Page 1 of 4 1234 LastLast
Results 1 to 10 of 40

Thread: Tội ác Cộng Sản Việt Nam

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam

    Tóm tắt một số tội ác CSVNSVN

    Phạm Bá Hoa

    1. Cộng sản quốc tế.

    Ông Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô phát biểu như lời tâm sự: “Tôi đă bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lư tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau buồn mà nói rằng “cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo”. Đó là lời tố cáo có thể xem là thành thật của một đảng viên cao cấp trong đảng cộng sản Liên Xô mà các nhóm lănh đạo cộng sản Việt Nam tôn vinh là thành tŕ vững chắc của chủ nghĩa xă hội toàn thế giới (cộng sản). C̣n dưới đây là những con số nói lên một cách tổng quát về mức độ tàn bạo của các đảng cộng sản cai trị đồng bào của họ đă được phơi bày sau khi cộng sản Nga và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ: (trích bài viết “Con số 100 triệu nạn nhân” của Lữ Giang ngày 25/6/2007)

    Trong quyển “Death by Government” (Chết do chánh phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale, th́ cộng sản tại các quốc gia đă giết chết đồng bào của họ, như sau: (1) Liên Sô 61.911.000 người. (2) Trung Hoa cộng sản 35.236.000 người. (3) Quân phiệt Nhật 5.964.000 người. (4) Khmer đỏ 2.035.000 người. (5) Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người. (6) Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người. (7) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người. (8) Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người.

    Trong quyển “Livre Noir du Communisme” (Sách đen về chủ nghĩa cộng sản) tác giả Stéphane Courtoise, Giám Đốc Nghiên Cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học của Pháp, nhận xét rằng: “Vượt trên mức độ tội ác cá nhân, các chế độ cộng sản củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị. Sau một vài năm tại các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu hay vài chục năm ở Liên Sô và Trung Hoa cộng sản, cường độ của sự khủng bố có bớt đi , chế độ tự ổn định bằng cách quản lư sự đàn áp thường ngày, sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin tức, kiểm soát xuất nhập biên giới, trục xuất người ly khai. Nhưng kư ức về khủng bố tiếp tục đặt người dân trong t́nh trạng sợ hăi, và điều này rất hiệu nghiệm. Không một quốc gia cộng sản nào thoát khỏi qui luật đó, như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam chẳng hạn”.

    Ngày 12/6/2007, tại Washington DC, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush, chủ tọa lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial). Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của khoảng 100 triệu nạn nhân cộng sản -có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng ta- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ, v́ chế độ cộng sản đă lấy đi mạng sống của khoảng 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội. Nhóm chữ nghiêng màu đỏ là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Bush. Công tŕnh Đài Tưởng Niệm bắt đầu với Điều 905 của đạo luật The Public Law 103-199 được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 17/12/1993. V́ Quốc Hội không cấp tiền nên tiến sĩ Lee Edwards vận động từ các quốc gia từng bị cộng sản cai trị chung góp tài chánh, trong đó phần đóng góp của Cộng Đồng Việt Tị Nạn cộng sản tại Hoa Kỳ là 66.000 mỹ kim. Công tŕnh xây dựng khởi công ngày 28/9/2006.

    2. Cộng Sản Việt Nam

    Lănh đạo tự tôn.

    Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch đảng CSVN là con người vừa dối trá vừa tự cao hơn bất cứ ai khác. Bằng chứng là trong quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” xuất bản năm 1947 mà tác giả Trần Dân Tiên lại chính là Hồ Chí Minh. Trong đó Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, tự ca tụng ông là cha già dân tộc và tự tôn vinh ông vĩ đại hơn B́nh Định Vương Lê Lợi (thế kỷ 15) v́ ông đưa dân tộc vào kỷ nguyên xă hội chủ nghĩa. Chủ Tịch đảng mà tự tôn đến mức đó th́ c̣n ǵ liêm sĩ. Khi con người nhất là con người lănh đạo không có liêm sĩ th́ tệ hơn người tệ nhất trong 86 triệu dân.

    Bức tranh xă hội xă hội chủ nghĩa Việt Nam từ sau 30/4/1975 đến năm 2000, được cựu Trung Tướng cộng sản Trần Độ “vẽ lại” trong tập nhật kư “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000. Trong đó, ông tự hỏi: “Tại sao chiếm được miền Nam năm 1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đă đưa cả nước vào t́nh trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy?” Rồi ông mời gọi lănh đạo của ông: “Hăy nh́n các nước Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái Lan, Mă Lai Á, chỉ cần 20-30 năm mà họ phát triển và nhân dân của họ có đời sống khá phong phú. Mấy nước này không có đảng cộng sản tài t́nh sáng suốt (như của Việt Nam), mà họ có những chính khách với những chính sách kinh tế xă hội thông minh và hiệu quả. Như vậy, chủ nghĩa xă hội chưa có chứng thực, và nó không thể là con đường duy nhất để phát triển đất nước”.

    Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế hàng đầu của cs Việt Nam, đă nói trong phiên họp mật của Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam ngày 2/11/2004 rằng: “Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, nhưng mức độ tăng trưởng ấy chỉ là so với chính bản thân Việt Nam, v́ nh́n ra chung quanh, rất nhiều quốc gia tăng trưởng nhanh hơn Việt Nam nhiều. Việt Nam ta không nên lớn giọng dạy bảo thiên hạ, không nên tự cho ḿnh là đ̣n bẩy của thế kỷ, cũng không nên tự xưng ḿnh làm xung kích cho lịch sử, v́ những điều đó không giúp ǵ cho sự phát triển của đất nước. Với lại thế giới không có ai công nhận Việt Nam như vậy cả”.

    Lănh đạo độc tài.

    Ông Nguyễn Tấn Dũng thay ông Phan Văn Khải trong chức vụ Thủ Tướng, có dư luận trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại nhất là trong vài tổ chức chính trị, có vẻ như chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev của Việt Nam, trong khi các tổ chức chính trị trong nước nhất là Khối 8406 không một đợi chờ nào như vậy. Hành động ngay khi nắm quyền, tân Thủ Tướng ra Nghị Định kiểm soát chặt chẻ hơn nữa các sinh hoạt truyền thông, internet, kể cả quyết định tuyệt đối cấm báo chí tư nhân. Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố dẹp tham nhũng, nhưng chưa có sự kiện nào chứng minh bước đầu thực hiện lời tuyên bố đó. Nếu ông ta thực sự quyết tâm đánh tham nhũng, ông ta có cơ hội bị tham nhũng hạ bệ, thậm chí có thể bị ám sát là đằng khác, v́ tham nhũng là mục tiêu của các cấp lănh đạo cộng sản Việt Nam, trong đó có Nguyễn Tấn Dũng và gia đ́nh ông.

    Ngày 5/9/2006, CSVN tuyên bố hủy bỏ Nghị Định 31 về quản chế hành chánh (bắt giam tùy tiện) làm cho nhiều người trong Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại lẫn đồng bào trong nước tưởng như họ có bước tiến về dân chủ pháp trị, nhưng theo luật sư Lê Thị Công Nhân, hành động đó chẳng qua CSVN đem chôn một cái xác (NĐ 31) đă chết từ lâu. V́ ngày 1/10/2002 CSVN đă ban hành Pháp Lệnh “xử lư vi phạm hành chánh” chặt chẽ hơn Nghị Định 31 mà họ hủy bỏ. Trên nguyên tắc, Pháp Lệnh chỉ dưới Hiến Pháp và Luật, tức cao hơn Nghị Định, mà trong Pháp Lệnh này có đầy đủ những qui định trong NĐ 31. Chưa hết, tiếp theo Pháp Lệnh năm 2002 xử lư vi phạm hành chánh là Nghị Định 38/CP ngày 18/3/2005 về cấm tập họp đông người, và Nghị Định 56/CP ngày 6/6/2006 về kiểm soát văn hóa & thông tin, vừa chặt chẻ vừa tinh vi trong chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng toàn dân toàn đảng của họ (trích bài viết của luật sư Lê Thị Công Nhân ngày 11/11/2006 tại Hà Nội). Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lănh đạo độc tài toàn trị.

    Ngày 27/8/2007 tại Tổng Cục Chính Trị CSVN Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng: “... Tôi khằng định trước sau như một là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xă hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp th́ không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư tưởng, củng cố vai tṛ của đảng”. (trích bản tổng hợp 220 sự kiện về nhân quyền và chính trị tại Việt Nam năm 2007). Độc tài chuyên chính như vậy mà gọi là cấp tiến sao? Và chỉ riêng lời phát biểu ngắn ngủi trên đây của ông Triết, tôi nhận ra 4 điều: (1) NMT thừa nhận chế độ độc tài CSVN không được người dân ủng hộ, nên phải ra lệnh củng cố quyền lực của đảng để tiếp tục đàn áp dân trong khi vẫn khẳng định điều gọi là tiến lên chủ nghĩa xă hội. (2) Bỏ điều 4 trong Hiến Pháp là chế độ độc tài tan ră đến mức đảng viên trong Bộ Chính Trị phải tự sát, v́ nếu không th́ NMT và các đảng viên lănh đạo khác không thể yên thân bởi khối dân oan hằng triệu hằng triệu người mà chế độ độc tài đă đẩy họ vào thảm cảnh đó. (3) Bộ Chính Trị CSVN sợ mất quyền lực quyền lợi chớ không hề nói đến trách nhiệm của cấp lănh đạo. (4) NMT hoàn toàn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lănh đạo độc tài toàn trị.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lănh đạo gian manh dối trá.

    Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh dối trá. Năm 2007, theo Công Đoàn Lao Động quốc doanh có đến 541 cuộc đ́nh công với sự tham dự của khoảng 350.000 công nhân mà hầu hết không có giấy phép của nhà nước nên bị xếp vào loại “đ́nh công bất hợp pháp”. Nhưng ngày 21/1/2008, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nông Đức Mạnh tuyên bố tại Quốc Hội của họ rằng: “Từ khi đảng ra đời đến nay, đảng luôn luôn là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của dân tộc, là đội tiên phong của giai cấp công nhân …” Đến ngày 30/1/2008, Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng kư Nghị Định số 11 và 12, cấm đ́nh công bất hợp pháp, đồng thời giao ṭa án xét xử buộc công nhân phải bồi thường thiệt hại cho chủ trong các cuộc đ́nh công đó. Nói đảng cộng sản là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhưng làm th́ đàn áp công nhân để bảo vệ chủ nhân. Đến ngày 16 & 17/6/2008, hội nghị “Đoàn Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam” họp tại Hà Nội, ông Mai Đức Chính, Phó Chủ Tịch tổ chức này cho biết từ đầu năm 2008 đến nay (gần 6 tháng) đă có 330 cuộc đ́nh công và tất cả các cuộc đ́nh công này đều phạm pháp.

    Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết dối trá. Sau chuyến sang Hoa Kỳ từ 18 đến 23 tháng 6/2007, báo Nhân Dân Điện Tử CSVN ngày 4/7/2007 giới thiệu một đoạn về lời ông Triết trả lời phỏng vấn khi phóng viên đài CNN Hoa Kỳ hỏi về vụ bắt Linh Mục Nguyễn Văn Lư đưa ra ṭa án phạt tù: “Ông ta (tức LM Lư) vi phạm pháp luật Việt Nam. Đây hoàn toàn là vấn đề pháp luật, không phải là vấn đề tôn giáo. Việc xét xử ông ta được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và ṭa thánh Vatican cũng đồng t́nh với chúng tôi”. Thế nhưng ngày 7/7/2007, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam công khai lên tiếng phản bác lời của Nguyễn Minh Triết hoàn toàn không hề có sự thật đó, và Nguyễn Minh Triết không hề lên tiếng khi phát biểu của ông ta bị phản bác. Khi “không có sự thật” có nghĩa là dối trá. Chủ Tịch nước mà dối trá trắng trợn như vậy th́ c̣n ǵ để phê phán mà chỉ triệt tiêu thôi.

    Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng mưu mẹo dối trá. Sau khi thế giới đánh giá cộng sản Việt Nam (CSVN) tổ chức đại hội APEC thành công, được gia nhập WTO, nhất là được Hoa Kỳ b́nh thường hóa quan hệ thương măi cùng lúc rút tên cộng sản Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, Nguyễn Tấn Dũng thẳng tay đàn áp các nhân vật đấu tranh ôn ḥa cho nền dân chủ thật sự trên toàn cơi Việt Nam. Điển h́nh là linh mục Nguyễn Văn Lư, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhận, Lê Trí Tuệ, Nguyễn Phong, ..v..v… Với tṛ đê tiện của lănh đạo CSVN, ngày 16/3/2007, gọi kỹ sư Đỗ Nam Hải đến trụ sở Công An Quận Phú Nhuận làm việc gần như trọn ngày. Tại đây, có mặt các sĩ quan từ Bộ Công An Hà Nội vào từ Sở Công An đến, gia tăng áp lực. Vẫn không thành công, họ đă áp tải cha, chị, và con gái của anh Hải đến trụ sở, dùng t́nh cảm gia đ́nh tạo áp lực buộc kỹ sư Hải phải kư giấy ngưng hoạt động chống đối đảng với nhà nước cộng sản. Kỹ sư Phương Nam Đỗ Nam Hải đă nói với họ: “Các anh hèn lắm”.

    Tác giả Lê Thiên trong bài “Nhận Diện Bản Chất Dối Trá Của CSVN”. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức từ Pháp về Hà Nội “phục vụ quê hương” có tên Việt nam Dân Chủ Cộng Ḥa dưới chế độ cộng sản mà Hồ Chí Minh là người lănh đạo. Năm 1956, tức sau mấy năm làm việc cho cộng sản, ông bị nhà nước cộng sản đày đọa chỉ v́ ông dám lên tiếng góp ư những sai sót trong cấu trúc xă hội xă hội chủ nghĩa. Vào cuối đời, trong quyển “Kẻ Bị Khai Trừ”, luật sư Tường nói lên ẩn ức của ông rằng: “Cộng sản sống bằng sự dối trá, giả h́nh, nhưng cái sai lầm là nó đặt sự tàn bạo của nó trên những vẻ bề ngoài hư ảo mà nó giải thích theo ư của nó để tiêu diệt những kẻ mà nó gọi là kẻ thù”…. “Thế giới Việt Nam cũng như cả thế giới cộng sản là cái thế giới đóng cửa, và bên trong cái thế giới đó, người ta tự cho phép bách hại con người không thể tưởng tượng được v́ nó vô cùng dă man điên rồ và bỉ ổi. Trong cái hỏa ngục đó, thường xuyên diễn ra những tội ác chỉ có trong thời kỳ thế mạt, không c̣n nhân phẩm nhân tính”.

    Trong quyển “Đồng bằng Gai Góc”, tác giả Xuân Vũ, một cựu cán bộ thời kháng chiến, xác định: “Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc: Nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ chúng làm là làm bậy”…. “Bàn tay ác hại của đảng cộng sản mó tới đâu th́ máu đổ tới đó. Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn Văn Thiệu, có thể sai nhiều điều nhưng chắc chắn ông luôn luôn đúng khi ông nói với người dân rằng: Đừng nghe những ǵ cộng sản nói, mà hăy nh́n kỹ những ǵ cộng sản làm”.

    Trong bài “Sức Nén Của Ngôn Từ”, tiến sĩ cộng sản Hà Sĩ Phu viết: “Những danh từ như cách mạng, như dân chủ, ..v..v.. thật tối thiêng liêng. Nếu lănh đạo không v́ Nhân Dân, không v́ Tổ Quốc, mà để cho chủ nghĩa cá nhân ỷ thế ỷ quyền hại dân hại nước, th́ miệng người đời ngọng ǵ mà không kèm chữ “đểu” theo sau chức vụ hay tên của những người lănh đạo đó. Hằng mấy chục năm trời dưới chế độ độc tài, người dân mới nén được chữ đểu vào những chức vụ lănh đạo, như: lănh đạo đảng đểu, lănh đạo nhà nước đểu, lănh đạo quốc hội đểu, lănh đạo công an đểu, ..v..v.. , để chỉ những người tự xưng làm cách mạng mà hành động toàn là phản cách mạng”. Đến đây ông Hà Sĩ Phu nhớ đến câu đối mà ông cho là cô đọng nhất và khó đối nhất, nhưng diễn đạt chính xác nhất. Ông Phan Hiền, đăng trên báo quân đội nhân dân cộng sản, như thế này: ”Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy”.

    Trong nhật kư “Rồng rắn” của cố Trung Tướng cộng sản Trần Độ, có đoạn: Lănh đạo CSVN Việt Nam kiên tŕ chế độ “đảng duy nhất lănh đạo”, lại nhấn mạnh đến nguyên tắc “tập trung dân chủ”, rồi buộc mọi người phải tuyệt đối phục tùng. Từ đó sản sinh ra bộ máy văn hóa thông tin với 6-700 tờ báo và hằng trăm đài phát thanh phát h́nh, một hệ thống trường học để nhồi nhét chính trị vào đầu học sinh sinh viên, hằng ngàn báo cáo viên với những con người “lưỡi gỗ” chuyên dùng dối trá lừa bịp để mê hoặc nhân dân. Bộ máy này được trang bị mọi thứ cần thiết và có đủ quyền lực để tạo nên một xă hội mà mọi người sống với nhau toàn gian dối. Đảng đă và đang thực hiện đường lối độc đảng và độc tài của một chế độ phản dân chủ, nhưng lănh đạo cùng bộ máy thông tin hùng hậu lại luôn luôn nói đến dân chủ, nói đến quyền làm chủ của nhân dân. Đó là lừa bịp, là dối trá. Điều 4 của Hiến Pháp bắt nhân dân phải chấp nhận sự lănh đạo duy nhất của đảng, trong khi Hiến Pháp có những điều khoản nói về quyền dân chủ của dân, nhưng 3 điều dân chủ căn bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử, và tự do lập hội, th́ bị chôn vùi bởi những đạo luật rất ư là phản động với những thủ đoạn bỉ ổi!

    Trong một đoạn khác: “Cho đến nay đă gần 30 năm (năm 2000) rồi mà ngày đêm vẫn phất cờ đánh trống, ngày đêm ḥ hét biểu dương, và cũng ngày đêm vơ vẽ các thành tựu nhân dân ta làm ra, rồi dồn vào cái túi sáng suốt, cái túi tài t́nh của đảng cộng sản. Lúc nào cũng bắt nhân dân tung hô, chào mừng, ca ngợi. Chào đón mùa Xuân cũng phải chào mừng đảng. Kỷ niệm nông dân phụ nữ thanh niên, cũng biểu dương đảng, và tung hô đảng là nguyên nhân của thắng lợi. Lễ hội tưởng nhớ tổ tiên cũng phải biểu dương đảng, chào mừng đảng. Đám cưới đám ma cũng phải tưởng nhớ và chào mừng đảng. Có câu ca dao tuyệt vời đủ nói lên chân lư của thời đại: “Mất mùa th́ tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta! Mỗi người cộng sản có lương tâm phải biết xấu hổ về cái chân lư đó”.

    Cựu Đại Tá cộng sản Phạm Quế Dương, cựu Tổng Biên tập tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử Quân Độ Nhân Dân, đă nói: “Cộng sản vừa bất tài vừa bất lực, vừa bất lương”.

    Ngày 20/5/2006, ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm văn pḥng Quốc Hội CSVN, trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên rằng: “Cơ chế hiện nay tạo kẽ hở cho tham nhũng vơ vét tiền của của nhà nước. Không tham nhũng mới là điều lạ. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là tiền dù số tiền bị mất lên đến hằng chục hằng trăm tỷ, mà cái lớn nhất bị mất là đạo đức. Chúng ta sống trong một xă hội mà chúng ta phải nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày trở thành thói quen, rồi thói quen đó lặp lại nhiều lần thành đạo đức, mà cái đạo đức đó rất mất đạo đức. Đó là một nguy cơ nhưng tôi thấy chẳng mấy người quan tâm mà chỉ chăm chú vào tham nhũng.

    Thời gian cuối đời (năm 2006) của Đại Tá nhà văn cộng sản Nguyễn Khải, một thời là Đại Biểu Quốc Hội, Phó Tổng Thư Kư Hội Nhà Văn CSVN, qua bài viết “Đi T́m Cái Tôi Đă Mất”, ông dám bộc lộ cái nh́n chân thật của ḿnh về bản thân của ông và về chế độ cộng sản mà trước đó ông đă tham gia đấu tranh giai cấp một cách cuồng nhiệt. Theo ông Khải, ngôn từ là mặt yếu nhất trong các lănh vực thượng tầng cấu trúc tại các nước xă hội chủ nghĩa, v́ lănh đạo các nước đó dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp để che đậy, tức là nói vậy nhưng không phải vậy. Nó là cái vơ cứng để bảo vệ hiệu quả những bất trắc mà lănh đạo các cấp trong bộ máy quyền lực thường sử dụng. Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối ĺ lợm, nói dối không hề biết xấu hổ, cũng không hề run sợ, v́ họ biết rằng người dân không bao giờ dám hỏi lại bởi đó là tối kỵ. Về phía người dân, cũng thừa biết lời lẽ lănh đạo của họ là dối trá nên chẳng cần phải hỏi mà hăy làm theo ư ḿnh là ḿnh cũng sẽ dối trá để che đậy nếu như nhà cầm quyền hỏi. Nhưng tại sao người dân phải dối trá? Tại v́ các cấp lănh đạo dạy dỗ người dân dối trá và ép người dân phải dối trá như họ. Vậy là lănh đạo lẫn người dân đều dối trá để che đậy, và che đậy cái ǵ đó tất nhiên là xấu xa hèn hạ.

    Theo bảng xếp hạng về “tự do báo chí” của Worldwide Press Freedom Index 2008 th́ các quốc gia cộng sản cùng trong nhóm cuối bảng tổng xếp hạng: Trung Hoa 167/173, Việt Nam 168/173, Cuba 168/173, và Bắc Hàn 172/173.

    Lănh đạo vi phạm nhân quyền.

    Ngày 1/12/2005, tại trụ sở Quốc Hội Âu Châu ở Brussels, 730 Dân Biểu của 25 quốc gia khu vực Đông Âu, Tây Âu, và Bắc Âu, bao gồm nhiều đảng phái chính trị với những khuynh hướng khác nhau, đă đồng thuận khi biểu quyết một Quyết Nghị, đ̣i lănh đạo CSVN phải thực hiện không chậm trễ, việc trả tự do cho các nhân vật bất đồng chính kiến, đặc biệt là đ̣i Việt Nam phải tổ chức bầu cử tự do trên căn bản đa đảng. Đồng thời, thực hiện quyền tự do báo chí. Ông Ian Pearson, Bộ Trưởng Thương Mại & Đặc Trách Nhân Quyền Bộ Ngoại Giao Anh quốc, đang là Chủ Tịch luân phiên của Liên Hiệp Âu Châu, phát biểu sau khi Nghị Quyết được thông qua: “Tôi chào mừng sự quan tâm của Quốc Hội Âu Châu trên vấn đề hôm nay. Đặc biệt là cuộc điều trần quan trọng ngày 12 tháng 9 năm 2005 dẫn đến Nghị Quyết này. Tôi biết rất rơ về t́nh trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng tại ba nước Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Ví dụ như tại Bộ Ngoại Giao, trong năm nay đă nhận được 100 thư khiếu nại của các Dân Biểu Anh quốc về những vụ vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Tôi mừng rằng, sau cuộc điều trần nói trên, nhà cầm quyền Việt Nam đă để cho Liên Âu gặp thăm Ḥa Thượng Thích Quảng Độ. Tôi sẽ nêu vấn đề này và đưa ra một danh sách tù nhân phải được trả tự do, trong cuộc gặp gỡ và đối thoại về nhân quyền với phái đoàn nhà cầm quyền Việt Nam vào ngày 12 tháng 12 sắp tới (2005)”

    Ngày 25/1/2006, Nghị Viện Châu Âu tại Strasbourg đă đưa ra Nghị Quyết 1481, lên án “chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ toàn trị cộng sản đă vi phạm nhân quyền tập thể”. Trong điều 2 ghi rằng: “Những vi phạm khác nhau tùy theo nền văn hoá và những giai đoạn lịch sử: (1) Những hành vi từ ám sát, hành quyết, bỏ đói, đày ải, đến khủng bố, tra tấn cá nhân lẫn tập thể trong các trại tập trung. (2) Những hành vi ngược đăi v́ chủng tộc hay tôn giáo, từ tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do báo chí, đến tự do lương tâm, và độc đảng chính trị”. Trong điều 5 ghi rằng: “Cần thiết phải điều tra và truy tố những tội phạm ra ṭa án xét xử”.

    Ngày 15/3/2007, phái đoàn Nhân Quyền Na Uy có tên là “Rafto Foundation for Human Rights” do Cô Therese Jebsen hướng dẫn sang Việt Nam, với mục đích thăm Ḥa Thượng Thích Quảng Độ và trao giải thưởng Nhân Quyền mà Ngài được tổ chức này quyết định trao tặng hồi tháng 11/2006. Cùng đi, c̣n có ông Tom Rune Orset, thông tín viên đài truyền h́nh TV2 của Na Uy, và cô Kiều Trần với trách nhiệm thông dịch. Công An đă ngăn chận, chẳng những không cho phái đoàn vào Thanh Minh Thiền Viện, mà c̣n đưa phái đoàn về trụ sở Công An “làm việc” mấy tiếng đồng hồ. Sau đó, Công An gọi cô Kiều Trần đến trụ sở làm việc, nhưng Cô Trưởng phái đoàn không đồng ư v́ Cô nghi ngờ họ hành động gian trá đối với cô Kiều Trần.

    Ngày 12/7/2007, Quốc Hội Châu Âu trụ sở tại Strasbourg đă thông qua “Quyết Nghị về vấn đề Việt Nam” sau khi nghe một số Dân Biểu Tây Âu & Đông Âu tŕnh bày về đàn áp nhân quyền và tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt là đàn áp 20 Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, điều luật an ninh quốc gia trong Bộ Luật H́nh Sự trái với Công Ước quốc tế, Pháp Lệnh 44 xử lư hành chánh ban hành năm 2002 cho phép đưa các nhân vật bất đồng chính kiến vào bệnh viện tâm thần như kiểu Xô Viết ngày trước.

    Trong quyển “Death by Government” giáo sư R.J. Rummel viết như sau: “Dưới lớp vơ Việt Minh chống Pháp, cùng lúc họ thực hiện cuộc chiến tranh tàn sát những người quốc gia không cùng đường lối với họ. Chưa hết, họ cũng tiêu diệt những người cùng trong hàng ngũ khi họ xem những người cộng sản đó chệch hướng”.

    Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007)

    Ngày 23/1/2008, tại Strasbourg, Quốc Hội Châu Âu đă thông qua Quyết Nghị về Việt Nam. Quyết Nghị tố cáo CSVN vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp, đàn áp bắt giam những người lên tiếng về tự do tôn giáo, về chống hành vi lấn chiếm lănh thổ, và bắt giam các nhà báo. Quyết Nghị kêu gọi Liên Hiệp Châu Âu “đề xuất với CSVN chấm dứt t́nh trạng vi phạm qui mô về nhân quyền trước khi kư kết các Hiệp ước mới”.

    Ngày 2/3/2009, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố t́nh h́nh nhân quyền thế giới, trong đó có phần nói về nhân quyền tại Việt Nam trong năm 2008: “Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với dân số khoảng 86 triệu người, là một quốc gia độc đoán do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Cuộc bầu cử tháng 5/2007 đă diễn ra trong không khí thiếu tự do, không công bằng, v́ tất cả ứng viên bị xem xét nghiêm ngặt bởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức ngoại vi của đảng CSVN có nhiệm vụ theo dơi các tổ chức quần chúng. Trong năm qua (2008), nhà cầm quyền tiếp tục ngăn chận các quyền tự do căn bản như tự do báo chí, tự do bày tỏ cảm nghĩ, tự do hội họp, cùng với hành động đàn áp những người bất đồng chính kiến, bắt giữ các nhà dân chủ khiến nhiều người phải ra đi lánh nạn. Người dân không thể thay đổi chánh phủ bằng lá phiếu v́ các hoạt động chính trị bị ngăn cấm hoàn toàn”.

    Ngày 09/03/2009, tổ chức Freedom House công bố tại Genève (Thụy Sĩ) bản phúc tŕnh hằng năm về t́nh trạng nhân quyền thế thế giới. Bản phúc tŕnh chia các quốc gia được đánh giá t́nh trạng nhân quyền trong năm 2008 làm 3 nhóm khác nhau: Nhóm thứ nhất là các quốc gia hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn về có tự do nhân quyền trong suốt một phần tư thế kỷ qua, trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Anh, Đức, Pháp, Nhật, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Australia, Italy, …… Nhóm thứ hai là các quốc gia có tự do chừng mực về nhân quyền , là Thái Lan, Singapore, Phi Luật Tân, Trung Hoa cộng sản, Iraq, …. Và nhóm thứ ba là các quốc gia hoàn toàn không có tự do về nhân quyền, gồm Việt Nam, Cam Bốt, Á Rập Xê Út.

    Một chế độ mà từ Chủ Tịch đảng, xuống Tổng Bí Thư, đến Chủ Tịch nước, Thủ Tướng chánh phủ, tự tôn vinh là người vĩ đại, là đỉnh cao trí tuệ, là tài t́nh sáng suốt, là tuyệt đối đúng, lại dối trá kèm theo những mưu mẹo vặt trong toàn bộ chính sách độc tài cai trị dân từ thể xác đến tinh thần, quả là dân tộc Việt Nam vô cùng bất hạnh! Từ bản chất độc tài gian dối đó, các nhóm lănh đạo cộng sản Việt Nam đă gây ra vô vàn tội ác với dân với nước mà 4 tội ác dưới đây là tiêu biểu mạnh mẽ:

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    a. Tội ác về giáo dục.

    Trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 có bài “Nh́n thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam” của giáo sư Hoàng Tụy. Ông nhận định sắt bén: “Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đă và đang làm đau đầu cả xă hội. Chính Thủ Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đă thừa nhận chánh thức sự không thành công của giáo dục, đến nay thực trạng nghiêm trọng của giáo dục Việt Nam vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách nhiệm vẫn tự ru ngủ ḿnh với những thành tựu thực và ảo của giáo dục. Nếu Việt Nam cô lập với thế giới th́ không đến nỗi quá lo lắng, nhưng nếu khách quan và có trách nhiệm khi đặt giáo dục trong bối cảnh toàn cầu, th́ không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục Việt Nam so với các quốc gia chung quanh. Thực tế, đất nước ngàn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái nghiêm trọng của giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua ”.

    Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những sai lầm trong giáo dục do tư duy xơ cứng mà 20 năm qua không hề thay đổi. Nền giáo dục chân chính của quốc gia nào cũng có sứ mạng cao cả về giáo dục con người trong một xă hội lành mạnh với cuộc sống trung thực và óc sáng tạo để góp phần phát triển đất nước. Nhưng tiếc thay, những điều đó đă không đuợc chú ư trong xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Ngày nay, môi trường quốc tế đă biến đổi cực kỳ sâu sắc trong khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xă hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.

    Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới nét nh́n của một người Mỹ” do ông Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong trang Web của nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội dung bài này là đề tài thảo luận khi Thủ tướng đảng cộng sản Nguyến Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush tháng 6 năm 2008 tại Washington DC.

    “Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn diện về giáo dục: Viên chức không được đào tạo quản trị. Nhà giáo được đào tạo rất kém với đồng lương quá thấp. Cơ hội học đại học rất hạn hẹp v́ cơ sở không phát triển, số giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng chứng là năm 2007 các trường đại học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong tổng số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng sinh viên ghi tên vào ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan 41%, Đại Hàn 89% (thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng tiến sĩ th́ mua, c̣n giáo sư th́ được đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không do công tŕnh và sự nghiệp sư phạm. Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác bệnh ung thư trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và canh tân giáo dục, khi nh́n vào số lượng tập san khoa học do các trường đại học ấn hành. Năm 2006, hai đại học lớn nhất Việt Nam là đại học quốc gia và đại học kỹ thuật Hà Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại học quốc gia Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa học. Cũng trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế của Việt Nam chỉ nộp có 2 đơn, trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000 đơn. Số sinh viên từ các trường đại học Việt Nam có tŕnh độ rất kém, bằng chứng là một công ty kỹ nghệ Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên Việt Nam vừa tốt nghiệp đại học được xem là giỏi nhất trong tổng số, kết quả là công ty này chỉ chọn được 40 thí sinh có tŕnh độ tối thiểu. T́nh trạng giáo dục Việt Nam có thể phá hỏng những phát triển kinh tế trong nước và tiến tŕnh hội nhập thế giới”.

    Sau buổi họp ngày 11/9/2008 tại Hà Nội, CSVN yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp đào tạo 10.000 tiến sĩ tính đến năm 2020, theo bài viết của Mặc Lâm phóng viên đài RFA, th́ giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Giám Đốc Điều Hành Quỹ Học Bổng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của Vương Quốc Bỉ tại Việt Nam, cho biết: “Với tư cách là một nhà giáo, với tư cách là một người có nhiều năm đào tạo các tiến sĩ, con số đưa ra (10.000 tiến sĩ) lớn lao như vậy, sẽ có những khó khăn trước mắt. Theo kinh nghiệm của tôi, ở Việt Nam rất khó t́m được những đối tượng đủ khả năng để theo học bằng tiến sĩ. Bằng chứng là chúng tôi có một dự án đào tạo 50 tiến sĩ giữa đại học Liège của Bỉ với đại học Xây Dựng Hà Nội, nhưng đă 5 năm qua rồi mà chúng tôi chỉ t́m được chưa tới 10 người th́ làm sao t́m đâu ra con số 10.000 người trong 12 năm tới. Bậc tiến sĩ không phải chỉ có tài chánh là đủ, mà vấn đề là phải có những học sinh có đủ tư duy, có đủ tŕnh độ để theo học, có một đam mê nào đó mới có thể đạt đến bằng tiến sĩ nghiêm túc như ở Hoa Kỳ, hay ở các đại học Châu Âu. Nói chung là t́m đối tượng tại Việt Nam theo học tiến sĩ là rất rất khó”.

    Trong suốt chiều dài hơn 30 năm kể từ khi chiếm xong Việt Nam Cộng Ḥa năm 1975 đến nay, nền giáo dục Việt Nam và các vấn đề liên quan rất tồi tệ, dù rằng từ năm 2001 đến nay mức phát triển kinh tế phát triển trên dưới 7% mỗi năm. Lănh đạo CSVN chỉ chú trọng làm ra khẩu hiệu chớ không làm ra chính sách, v́ chính sách giáo dục từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nay là đầu thế kỷ 21 chỉ có mục đích đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Xuyên qua nhận định của những viên chức hàng lănh đạo giáo dục Việt Nam, cũng như nét nh́n từ viên chức giáo dục Hoa Kỳ, sự thật tồi tệ hiện nay đến mức lănh đạo CSVN không thể che giấu nỗi nên phải nh́n nhận sự thật mà bản chất của đảng cộng sản vốn dĩ là dối trá che giấu. Đây là tội ác nặng nhất trong số những tội ác mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, bởi v́ xă hội Việt Nam hiện nay là một xă hội băng hoại đạo đức, đảo lộn luân thường đạo lư, dẫn đến t́nh trạng sau khi chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế hệ sau đó mới hy vọng khôi phục lại được nét tinh hoa văn hoá dân tộc.

    b. Tội ác về lănh thổ.

    Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng kư văn kiện ngày 14/9/1958, công nhận vùng Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trở thành lănh thổ của nước Trung Hoa. Đây là hành động chư hầu của nhóm lănh đạo VNCS đối với THCS chẳng khác thời phong kiến xa xưa trong lịch sử! Với văn kiện này không thể do ông Thủ Tướng họ Phạm quyết định mà phải là lệnh của Bộ Chính Trị do ông Hồ lănh đạo. Từ đó khẳng định ông Phạm kư văn kiện đó là theo lệnh ông Hồ.

    Ngày 30/12/1999, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư đảng CSVN kư Hiệp Ước dâng 789 cây số vuông dọc biên giới để trừ nợ mua vũ khí đạn dược sử dụng trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa 1955-1975, là hành động cắt đất bán cho THCS!

    Ngày 25/12/200, ông Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân kư Hiệp Ước cắt 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt cho Trung Hoa cộng sản, là hành động cắt biển bán cho THCS để lấy 2.000.000.000 mỹ kim, mà theo lời ông Lương để “vuốt ve” sức phản kháng của ông Vơ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và những người khác trong Quốc Hội. Phải viện dẫn lư do thăm viếng, v́ sau khi những tin tức loan truyền khá rộng răi tại Hà Nội, loan dần vào miền Nam về Hiệp Ước ngày 31/12/1999 bán đất cho THCS và đă âm thầm đưa Hiệp Ước ra Quốc Hội phê chuẩn ngày 9/6/2000. Với hành động không công khai minh bạch, chứng tỏ lănh đạo VNCS biết những hành động đó là hành động tội ác nên phải che giấu người dân dưới quyền. Biết vậy mà vẫn hành động, chính xác là lănh đạo VNCS đặt quyền lợi đảng cộng sản Việt Nam lên trên quyền lợi tổ quốc quyền lợi dân tộc, v́ quyền lợi của đảng đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư của nhóm lănh đạo hơn 100 đảng viên trong ban chấp hành trung ương của họ.

    Vậy là, ngoài nhóm 4 tên lănh đạo với tội ác nói trên đă bán đất bán biển cho THCS, thêm nhóm lănh đạo với tội ác thỏa hiệp cho THCS sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa tỉnh Hải Nam hồi đầu tháng 12/2007. Rồi tội thêm tội khi họ sử dụng “hung thần” Công An ngăn chận thanh niên sinh viên học sinh biểu t́nh ngày 9 & 16/12/2007 phản đối THCS chiếm hai quần đảo nói trên của Việt Nam. Chưa hết, lại tội thêm tội khi các thành phần phẫn uất hành động của THCS lẫn phản ứng của VNCS chuẩn bị mít tinh biểu t́nh trước ṭa đại sứ THCS vào ngày 14/9/2008, phản đối chúng trưng dẫn văn kiện của Phạm Văn Đồng gởi THCS vào ngày này 50 năm trước, lại bị đám “hung thần” Công An tại Hà Nội cũng như tại các địa phương, ra sức ngăn chận bắt giữ thẩm vấn những ai mà họ nghi sẽ tham gia mít tinh biểu t́nh. Nhóm lănh đạo tội ác này là Nguyễn Minh Triết trong chức Chủ Tịch nước và Nguyễn Tấn Dũng trong chức Thủ Tướng.

    Với những hành động gian trá giấu diếm khi kư ba văn kiện ngày 14/9/1958, ngày 30/12/1999, ngày 25/12/2000, cộng với những hành động gian trá của Quốc Hội khi phê chuẩn hai Hiệp Ước nói trên, cộng thêm sự thỏa hiệp để Trung Hoa cộng sản thành lập huyện Tam Sa bao gồm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam, lại c̣n sử dụng Công An đàn áp những ai thể hiện ư thức chính trị ôn ḥa qua hành động mít tinh biểu t́nh phản đối hành động của THCS lấn chiếm lănh thổ Việt Nam, đích danh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, là những tên bán đất bán biển cho THCS, một quốc gia với chiến lược trường kỳ xâm chiếm Việt Nam chúng ta! Chỉ riêng cái tội kinh hoàng này mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, đă quá đủ để đưa những tên này ra ṭa án quốc gia phán xét, và lưu măi trong sử sách truyền măi trong dân gian cho đến ngàn năm sau như những tên bán nước từ ngàn năm trước. Kẻ bán nước không được gọi bằng ông hay bất cứ cách gọi nào khác dành cho người tử tế cho dù họ bao nhiêu tuổi.

    Chưa hết, tháng 12 năm 2008, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng: “Khai thác quặng Bauxite là chủ trương lớn của đảng” (mà đảng là nhóm lănh đạo)”. Thỏa hiệp này cho Trung Hoa cộng sản đưa hằng ngàn thậm chí là hằng chục ngàn công nhân và lực lượng quân đội dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh vùng khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên miền Trung tạo môi trường sống vùng này trở nên tồi tệ. Và tồi tệ hơn hết nếu giả thuyết sau đây rất có thể trở thành sự thật là một lực lượng quân đội THCS sẽ đồn trú dài hạn nơi đây dưới danh nghĩa nào đó mà lănh đạo VNCS không thể khước từ do lệ thuộc THCS”.

    Nước Việt Nam ta qua nhiều ngàn năm lịch sử với biết bao thăng trầm vinh nhục, nhưng chưa có triều đại nào cũng chưa có nhóm lănh đạo nào tồi tệ đê hèn như nhóm lănh đạo Việt Nam cộng sản, đă v́ quyền lợi riêng tư mà dâng nộp cho Trung Hoa cộng sản 789 cây số vuông (năm 1999) trên dăi đất biên giới, 11.362 cây số vuông (năm 2000) trong vùng vịnh Bắc Việt, và mặc nhiên thỏa hiệp cho Trung Hoa cộng sản sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào huyện Tam Sa của Trung Hoa cộng sản (2007), cộng với nhiều ngàn công nhân lẫn đơn vị quân đội THCS trong khu vực khai thác quặng mơ Bauxite vùng Dak Nong Cao Nguyên Miền Trung (năm 2008). Đây là tội ác ngang hàng với tội ác giáo dục

    c. Tội ác tàn sát đồng bào.

    - Theo giáo sư Rummel trong quyển “Death by Government” th́ cộng sản Việt Nam với tội ác tàn sát đồng bào. Trong giai đoạn 1945-1957, đă giết những thành phần mà họ gọi là các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác khuynh hướng chính trị, và những người trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư tưởng cộng sản cũng bị họ giết. Căn cứ vào tài liệu, số người bị giết trong giai đoạn này vào khoảng 50.000 người.

    - Trong giai đoạn cải cách ruộng đất trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người bị đấu tố (được hiểu là bị giết). Sau khi sửa sai th́ đảng với nhà nước đưa ra con số 123.266 người bị coi là oan. Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007).

    - Trong Tết Mậu Thân năm 1968, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, th́ số hài cốt t́m được do cộng sản Việt Nam đă bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! Nhưng theo sử gia Trần Gia Phụng th́ số người t́m được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị giết là 5.800 người!

    - CSVN bắt đầu cuộc gây chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa từ năm 1954, và đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam Cộng Ḥa chúng ta sụp đổ. Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đă chết trên chiến trường Việt Nam Cộng Ḥa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam. Nhưng theo nhà văn nữ (cựu cộng sản) Dương Thu Hương th́ số người chết lên đến 10.000.000 người.

    - Cộng sản cai trị toàn cơi Việt Nam dưới tên nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với hằng loạt những chính sách đánh quỵ xă hội mà họ vừa chiếm được. Theo tài liệu của Việt Quốc bên Germany, th́ Sở Công An Sài G̣n (mà họ cái tên Hồ Chí Minh vào đó), đến cuối tháng 7 năm 1975, Công An đă đẩy 154.772 quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Ḥa cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10 cùng năm (1975), Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung tính đến 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Ḥa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cơi Việt Nam là 222.809 người. Đến tháng 4/1992, người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8.000 đến 10.000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lănh đạo CSVN..

    - CSVN áp dụng những chính sách khắc nghiệt cai trị toàn cơi Việt Nam, là nguyên nhân chính đẩy hơn 3.000.000 người bằng mọi phương cách rời khỏi quê hương t́m tự do trên khắp thế giới! Trong số này có khoảng 150.000 người di tản trước trong và ngay sau ngày 30/4/1975. Tiếp sau đó, ḍng người Việt Nam ào ạt trốn chạy khỏi quê hương tị nạn tại các quốc gia tự do trên thế giới gồm 839.200 người trong 20 năm kể từ tháng 6/1975: Giai đoạn 1, tháng 6/1975 - 1979 có 326.000 người tị nạn gồm 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới gọi là Thuyền Nhân”. Giai đoạn 2, 1980 - 1984, có 253.100 người tị nạn gồm 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Giai đoạn 3, 1985 - 1989, có 197.000 người tị nạn gồm 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Và giai đoạn 4, 1990-1995, có 63.100 người tị nạn gồm 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Các cơ quan quốc tế về truyền thông lẫn tị nạn dựa vào tin tức do người tị nạn cung cấp, phỏng đoán cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển th́ 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết mất xác. Theo cách ước tính này, có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài! Đây là tội ác thứ hai sau hai tội ác ngang nhau là giáo dục và lănh thổ.

    d. Tội ác áp bức cướp đoạt tài sản.

    Sau khi chiếm Việt Nam Cộng Ḥa 30/4/1975, đẩy hơn 200.000 viên chức cán bộ và quân nhân vào các trại tập trung, CSVN bắt đầu cướp đoạt tài sản mọi thành phần xă hội Việt Nam Cộng Ḥa cũ:

    Ngày 20 tháng 8 năm 1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh mọi người phải tiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Ḥa mà họ gọi là văn hóa phẩm đồi trụy và phản động. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra “ṭa án nhân dân”. Chính sách này giống chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và thời Mao Trạch Đông cộng sản. Nhà văn nữ cộng sản Dương Thu Hương viết rằng: “Sau 30/4/1965, tôi vào miền Nam choáng váng khi nhận thấy hệ thống thông tin ở đây quá phong phú. Trên các quày sách với vô số các tác phẩm văn chương, khoa học, triết học của thế giới kim cổ Đông Tây. Rất nhiều sách triết học Mác - Lê, sách văn học Nga và Sô Viết. Trong khi ở miền bắc mấy chục năm trời chỉ có một luồng thông tin, làm sao nh́n hết sự vật để đánh giá!”

    Ngày 18 tháng 9 năm 1975, lănh đạo cộng sản Việt Nam bất th́nh ĺnh thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền c̣n lại, mỗi khi gia đ́nh có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xă chứng nhận mới được cứu xét. C̣n cứu xét như thế nào th́ tùy họ khi vui lúc buồn. Tháng 5/1978 đổi tiền lần nữa với trị giá 1 đồng mới = 10 đồng đang lưu hành. Như vậy, 1 đồng bạc mới = 5.000 đồng Việt Nam Cộng Ḥa cũ. Một chút so sánh: Đến ngày 6/3/2009, 1 mỹ kim = 17.380 đồng VNCS. Nếu đem 1 mỹ kim x 17.380 đồng VNCS x 5.000 VNCH năm 1975 sẽ là = 86.900.000 đồng. Con số này nói rât rơ về sự mất giá của đồng bạc VNCS đến mức nào sau 33 năm cầm quyền!

    Ngày 10 tháng 11 năm 1975, chính sách đánh vào ngành kinh doanh thương măi, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là “vận động” hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương măi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là “khu kinh tế mới” tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ th́ bị bắt vào trại tập trung, c̣n tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa th́ tài sản cũng vào tay nhà nước cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xă hội- thế thôi.

    Đến chính sách cải tạo văn nghệ sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21 tháng 3 năm 1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Ḥa, đă bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13 tháng 6 năm 1976.

    Tháng 6 năm 1977, lại một chính sách khác buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là “vận động”, đem tập trung vào Hợp Tác Xă. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xă quản trị, c̣n nông dân tùy theo lao động của ḿnh bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xă quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính. Trần Bá Đệ, một sử gia miền bắc viết rằng: “Trong khi nông nghệp miền bắc đang trên con đường hợp tác hóa trên 15 năm đang ở lối nghẽn chưa t́m ra lối thoát, đảng lại chủ trương đưa nông nghiệp miền nam đi tiếp trên con đường đó”. (trích quyển “Lịch sử hiện đại Việt Nam 1945-2006” của tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành, xuất bản năm 2008, trang 643)

    Cái chính sách toàn bộ đất đai trên toàn cơi Việt Nam thuộc về nhà nước mà nhà nước lả đảng cộng sản mả đảng là một nhóm hơn 10 đảng viên trong Bộ Chính Trị. Chính từ chính sách này mà phát sinh vô số người dân phải kêu oan khiếu nại. Từ năm 2006, sự kiện từng đoàn dân oan từ chấp nhận mọi khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày và nguy hiểm đến tính mạng, đă các tỉnh kéo vào thành phố kinh tế Sài G̣n và thành phố chính trị Hà Nội ở đó tháng này sang tháng khác, kêu oan khiếu nại với các cơ quan thẩm quyền, là bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự áp bức bóc lột người dân về đất đai, dưới danh nghĩa xây dựng công ích quốc gia nhưng hầu hết đem bán cho các cơ quan đầu tư ngoại quốc xây dựng cơ sở sản xuất cũng như cơ sở giải trí với giá cao trong khi đền bù cho dân quá thấp. Nhà nước cộng sản dành cho cái quyền quản trị đất đai, cho người dân sử dụng nhưng khi cần là họ lấy lại đúng nghĩa của “chế độ (dân) xin và (nhà nước) cho”, nhưng khi thấy có lợi cho họ là họ lấy lại. T́nh trạng dân oan khiếu nại kiện thưa từ đó đến cuối năm 2008 càng thêm phức tạp, các cấp lănh đạo đều gian trá dối gạt đồng bào đến mức người dân oan không c̣n tin lănh đạo hứa hẹn, cũng không sợ Công An đàn áp. Các cơ quan truyền thông quốc tế ước lượng có khoảng từ 30.000 đến 50.000 dân oan tham dự khiếu nại thưa kiện tại các tỉnh và thành phố mà nhiều nhất là Sài G̣n và Hà Nội.

    Trên tuần báo Saigon Weekly News ngày 31/10/2008 tại Houston, ông John Hendra, phối trí viên của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cảnh báo rằng: “Dù kinh tế Việt Nam phát triển trong những năm gần đây nhưng nhiều nhóm dân vẫn trong t́nh trạng có thể bị thiếu thực phẩm, nhất là những nhóm nông dân không có ruộng đất, những nhóm dân nghèo tại các đô thị, và những nhóm dân tộc thiểu số. Giữa lúc giá nhiên liệu và thực phẩm trên thế giới giảm dần th́ lạm phát tại Việt Nam vẫn c̣n ở tỷ lệ 26.7% trong năm 2008, khiến ngân sách gia đ́nh của giới nghèo túng càng thêm kiệt quệ. Trong hơn 10 năm qua, kinh tế Việt Nam phát triển trung b́nh 7.5% giúp một số dân thoát khỏi cảnh nghèo đói, nhưng t́nh trạng hiện nay làm cho giới dân nghèo trở thành cơ cực đă tạo nhiều bất ổn trong xă hội (Có lẽ nói đến t́nh trạng dân nghèo bị bóc lột phải đi khiếu nại kêu oan. PBH). Việt Nam cần phải củng cố các chương tŕnh an sinh xă hội để giúp dân nghèo nhiều rủi ro nhất”.

    Bản tin ngày 5/2/2009 do Thời Báo Kinh tế Việt Nam ghi nhận, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng cho biết t́nh h́nh kinh tế xă hội năm 2008 rất nhiều biến động gần như không thể lường trước được, do đó ông kêu gọi dân chúng phải đồng thuận để tạo sức mạnh đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện nay. Việt Nam chưa cần phá giá đồng bạc, v́ phá giá từ 17.000 đồng VN = 1 MK lên 18.000 đồng th́ tổng số nợ ngoại quốc từ 18 tỷ mỹ kim (hiện nay) sẽ tăng lên rất nhiều và ảnh hưởng mạnh vào ngân sách. Ngay trong tháng đầu năm 2009, chỉ số của các ngành từ sản xuất kinh doanh đến du lịch, xuất cảng, … đều giảm sút mạnh.

    3. Kết luận.

    Cộng sản độc tài vẫn là cộng sản độc tài. Họ chỉ phục vụ bản thân họ dưới tên gọi đảng cộng sản Việt Nam. Từ kinh nghiệm dẫn đến khẳng định, đă là cộng sản th́ không có người cộng sản tử tế v́ những chính sách giáo dục chỉ nhắm đào tạo những thế hệ thần dân tuân phục họ, và những chính sách xă hội chỉ nhắm đè bẹp các quyền tự do của con người trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị người dân, cho nên hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam không có những công dân tử tế để xây dựng một xă hội tử tế trong mục đích phục vụ người dân.

    Vậy, ngày nào chế độ CSVN độc tài tàn bạo c̣n tồn tại th́ ngày đó người dân vẫn mất quyền làm người và vẫn bị áp bức bóc lột từ vật chất đến tinh thần. Cách duy nhất mà người dân giành lại quyền làm người của ḿnh là vùng lên lật đổ và triệt tiêu chế độ này, v́ lá phiếu không thể chuyển hóa được những kẻ lănh đạo tàn bạo phi nhân của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng./.

    (Trích phụ bản A trong bài đang viết “Quan Niệm Sách Lược Đấu Tranh Lật Đổ CSVN”).



    Phạm Bá Hoa

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hố chôn người ám ảnh
    19/11/2009

    Kính thưa quư thính giả trong tiết mục Tố Cáo Tội Ác CSVN hôm nay, chúng tôi xin gửi đến quư vị hồi kư có tên Hố Chôn Người Ám Ảnh, của nhà thơ Trần Đức Thạch, kể lại trận đánh ở ấp Tân Lập vào cuối tháng 4 năm 75, mà ông đă tham dự với vai tṛ đội trưởng trinh sát Quân đội Nhân dân. Bài này là 1 trong những tác phẩm mà ṭa án CSVN trong phiên xử ngày 6/10 vừa qua, nêu lên như là một chứng cứ để buộc tội ông vào điều 88 bộ luật h́nh sự tức là “Tội Tuyên Truyền Chống Chế Độ”.

    Hố chôn người ám ảnh

    “… sống trong xă hội xă hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều chắc …”

    Tháng 04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông Lam A) phối hợp với sư đoàn khác đánh vào căn cứ pḥng ngự Xuân Lộc. Trận chiến quyết liệt kéo dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành quân bị lạc nên được giao nhiệm vụ chốt chặn, nhằm không cho các đơn vị quân lực Việt Nam cộng hoà tiếp viện cũng như rút lui. Phải công nhận là sư đoàn 18 của phía đối phương họ đánh trả rất ngoan cường. Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đă trả lời kêu gọi đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15. Sau đó họ ôm nhau tự sát bằng một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người. Một tiếng nổ nhoáng lửa, xác họ tung toé giữa vườn cam sau ấp Bàu Cá. H́nh ảnh bi hùng ấy đă gây ấn tượng mạnh cho tôi. Tinh thần của người lính đích thực là vậy. Vị tướng nào có những người lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đă thể hiện khí phách của người trai nơi chiến trận. Giả thiết nếu phía bên kia chiến thắng chắc chắn họ sẽ được truy tôn là những người anh hùng lưu danh muôn thủa. Nhưng vận nước đă đi theo một hướng khác. Họ đành phải chấp nhận tan vào cơi hư vô như hơn 50 thuỷ binh quân lực Việt Nam Cộng Hoà bỏ ḿnh ngoài biển để bảo vệ Hoàng Sa.

    … Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. Ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ văi ra như mưa. Là phân đội trưởng trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ. Chuyện ǵ thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc lửa.

    - Đừng bắn nữa ! Tôi đây ! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây !

    Nghe tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng. Tôi quát :

    - Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tư nữa th́ thịt cả ḿnh.

    Mấy ông lính trẻ tṛn mắt nh́n tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi:

    - Anh ơi ! đây là lệnh.

    - Lệnh ǵ mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia ḱa!

    - Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
    - Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa để tôi kiểm tra t́nh h́nh thế nào. Có ǵ tôi chịu trách nhiệm!

    Thấy tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đ́a, máu chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vă kêu lên đau đớn. Tôi vực cụ vào bóng mát rồi giật cuốn băng cá nhân duy nhất bên ḿnh băng tạm cho cụ. Lát sau tôi quay lại th́ cụ đă tắt thở v́ máu ra quá nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo bên cạnh:

    - Ai bắn đấy?

    - Đại đội phó Hường đấy anh ạ!

    - Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đ́nh, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đă thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết ră rượi trong cảnh cơm trộn máu. Tôi bị sốc thực sự. H́nh ảnh anh bộ đội cụ Hồ “Đi dân nhớ ở dân thương” mà thế này ư? Cứ bảo là Mỹ ngụy ác ôn chứ hành động dă man này của chúng ta nên gọi là ǵ? Tâm trạng tôi lúc đó như có băo xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc cần làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em phụ nữ và trẻ con ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm. Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh rùng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh:

    - Xe th́ có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm!

    - Không lo, có tôi đi cùng!

    Tôi giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại:

    - Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước tư trang của những người đă chết sau này c̣n có việc cần đến.

    Thế là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái. Lăm lăm khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người bị thương ra bệnh viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác người bị chết ra cái hố đă đào. Không c̣n cách nào khác là phải chôn chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà trong hoàn cảnh ấy tôi buộc ḷng phải xử lư như vậy. Trời nắng gắt, để bà con phơi thây măi không được. Một nấm mồ chung hàng trăm người lẫn lộn, không hương khói, không ǵ hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch sẽ những chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của ḿnh. Bằng mọi lỗ lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này nghĩ lại mới thầy hành động của ḿnh giống như sự phi tang tội ác cho những anh bộ đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn c̣n một phần ngu tín. Cũng muốn bảo vệ danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp. Tuy vậy tôi bắt đầu nghi ngờ: “Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ mặc? Chẳng lẽ họ mất hết nhân tính rồi sao?” Công việc xong tôi gặp Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảm giác tội lỗi. Nghê đă đưa xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo cách mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ giết chết bố Nghê. Nghê “mừng chưa kịp no” đă phải chịu thảm cảnh trớ trêu đau đớn. Nghê buồn rầu nói với tôi:

    - Hôm qua nghe lời anh. Em thu được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những người bị giết. Sau đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lư. Em giao lại hết cho anh ấy để lo việc chôn ba.

    - Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật chia buồn với em. Chiến tranh thường mang đến những điều không may tột cùng đau đớn mà chúng ta không thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong chuyện này.

    *** Đă mấy chục năm qua, khi hàng năm, khắp nơi tưng bừng kỷ niệm chiến thắng 30/4 th́ tôi lại bị ám ảnh nhớ về hàng trăm dân lành bị tàn sát ở ấp Tân Lập. Cái hố chôn người bây giờ ra sao? Người ta sẽ xử lư nó như thế nào hay để nguyên vậy? Tôi muốn được quay lại đó để thắp nén hương nói lời tạ tội. Vô h́nh dung việc làm tốt đẹp của tôi đă giúp cho người ta bưng bít tội ác. Không! Người dân ấp Tân Lập sẽ khắc vào xương tuỷ câu chuyện này. Nỗi đau đớn oan khiên lúc đấy chưa thể phải nhoà được. C̣n những người tham gia cuộc tàn sát ấy nữa có lẽ họ cũng vô cùng dằn vặt khi nhận những tấm huân huy chương do Đảng và Nhà nước trao tặng sau này chiến thắng. Ư nghĩ ấy giúp tôi dũng cảm kể lại câu chuyện bi thương này.

    Sau ngày giải pḥng Miền Nam 30/04/1975 tôi có chụp một kiểu ảnh đang cởi áo, lột sao dang dở. Tôi đem tặng cho một thằng bạn đồng hương chí cốt. Hắn run người, mặt tái mét:

    - Tao không dám nhận đâu, họ phát hiện ra tấm ảnh này quy cho phản động là chết cả nút.

    Bạn tôi sợ là đúng. V́ cậu ta là đảng viên. Nhưng điều bạn ấy không hiểu là tôi làm vậy v́ cảm thấy hổ thẹn và nhục nhă cho anh bộ đội cụ Hồ khi nghĩ tới vụ thảm sát ở ấp Tân Lập…

    Thời gian trôi, tôi từ một chàng lính trẻ măng ngày nào bây giờ đă là một ông già với mái đầu hoa râm đốm bạc. Vậy mà tôi chưa nói được câu chuyện lẽ ra phải nói . Đôi lúc tôi âm thầm kể lại cho một số bạn bè tin cậy. Nghe xong ai cũng khuyên “Nói ra làm ǵ, nguy hiểm lắm đấy”. Và quả thật, sống trong xă hội xă hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều chắc.

    Trần Đức Thạch

    Cựu phân đội trưởng trinh sát

    Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 266

    Sư đoàn 341 – Quân đoàn 4

    http://www.x-cafevn.org
    Last edited by alamit; 28-12-2011 at 07:50 PM.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam - Cải Cách Ruộng Đất

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam - Cải Cách Ruộng Đất


    Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương tŕnh nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thực hiện vào những năm 1953–1956. Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ.

    Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xă hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xă hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đă tuyên bố: "cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc". Dựa theo mô h́nh thổ địa cải cách của Trung Quốc (1946–1949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để[1] với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc[2].

    Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đă phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, với t́nh h́nh nông thôn Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn khác nhau, việc áp đặt giáo điều t́nh h́nh hai quốc gia đă gây ra nhiều phương hại[3]. Cuộc cải cách và đấu tố này đă gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự đoàn kết dân tộc và nhiều thế hệ người Việt. Suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa đă phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự-tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.

    Mục đích

    Chương tŕnh cải cách ruộng đất là một bước trong tiến tŕnh đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên xă hội chủ nghĩa, do Đảng Lao động Việt Nam tổ chức và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thực thi, hệ thống hóa và khai triển trên địa bàn rộng, công việc mà nhiều chính quyền địa phương đă làm từ những năm đầu Cách mạng tháng Tám:

    Tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người theo Pháp) bỏ lại, hay bỏ hoang v́ chiến tranh;
    Phân chia cho tá điền;
    Cắt giảm địa tô;
    Băi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.

    Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam th́ các công việc này cũng được Đảng và Chính phủ tiếp tục từng bước giải quyết trong kháng chiến chống Pháp, nhưng đến 1953 th́ mới được phát triển rộng (khởi sự tại Thái Nguyên). [4]

    Tại ḱ họp thứ ba của Quốc hội, để phát động chiến dịch, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa Hồ Chí Minh phát biểu: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp t́nh, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ". [5]

    Trước đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa quy kết là "Việt gian", tức là những người bị kết tội thông đồng với Pháp.

    Tổ chức

    Tháng 11 năm 1953, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa nhóm họp và thông qua dự luật cải cách ruộng đất 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật này vào ngày 19 tháng 12 năm 1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên "Luật Cải cách Ruộng đất". Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam cũng họp và tổ chức chuẩn bị thi hành cải cách ruộng đất sâu rộng trên toàn lănh thổ. Đảng này cũng chỉ định một ủy ban lănh đạo chương tŕnh cải cách ruộng đất và hoạch định tiến tŕnh cải cách ruộng đất.
    [sửa] Ban lănh đạo

    Phát động và làm tư tưởng chiến dịch: Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và nhà nước)
    Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp: Trường Chinh (Tổng Bí thư đảng)
    Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thái Nguyên: Hoàng Quốc Việt (Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
    Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: Lê Văn Lương (Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
    Giám đốc trực tiếp điều hành chiến dịch: Hồ Viết Thắng (Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương đảng)

    Tiến tŕnh

    Chương tŕnh cải cách ruộng đất được áp dụng qua bốn bước chính:
    [sửa] Huấn luyện cán bộ

    Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách ruộng đất được đưa đi học khóa Chỉnh huấn 1953, và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc [cần dẫn nguồn]. Các chương tŕnh học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải cách ruộng đất, quán triệt quan điểm: "trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ" [cần dẫn nguồn]. Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người.

    Chiến dịch Giảm tô

    Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất đi vào các làng xă và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xă đó, kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:

    Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xă, và tất cả các gia đ́nh trong xă được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng - sở hữu 1 con ḅ, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa - sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu - sở hữu 1 đàn gà hay không có ǵ cả; (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đ́nh có 2 con lợn đă có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".
    Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đ́nh bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
    Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đ́nh có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, bao gồm: sắc lệnh giảm tô xuống c̣n 25% vào tháng 11 năm 1945, sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân th́ bây giờ phải trả số nợ đó — gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ th́ tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau bước này, hầu hết gia đ́nh địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát — v́ nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp th́ không biết ǵ về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.[6]
    Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi", "rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đă bóc lột họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố khổ nhiều bi kịch xảy ra: con tố cha, vợ tố chồng... Du kích và cốt cán cải cách ruộng đất t́m bắt địa chủ, việt gian, thậm chí họ "vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".[7]
    Công khai đấu tố: Các buổi đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội địa chủ đă bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ư tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ ṭa án nhân dân xét xử, cũng có người bị đánh chết ngay trong lúc đấu tố[cần dẫn nguồn]. Gia đ́nh và thân nhân người bị đấu tố th́ bị cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục h́nh.
    Xử án địa chủ: Tại các huyện, một ṭa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xă xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, địa chủ bị xử bắn trước công chúng do đội tự vệ xă hành quyết. Những người không được xử bắn th́ bị cô lập trong các làng xă, một số bị thiệt mạng v́ bị bỏ đói.

    Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 1.875 xă.

    Chiến dịch Cải cách Ruộng đất

    Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương tŕnh Cải cách Ruộng đất chính thức bắt đầu, với h́nh thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đ́nh địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đ́nh có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị đấu tố. Tổng cộng có năm đợt cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 3.314 xă. Người đầu tiên bị buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là một phụ nữ, bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, bà là địa chủ kháng chiến có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam. [8]

    Tổng cộng có 6 đợt lớn cải cách ruộng đất. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Hoa, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đă xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan, nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên trong ṭa án nhân dân cũng có thể xử tử h́nh hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đă xuất hiện t́nh trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên đấu tố bản thân. Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở Thái B́nh, nơi có đến 294 xă được đưa vào cải cách.

    Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ương đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đă được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đă chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.

    Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đă gây ra nhiều hậu quả to lớn. Đă có rất nhiều người bị đấu tố oan. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đă bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đă được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường,[6] đă làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.

    Chiến dịch Sửa sai

    Trong tuyên bố của hội nghị TƯ 10, tháng 9/1956 đă nghiêm khắc phê b́nh:"Giai đoạn vừa qua có nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và điều chỉnh tổ chức. Hội nghị TƯ lần thứ 10 đă phân tích chi tiết các khuyết điểm, t́m ra nguyên nhân và thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội nghị thừa nhận nguyên nhân của những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lănh đạo. V́ thế Ban chấp hành TƯ nhận khuyết điểm của ḿnh. Các ủy viên tham gia trực tiếp đă kiểm điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những h́nh thức kỷ luật nghiêm khắc."

    Do nhận định chiến dịch Cải cách Ruộng đất giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:

    Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất.
    Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường tŕnh bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai.
    Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nh́n nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đă nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
    Ngày 24 tháng 8 năm 1956, báo Nhân Dân công bố có một số đảng viên trung kiên đă bị hành quyết sai lầm trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất.
    Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lănh đạo chương tŕnh Cải cách Ruộng đất như sau: ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị[9], và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Chấp hành Trung ương đảng.
    Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, người không tham gia trực tiếp vào sai lầm chương tŕnh Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.

    Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957, th́ chiến dịch sửa sai đă phục hồi danh dự và trả lại tài khoảng 70-80% số người bị kết án. Theo báo Nhân Dân th́ chiến dịch sửa sai cũng gây thêm chết chóc khi các đảng viên được phục hồi trả thù những người đă đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù thị bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.[cần dẫn nguồn]

    Phong trào trả thù bằng bạo động lan rộng khiến nhà chức trách phải dùng quân đội trấn áp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân mang gậy gộc chống lại quân đội khi chính quyền dùng vũ lực để tái lập trật tự.[10]

    Tuy nhiên, theo một số nhân chứng, có những trường hợp việc sửa sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy lại thành phần (từ địa chủ, phú nông trở lại thành trung nông) chứ không được trả lại tài sản, nhà đất. Đến năm 2004, theo báo Hà Nội Mới, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội mới ra quyết định trợ cấp cho một số trường hợp bị qui sai thành phần và có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời ḱ Cải cách Ruộng đất với mức ba triệu đồng một trường hợp. [1]
    [sửa] Các đợt cải cách
    Đợt
    Thời điểm Địa bàn Số xă đưa vào
    Cải cách Ruộng đất
    Đợt Thí điểm
    (25/12/1953 - 22/10/1954) Thái Nguyên không rơ
    Đợt 1
    (1/4/1954 - 15/01/1955) Một số các vùng kiểm soát không rơ
    Đợt 2
    (23/10/1954 - 15/01/1955) Thái Nguyên 22
    Phú Thọ 100
    Bắc Giang 22
    Thanh Hóa 66
    Đợt 3
    (18/02/1955 - 20/06/1955) Vĩnh Phúc 65
    Phú Thọ 106
    Bắc Giang 84
    Sơn Tây 22
    Thanh Hóa 115
    Nghệ An 74
    Đợt 4
    (27/06/1955 - 31/12/1955) Vĩnh Phúc 111
    Phú Thọ 17
    Bắc Giang 1
    Bắc Ninh 60
    Sơn Tây 71
    Thanh Hóa 207
    Nghệ An 5
    Hà Tĩnh 227
    Hà Nam 98
    Ninh B́nh 47
    Đợt 5
    (25/12/1955 - 30/07/1956) Bắc Ninh 8
    Nghệ An 163
    Hà Tĩnh 6
    Ninh B́nh 45
    Quảng B́nh 118
    Vĩnh Linh 21
    Hải Dương 217
    Hưng Yên 149
    Thái B́nh 294
    [sửa] Những thành tích và sai lầm trong chiến dịch
    [sửa] Thành tích

    Năm 1953, giữa lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu chiếm ưu thế trên chiến trường, cuộc cải cách ban đầu có những kết quả nhất định khi chỉ thực hiện việc tịch thu tài sản, đất đai của những thành phần địa chủ bị kết tội Việt gian (theo Pháp chống Việt Minh) chia cho bần nông, cố nông. Chính việc cải cách này đă góp một phần không nhỏ nâng cao sự ủng hộ của dân chúng để dốc toàn lực cho trận chiến quyết định.

    Cuộc cải cách đă phân chia lại đất canh tác một cách công bằng cho đa số nông dân Bắc Bộ. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đă được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đă chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.[11]
    [sửa] Sai lầm chung

    Đánh giá sai lầm về t́nh h́nh khác biệt giữa nông thôn Trung Quốc và Việt Nam, quá tin tưởng và chịu sức ép của các cố vấn Trung Quốc.[2]
    Yếu tố bạo lực có nguồn gốc bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đă được tích lũy bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ v́ cuộc sống khó khăn của họ, số khác th́ v́ ghen tức với tài sản của địa chủ. Cộng với tŕnh độ nhận thức thấp của đa số cán bộ cấp xă thời bấy giờ, dẫn tới nhiều trường hợp oan sai, lợi dụng trả thù cá nhân, và các hành vi bạo lực trong các cuộc đấu tố. Hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm, nhưng có thể nh́n nhận như những sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào[12] (tương tự như làn sóng tàn sát giới tăng lữ nhà thờ của người dân Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp 1789)
    Đánh giá sai và nâng sản lượng, nâng thuế lên quá cao, quá sức người dân. Như ở Hà Tĩnh, có những mẫu ruộng tính sản lượng là 32, 35 tạ một mẫu ta. Khá nhiều ruộng tốt được tính sản lượng ít nhất phải 25, 28 tạ. Trong khi đó như ở Liên Xô, theo ông Đặng Thái Mai: "ở LX cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi (terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hectare. Như vậy là với phương tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hectare, nghĩa là c̣n hơn một mẫu ta...". [13]
    Chiến dịch càng lên cao điểm càng mất kiểm soát dẫn đến t́nh trạng vô chính phủ, nhiều oan sai và cô lập, đối xử nhục h́nh với gia đ́nh người bị đấu tố. Hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai. Điển h́nh như:

    Trường hợp tử h́nh bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Tuần Lễ Vàng, gia đ́nh bà cũng đă hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập. [2]
    Trường hợp thiếu tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh Đại đoàn 308, nguyên tư lệnh mặt trận Hà Nội năm 1946, chủ tịch Ủy ban quân quản Hà Nội bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội v́ có người đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rơ ràng". [cần dẫn nguồn]
    Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu, trong đó có một người là Trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị quy là địa chủ. [cần dẫn nguồn]
    Đặc biệt, cụ Phó bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ bị đấu tố chết tại quê nhà Diễn Châu. [14]

    Ngoài việc tịch thu nhà đất của những người bị quy là địa chủ, những mục đích khác của chiến dịch không đạt được. Thực tế đau buồn khác là kết quả của cuộc cải cách ruộng đất lại không như người nông dân mong đợi khi ngay sau đó: vụ mùa năm 1957 được đánh giá là thất thu.
    Cuộc đấu tố và cô lập, lùng bắt địa chủ và con cái của họ đă gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc thời ấy. [cần dẫn nguồn] Giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, mất tin tưởng vào Đảng Cộng sản và nhà nước, gây chia rẽ trong nhiều thế hệ. [cần dẫn nguồn]

    Sai lầm trên phương diện pháp lư

    Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch"; phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lư đă bị xâm phạm là:

    Không xử phạt các tội đă phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra.
    Trách nhiệm của phạm nhân th́ chỉ một ḿnh phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đ́nh.
    Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng.
    Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá tŕnh truy tố và xét xử; khi bị can ra trước ṭa không được xiềng xích và không được dùng nhục h́nh.

    Các nguyên nhân sai lầm được cho là: quan điểm ta-địch, thù-bạn của chính quyền đương nhiệm rất mơ hồ; chính quyền bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lư; bất chấp ư kiến của giới chuyên môn.[6]
    Số người bị đấu tố

    Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu ḅ. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu ḅ, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung b́nh mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.

    Số lượng người bị giết trong chương tŕnh Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và c̣n gây tranh căi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải t́m cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, "Việt gian" để mang ra đấu tố[3] th́ con số sẽ không ít.

    Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng người bị giết dao động khá lớn:

    Theo tuần báo Time ngày 1 tháng 7 1957 th́ khoảng 15.000 người bị giết. [15]
    Theo Gareth Porter: từ 800 đến 2500; theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000. Theo giáo sư sử học James P. Harrison: vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù[16]
    Vũ Thư Hiên cho rằng con số nạn nhân là ít hơn con số 15.000 dẫn ở trên rất nhiều, tuy vậy ông chỉ có thể ước tính, chứ không có số liệu hoặc tài liệu nào cụ thể:

    "Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số c̣n được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xă đă cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xă có trung b́nh một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hăm cho chết đói, (những xă có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xă không có ai bị) th́ số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học." [cần dẫn nguồn]

    Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (tập hai) cho biết là đă có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ". Điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ bị tịch thu tài sản.

    Về thành phần của con số 172.008 nạn nhân này, bảng thống kê ghi như sau: Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó 20.493 người bị oan (77,4%). Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó 51.480 người bị oan (62%). Địa chủ kháng chiến : 586 người, trong đó 290 bị oan (49%). Phú nông : 62.192 người, trong đó 51.003 người bị oan (82%). Tổng cộng: 172.008 người, trong đó 123.266 người bị oan : 71,66%. Số lượng này chưa kể đến thân nhân, gia đ́nh của những người bị quy sai, cũng bị cô lập và đối xử phân biệt.

    Theo giáo sư Lê Xuân Khoa th́ chương tŕnh Cải cách Ruộng đất là một trong ba nguyên nhân chính đưa đến cuộc di tản 1954. Ngoài ra, ông nhận định lượng lúa gạo sản xuất ở đồng bằng sông Hồng bị giảm sút trầm trọng trong những năm cải cách ruộng đất và ngay sau đó.
    [sửa] Ư kiến và nhận định riêng

    Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đă nói về t́nh cảnh oan sai như sau, trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội: “Qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành h́nh” [...] “Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đă hi sinh, có thể nói được, chết với trong ḷng chan chứa nỗi vui sướng v́ chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết v́ địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan v́ các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót v́ chết với một ô danh. Chúng ta đă xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?”. [6]
    Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Vơ Văn Kiệt nh́n nhận "Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đă không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế". [17]

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam
    Nh́n lại cuộc Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc
    và Cải cách Điền địa ở Miền Nam Việt Nam

    ThaoLuan 2012/01/30

    Bao giờ tội chống nhân loại của Hồ Chí Minh và tập đoàn cầm quyền cộng sản Hà Nội được đem ra xét xử? (*)


    Cải cách ruộng đất. Ảnh tư liệu từ Google

    Chiến tranh "chống thực dân pháp" để nhuộm đỏ miền Bắc kết thúc bằng Hiệp định đ́nh chiến, kư kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève chia Việt nam làm hai Miền riêng biệt. Miền Bắc theo chế độ cộng sản dưới quốc hiệu Việt nam Dân chủ Cộng ḥa. Miền Nam dưới quốc hiệu Cộng Hoà Việt Nam, đứng về phía thế giới tự do.

    Ngày 23 tháng 10 năm 1955, một cuộc trưng cầu dân ư đă được tổ chức tại Miền Nam và kết quả đă đưa tới truất phế Vua Bảo Đại. Triều đại Nhà Nguyễn thật sự chấm dứt. Hiến pháp 26 tháng 10 năm 1956 tấn phong ông Ngô Đ́nh Diệm lên làm Tổng thống Miền Nam và thành lập nước Việt Nam Cộng ḥa.

    Chín năm chiến tranh giải thực kết thúc, ḥa b́nh trên 2 miền Nam Bắc được tái lập. Nhà cầm quyền miền Bắc, theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản để cai trị và kiểm soát dân, thực hiện chánh sách về ruộng đất gọi là “Cải cách Ruộng đất ”.

    Miền Nam dồn nổ lực tái thiết đất nước theo đường lối : Phát triển kinh tế là ưu tiên mà Chánh sách về Ruộng đất là quan trọng; v́ Miền Nam Việt Nam vốn là xứ nông nghiệp. Chánh sách này c̣n được gọi là “Cải cách Điền địa”, Ruộng đất nuôi sống gần 80% dân miền Nam. Có một Chánh sách Ruộng đất tốt, hài ḥa, hợp lư là để xóa bỏ những bất công xă hội do chế độ thực dân tạo ra từ khi Việt nam bị đô hộ.

    Chúng ta thử nh́n lại và so sánh hai chánh sách về đất đai của hai Miền, nêu lên những đặc tính và mục tiêu của chánh sách ấy.

    I -Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc

    1-T́nh h́nh mới, nhiệm vụ mới

    Năm 1950, Hồ Chí Minh qua Nga, yết kiến Staline với sự hiện diện của Mao-trạch-đông. Staline chỉ ông 2 cái ghế và nói “đây là ghế địa chủ, đây là ghế nông dân. Ông chọn ngồi vào ghế nào?”

    Trở về nước, Hồ Chí Minh không thuật lại với cán bô nồng cốt của ông là ông đă chọn chiếc ghế nào mà chuẩn bị ngay việc thực hiện cải cách ruộng đất bắt đầu bằng chuẩn bị tư tưởng cán bộ đảng viên để trong công tác, cán bộ sẽ không bị giao động. Ông đưa ra nhận xét t́nh h́nh thế giới thuận lợi. Mao-trạch-đông thắng lợi ở Tàu và thiết lập xong chế độ cộng sản trên cả nước. Cách mạng việt nam đang trên đà thắng lợi. Duy c̣n khó khăn nhỏ là Mỹ giúp thực dân pháp đánh phá đoàn kết dân tộc. Muốn thắng lợi hoàn toàn, ta phải cùng với nhân dân thực hiện một chế độ dân chủ nhân dân, tăng cường đoàn kết toàn dân, liên kết chặt chẽ với phe xă hội chủ nghĩa.

    Cuối năm 1952, Hồ Chí Minh cho tiến hành cải cách ruộng đất ở những vùng tạm chiếm như Thái nguyên, Thanh hóa, … Nhiều cuộc hành huyết địa chủ bắt đầu trước ở Thanh hóa đă làm kinh hoàng dân chúng, lan rộng đến những vùng “giải phóng” khác. Kịp gần đến ngày kư Hiệp định Genève, Hồ Chí Minh muốn tránh bị dân chúng bỏ chạy vào Nam v́ sợ hải nên cho lệnh tạm ngưng.

    Thật ra, kế hoặch chuẩn bị tư tưởng, Hồ chí Minh đă cho tiến hành từ lâu. Trước nhất là chính huấn hay đấu chính trị . Từ 1946 -1949 là chiến dịch phản đế, với khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết” (nhưng phải hiểu là "Quốc tế CS trên hết " v́ nhiều người không hiểu ư cuả Hố tặc, nên đă bị đảng CS cho đi "ṃ tôm" ) kêu gọi đoàn kết toàn dân gồm trí thức, tư sản, địa chủ, tôn trọng tư hữu, chỉ nhằm xóa bỏ ảnh hưởng văn hóa pháp biểu hiện qua tư tưởng lản mạn, cá nhân chủ nghĩa. Mục đích duy nhứt là chống thực dân pháp giành độc lập. Hồ Chí Minh giải tán đảng cộng sản đông dương, thành lập Mặt trận Việt Minh. Giai đoạn kế tiếp 1950-1956 dành cho chiến dịch phản phong đả phá tư tưởng phong kiến nặng về tư hữu, nhứt là sở hữu ruộng đất, trật tự xă hội, giá trị đạo lư cổ truyền để đề cao và thuyết phục chánh sách Cải cách Ruộng đất sẽ phát động là đúng, là tốt , ích lợi cho nông dân để mọi người phải chấp nhận. Phản phong được thực hiện với khẩu hiệu “đưa phản phong lên ngang hàng với phản đế”, đồng thời Hồ Chí Minh cho tổ chức đảng Lao động thay thế đảng cộng sản.

    Phản phong khi được phát động, dân chúng đều hiểu đó là bài trừ những phần tử phong kiến trong đảng hoặc giới quan lại trong Chánh quyền cũ. Thật ra, phản phong là tiêu diệt địa chủ, điều này chỉ có cán bộ học tập ở bên Tàu về để thi hành Cải cách Ruộng đất mới hiểu, nhưng phải tuyệt đối giử kín. Khóa chính huấn đầu tiên khai giảng năm 1953 ở Miền bắc mới nói rỏ nội dung khẩu hiệu phản phong là đánh địa chủ, tịch thu toàn bộ tài sản của địa chủ chia cho bần cố nông, tức Cải cách Ruộng đất.

    Sau phản phong đến chiến dịch bài trừ tư tưởng tư sản, tự do kinh doanh, tư tưởng dân chủ tư bản tây phương . Tiếp theo, từ năm 1959, sau khi sửa sai v́ xem như Cải cách Ruộng đất đă thật sự hoàn tất, Hồ chí Minh cho áp dụng chánh sách triệt để hơn, dẹp bỏ hẳn tư tưởng tiểu tư sản, mọi h́nh thức sản xuất cá thể, xử lư những thành phần chưa chịu vào hợp tác xă, giử đầu óc muốn làm giàu riêng . Bần cố nông vừa nhận ruộng đất do Cải cách Ruộng đất cấp phát, nay lại phải đem nộp cho Hợp tác xă . (H́nh thức ăn cướp đất của dân, chiến dịch này vẫn tiếp tục thực hiện cho đến ngày hôm nay, chỉ chấm dứt khi đảng CS bị tiêu diệt.)

    2- Phóng tay phát động quân chúng

    Cải cách Ruộng đất long trời lở đất, Hồ tặc lại điêu ngoa tung tin là “không do đảng và Nhà nước, mà do nông dân làm”. Để bắt đầu, Hồ Chí Minh cho tiến hành trước 2 chiến dịch: thu thuế nông nghiệp và đấu tranh chánh trị.

    Áp dụng thuế nông nghiệp là lặp lại rặp khuôn theo Tàu đă làm từ 2 năm trước nhằm bần cùng hóa xă hội Việt Nam, biến nông dân trở thành bần cố nông. Thuế nông nghiệp là 1 trong 5 loại thuế: thuế nông nghiệp, công thương nghiệp, sát sanh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng – Thuế xuất nhập cảng là để khôi hài.

    - Thuế nông nghiệp – Riêng về thuế nông nghiệp, chúng ta thử nh́n lại sơ lược để có ư niệm cụ thể nông dân bị phá sản. Thuế sẽ đánh 5% trên 100 kg lúa, 45% cho 1000 kg lúa trở lên, tối đa là 64% . Thêm vào đó, nông dân trả phụ thu cho đảng 15%. Cả 2 thứ thuế phải nộp một lần, cho đảng và Nhà nước Việt nam dân chủ Cộng ḥa và một phần gởi cho Kominforme làm nghĩa vụ quốc tế .

    Thử làm bài toán để biết nông dân nộp bao nhiêu mồ hôi nước mắt cho thuế nông nghiệp .Chúng ta lấy 1000 kg lúa . Thuế lấy 45% là 450 kg . Trên số này, nông dân bị trừ 15% thuế phụ thu là 67,5 kg . Nông dân phải nộp thuế nông nghiệp cho 1000 kg lúa thu hoặch được là 517, 30kg . Nếu chủ ruộng không trực tiếp canh tác phải nộp thêm 25% phụ thu nữa .

    Diện tích ruộng canh tác và số lúa thu hoặch phải do nông dân b́nh. Về diện tích ruộng, không căn cứ theo địa bạ lưu giữ. Nông dân b́nh thường được kích lên, tức b́nh dọc, b́nh ngang về diện tích canh tác để qui ra số lúa phải gặt được để trả thuế.

    C̣n thuế công thương nghiệp chỉ có 28% trên lợi tức, nhưng cũng phải do nhân dân b́nh theo cùng qui cách dọc và ngang.

    Tố Hữu, nhà thơ của đảng, được thưởng huy chương Sao Vàng Hồ Chí Minh, cổ vũ chiến dịch thu thuế trong Cải cách Ruộng đất:

    “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
    Cho đảng bền lâu,cùng rập bước chung ḷng,
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”.
    Tố Hữu, thằng bồi bút



    - Đấu chánh trị – Đấu tranh chánh trị là nhằm thủ tiêu tất cả phần tử bị xem là phản động. Lúc bấy giờ, dân chúng ai chống Việt minh th́ hoặc bị giết hoặc bỏ đi ra Thành phố sanh sống. Chỉ c̣n lại những người lưng chừng . Mà lưng chừng là phản động.

    Bây giờ, chúng ta thử t́m hiểu thực chất của « đấu tranh chánh trị » diển ra liền sau thuế nông nghiệp.

    Lợi dụng trong lúc dân chúng c̣n đang điêu đứng v́ thiếu thuế, cán bộ cho tập họp để giải quyết trường hợp c̣n thiếu thuế . Sự thật là nhằm tiêu diệt những thành phần bị ghi vào danh sách cần phải thanh toán.

    Pḥng họp trang bị đầy đủ dụng cụ tra tấn. Cán bộ chủ tịch xă kêu gọi một người thiếu thuế hỏi: “Có phải thằng X xúi mày không nộp thuế không?” Tra tấn cho đến khi nào người này gật đầu để tên X bị bắt.

    Đến phiên tên X bị tra tấn: “Mày ở trong tổ chức phản động nào? Phải trong đó có tên Y không?” Người bị tra tấn v́ đau đớn khai bừa “Tôi ở trong đảng Bảo Đại, cả đảng Cộng sản nữa” cho đến khi nào chịu nói ra tên người đă được cán bộ mớm trước.

    Lúc đầu c̣n nhớ tên người được dặn trước phải khai, sau mất tinh thần, nhớ đâu khai đó. Có người khai cả tên cán bộ chủ tọa phiên đấu chánh trị. Đến đây, đảng cộng sản nhận thấy nếu kéo dài sẽ gây ảnh hưởng xấu cho đảng, làm mất ḷng tin của nhân dân đối với đảng, Chánh phủ. Đảng cộng sản bèn cho tổ chức Ṭa án nhân dân xét xử phản động bắt được trong chiến dịch đấu chánh trị để xác nhận là thật sự có địch trong nông thôn và mặt khác, đề cao quần chúng luôn luôn sáng suốt, như Mao-trạch-đông dạy. Trong quá tŕnh đấu chánh trị, nếu có vài trường hợp phạm sai lầm nhưng phải thấy chủ trương là đúng:

    ” …Địa hào, đối lập ra tro
    Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
    Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
    Thắp đuốc cho sáng đ́nh làng đêm nay
    Lôi cổ bọn nó ra đây
    Bắt qú gục xuống, đọa đày chết thôi”
    Xuân Diệu nhà thơ lăng mạn một thời nay trở thành bồi bút, thật nhục thay !

    - Quần chúng phóng tay – C̣n Cải cách Ruộng đất thật sự được tiến hành làm 2 đợt: giảm tô và cải cách. Cải cách Ruộng đất diển tiến long trời lở đất này đă được nói nhiều với đầy đủ chi tiết nên thiết tưởng không cần lập lại thêm nữa. Duy có con số tử vong chính xác của nạn nhân chưa được xác nhân Ngày nay, theo báo cáo chánh thức của Viện thống kê Hà nội***, số tử vong là 172 008 người trong đó có 70 % bị chết oan ức bao gồm những tiểu địa chủ bị kích lên cho đủ 5 % theo tiêu chuẩn của Trung quốc qui định, những cán bộ đảng viên đi theo kháng chiến chống thực dân v́ ḷng yêu nước tinh ṛng không cộng sản. Nhưng con số tử vong thật sự phải cao hơn. Nhiều người từng sống trong giai đoạn Cải cách Ruông đất, như nhà báo Bùi Tín, cựu Phó Tổng biên tập nhật báo Nhân Dân, cho biết, theo ước tính, con số nạn nhân ít nhất phải lên đến nửa triệu bao gồm nạn nhân bị hành huyết độc đoán tại hiện trường qua quyết định của Ṭa án nhân dân và những người như nạn nhân không bị hành huyết hoặc gia đ́nh, thân nhân của nạn nhân. Những người này bị đuổi ra khỏi nhà, tài sản bị tịch thâu, không có quyền làm việc, bị mọi người xa lánh v́ sợ bị liên lụy với giai cấp địa chủ, lần lược chết v́ đói rét, bịnh tật do chế độ quản lư hộ khẩu. Trong số nạn nhân này có ít nhất 40 000 đảng viên Cải cách ruộng đất, theo Mao-trạch-đông dạy, phải bộc lộ sự tàn ác càng rùng rợn th́ thành công càng lớn.

    Mỗi chiến dịch đều được chuẩn bị bằng khóa chính huấn dạy cán bộ học tập ḷng yêu nước, tinh thần cách mạng, để cán bộ thi hành nắm vững đường lối, chánh sách đúng theo sách lược mao-trạch-đông Toàn bộ các chiến dịch đều đă được thực hiện ở bên Tàu từ mấy năm trước, mệnh danh là “Chiến thuật mao-trạch-đông” v́ Mao-trạch-đông tin rằng chiến thuật này có thể áp dụng ở các nước kém mở mang, cơ bản là kinh tế nông nghiệp, để thực hiện cuộc cách mạng vô sản. Vẫn theo Mao-trạch-đông, chỉ có giai cấp bần nông và cố nông là lực lượng mạnh nhất,sáng suốt nhất, có đủ khả năng lănh đạo cuộc cách mạng vô sản đi đến thành công. Mà địa chủ là kẻ thù của nông dân . Chỉ có nông dân mới biết rỏ địa chủ nào là gian ác, và gian ác đến mức độ nào nên phải phóng tay phát động quần chúng tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn. Đảng cộng sản chỉ giử nhiệm vụ hướng dẩn, không trực tiếp lănh đạo.

    Sửa sai v́ Cải cách Ruộng đất đă thành công nên cần b́nh thường hóa t́nh h́nh nông thôn, chuẩn bị đưa sản xuất vào chế độ tập thể hóa, tiến hành xây dựng chế độ chuyên chính vô sản.

    Từ năm 1951, theo nhà báo Bùi Tín, Hồ Chí Minh đă ngă hẳn theo Tàu, rặp khuôn theo đường lối mao-trạch-đông.

    Trong một buổi tường tŕnh chuyến thăm viếng Staline hồi năm 1950 với cán bộ lănh đạo đảng khi ông về nước, Hồ Chí minh không nói rơ ông đă chọn “ghế nông dân hay ghế địa chủ” để trả lời Staline mà chỉ nhấn mạnh: “chúng ta làm Cải cách Ruộng đất phải học tập kinh nghiệm Trung quốc”. Ông dạy cán bộ đảng viên “Đế quốc là con hổ, địa chủ là bụi rậm hổ ẩn núp . Muốn đánh hổ phải tiêu diệt bụi rậm”.

    Không riêng ǵ về Cải cách Ruộng đất, Hồ Chí Minh mới học kinh nghiệm Trung quốc, mà cả các nghành khác, Hồ Chí Minh cũng chủ trương học tập rặp khuôn theo mô h́nh trung quốc như về giáo dục, sản xuất, kinh tế nghiên về kỷ nghệ nặng, …để “nhảy vọt” theo . Ông viết quyển “Những kinh nghiệm quí báu Trung quốc nên học” dưới bút danh Trần Lực, do nhà Sự Thật, Hà nội, xuất bản năm 1950, để làm tài liệu cho cán bộ học tập.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam
    Nh́n lại cuộc Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc
    và Cải cách Điền địa ở Miền Nam Việt Nam


    II- Cải cách Điền địa ở Miền Nam

    Ở trong miền Nam , không nói Cải cách Ruộng đất mà nói Cải cách Điền địa. Trong 20 năm, từ 1955-1975, Miền nam tiến hành 2 cuộc Cải cách Điền địa. Không kể một cuộc Cải cách Điền địa do Cựu Hoàng Bảo Đại ban hành năm 1949, nhưng không thành công . Ruộng đất vừa được phân phối xong th́ liền bị Việt Minh tịch thâu, hoặc Việt Minh ngăn cấm nông dân nhận ruộng hoặc làm ruộng. Mật khác, chiến tranh không cho phép nông dân sanh sống trên phần đất của ḿnh, phải tản cư.

    Cải cách Điền địa ở Miền Nam thực hiện từ khi Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm nắm quyền bằng Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956. Chánh sách điền địa thêm một lần nữa được Tổng thống Nguyễn văn Thiệu tiếp nối rốt ráo hơn bằng Đạo luật số 003/70 ngày 23 tháng 03 năm 1970, dưới tên gọi mới là Luật Người Cày Có Ruộng.

    1 -Cải cách điền địa. Ông Ngô Đ́nh Diệm, ngày 7 tháng 7 năm 1955, được bổ nhiệm làm Thủ tướng Chánh phủ. Ở chức vụ Thủ tướng Chánh phủ, ông ban hành 2 Dụ, số 2 và số 7 năm 1955, liên quan đến vấn đề thuê ruộng v́ từ trước, ở Việt Nam, việc thuê ruộng không có giấy tờ hợp đồng giửa người thuê mướn và chủ ruộng nên thường chủ ruộng lấn ép làm thiệt hại quyền lợi của người thuê . Giá thuê ruộng từ 40% đến 60%, tùy theo ruộng tốt xấu, trên số lúa thu hoạch. Luật về thuê ruộng qui định lại rỏ qui chế tá điền. Từ nay, - giá thuê ruộng từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoặch cho ruộng làm 1 mùa / năm;

    - giá thuê từ 15 đến 25% cho mùa gặt chánh của ruộng 2 mùa / năm.

    Thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái kư. Tá điền có quyền trả ruộng và phải báo trước chủ ruộng 6 tháng . Chủ ruộng muốn lấy ruộng lại phải báo trước tá điền 3 năm.

    V́ chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sanh sống nên số ruộng bỏ hoang tính ra lên đến 500 000 mẩu tây. Trong thời gian Chánh phủ cho kiểm kê, nếu chủ ruộng vẫn vắng mặt, số ruộng này bị trưng thu để cấp phát cho tá điền.

    Sau khi lên làm Tổng thống, Ngô Đ́nh Diệm ban hành Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956 qui định Chánh sách Cải cách Điền địa theo đó, điền chủ có quyền giữ cho mỗi người 100 mẩu đất, phải canh tác 30%, số c̣n lại cho mướn theo điều kiện luật hợp đồng đă ban hành.

    Ruộng truất hữu, chủ ruộng được bồi thường theo giá ruộng, 10% bằng tiền mặt, 90% trả bằng trái phiếu với lăi xuất 3% / năm. Người giữ trái phiếu có quyền sử dụng trong các dịch vụ như trao đổi, kinh doanh, mua bán, …

    Ruộng truất hữu bán lại cho tá điền trả góp trong 12 năm vốn và lăi xuất 3% như đối với điền chủ củ.

    Có lối 1035 điền chủ bị truất hữu v́ mỗi người có trên 100 mẩu. Diện tích ruộng truất hữu là 430 319 mẫu, tính thêm 220 813 mẫu của pháp kiều. Năm 1958, tổng số ruộng truất hữu là 651 132 mẫu.

    Số tá điền trở thành điền chủ từ năm 1957-1963 là 123 193 người . Ngoài ra c̣n 2857 người mua trực tiếp từ chủ ruộng, nâng con số điền chủ – mỗi người có tối thiểu 5 mẫu – lên 126 050 người. Và số ruộng mua riêng này là 252 213 mẫu .

    Chánh sách Cải cách Điền địa ở trong Nam làm cho chủ ruộng và tá điền đều hài ḷng. Số ruộng đất bị Việt Minh trước đây tịch thu phát cho tá điền v́ chủ ruộng vắng mặt, nay Chánh quyền đem trả lại cho chủ và bồi hoàn tiền nếu bị truất hữu.

    2- Dinh Điền và Khu Trù mật

    Tiếp theo Chánh sách Cải cách Điền địa, Chánh quyền Đệ I Cộng Ḥa ban hành Chánh sách Dinh Diền và Khu Trù mật. Hoa kỳ, Pháp và Tổ chức Y Tế Quốc tế giúp thực hiện Chương tŕnh này. Chỉ trong ṿng từ 1957-1961, Chánh phủ thành lập được 169 Trung tâm định cư đồng bào di cư trong đó có 25 Khu Trù mật, tập trung ở vùng đồng bằng sông Cữu long . Dinh Điền phục hồi hoặc khai thác những vùng đất bị bỏ hoang hoặc đất mới khai phá, đem lại cho đồng bào 109 379 mẫu, nuôi sống 50 000 gia đ́nh gồm 250 400 người.

    Khu Trù mật là nơi tập trung dân sống hẻo lánh, thiếu phương tiện cần thiết cho đời sống như chợ búa, trường học, trạm xá y tế, điện, nước, …Mỗi Khu Trù mật gồm từ 3000 đến 3500 người.

    Một ngân hàng nông thôn, Quốc Gia nông tín cuộc, đưọc thành lập để yểm trợ Chương tŕnh Dinh Điền và Khu Trù mật bằng cách cho vay với lăi xuất nhẹ.

    Cải cách Điền Địa, Dinh Diền và Khu Trù mật đă biến 176 130 gia đ́nh nông dân nghèo trở thành chủ ruộng đất từ ít nhất 1 mẫu trở lên.

    Sản xuất ở các Khu Trù mật dần dần vượt qua khuôn khổ địa phương nhỏ hẹp để trao đổi trên qui mô vùng.

    Trưóc đời sống an lành của người dân, cộng sản bám trụ ở lại sau Hiệp định Genève xuất hiện và phản ứng thô bạo. Họ ngăn cấm dân mua ruộng truất hữu, cấm kư hợp đồng thuê ruộng, hủy bỏ địa tô, ám sát nhân viên Chánh quyền ở nông thôn như nhân viên Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, …

    C̣n lại hơn 400 ngàn mẫu đất đă truất hữu để tư hữu hóa cho nông dân, nhưng bị áp lực khủng bố của cộng sản phải bỏ hoang. Từ đây, năm 1958, cộng sản Hà nội bắt đầu dựng lên cuôc chiến trong Miền Nam.

    III- Cải cách Điền địa và Luật Người Cày Có Ruộng

    Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thực hiện Cải cách Điền địa bằng 2 giai đoạn: áp dụng luật cũ 57 và ban hành thêm Luật Người Cày Có Ruộng.

    1 – Từ năm 1967-1970, ông Thiệu cho tiếp tục áp dụng Luật Cải cách Điền địa cũ của thời Đệ nhất Cộng ḥa . Sau vụ Việt cộng tổng công kích Mậu thân thất bại, nông thôn trở lại có an ninh. Số ruộn trước đây bị bỏ hoang nay đem cấp phát cho nông dân. Từ 1967 đến 1969, c̣ thêm 261 874 gia đ́nh dược cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số tá điền trở thành chủ điền lên 438 004 người, vị chi 48% nông dân nghèo.

    2 – Phát triển kinh tế nông nghiệp . Chánh quyền cho tổ chức lại ngân hàng nông thôn Nhà nước, đồng thời ngân hàng nông thôn tư cũng ra đời để kịp đáp ứng nhu cầu phát triển . Bộ Canh nông nghiên cứu tạo giống lúa mới, khuyến khích khuếch trương nghành chăn nuôi gia súc .
    Chánh quyền tuyển dụng thanh niên đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đở kỷ thuật cho nông dân trong sanh hoạt hằng ngày, …

    3 – Luật Người Cày Có Ruộng. Ngày 26 thánh 03 năm 1970, Luật Người Cày Có Ruộng ban hành, áp dụng cho mọi thành phần điền chủ . Luật Người Cày có Ruộng khác với Luật 57 thời Đệ nhất Cộng ḥa . Điền chủ tự làm ruộng của ḿnh, nhưng số ruộng quá 15 mẫu, bị truất hữu. Trong ṿng 3 năm, 1970-1973, có 51 695 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770 145 mẫu, được chia ra như sau:

    - 22 560 điền chủ nhỏ với 61 634 mẫu truất hữu ;
    - 16 449 trung điền chủ, với 158 110 mẫu truất hữu ;
    - 12 695 đại điền chủ, với 550 401 mẫu truất hữu .

    Luật Người Cày Có Ruộng chi phối số điền chủ có 15 mẫu trở lên. Thành phần điền chủ này chiếm 56% tổng số điền chủ, với 91, 9 % của tổng số diện tích ruộng bị truất hữu.

    Ruộng bị truất hữu được bồi thường 20% tiền mặt, c̣n lại 80% trả bằng trái phiếu, lời 10% / năm trong 8 nă .

    Tiêu chuẩn cấp phát ruông truất hữu: 3 mẫu cho Miền Nam, 1 mẫu cho Miền Cao nguyên và Miền Trung.

    Ruộng hương hỏa và của tôn giáo không bị chi phối bỡi Luật Người Cày Có Ruộng.

    Trước khi Hà nội hợp tác hóa đất đai sau Cải cách Ruộng đất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Miền Nam chỉ gồm tiểu điền chủ có từ 0, 10 – 5 mẫu và trung điền chủ có trên 5 mẫu ruộng trở lên . Giới đại điền chủ hầu như không c̣n nữa.

    Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh tác, nhập cảng phân bón, cải tiến giống lúa, tăng gia sản xuất gia súc, …

    IV -Ruộng đất dưới thời quân chủ

    Dưới thời quân chủ việt nam, ruộng đất là sở hữu tối thượng của nhà vua. Nhưng trên thực tế, nhà vua đem ruộng đât phân phối cho dân nghèo để cày cấy sanh sống và nộp thuế. Khi cần, nhà vua có thể thu hồi và bồi hoàn cho người đang canh tác.

    Việt nam có chế độ quân chủ và kéo dài cho đến ngày 25 thánh 08 năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị, nhưng Việt Nam tuyệt nhiên không có chế độ phong kiến. Trái lại ở Tàu và Âu châu, có chế độ phong kiến, với quân đội riêng, luật pháp riêng, tài chánh riêng.

    Sở hữu ruộng đất ở việt nam không quá bất b́nh đẳng như ở nhiều nơi khác . Trước Thế chiến II, theo kết quả điều tra của nhà kinh tế học Yves Henri công bố năm 1932, ruông đất ở Việt nam được phân phối như sau:

    Bắc kỳ Trung kỳ Nam kỳ

    Ruộng đất Địa chủ % Diện tích Địa chủ Diện tích Địa chủ Diện tích

    Trên 50 mẫu 0, 10 % 20% 0, 13% 10% 2, 44% 45%
    Từ 5-50 mẫu 8, 35% 20% 6 % 15% 25, 77% 31%
    Dưới 5 mẫu 90, 88% 40% 93, 80% 50% 71, 73% 15%
    Công điền 20% 25% 3%

    Tàu trước khi bị cộng sản Mao-trạch-đông cai trị là một nước độc lập nên địa chủ được Chánh quyền bảo vệ. Trái lại, Việt Nam là nước bị thực dân pháp đô hộ nên địa chủ cũng là nạn nhân của Chánh quyền thực dân . Do đó, họ phần đông đứng lên tham gia chống Tây giành độc lập.

    Từ thời nhà Hồ, quyền sở hữu ruộng đất đă được giới hạn cho hợp lư. Qua nhà Lê Thái Tổ, chế độ ruộng đất tiếp tục vẫn giử theo đây.

    Nhà vua cấp phát cho các pháp nhân như làng xă, Hội hè, Tổ chức, …một khoảnh đất để làm của chung khai thác lấy lợi tức trang trải chi phí sanh hoạt . Các đồn điền khi hoàn tất, được nhà vua đem phân phối cho xă thôn nhưng không được phép bán . Trừ trường hợp bất khả khán .

    Ruộng cấp cho dân chúng th́ cứ 3 năm / lần, tái cứu xét gia hạn . Ngoài ra c̣n có những loại công điền khác dành cấp phát cho những trường hợp đặc biệt như : trợ sưu điền giúp dân nghèo đóng thuế, học điền, giúp học tṛ nghèo đi học, cô nhi quả phụ điền, giúp cô nhi quả phụ và hậu điền là ruộng của người chết không có con cháu thừa hưởng đem hiến cho chùa, đ́nh ,…

    Nhờ chế độ quân phân đất đai mà xă hội việt nam ngày xưa được an b́nh hơn nhiều nơi khác lúc bấy giờ .

    V – Việt Nam có thật sự cần Cải cách Ruộng đất không?

    Ở Bắc và Trung, ruộng đất không tập trung quá nhiều vào tay một số người nhờ chế độ quân phân tài sản nên không có nhiều đại điền chủ. Trong lúc đó, ở trong Nam, vùng đất mới, kịp lúc Tây đến chiếm, nên có những người biết cách làm giàu với vài ngàn mẫu ruộng trở lên. Nhưng số đại điền chủ này không phải nhiều. Nh́n chung, chế độ ruộng đất ở việt nam từ thời quân chủ không quá bất b́nh đẳng.

    Về mặt quan chức, dưới thời quân chủ, người dân b́nh thường đều có quyền đi học và đi học không tốn kém . Khi thi đậu được nhà vua tuyện dụng làm quan . Tuy chịu ảnh hưởng văn hóa tàu, quan chức việt nam xuất thân từ thứ dân và khoa cử nên thường giữ nếp sống thanh liêm làm mẫu mực . Không có thứ quan phiệt v́ ảnh hưởng lâu đời phong kiền như ở Tàu , nên cũng không có lớp cường hào ác bá ở địa phương xa, xách nhiễu thường xuyên dân chúng.

    Khi Pháp đến cai trị, một lớp tân học Việt Nam hấp thụ tinh thần khoa học và khai phóng khá đông làm mới xă hội Việt Nam . Hiện tượng mới này không phổ biến ở Tàu.

    Trước thực tế xă hội Việt Nam như vậy, thử nghĩ có cần thiết phải làm cuộc Cải cách Ruộng đất long trời lở đất hay không?

    Hồ Chí Minh làm cuộc cải cách ruộng đất ở Miến Bắc từ năm 1953 không nhằm quân phân ruộng đât phục vụ nông dân, mà thực chất là nhằm tiêu diệt một thành phần quan trọng cũa xă hội, trong đó có cả đảng viên cộng sản gia nhập thời kháng chiến v́ yêu nước, để thanh lọc xă hội, chuẩn bị cuộc cách mạng vô sản theo khuôn mẫu trung quốc. Do đó, Hồ Chí Minh đă “phóng tay phát động quần chúng nông dân đứng lên tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn ” .

    Đến khi nhận thấy cải cách ruộng đất đă đạt mục tiêu, Hồ Chí Minh ban hành lệnh Sửa sai, đưa Hồ Viết Thắng và Trường Chinh qua chức vụ khác, đẩy Vơ Nguyên Giáp ra công khai nhận lỗi trước nhân dân. Hồ Chí Minh xuất hiện và khóc cho nạn nhân của ông, chủ yếu để bảo vệ uy tín của đảng cộng sản của ông . Có dư luận cho rằng Trường Chinh v́ lănh đạo cuộc Cải cách Ruộng đất chấp nhận để cha mẹ bị đấu tố như những địa chủ khác . Xin nói rơ: không đúng. Trước khi phát động chiến dịch, theo nhà báo Bùi Tín, “Trường Chinh đă cho rước cha mẹ về Hà nội dấu một nơi an toàn”.

    Nhưng đừng quên Cải cách Ruộng đất và Sửa sai là một chủ trương xuyên suốt theo chủ thuyết mao-trạch-đông đă áp dụng ở Tàu nhằm mục đích thật sự đẩy nông dân tay đẩm máu để phải theo đảng cộng sản luôn, không thể cấu kết với địa chủ chống đảng cộng sản và, mặt khác, lột bỏ tinh thần tư hữu vốn nặng và ăn sâu lâu đời trong nảo trạng nông dân.

    Thực tế, không ǵ khác hơn là đảng cộng sản cướp sạch đất đai của nông dân bằng khủng bố .

    Ngày nay, đảng cộng sản hà nội v́ không c̣n khả năng và ư chí làm cách mạng bằng bạo lực như trước nên bị nông dân trên cả nước đứng lên đ̣i đất đai đă bị đảng cướp từ trước giờ .

    Thời cơ đang tới, hơn lúc nào hết, trước khi Việt nam có một chế độ dân chủ chính thống để truy tố đảng cộng sản ra trước công lư dân chủ, người nông dân từ Nam ra Bắc cần phải nắm chặt tay nhau, đứng lên đ̣i lại tài sản đă bị Đảng cộng sản cưỡng đoạt để tự ḿnh làm lại cuộc Cải cách Ruộng đất cho chính ḿnh.

    © Nguyễn văn Trần

    —————————————————

    Ghi chú

    * Ghi lại buổi nói chuyện về Cải Cách Ruộng đất với anh chị em “Đông Âu ” do Mạng Lười Dân chủ tổ chức tại Berlin, 2005 .

    ** Tài liệu tham khảo:

    Hoang văn Chí, Từ Thực dân đến Cộng sản, Pall Mall Press, 1964, London
    Pierre Brocheux, Hồ Chí Minh, từ nhà cách mạng đến thần tượng, Payot, 2003, Paris
    Loạt bài về Cải cách Ruộng đất trên Đài Á châu tự do
    Lâm Thanh Liêm, Chánh sách Ruộng Đất ỏ việt nam 1954-1995, Đường Mới, 1996, paris
    Etudes Vietnamiennes ( tập san Nghiên cứu việt nam), ngoại ngữ, 1965, Hà nội, số 7

    *** Phụ bản

    KẾT QUẢ TAI HẠI

    Khi nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Trung Quốc, đảng CSVN phải thi hành chính sách “cải tạo xă hội chủ nghĩa” rập khuôn theo kiểu mẫu của Trung Quốc, điển h́nh nhất là chính sách cải cách ruộng đất.

    Bộ “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000”, tập 2, (giai đoạn 1955-1975) do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết cuộc Cải Cách Ruộng Đất đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xă, với khoảng 10 triệu dân. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68%. Các đội và các đoàn Cải Cách Ruộng Đất đều ra sức truy bức để cố đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như đă quy định. Như vậy tổng số người bị quy là “địa chủ” phải là trên 500.000 người. Cũng theo tài liệu này, có 172.008 người đă bị đấu tố, tức bị giết. Tuy nhiên, sau khi sửa sai và kiểm tra lại, Đảng và Nhà Nước nhận thấy trong số 172.008 nạn nhân của cuộc Cải Cách Ruộng Đất, có đến 123.266 người được coi là oan (chiếm đến 71,6%).

    Sau đây là những con số cụ thể về các nạn nhân:

    Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó số được coi bị oan là 20.493 người (77,4%);
    Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó số được coi bị oan là 51.480 người (62,19%);
    Địa chủ kháng chiến: 586 người, trong đó số được coi bị oan là 290 người (49,4%);
    Phú nông: 62.192 người, trong đó số được coi bị oan là 51.003 người (82%).

    Khi đảng CSVN không đi theo đường lối “cải tạo xă hội” của Mao Trạch Đông mà theo đường lối của Liên Sô, Trung Quốc đă “dạy cho Việt Nam một bài học”!
    Lời b́nh của người không cộng sản và cộng sản phản tĩnh:

    Qua các sự kiện lịch sử được công bố, các sử gia và các nhà phân tích đều đi đến kết luận rằng nếu năm 1945 đảng CSVN không đưa đất nước Việt Nam đi theo chủ nghĩa cộng sản, dùng dân tộc Việt Nam làm vật thí nghiệm cho một chủ nghĩa phiêu lưu, Việt Nam đă thoát khỏi một cuộc chiến kéo dài 30 năm với những hậu quả rất thảm khốc. Nếu không có đảng CSVN, nước Việt Nam đă có độc lập và tự do từ lâu rồi.

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam
    T́nh Đồng Chí hay Những Bản Án Tử H́nh Đồng Loại



    Tôi (tác giả Hứa Hoành) có dịp đàm đạo với 1 vị cao niên, quen nhau từ hồi ở bên trại ty nạn, mới đây gặp lại trong 1 tiệc cưới. Ông nhận xét về thành phần dao búa tham gia kháng chiến năm 1945, kể lại những chuyện thật, xin giấu tên:

    Năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, kêu gọi toàn dân kháng chiến. Chúng tôi, dân giang hồ sống ngoài ṿng pháp luật từ lâu, nghĩ rằng đây là dịp đoái công chuộc tội. Hơn nữa, chúng tôi có người c̣n chút lương tri, muốn ngoi lên ánh sáng làm người lương thiện và làm người yêu nước trong thời loạn. Đó cũng là tâm trạng các tướng cướp khét tiếng như Bảy Viễn, Mười Trí, Thomas Phước (tướng cướp hào hoa nổi tiếng 1 thời ở Saigon.) Đầu tiên, chúng tôi xin gia nhập Tự Vệ của Lâm ủy Hành chánh. Nhóm này chia làm 2 phe: 1 phe lo bảo vệ an ninh cá nhân trong Lâm ủy, c̣n 1 nhóm khác nhận mật linh thi hành các vụ giết người "Việt gian," "phản động." Tôi thuộc nhóm thứ hai. Qua mấy tháng nhúng tay vào máu, chúng tôi, có người tỉnh ngộ và đổi thái độ. Một hôm, Trần Văn Giàu họp chúng tôi và nói:

    - Cách mạng nào mà không đổ máu ? Chúng ta hăy tiêu diệt bọn "phản động," "Việt gian" với bất cứ giá nào.

    Những lời kết tội đó chỉ chung chung, không nói rơ tội trạng một ai. Rồi cứ mỗi tối, chúng tôi lại nhận mật lịnh đi lùng sục, bắt bớ, thủ tiêu nhiều nhân vật tên tuổi mà Lâm ủy có sẵn tên trong "sổ b́a đen."

    Một người trong nhóm chúng tôi thắc mắc:

    - Tại sao độc lập rồi mà c̣n giết nhiều người tài đức, có uy tín?

    Trần Văn Giàu trả lời:

    - Cách mạng làm ǵ có đức? Ai làm cách mạng mà không giết người?

    Từ trong tiềm thức chúng tôi, hận thù được khơi dậy, nhiều người say máu, muốn trả thù. Tuy nhiên, cũng có người chùng bước, không nở nhúng tay, nhưng cũng không dám căi lịnh. Chúng tôi lao vào công việc chém giết và được khuyến khích như "nhiệm vụ cách mạng."

    Mấy tháng sau chúng tôi tỉnh ngộ. Kẻ c̣n chút lương tri như bọn tôi, tự động ră ngũ, về thành để bảo vệ mạng sống 1 cách nhục nhả. Có người "đâm lao th́ phải theo lao." Lại có người tiếp tục "đánh đu với tinh, đùa giởn với rắn độc," chỉ trong 1 thời gian ngắn, họ "sanh nghề tử nghiệp." Đó là trường hợp của Ba Nhỏ, Hoàng Thọ, Giang Minh Lư và ngay cả Trung tướng Nguyễn B́nh. C̣n lại những kẻ mù quáng, tiếp tục vay máu đồng bào, cuối cùng cũng bị "hy sinh." Họ chết không phải v́ lằn tên mũi đạn của kẻ thù mà chết v́ dao găm, mă tấu của "đồng chí" họ như Tưởng Đàn Bảo, Vũ Đức, Sư Muôn..."

    Sau đây là vài trường hợp thương tâm ấy
    Khi Pháp chiếm lại các công sở trong thành phố Saigon đêm 22 rạng 23/9/45, Ủy ban Hành chánh đă chạy thục mạng vô Chợ Đệm mấy hôm trước, bỏ lại bọn Tự Vệ (Tự Vệ Cuộc, tức công an Việt Minh), Thanh Niên Xung Phong như rắn mất đầu. Vơ khí thô sơ làm sao đương đầu với quân Pháp khí giới tối tân? Từ chỗ ẩn náu an toàn, Ủy ban Hành chánh ra lịnh tàn sát bất cứ người da trắng nào họ gặp. Ba Nhỏ, 1 đầu đảng cướp hoàn lương, chỉ huy 1 toán Tự Vệ thành, được lịnh ấy. Nửa đêm 25/9/45, Ba Nhỏ dẫn 1 đám lâu la, đột nhập cư xá He''rault (He''rault City) dành riêng cho gia đ́nh Pháp kiều tại Tân Định, Phú Nhuận tàn sát 1 số đàn bà, trẻ con tại đây; Rồi họ bắt theo độ 50 người làm con tin, nhưng rồi cũng giết nốt. Tổng số nạn nhân lên tới khoảng 200 người. Nhiều quân lính Pháp, nóng ḷng v́ thân nhân bị giết, nên ra đường gặp ai đều bắn bừa băi để trả thù. Dư luận tức giận, quay lại kết án Việt Minh là bọn mọi rợ. Nổi sùng, mấy ngày kế tiếp, Ba Nhỏ, Tô Kư, Kiều Đắc Thắng, Kiều Tấn Lập của Việt Minh được lịnh lùng sục, bắt bớ, chém giết man rợ. Chỉ trong ṿng 1 tháng, có hàng trăm nhân vật tên tuổi, người quốc gia yêu nước đều bị giết.

    Cũng như lớp CS đàn anh, Ba Nhỏ xuất thân từ băng du côn Bà Chiểu, Cầu Bông, Thị Nghè; 3 năm cầm đầu dân dao búa, Ba Nhỏ thạo nghề chém giết. Được Lâm ủy Hành chánh trọng dụng, hắn "làm việc cần mẫn". Nạn nhân của hắn không 1 ai sống sót. Vậy mà khi Pháp xua quân chiếm lại Thủ Đức, Ba Nhỏ theo bộ đội kháng chiến rút ra trước tới Biên Ḥa. Biên Ḥa thất thủ, bộ đội Ba Nhỏ rút về Bà Rịa, Long Thành. Để xoa dịu dư luận bất măn đối với Việt Minh, Tướng Nguyễn B́nh được lịnh dàn dựng tội trạng để xử tử Ba Nhỏ "làm gương" v́ tội "vô kỷ luật."

    Giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, giặc Pháp thập tḥ trước cửa, tàu chiến xập x́nh trên sông Ḷng Tảo hàng ngày, mà Việt Minh ngụy tạo tội trạng cho Ba Nhỏ "đă giết người đàn mà mang 2 kg thịt tiếp tế vùng tạm chiếm" để tử h́nh đồng đội.

    Khi Ba Nhỏ bị kêu án, Ba Dương (Ba Dương là lănh tụ B́nh Xuyên trước Bảy Viễn) và đồng đội giang hồ cũ, đều kư tên xin ân xá hoặc giảm án, nhưng Nguyễn B́nh được lịnh phải hành quyết tức khắc. Quá ức v́ biết ḿnh bị làm con vật hy sinh, Ba Nhỏ liều giựt cây súng lục của đội hành quyết định tự sát cho rơ khí phách 1 tay anh chị, nhưng toán hành quyết giựt lại và bắn Ba Nhỏ chết liền tại chỗ.

    Kiều Đắc Thắng là 1 tên du thủ du thực, từ miền Trung lưu lạc vào Nam trước năm 1945. Thắng làm đủ nghề từ phu đồn điền, khuân vác, thợ hớt tóc. Kiều Đắc Thắng ăn cướp bị bắt giam vào khám ở Vũng Tàu. Ở đây, Thắng cùng 1 bạn đồng tù tên Năm Bé móc nối với 1 tên coi ngục để vượt ngục.

    Lúc đó đúng vào cơ hội Việt Minh cướp chính quyền, Thắng xin làm Tự Vệ. Từ Tiểu đội trưởng Quốc Gia Tự Vệ Cuộc (công an Việt Minh,) Kiều Đắc Thắng lên lên chức quyền Giám đốc công an các tỉnh miền Đông chỉ hơn 1 năm, nhờ khả năng bắt cóc và ám sát. Những ai bị Lâm ủy Hành chánh kết tội "Việt gian, phản động," Thắng hạ sát không gớm tay Nạn nhân của Thắng dài sọc. Ông Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng ám sát tại quê nhà Bún, Lái Thiêu, tháng 10/1945. Về sau, thấy Thắng có quyền hành quá lớn, muốn qua mặt Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn, nên Tướng Nguyễn B́nh "gởi Thắng ra gặp bác Hồ". Có nguồn tin nói rằng Hồ Chí Minh cho Thắng gặp mặt, phủ dụ mấy câu theo công thức, rồi đổi tên Thắng là Vũ Tùy Nhàn để khỏi mang tiếng. Tuy nhiên, trên đường về Nam, Kiều Đắc Thắng chết 1 cách mờ ám.

    Một nhân vật độc đáo khác cũng xuất thân từ giới gian hồ, đánh giặc rất gan lỳ, đó là Hoàng Thọ. Hoàng Thọ là người Hải Pḥng cũng do ḷ ba búa đào tạo, lưu lạc vô Nam từ năm 1939. Thọ có thân h́nh cao lớn, khá điển trai, râu quai nón. Khá hơn những tên trước, Thọ từng làm thợ máy quấn dây điện. Khi Nhật đảo chánh Pháp (3/1945,) Thọ theo Nhật làm lính hải quân, nên được gọi là "Thọ Mạch lô." Việt Minh nắm chính quyền mở ra cho Thọ 1 con đường mênh mông v́ hợp khả năng. Khi Tướng Nguyễn B́nh vào Nam, nghe tiếng Thọ, lại người cùng quê, nên Nguyễn B́nh chọn bộ đội Thọ để bảo vệ cho ḿnh. Mộ năm sau, bộ đội của Hoàng Thọ được bổ sung thêm nhiều chiến sĩ, đánh nhiều trận tiếng tăm lừng lẫy. Địa bàn hoạt động của Thọ là vùng G̣ Dầu, Trăng Bàng, Tây Ninh. Tuân lịnh Việt Minh, Thọ từng gây nhiều tội ác đối với giáo phái Cao Đài. Những người quen biết với Hoàng Thọ có kể lại rằng, mỗi lần phục kích, Thọ chọn hướng gần mé sông. Binh sĩ chỉ có tiến chớ không có lùi.

    Khi Nguyễn B́nh chính quy hóa quân đội kháng chiến, bộ đội Hoàng Thọ trở thành Tiểu đoàn 303. Đó là đơn vị chủ lực của Quân khu 7. Nguyễn B́nh gài 1 tên CS, tên Kính, vào làm chính trị viên th́ Tiểu đoàn 303 bắt đầu chia rẽ nội bộ và trở nên suy yếu. Có lần Hoàng Thọ bắt gặp 1 số bộ đội sinh hoạt riêng rẽ, bí mật. Khi Thọ điểm danh, th́ vắng mặt. Lúc đó, tên chính trị viên Kính cố thuyết phục, rùn ép, dụ dỗ Thọ vô đảng CS. Bất măn, Thọ bỏ đi, rồi cạo đầu để phản đối. Lúc trở về, Thọ thấy vật dụng cá nhân đều bị lục soát, anh ta bực tức không dằn được:

    - Đ.M. Hoàng Thọ này đi kháng chiến v́ dân v́ nước, đâu có ngờ ngày nay có đảng này đảng nọ. Đem mà bắn cha nó cái đảng CS cho rồi!

    Sau đó, Thọ bị kiểm điểm, phê b́nh và thế là 1 bản án tử h́nh bí mật đă định sẵn. Tháng sau, Tướng Nguyễn B́nh "giới thiệu" Hoàng Thọ ra Bắc "gặp bác Hồ". Biết rơ âm mưu của Việt Minh định giết ḿnh, Hoàng Thọ đi vài chặng, rồi đổi ư quay về Mỹ An mở quán lá bên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp trong Đồng Tháp Mười làm sinh kế. Hoàng Thọ có tiền, tiếp đăi bạn cũ có dịp công tác đi ngang qua đó rất hậu chẳng khác ǵ Mạnh thường quân.

    Đầu năm 1950, văn pḥng Trung tướng Nguyễn B́nh dời về Cá Lóc, quận Long Mỹ. Bị Tây phát giác, họ chuyển đến Ông Dèo, ấp Cầu Đúc, quận G̣ Quao, tỉnh Rạch Giá. Trong 1 đêm tối trời, Hoàng Thọ bị bắt, đem đi hành quyết tại 1 địa điểm gân Cạnh Đền. Bọn sát nhân đập đầu Hoàng Thọ như đập đầu con cá lóc. Trước khi chết, Thọ rống như ḅ và chửi rủa Việt Minh thậm tệ.

    Cùng thời gian đó, ông Giang Minh Lư bị giết rất dă man. Lư con nhà đại điền chủ bỏ theo kháng chiến, lập nhiều công trạng, làm chính trị viên 1 đại đội đóng ở Cần Thợ Lư bị rùn ép, đe dọa phải vào đảng CS và phục tùng mệnh lệnh của họ. Lư từ chối nên bị nghi ngờ, theo dơi. Lư bất măn ra mặt. Có lần Lư tuột quần, chỉ vào con c. và điểm mặt Hoàng Dư Khương, Chính ủy Khu 9, nói:

    - Tao sợ mày cái con c. tao nè!

    Mấy hôm sau, Lư bị bắt đem đi hành quyết tại Cạnh Đền. CS căng 2 tay ông ra, rồi dùng dao găm đâm túi bụi vào mắt, vào tim ...

    Sau đây là 1 vụ hành quyết tập thể các "đồng chí" của ḿnh (Việt Minh)
    mà tác giả Dương Đ́nh Lôi có thấy hoặc nghe kể lại trực tiếp
    (qua 1 bức thơ ông Dương Đ́nh Lôi gởi riêng cho tác giả Hứa Hoành):

    ... Tất cả độ 20 người thuộc bộ chỉ huy, tham mưu và hậu cần, chính trị của Tiểu đoàn 300 Dương Văn Dương, có cả Trương Văn Phụng và anh Tám Sơn đều bị trói thúc ké, đem xuống bờ biển Đông Ḥa, rồi chặt đầu hết. Trong số nạn nhân có Bảy Nghiệp, nguyên Chi đội trưởng Chi đội 21 từ nhóm B́nh Xuyên qua, phụ trách đảng vụ của Trung đoàn và chị Hai Sương được "hưởng ân huệ" khi xử tử. Đó là dùng súng bắn vào đầu thay v́ bị chăt đầu.

    Về cái chết của chị Hai Sương, ông Dương Đ́nh Lôi không chứng kiến, nhưng được nghe chính người hành quyết kể lại:

    Tôi nghe anh Năm Triệu, Đại đội trưởng chỉ huy cuộc hành quyết đó về văn pḥng trung ương báo cáo lại. Năm Triệu gốc lính Nhật, to lớn con, mang gươm dài chấm đất. Năm Triệu kể:

    “Tao thấy con Sương rụng rời tay chân. Tới phiên nó, nó xin đi đái. Tới lúc nó đứng dậy sau bụi cây mưa. Nó lột trần truồng dưới ánh trăng lờ mờ, làm tao trân trối nh́n nó chậm răi đi trước miệng hố. Tao biết tội nó chỉ là liên lạc đưa thơ về Saigon mà sao họ cũng giết đành đoạn? Khi tới gần tao, nó nói:

    - Anh Năm ! Em muốn hiến cho anh rồi em chết.

    "Tao bàng hoàng định tha cho con nhỏ. Nhưng thằng mắc dịch Bảy Mầu đi tới (Bảy Mầu cũng là Đại đội trưởng, chồng chị Dưỡng, rễ của Ba Dương, bị Tướng Nguyễn B́nh sai Từ Văn Ri ám sát chết ở Bến Tre.) Thằng Mầu nó bảo:

    - Bộ hỏng mạnh dạn xuống gươm hả? Để tao tặng cho em viên đạn.

    "Thế là kết liễu 1 đời hồng nhan bạc phận. Chị Sương là 1 người đẹp nhất của Trung đoàn, con nhà giàu, học sinh ở Saigon, bỏ theo kháng chiến và rước lấy cái chết thê thảm.

    "Những người bị chặt đầu, chôn, hoặc thả trôi sông Ḷng Tảo hôm ấy tôi được biết gồm có:

    - Hai Điều, Trưởng ban quản trị, bị bắt ở An Thành.

    - Tám Son, Trưởng văn pḥng Trung đoàn.

    - Bảy Nghiệp, Tiểu đoàn trưởng, Trưởng ban đảng vụ.

    - Năm Son, Trưởng ban quân nhu.

    - Bác sĩ Năm Ngà, Trưởng bịnh xá Trung đoàn.

    - Chị Sương, 1 thiếu nữ xinh đẹp, thuộc ban quân báo Trung đoàn.

    - Chín Lá, Trưởng đài vô tuyến điện.

    Sau đây là chuyện của Sư Muôn
    Sư Muôn là 1 nhà tu mang nhiều tai tiếng xấu, báo chí phanh phui những hành động lem nhem với phụ nữ. Lư lịch sư Muôn cũng ít người biết, nhưng nhắc tới sư Muôn, những người lớn tuổi ở miền Tây không ai không nghe tiếng. Tôi (Hứa Hoành) may mắn được ông Xuân Tước và 1 vị cao niên khác chỉ dẫn nhiều chi tiết.

    Hồi những năm từ 1936-1939, sư Muôn có chùa ở quận Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá. Sát bên chùa có 1 cái am nhỏ, nơi đây những phụ nữ, những bà hiếm muộn muốn cầu tự, thường t́m đến sư Muôn để nhờ làm phép và nhiều người măn nguyện. Nhờ vậy tiếng ông đồn rất xa.

    Sư Muôn tên thật là Nguyễn Kim Muôn, người ở Gia Định, trước làm công chức Sở hỏa xa. Lúc đó, ông có mướn căn phố tại đường Hamelin (Hồ Văn Ngà sau này.) Ông xuất tiền và lạc quyên thêm để cất ngôi chùa Long Vân Tự tại đường Hàng Xanh, Thị Nghè. Bây giờ Long Vân Tự vẫn c̣n. Trong khi tu, sư Muôn có nhiều chuyện bất chánh với phụ nữ khiến dân chúng căm phẫn. Ông bỏ chùa xuống Giồng Riềng, Rạch Giá, tiếp tục lập chùa, lừa gạt phụ nữ hiếm muộn. Báo chí Saigon đă tố cáo ông thậm tệ.

    Đầu năm 1946, Pháp chiếm trọn các tỉnh miền Nam. Hết đất dụng vơ, nhóm CS đầu năo của Khu 9 gồm Tỉnh ủy Nghiêm Cai Cơ, Bí thư Tỉnh ủy Dương Quang Đông (tức Năm Đông,) Phan Trọng Tuệ, Lâm Ngọc Minh phải bôn đào ra Phú Quốc. Sẵn thấy chùa sư Muôn có cơm gạo do bá tánh dâng cúng, nên bọn này ghé ăn dầm nằm dề tại chùa để ăn chực. Để lợi dụng sư Muôn, họ bèn phong cho ông làm "Ủy viên Xă hội" bằng miệng. Năm 1948, CS bao vây chùa bắt sư Muôn đem giết ven mé rừng, giữa Dương Đông và Hàm Ninh.

    Phong trào "Thổ dậy" ở miền Nam vào năm 1945
    Miền Nam là đất cũ của Chân Lạp, tức lănh thổ Miên (sau khi Chân Lạp bị suy tàn.) Dân Nam Kỳ gọi người Miên là "Thổ." "Thổ dậy" là phong trào những người Miên trả thù (cáp Duồng) giết người Việt. Trong thời Pháp thuộc, người Miên, người Việt sống đề huề, thuận ḥa với nhau trong gần 1 thế kỷ. B́nh thường, bản tính người Miên rất hiền lành. Họ ăn uống cực khổ (thường ăn mắm) làm việc nặng nhọc như chèo ghe, vác lúa ... Người Miên theo Phật giáo Tiểu thừa. Tuy nhiên, bị khích động, họ thịnh nộ, giết người dă man.

    Sau khi cướp chính quyền ở Cà Mau (lúc đó là 1 quận,) Ủy ban Hành chánh quận này đă giết hàng loạt thường dân và các nhà sư Miên 1 cách dă man. Thừa gió bẻ măng, khi Pháp ruồng bố tới, Thổ nhứt tề nổi lên theo Pháp để trả thù người Việt, gặp ai giết nấy. Vơ khí của họ là chiếc phảng phát cỏ, kèo ngay, xử dụng như mă tấu. Những ai từng sống ở Hậu Giang vào các năm ấy, chắc không khỏi hăi hùng v́ những tin "Thổ dậy." Thảm cảnh đó do 1 nhóm Việt Minh CS khơi nguồn, nhưng nhiều người dân vô tội sau đó đă trở thành nạn nhân.

    Chứng kiến cuộc hành quyết dă man, ông Văn Nguyên Dưỡng, trong hồi kư "Tết Chạy Giặc Sau Mùa Thu Nhiễu Nhương," đă thuật lại cuộc giết các thường dân và sư sải Miên ở Cà Mau năm 1945 như sau:

    "... Rồi không lâu, sau ngày "Mừng độc lập", cuộc tao loạn bắt đầu. Ngoài danh từ mới "Việt Minh" được biết vào ngày đó, tôi c̣n biết thêm 1 danh từ nữa là "Việt gian." Dân chúng, ai cũng sợ danh từ ấy. Ai cũng có thể bị kết tội là Việt gian với những chứng cớ mơ hồ, hay những việc làm trong dĩ văng, rồi đem ra bắn hoặc cho "ṃ tôm." Người đầu tiên bị xử bắn dưới dạ Cầu Quay bên kia sông là cậu Bảy Mầu, "ông C̣ Cà Mau." Mắt tôi mở rộng thêm khi biết rằng "có độc lập rồi" mà Việt Minh vẫn đem người ra xử bắn hàng loạt. Nhứt là các sư săi ngươi Miên bị lôi từ trong chùa Miên ra, hoặc bị bắt ở đâu đó trong quận.

    "Cách xử tử quá dă man: Họ trói tay hay bịt mắt, bắn hoặc chặt đầu. Cho rằng các sư Miên có "cà tha" (bùa,) có ngải, súng đạn không lủng, chém không đứt, Việt Minh nghĩ ra các xử tử bằng tầm vông vạt nhọn, đâm vào hậu môn rồi thả trôi sông. Xử tập thể trước mắt công chúng, trông thật khủng khiếp.

    "Cầu tàu dưới bến, nơi họp lưu của sông Cà May và kinh xáng Đội Cường, thường là nơi diễn ra cuộc hành quyết đó. Mỗi lần như vậy, dân chúng ṭ ṃ kéo nhau đi coi rất đông. Hàng loạt sư săi Miên bị cột chặt vào 3 đ̣n tre cứng, dài, mỗi người cách nhau 1 bước, thành 1 hàng ngang, xoay mặt ra phía sông. Quần bị lột bỏ. Đ̣n tre thứ nhứt đặt trên cổ, sau ót hàng người bị xử tử. Đ̣n tre thứ hai đặt ngang thắt lưng. 2 tay mỗi nạn nhân bị trói thúc ké, bẻ quặc ra sau lưng, buộc chặt vào đ̣n. Đ̣n tre thứ ba đặt ngang mắt cá, phía trước hàng chân dạng ra của họ. 1 đoạn dây buộc vào cổ mỗi người dính vào đ̣n tre thứ nhứt, kéo thẳng xuống buộc 2 chân họ vào đ̣n tre thứ ba. 6 du kích khoẻ mạnh giữ cứng 6 đầu của 3 đ̣n tre, kèm cho hàng người tù tội đứng ở thế cúi người xuống, chổng mông hướng vào mép trong cầu tàu.

    "Ở mép trong cầu tàu, đă có sẵn 1 đội du kích bằng với số tử tội, đứng sắp hàng ngang, tay giữ tầm vong vạt nhọn đầu, dựng ngọn lên trời, chờ đợi.

    "Đến giờ xử, có lịnh hành quyết do 1 người chỉ huy phất lên. Những tên du kích này hạ tầm vông ngang thắt lưng, chỉa mủi nhọn ra trước mặt, cùng 1 lượt chạy nhanh ra mép cầu, dùng hết sức mạnh, đâm thẳng mũi nhọn vào hậu môn của mỗi tử tội, đẩy cả hàng tù tội này xuống sông và buông luôn cả cây tầm vông ...

    "Cách xử như vậy là xong. Bọn du kích Việt Minh b́nh thản kéo nhau ra về mang đầy máu me của những người bị xử phọt ra. Chúng bỏ cho những người đi coi mặc t́nh tràn ra cầu tàu nh́n xuống nước, xem những người này sống chết ra sao. Dĩ nhiên không 1 ai sống sót. Nếu họ không chết v́ vết đâm thấu ruột gan, th́ cũng chêt v́ ngộp nước không lâu sau đó. Những cán tầm vông sẽ chổng lên trời hoặc ngă nghiêng xiên xọ, rồi những đàn diều, quạ, kên kên lượn ṿng khu vực đó. Vài con đậu trên cán tầm vông. Năm bảy con chúi xuống rỉa thịt xác chết. Cả 1 vùng nồng nặc hôi thúi, gieo sự kinh hoàng tột đỉnh cho mọi người.

    "Người dân lành trong quận đă bắt đầu câm nín. Cuộc sống của họ bị đe dọa và bị ám ảnh bởi những cuôc hành quyết man rợ của CS ..."

    Hứa Hoành
    http://thudoan.blogspot.ca/2007/10/t...nh-ng-loi.html

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam

    Tội ác Cộng Sản Việt Nam
    Tội Ác Của Hồ Chí Minh & Đảng Cộng Sản Việt Nam






    1949-1956 : Năm đợt Cài Cách Ruộng Đất : 500 ngàn nạn nhân ;
    1954 : Gần 1 Triệu người đă bỏ Tất Cả để vào Nam t́m Tự Do ;
    1958 : Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng gởi công hàm thừa nhận yêu sách của TC về Biển Đông và 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa ;
    1968 : Tấn công Tết Mậu Thân. Hơn 14000 nạn nhân dân sự, trong số hơn 2000 người bị chôn sống ;
    1974 : Với sự đồng loă của nhà cầm quyền Hà Nội, TC cưỡng chiếm Hoàng Sa của VNCH ;
    1975 : - Cưỡng chiếm Miền Nam, 2 năm sau khi đă kư Hiệp Định Hoà Binh Paris,
    - Trại Tù « Cải Tạo », nửa triệu tù nhân khổ sai, hàng chục ngàn thiệt mạng ;
    1975-1985 : Hơn 1 triệu 750 người trốn khỏi Việt Nam (3, 4 trăm ngàn tử nạn) ;
    1979 : Chiến tranh giữa Việt Nam và TC, hàng chục ngàn dân Việt mạng vong ;
    1999-2000 : Hai Hiệp Ước, kư lén lút, nhượng Đất Biển của Tổ Quốc cho TC (vùng biên giới và hầu như toàn bộ Biển Đông, với 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa) ; Đến ngày hôm nay, vẫn chưa có Hiệp Ước hoặc bản đồ nào được công bố ...

    Tóm lại, kể từ 1945, « chiến tranh giải phóng » của HCM và đảng CSVN đă sát hại hơn 3 triệu (*) người Việt Nam (*) Pierre Darcourt, Ed Albatros, Paris, 1976 : Viet Nam, Qu'as-tu fait de tes Fils ? Việt Nam, nguơi đă làm ǵ với đàn con ?).

    Dẫn tới t́nh trạng hiện tại :

    - Mất hầu như toàn bộ Biển Đông, và một phần khu biên giới phía Bắc ;
    - Đại đa số dân chúng sống nghèo khổ mặc dù đă 35 năm hoà b́nh thống nhứt ;
    - Ngư phủ Việt Nam bị TC khủng bố trắng trợn, đàn áp thẳng tay, thậm chí sát hại trong khu vực đánh cá truyền thống tổ tiên, trước sự im lặng dửng dưng của nhà cầm quyền ;
    - Đàn áp thô bạo người bất đồng chính kiến, tín đồ tôn giáo không « quốc doanh » ;
    - Về tự do biểu lộ tư tưởng, năm 2009, « Phóng Viên Không Biên Giới »
    đă xếp Việt Nam vào hạng thứ 166 trong số 175 quốc gia trên thế giới ;
    - Buôn bán trẻ em, buôn bán phụ nữ để làm nô lệ t́nh dục ;
    - Xuất cảng lao động rẻ tiền (thực chất là nô lệ) khắp thế giới ;
    - Cho TC (kẻ thù truyền kiếp) « thuê » nhiều vùng đất đai chiến lược của Tổ Quốc ; để khai thác bauxite (vô cùng ô nhiễm), với nhân công TC nhập cảnh tự do ...

    - Cán bộ đảng CSVN trở thành triệu triệu phú USD, với 1 số không nhỏ là tỷ phú ;
    - Văn Hoá sa sút, Tàu hoá ; Xă Hội đồi truỵ, chạy theo vật chất bằng mọi giá ...
    - Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo khổ nhất thế giới, vẫn van xin quốc tế trợ giúp






    Trong lịch sử chưa bao giờ TQ kiểm soát VN chặt chẽ như vậy. HCM và csVN theo xin cầu viện rước voi về dày mả tổ ! Gây họa cho dân tộc !

    LÁNG GIỀNG khốn nạn, cướp đất TOÀN DIỆN, lấn biển LÂU DÀI, thôn tính TƯƠNG LAI


  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    CSVN: Kẻ gây ra hai lần Quốc Hận!



    Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)





    Nhân đọc bài: ““Tuyên ngôn” mất độc lập: ngày 2/9/1945”. Nam Nhân tôi hoàn toàn đồng ư với tác giả Cao Lân:



    “chính đảng Cộng sản Việt Nam là thủ phạm đă gây ra cả hai ngày Quốc Hận: 20/7/1954, và Ngày Quốc Hận 30/4/1975.”.





    Quốc Hận lần thứ nhất, 20/7/1954



    Ngày 26/04/1954, trên bàn hội nghị tại Genève, gồm 9 quốc gia đă nhóm họp để bàn về việc tái lập ḥa b́nh tại Triều Tiên và bán đảo Đông Dương. Đó là: Anh, Mỹ, Liên xô, Trung cộng, Pháp, Lào, Cambodia, Việt Minh - do Phạm văn Đồng làm trưởng đoàn (sau này là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa) và Quốc Gia Việt Nam (do ông Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn, sau đó là Bác sĩ Trần văn Đỗ).



    Việt Minh (tức đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, do Hồ chí Minh làm thủ lănh) đă đặt bút kư vào hiệp định chia đôi đất nước này. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam đă từ chối không kư vào hiệp định chia cắt đất nước do ngoại bang và Việt Minh cấu kết.




    Tạ Quang Bửu, phía Việt Minh kư kết với Pháp bản hiệp định chia cắt đất nước




    Sinh viên Sài g̣n phản đối Hiệp định Genève chia đôi đất nước, đă treo cổ h́nh nộm De Gaulle và Hồ chí Minh





    Kết thúc, hiệp định này được tuyên bố, ban hành ngày 20/7/1954. Sông Bến Hải, vỹ tuyến 17, đă được chọn làm ranh giới phân chia giữa hai miền Nam, Bắc. Và cũng từ đó hai nước Việt Nam đă được công pháp quốc tế công nhận:

    - Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH), từ vỹ tuyến 17 trở ra miền Bắc.

    - Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), từ vỹ tuyến 17 trở vào Nam cho tới mũi Cà Mau.



    Từ đó, cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải được chia 2: phần trong Nam sơn màu xanh; phần ngoài Bắc sơn màu đỏ; giữa là vạch sơn trắng nhằm làm ranh giới.



    Cầu Hiền Lương, bắc qua sông Bến Hải



    Cũng theo sự thỏa thuận trong hiệp ước tại Genève về Việt Nam nói trên, người dân hai miền Nam, Bắc được tự do lựa chọn thể chế và nơi ḿnh sinh sống trong ṿng 300 ngày.



    Như mọi người dân Việt hai miền khi ấy đă chứng kiến, và qua sử liệu, phim ảnh đă được lưu giữ, th́ mọi người Việt đến nay nhận ra rằng: Liền sau khi hiệp ước Genève về Việt Nam được công bố có hiệu lực, th́ một làn sóng khổng lồ, một cuộc di cư vĩ đại trong lịch sử của đất nước bắt đầu. Gần một triệu người dân miền Bắc đă tỵ nạn Cộng sản, di cư vào được Nam để lập nghiệp và sinh sống dưới thể chế tự do của nước Việt Nam Cộng Ḥa. Đó là chưa kể những vùng tại miền Bắc Việt Nam khi ấy, đă bị bọn Việt Minh kiểm soát, ngăn chận, cấm cản không cho người dân đi đến các điểm tập trung để được đưa vào Nam. Nếu không, con số người miền Bắc di cư vào miền Nam tự do đă cao hơn gấp nhiều lần như đă được ghi lại. Trái lại, không một người dân miền Nam nào (ngoài những thành phần đảng viên cộng sản theo lệnh tập kết), đă đi trở ngược ra ngoài Bắc để sống chung với Việt Minh, cộng sản.



    H́nh ảnh làn sóng di cư vào Nam, 1954



    Từ đó, ngày 20/7 hàng năm, người dân Việt cả nước xem đó là ngày Quốc Hận. Và, chính bọn Việt Minh, tức đảng CSVN đă làm tay sai cho Nga xô đứng ra kư kết chia đôi đất nước! Chúng là thủ phạm!



    Đa số người dân Việt đă lầm tưởng sau Quốc Hận 20/7/1954, th́ đảng CSVN do Hồ và bè lũ sẽ để yên cho người dân hai miền yên ổn làm ăn, xây dựng đời sống an vui cho gia đ́nh, bản thân và đất nước.



    Nhưng không, những ǵ xảy ra từ đó cho tới nay, năm 2012 này, đảng CSVN vẫn tiếp tục làm tay sai cho hết Nga xô, với mưu đồ ảo vọng là nhuộm đỏ thế giới qua khẩu hiệu “tiến tới thế giới đại đồng”. Và nay , cũng đảng CSVN đă và đang tiếp tục làm tay sai cho Tàu cộng.





    Quốc Hận lần thứ hai, 30/4/1975



    Sau khi kư cam kết không vi phạm, xâm lấn lẫn nhau, để sau đó, một cuộc Tổng tuyển cử do người dân hai miền sẽ chọn thể chế cho đời sống tương lai của ḿnh và con cháu cũng như đất nước. Nhưng thực tế, đảng CSVN đă hành động ra sao th́ mọi người dân Việt đều đă nhận ra.



    Sau khi cuộc xâm lăng nước VNCH xong (mà chúng gọi là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng đất nước), chính CSVN cũng đă công khai tuyên bố, viết ra, in thành sách báo, văn bản hẳn hoi về việc chúng cài người và chôn giấu vũ khí tại miền Nam Việt Nam, tức nước Việt Nam Cộng Ḥa sau hiệp định Genève, 1954; để sau đó dùng người lẫn vũ khí nhằm phá hoại sự an b́nh, cản trở việc xây dựng ấm no cho người dân ở phía Nam vỹ tuyến 17 của chính quyền VNCH, và để hỗ trợ việc xâm lấn nước VNCH. Hành động vi phạm trắng trợn đó của CSVN được sự chỉ đạo và cung cấp vũ khí, đào tạo nhân sự từ Nga xô và Tàu cộng. Sau này, kéo theo sự cung cấp vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng từ cả khối Cộng-sản đàn em của Nga xô.



    Chúng ta đă không lạ ǵ từ trận chiến Điện Biên Phủ với các tướng của Tàu cộng là La Quư Ba, Trần Canh, Vi quốc Thanh… cùng lính của Tàu sang “hữu nghị” giả Việt Minh đánh Pháp “giùm”. Và sau này, ngay cả Bắc Hàn cũng đă cho người của chúng sang lấy hài cốt binh lính của chúng bị thiệt mạng trong cuộc chiếm cướp nước Việt Nam Cộng Ḥa, đem về nước an táng lại. C̣n Tàu cộng, th́ chúng có cả nghĩa trang và đài tưởng niệm cho binh lính của chúng bị thiệt mạng trong chiến trận cướp nước VNCH này, ngay trên đất Bắc.



    Và cuộc chiến xâm nhập trái phép cả người lẫn vũ khí từ miền Bắc Việt Nam qua các khẩu hiệu: “Sinh Bắc, tử Nam”, “chống Mỹ cứu nước”…



    Thêm cái gọi là “Chính phủ lâm thời Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam” tức Mặt trận giải phóng miền Nam, đă được sự thúc đẩy và hỗ trợ thành lập của đảng CSVN năm 1960.



    Nguyên việc, đến 1965, quân đội Mỹ và đồng minh mới bắt đầu đưa quân vào tham chiến tại miền Nam, để giúp nước VNCH chống lại làn sóng Đỏ Nga, Tàu mà CSVN là công cụ trực tiếp. Qua chiêu bài “đánh Mỹ cứu nước, miền Nam đi trước về sau”… đảng CSVN đă gian trá, lừa bịp để lùa bao thế hệ thanh niên miền Bắc vào ḷ lửa chiến tranh xâm lăng nước VNCH. Hàng trăm ngàn thanh niên miền Nam cũng đă hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ đồng bào, bảo vệ làng thôn và lănh thổ của quốc gia VNCH.



    Cuộc chiến xâm lăng nước VNCH của đảng CSVN với sự trợ giúp súng đạn của Nga Tàu, đă kết thúc vào ngày 30/4/1975.



    Từ đó, lại một chuỗi năm tháng trả thù mọi thành phần từ “ngụy quân, ngụy cán, ngụy quyền cho tới ngụy dân”, nghĩa là hết thảy mọi người sinh sống dưới chế độ tự do của nước VNCH trước đó, đều bị lũ VGCS, đảng CSVN bắt đầu trả thù. Trả thù tàn độc, dă man, dai dẳng… hơn tại miền Bắc trước đây sau ngày chúng kéo nhau vào cướp chính quyền tại Hà nội. Những trại tù trá h́nh “tập trung cải tạo” nhằm giết lần ṃn thể xác và tinh thần của Dân, Quân, Cán Chính VNCH.



    Cho tới hiện nay, sự trả thù này vẫn c̣n tiếp diễn, hệ lụy sự trả thù của lũ Việt gian buôn dân bán nước này, nhằm triệt tiêu sức đề kháng của người dân, không những với chính bọn người cai trị ḿnh, chúng c̣n ra sức tiêu diệt luôn cả sức đề kháng chống giặc ngoại xâm của một dân tộc anh hùng mà Tổ Tiên Việt Nam chúng ta đă dày công gây dựng và truyền lại!



    Cho nên, làn sóng người lại một lần nữa tỵ nạn CS không c̣n chỗ yên ổn trên quê hương ḿnh để t́m đến định cư, mà đă đành đoạn bỏ quê Cha, đất Tổ, bỏ mồ mả Ông Bà và đất nước… tạm lưu vong xứ người trên cùng khắp thế giới! Với trên năm trăm ngàn người dân Việt đă bỏ ḿnh trong ḷng đại dương khi vượt biển t́m tự do. Chưa kể bao nhiêu ngàn ngưới đă bị vùi thây đâu đó trên rừng, dưới suối qua các ngả đường bộ. Và, những người bị giết tức tưởi qua bao nhiêu vụ lừa đảo nhằm thoát khỏi ngục tù Cộng sản!



    Đến nỗi, người ta phải diễn tả qua câu: “Cây cột đèn có chưng, nó cũng vượt biên nữa!” mới lột tả được mức độ tàn độc của bọn CSVN đối với người dân nước VNCH.



    Quốc Hận 30/4/1975, là Ngày Quốc Hận lần thứ hai!



    Trong ṿng 20 năm của thế kỷ 20. Cộng sản Việt Nam là kẻ đă gây ra hai ngày Quốc Hận cho dân tộc chúng ta, với hàng triệu sinh linh bị chết oan uổng, hàng trăm ngàn gia đ́nh hai miền bị ly tán, đất nước v́ chiến tranh xâm lăng của làn sóng đỏ mà suy đồi chậm tiến... Ngay cả đạo đức và luân lư cũng bị chúng hủy hoại khéo léo bằng những âm mưu thâm độc mà chỉ có bọn buôn dân bán nước mới dám thực hiện.



    Anh quốc, ngày 2/9/2012

    Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)
    http://hon-viet.co.uk/HV_ThamKhao_NamNhan.htm

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 23
    Last Post: 31-07-2012, 07:08 AM
  2. Replies: 2
    Last Post: 05-03-2012, 04:09 AM
  3. Replies: 7
    Last Post: 16-09-2011, 06:44 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 03-05-2011, 06:46 PM
  5. Replies: 2
    Last Post: 11-04-2011, 04:07 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •