhau cho thấy âm mưu chủ đạo của ông ta bằng bài thơ cổ vũ giết chóc.

    Thứ năm, như đă giới thiệu về tác giả Hà Cẩn ở trên, trong trang 208 cuốn “Mao chủ tịch của tôi” có viết và được tạm dịch như sau:

    “Chủ tịch Hồ Chí Minh đă chỉ đạo cần phải thanh trừ bọn chống đối nhân dân khi các thành phố được giải phóng trong cuộc tổng nội dậy tết 1968, chúng không có lợi cho lực lượng cách mạng vào tiếp quản thành phố. Hồ Chù tịch đă học theo cách làm của Mao Chủ Tịch khi Trung quốc tiến hành Vạn lư Trường Chinh…”

    Qua đây chúng ta thấy chính ông Hồ học theo sách lược của Mao để “thanh trừ” cái gọi là bọn chống đối nhân dân. Họ là những người làm hành chính, nhân dân vô tội như tôi đă chứng minh ở phần trên. Vậy mà ông Hồ đă học theo thầy ông ta là Mao để đem lại kết quả bi thương cho xấp xỉ 5000 người dân vô tội ở Huế.

    Thứ sáu, trong cuốn “Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy”, đăng trên Văn Nghệ số Tết Mậu Dần 1998, tr. 4 do Vũ Kỳ là thư kư riêng thân tín và lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố có những đoạn:

    “Sáng 25 tháng 12 năm 1967, thứ hai, 7 giờ 15 phút, Bác sang hội trường Ba đ́nh, chủ tọa cuộc gặp mặt chúc mừng năm mới của Đoàn Ngoại giao ở Hà Nội. Bác rất vui, chúc năm mới Đoàn Ngoại giao. Tiếng Bác sang sảng và như trẻ ra…

    Ngày 28 tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà Bác Hồ, có bản đồ to kê trên bục trong pḥng họp và nhiều tướng lĩnh đến báo cáo.

    Từ sự phân tích và nhận định t́nh h́nh, Bộ Chính trị đề ra: “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa đề giành thắng lợi quyết định”.

    Như vậy đă rơ ràng ông Hồ là người tham gia cuộc họp vào giờ chót để chỉ đạo cuộc tổng công kích đẫm máu gây ra cho nhân dân Huế. Thậm chí ông Vũ Kỳ c̣n miêu tả ông Hồ như “trẻ ra”. Vậy th́ ông ta hoàn toàn khỏe mạnh và tỉnh táo ra những quyết định chết người với nhân dân. Khác hẳn với những luận điệu cho rằng lúc đó ông Hồ ốm yếu, không tham gia chỉ đạo từ đầu để bao che cho ông Hồ về tội ác Mậu Thân năm 1968.

    Ngoài ra, trong bài viết của ḿnh ông Vũ Kỳ cũng nói thêm:

    “Chiều 29 tháng 12, Bác Hồ mời Bác Tôn đến cùng ăn cơm. Ngắm hai cụ già thân mật đi bên nhau, thanh thản, ung dung, nói cười vui vẻ, ta cảm thấy cuộc đời đẹp biết bao, tưởng như đất nước thanh b́nh.

    Ngày 30 tháng 12 thứ bảy, buổi sáng từ 7 giờ 15 đến 9 giờ 30 Bác lại dự họp Bộ Chính trị, nghe đồng chí Cao Văn Khánh, Phó tổng tham mưu trưởng, báo cáo thêm những diễn biến mới nhất của t́nh h́nh chiến sự miền Nam. Bác ngồi nghe, một tay giữ lấy kính, chăm chú nh́n vào bản đổ khổ lớn treo trên tường.

    Buổi chiều từ 17 giờ đến 18 giờ, Bác tham dự phiên họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ. Bác tặng mỗi người, từ Bộ trưởng đến nhân viên phục vụ một quả cam hái từ vườn Bác và một thiếp hồng chúc mừng năm mới. Nói chuyện trong phiên họp, Bác biểu dương những thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Nam Bắc, khen ngợi sự cố gắng của các Ngành, các Bộ…”

    Như vậy càng có bằng chứng sự cầm đầu chỉ đạo của ông Hồ trong thảm sát Mậu Thân.

    Cuối cùng ông Kỳ mô tả:

    “Ngày chủ nhật 31-12-1967, ngày cuối cùng của một năm chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang trên khắp hai miền đất nước. Bảy giờ 30 sáng, Bác Hồ ung dung ra Phủ Chủ tịch để thu thanh chúc mừng năm mới Mậu Thân mà có lẽ Bác đă ngẫm nghĩ và trao đổi có lẽ đến 3 tháng ṛng. Bài thơ “Toàn thắng ắt về ta” như bài hịch đă đi vào lịch sử… 2 giờ 30 phút chiều, Bộ Chính trị đến làm việc, Bác căn dặn công việc trước khi Bác lên đường tiếp tục đi nghỉ ở Trung quốc. Đó là quyết định của Bộ Chính trị và Hội đồng bác sĩ.

    Thế trận đă dàn xong. Ba quân đă sẵn sàng. Lời hịch đă phát. Bác Hồ ra đi chuyến này an tâm hơn.

    Ngoài liên lạc hàng ngày, các đồng chí lănh đạo Đảng và Nhà nước vẫn thay nhau đến Bắc Kinh, trực tiếp báo cáo và xin ư kiến Bác.”

    Như vậy có thể thấy ở đây hai điều:

    Điều đầu tiên là việc ông Hồ hàng ngày được báo cáo về t́nh h́nh từ liên lạc và từ chính các đệ tử của ông sang Bắc Kinh. Vậy th́ không có lư do ǵ ông ta không biết và không chỉ đạo cuộc tổng công kích đẫm máu. Nhất là sau này hành động không xử những kẻ bị vu cáo là tự ư giết nhân dân cho thấy ông Hồ đă đồng t́nh hay nói cách khác là kẻ chỉ đạo giết người.

    Điều thứ hai đó là như ông Vũ Kỳ miêu tả ông Hồ đâu có yếu đến mức phải lánh sang Bắc Kinh chữa bệnh giữa lúc đang xảy ra cuộc tổng công kích. Vậy tại sao ông Hồ phải đi Bắc Kinh? Chữa bệnh chỉ là cai cớ. Cái chính yếu là ông ta muốn tránh tiếng cuộc thảm sát mà ông ta biết trước như cách ông ta làm ở Cải Cách Ruộng Đất. Một kịch bản vũ như cẫn được lặp lại để tránh né tội ác.

    Thứ bảy, cuốn sách của J. Leroy được tôi giới thiệu ở trên cũng có đoạn viết như sau tại trang 240 về cuộc tấn công vào Huế năm 1968:

    “Quân đội của MTGPMN Việt Nam dưới sự chỉ đạo của chính quyền VNDCCH đă gây được cú sốc với chính quyền VNCH. Người có vai tṛ quyết định là ông Hồ Chí Minh với tư tưởng của Stalin và Mao Trạch Đông. Họ đă thành công trong cả chiến thuật, chiến lược và đấu tranh giai cấp…”

    Ở đây ta thấy ông Hồ đă thực hiện chỉ đạo của Mao và Stalin trong việc đánh Huế và đấu tranh giai cấp. Vậy đấu tranh giai cấp là ǵ? Đó chính là thủ tiêu người dân vô tội mà ta đă thấy trong Cải Cách Ruộng Đất hay Nhân Văn Giai Phẩm. Vậy th́ ai là kẻ chỉ đạo thảm sát dân lành? Không ông Hồ th́ c̣n là ai được.

    Thứ tám, trên website của tỉnh Thanh Hóa có bài viết của Đinh Phong nói về cuốn sách “Măi măi theo con đường của Bác” của ông Hoàng Tùng – cán bộ lăo thành cộng sản nhiều năm đi theo ông Hồ. Bài viết có đoạn:

    “Tháng 2-1968, từ mặt trận Sài G̣n, chúng tôi trở về cơ quan, ḷng nặng trĩu! Ta đă không thắng ngay trận đầu. Khi nói về quyết tâm của ta, một đồng chí lănh đạo phổ biến: “Bác Hồ nóng ḷng muốn về Nam để trực tiếp chỉ đạo trận đánh cuối cùng này. Bác đă tập đeo đá, đi bộ để chuẩn bị sức khỏe. Bộ Chính trị xin Bác yên ḷng, sẽ quyết tâm chỉ đạo cách mạng miền Nam giành thắng lợi”.


    Hồ Chí Minh và Vũ Kỳ

    Thêm một minh chứng ông Hồ hoàn toàn khỏe mạnh và ông ta muốn về Nam trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến năm 1968. Như vậy dù có đi Bắc Kinh nhưng ông Hồ rất quan tâm đến trận đánh nhằm giành thắng lợi trong công cuộc “đấu tranh giai cấp” như dẫn chứng thứ 7 ngay trên. Và với quyết tâm chỉ đạo như vậy không có lư do ǵ ông Hồ không phải là kẻ chỉ đạo sự kiện thảm sát mà đàn em của ông vô can.

    Thứ tám, trên website: http://hosotulieu.wordpress.com/tag/tau-khong-số/ của đội ngũ hồng vệ binh đảng cộng sản có ca ngợi tướng Nguyễn Chí Thanh mang tên “Nguyễn Chí Thanh anh bộ đội cụ Hồ tiêu biểu” có viết:

    “Bài viết “Năm bài học phản công chiến lược mùa khô” mang bút danh Trường Sơn của anh đă ngay lập tức trở thành tác phẩm có giá trị. Nó là vũ khí tư tưởng cho toàn đảng, toàn quân và toàn dân quyết đánh và quyết thắng quân Mỹ xâm lược. Nó gây ấn tượng mạnh mẽ và niềm tin cho bè bạn năm châu. Nó làm cho quân thù sửng sốt và lúng túng hoang mang. Và nó đă góp phần cùng Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm chiến lược chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Mậu Thân – 1968 để thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Hồ Chủ tịch “Đánh cho Mỹ cút” một cách tin cậy.”

    Phần tôi tô đậm chính là minh chứng cho sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh trong một chuỗi tội ác mà ông ta gây ra cho nhân dân Huế năm 1968.

    Thứ chín, trong cuốn sách “Việt Nam và những vụ án lịch sử” của Ban Nội chính Trung ương Liên Xô (Cũ) có tiết lộ tại trang 97:

    “Để xảy ra sự kiện người dân ở thành Huế bị giết hại một cách vô tội vạ cũng là một trong những sai lầm của chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho dù thời điểm đó sức khỏe không được tốt nhưng chính Hồ chủ tịch đă là người ra quyết sách và nhấn nút cho cuộc tổng tấn công đó…”



    Kính thưa quư vị!

    Tội ác của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản gây ra cho nhân dân chúng tôi là cực kỳ to lớn, chúng tôi xin quư vị đọc kỹ từng phần của bản cáo trạng này như một lời thống thiết của dân tộc tôi mong muốn có tự do, ḥa b́nh và công lư.

    Lưu ư: Do một số lư do an toàn cho bản thân và cho cán bộ, người thân của cán bộ cộng sản trực tiếp tham gia tàn sát Mậu Thân nên những tài liệu và ghi chép về những sự kiện Mậu Thân sẽ được tôi gửi tới bạn đọc ở một dịp khác khi có thể.

    20/02/2013

    Đặng Chí Hùng

    danlambaovn.blogspot .com

  10. #20
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam
    90 năm bản chất tội ác của đảng cộng sản VN không thay đổi


Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 23
    Last Post: 31-07-2012, 07:08 AM
  2. Replies: 2
    Last Post: 05-03-2012, 04:09 AM
  3. Replies: 7
    Last Post: 16-09-2011, 06:44 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 03-05-2011, 06:46 PM
  5. Replies: 2
    Last Post: 11-04-2011, 04:07 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •