Page 12 of 33 FirstFirst ... 2891011121314151622 ... LastLast
Results 111 to 120 of 326

Thread: Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

  1. #111
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Mặt Trận Thượng Đức (Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974 )
    P3

    MĐ Vơ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên




    Xa Luân Chiến, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù xông trận:

    Theo kế hoạch, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Cuộc chiến trở nên khốc liệt hơn khi Tiểu Đoàn 8 bỏ Hà Nha, chuyển lên núi để thay thế cho đơn vị bạn tấn công địch quân trên các cao điểm.

    Địch vào trận với lợi thế trên sân nhà, họ lợi dụng tối đa địa thế, địa h́nh. Khi quân ta vừa băng qua một trảng trống th́ bị địch nghênh cản rất mạnh mẽ, nếu nh́n chung quanh có những tảng đá lớn chênh vênh trên sườn núi th́ đừng có dại dột chạy vào ẩn nấp, sau lưng tảng đá là một băi ḿn gài sẵn. Địch từ vị trí thuận lợi trên cao nh́n xuống thấy rơ từng người lính đang hút thuốc, đang nấu nướng, địch dùng súng cối 61 ly bắn vào quân ta.
    Khi TĐ8ND lên thay thế TĐ1ND để tiến chiếm cao điểm 1062, sức lực của đơn vị cũng đă sức mẻ phần nào, c̣n lại bao nhiêu sinh lực ta dồn vào cú chót, được ăn cả ngă về không. Đỉnh 1062 là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, th́ lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần, cứ như hai gă thanh niên cùng tranh dành một cô gái thơm như múi mít, bên nào cũng đ̣i quyền sở hữu em gái, không ai chịu nhường ai.

    Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, cho Đại Đội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Đại Đội 81 của Vơ Thế Hùng và Đại Đội 82 của Nam, xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.

    Các binh sĩ Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiêng 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành h́nh tṛn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 th́ dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. C̣n các hướng khác th́ có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.

    Hai Đại Đội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, bọc ṿng lên đỉnh cao bên dăy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Nam lợi dụng đêm tối lén ḅ lên đánh vào sườn dốc đứng (v́ mặt này địch chỉ pḥng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, v́ sẽ làm mồi cho lựu đạn.

    Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Đại Đội 84 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở. Những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán pḥng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người ḅ lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.

    Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Đội 81, 83, và 84 nầy đă phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.

    Không phải ai cũng được b́nh an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đă rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Đại Đội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân ḿnh che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đă tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, thuộc Đại Đội 84 của Minh, v́ hăng hái leo lên nên cũng bị thương.

    "Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đă gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Đoàn 3 của Thiếu Tá Vơ Thanh Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.

    Đại Úy Hiệu dẫn đại đội 83 xuyên qua Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Đại Đội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:

    - Sư Đoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận v́ địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.

    Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đă gài nhiều ḿn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, v́ thế các Đại Đội 81 (cánh trái), Đại Đội 84 (cánh phải), cùng Đại Đội 83 đă thử đột kích đêm nhưng không kết quả.

    Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng v́ địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.

    Sang ngày thứ 4 sau ngày thay Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, v́ không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ư, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Đại Đội 83 tiến c̣n cách 1062 khoảng 50 thước th́ địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa (v́ không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Đại Đội 81, Đại Đội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để pḥng thủ.

    Vị trí đóng quân giửa TĐ8ND và địch quân chỉ cách nhau khoảng 50m, đôi bên giử thế cài răng lược gờm nhau đă suốt 2 tuần lể, chờ cho đối phương sơ hở là thịt ngay. Tinh thần mọi người luôn căng thẳng, chỉ sơ suất một giây lát là vong mạng.

    Lúc 8.30 tối, Cộng quân từ cao điểm hai ngọn đồi 1062 bất thần tấn công xuống 2 mặt, các chiến sỉ Nhảy Dù phản công quyết liệt, và gọi Pháo Binh tác xạ cận pḥng dội ngay lên đầu địch. Quân CS thấy Nhảy Dù chống trả quyết liệt và pháo binh tác xạ dữ dội nên chúng rút lui.

    Sáng hôm sau địch quân tấn công ban ngày, v́ biết Nhảy Dù ở sát nách, chúng cần phải bứng gốc mới mong giữ được 1062. Các Đại Đội 81,83 và 84 cho các chốt bung rộng ra và bám sát tuyến địch. Tất cả các tuyến đều chạm địch. Trung Úy Vũ Đức Tiềm, một Trung Đội Trưởng bị tử thương. Đại Úy Đồng Văn Minh và Trung Úy Hà Mai Trường bị thương nặng phải di tản.

    Gần 1 tháng quần thảo Ta và địch đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi th́ chiếm lại bằng mọi giá. Ngày 19/9/1974 LĐ1ND quyết định tấn chiếm đỉnh đồi 1062, ra lịnh cho các đơn vị lui lại 200m để phi pháo và pháo binh tác xạ liên tục từ 6.00 đến 7.30 giờ cho địch quân không ngốc đầu nổi. Sau đó tất cả đơn vị xung kích Nhảy Dù xung phong tràn lên mục tiêu. Một số lớn cộng quân run rẩy qùy lạy đầu hàng. Họ được đối xử tử tế, băng bó vết thương, cho ăn uống và thuốc hút. Họ nói “chúng tôi nghe tuyên truyền rằng lính Dù các anh ác ôn hung dữ lắm, sao hôm nay các Anh đối xử tốt với chúng tôi quá vậy?”

    Sau đó TĐ8ND bung rộng ra lục soát quanh đỉnh đồi t́m thấy trên 300 xác giặc bắt sống thêm 7 tù binh tịch thu gần 200 khẩu súng đủ loại… Sau khi thu dọn chiến trường, TĐ8ND phối trí các đơn vị chiếm giữ các cao điểm và cho binh sỉ bố pḥng chuẩn bị địch quân tấn công trả đủa. Nhờ vào địa thế cộng quân làm sẳn các công sự nên các chiến sỉ Dù cũng đở phải vất vả.

    Khoảng 2.00 giờ chiều, địch quân bắt đầu pháo tập dữ dội vào 1062 cho đến chiều tối, sau đó tung 3 Trung Đoàn 29, 24 và 66 của SĐ Điện Biên, đơn vị thiện chiến số một của Tướng Giáp, tăng cường Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV quyết tâm tràn ngập và chiếm lại cứ điểm 1062, khắp các tiền đồn đều chạm địch.

    Đến 1.00 giờ đêm ngày 20/9, Cộng quân ào ạt tấn công vào 1062. Nhờ chuẩn bị trước, TĐ8ND gọi pháo binh tác xạ vào các điểm hỏa tập tiên liệu cận pḥng nên các chiến sỉ Tiểu Đoàn 8 vẫn giữ vững pḥng tuyến. Đến 4 giờ chiều, Trung Đoàn Sông Hồng tung thêm lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến. Vào giờ nầy, lực lượng địch bu quanh 1062 dầy đặc như ruồi bu quanh viên kẹo.

    Lữ Đoàn 1ND ra lịnh TĐ8ND lui binh về sau khoảng 200 thuớc, dùng phi pháo tiêu diệt địch quân đang bao quanh đỉnh 1062 đông như kiến. Sau các phi vụ oanh kích của Không Quân VNCH, TĐ8ND trở lại tấn kích tái chiếm ngọn đồi chiến lược nầy, đồng thời tung thêm các đơn vị Đa Năng và Trinh sát xâm nhập sâu vào các hốc đá, khe núi chỉ điểm các vị trí đặt pháo của địch nên pháo binh và không quân phản pháo chính xác tiêu diệt được Bộ chỉ huy Trung Đoàn Sông Hồng đầu nảo của VC tại phía Đông Bắc của đồi 1062 khiến địch quân phải tháo lui, bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết, nhiều súng cộng đồng và cá nhân, bắt sống 40 tù binh thuộc Trung Đoàn Sông Hồng.

    Ngày 2/10/1974 quân CSBV dự định thêm một lần nửa tấn công biển người để tái chiếm căn cứ 1062 nhưng bị Không quân VNCH và pháo binh ND yểm trợ hoả tập kịp thời và chính xác vào các ngọn đồi 383 và 126 gây tổn thất cho địch trên 250 nhân mạng.

    Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến:

    Sau đó, áp dụng chiến thuật xa luân chiến, Tiểu Đoàn 3 ND do Trung Tá Vơ Thanh Đồng (Tiểu Đoàn Trưởng) và Thiếu Tá Trương Văn Vân (Tiểu Đoàn Phó), được lệnh vào thay Tiểu Đoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng một vài ngày th́ Tiểu Đoàn 3 ND bị địch trở lại phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi đối diện.

    Ngày 29/10/1974, chiều hôm đó trận địa im tiếng sung, t́nh h́nh các nơi yên tỉnh, nhưng binh sĩ canh gác tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi. Thiếu Tá Vân ra lịnh cho các đơn vị trực thuộc báo động đề cao cảnh giác, kiểm soát các tuyến pḥng thủ, gài ḿn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế đề pḥng địch tấn công bất ngờ.

    Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của Đại Đội 31 của Đ/U Ngụy Văn Đàng. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đứng trên đỉnh 1062 theo dơi châm chú trận đánh. Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp ǵ cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mănh liệt. Súng bắn không cần nhắm, lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng lớp lớp cộng quân rơi rụng.

    Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến pḥng thủ của Đại Đội 31 đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1062 và ngọn đồi không tên. Hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên cùng ào lên 1062 một lượt. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để t́m kiếm thức ăn. Họ t́m những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
    Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đ/U Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, v́ địch đă tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đ/U Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên ḿnh cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.

    BCH Tiểu đoàn gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Đàng bị thương nặng c̣n ngất ngư v́ trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, th́ người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hăy c̣n trợn trừng không khuất phục.

    Đại Đội 34 của Trung Úy Thư, lên tiếp ứng th́ gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Địch hô: "Hàng sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một ḿnh Tiểu Đoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Đoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mănh của Tiểu Đoàn 3 ND như Đại Úy Phạm Văn Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị đă gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.

    Do áp lực địch quá mạnh, lực lượng pḥng thủ 1062 của Nhảy Dù phải rút khỏi cứ điểm nầy (2 ĐĐ 31ND, ĐĐT là Đ/U Ngụy Văn Đàng và 34ND, ĐĐT là Trung Úy Phạm Văn Thư cùng 7 Sỉ Quan Trung Đội Trưởng và trên 140 HSQ&BS bị hy sinh v́ pháo địch ). Mặc dù có những công sự do Cộng quân đă chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc cây kiên cố, tuy nhiên địch quân quá đông, phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào băi lau sậy.

    Ngày 1/11/1974, CSBV tái chiếm đỉnh đồi 1062. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù được lịnh vào vùng tiếp ứng cho TĐ3ND. Tiểu Đoàn 9 dàn quân thành hai mũi ĐĐ93 của Đ/U Hồ Tường và ĐĐ 92 của Trung Úy Nhơn tấn công từ trên cao đánh xuống. Trong lúc đó, bên sườn dốc đứng phía dưới, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ bày trận thế nghi binh để cho địch quân tưởng là ta tấn công mặt nầy. Địch quân dùng giàn thung bắn thư rơi khiêu chiến “ Thách ngụy Dù lên đánh”.

    V́ biết địch quân lợi dụng hầm hố kiên cố trên đỉnh 1062, pháo binh của ta không làm ǵ được, Đại Úy Tường cho phóng lựu đạn cay lên buộc địch quân phải chui ra khỏi hầm sau đó gọi phi pháo thả bom Napalm hỏa thiêu đỉnh đồi 1062 đồng thời xua quân bao vây nguồn tiếp tế và nước. khiến địch quân chịu không nổi phải bỏ chạy. Ta và địch giằng co đỉnh đồi nầy nhiều lần, quân số đôi bên đều bị tiêu hao nhiều. Trung Úy Nhơn bị thương cả hai chân v́ đạp phải ḿn hơi.

    Ngày 8/11/1974 lực lượng Nhảy Dù phản công tái chiếm lại 1062 và lập tuyến pḥng thủ quanh sườn núi. Dẹp tan các chốt lẻ tẻ cuả địch và thu nhặt xác các quân nhân Nhảy Dù bị tử trận trong thời gian trước đó. Nhờ thời tiết giá lạnh nên các xác không bị hư hủy..

    Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù sau hai tuần nghỉ ngơi và chỉnh trang lại được đưa vào vùng phía Bắc của 1062, Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú "đen") sử dụng tối đa các phi tuần A-37 oanh kích tối đa mục tiêu và áp dụng chiến thuật đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách tung hai Đại Đội 11 & 15 duyên theo đường thông thủy tiến ṿng lên phía Bắc thay v́ đi theo yên ngựa rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2.

    V́ hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú trọng pḥng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội 15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 thu được 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.

    Sau đó Bắc quân tháo lui v́ chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Ḥa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
    Thiếu Tá Trần Công Hạnh tân Tiểu Đoàn Trưởng, cùng Tiểu Đoàn trừ đóng ở làng Hà Nha 1. C̣n Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (Tiểu Đoàn Phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được ṿng vây.

    Sáng hôm sau, Thiếu Tá Phương cho các Đại Đội tung ra lục soát, Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn Trung Đội tiến chiếm vị trí chốt mà địch đă đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong th́ nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức. Thiếu Tá Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành-Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề pḥng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Thiếu Úy Lân cũng bị hy sinh. Thiếu Tá Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai đến vùng tử địa đó nữa.

    Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Thiếu Tá Trần Công Hạnh lên làm Tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Ḥa về làm Tiểu Đoàn Phó.

    Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (Tiểu Đoàn Trưởng), và Thiếu Tá Nguyễn Văn Quư, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm Tiểu Đoàn Phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương Đông kích Tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.

    Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đă bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đă đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dăy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đă thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND tiến lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.

    Đến cuối năm 1974 th́ Sư Đoàn Nhảy Dù rút quân về quận Đại Lộc nghĩ ngơi, bổ sung thiệt hại và chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp, chỉ để lại Tiểu Đoàn 1 và 7 Dù đóng ở khu vực Đồi 52 và núi Đông Lâm cách Đồi 1062 khoảng 4 km về phía đông, thường xuyên đưa các toán tuần tiểu vào khu vực Đồi 1062 và sử dụng hỏa lực pháo binh để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân. Kể từ đây,t́nh h́nh quân sự tại cả hai phía Nam và Bắc đèo Hải Vân hoàn toàn yên tỉnh cho đến khi SĐND bắt đầu rút quân khỏi Quân Khu I khoảng trung tuần tháng 3/1975.

    Tổng Kết tổn thất trong 3 tháng giao tranh:

    Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Đức vào ngày 15 tháng 8 liên tục trong ba tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực đồi 1062, các đơn vị Nhảy Dù đă bị thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư Đoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 Tiểu Đoàn trong chiến dịch này và đến giữa tháng 11 có đến 6 tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Đồi 1062. Ba trung đoàn CSBV (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và 5,000 bị thương. Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu .

    Nhảy Dù : 500 chiến sỉ hy sinh 2000 bị thương.

    Cộng Sản : 2000 chết, 5000 bị thương ( tài liệu :Col.William E. Le Gro trong VietNam from Cease Fire to Capitulation )

    Tài liệu tham khảo:
    - Đời Chiến Binh của Trương Dưởng xuất bản tại California ngày 15/5/1999
    - Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Đức Phương Làng Văn Canada xuất bản 2001
    - Bạo Lực Cách Mạng Và Chiến Dịch Đột Kích Chiến Lược Năm 1974 của Mê Kông trên trang nhà vietnam.ictglobal.ne t
    - Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
    Đại Úy Vơ Trung Tín
    Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
    Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
    Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
    Chúng tôi rất mong được đón nhận những ư kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót v́ vấn đề thời gian đă trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp.Email: votrungtin@hotmail.c om

  2. #112
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P1










    TỔ CHỨC BINH CHỦNG NHẢY DÙ QL-VNCH

    SĐND/QL-VNCH gồm có 4 Lữ Đoàn: LĐ1ND, LĐ2ND, LĐ3ND, & LĐ4ND (LĐ4ND là LĐ tân lập năm 1975)



    LỮ ĐOÀN 1 NHẢY DÙ: TĐ1ND, TĐ8ND, TĐ9ND




    TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ TIỂU ĐOÀN 8 NHẢY DÙ TIỂU ĐOÀN 9 NHẢY DÙ


    LỮ ĐOÀN 2 NHẢY DÙ: TĐ5ND, TĐ7ND, TĐ11ND




    TIỂU ĐOÀN 5 NHẢY DÙ TIỂU ĐOÀN 7 NHẢY DÙ TIỂU ĐOÀN 11 NHẢY DÙ
    Last edited by alamit; 17-08-2012 at 11:47 PM.

  3. #113
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P2


    LỮ ĐOÀN 3 NHẢY DÙ: TĐ2ND, TĐ3ND, TĐ6ND





    LỮ ĐOÀN 4 NHẢY DÙ - Lữ Đoàn Tân lập 1975: TĐ12ND, TĐ14ND, TĐ15ND
    BKT chưa có Huy hiệu của LĐ tân lập này


    CÁC ĐẠI ĐỘI TRINH SÁT CỦA SĐND/QL-VNCH (ĐĐ1TSND, 2, 3, 4)


    ĐẠI ĐỘI 1 TRINH SÁT NHẢY DÙ

    ĐẠI ĐỘI 2 TRINH SÁT NHẢY DÙ

    ĐẠI ĐỘI 3 TRINH SÁT NHẢY DÙ

    ĐẠI ĐỘI 4 TRINH SÁT NHẢY DÙ

  4. #114
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P3



    CÁC TIỂU ĐOÀN PHÁO BINH CỦA SĐND/QL-VNCH (TĐ1PBND, 2, 3)




    CÁC ĐƠN VỊ YỂM TRỢ CỦA SĐND/QL-VNCH: Công binh, Truyền Tin, Yểm Trợ, và
    Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám.



    TIỂU ĐOÀN CÔNG BINH
    NHẢY DÙ

    TIỂU ĐOÀN TRUYỀN TIN
    NHẢY DÙ

    TIỂU ĐOÀN YỂM TRỢ
    NHẢY DÙ

    TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN
    NHẢY DÙ

    TIỂU ĐOÀN QUÂN-Y CỦA SĐND/QL-VNCH & Bệnh viện ĐỖ VINH

    Bệnh viện ĐỖ VINH tọa lạc ngay trong căn cứ Hoàng Hoa Thám, Bộ Tư Lệnh SĐND Hậu phương, Sài G̣n.
    Cố Bác sĩ ĐỖ VINH là Y-sĩ Trưởng TĐND/VN đầu tiên tử trận tại chiến trường (Quảng Tín).
    Do đó tên ông được SĐND dùng để đặt tên cho Bệnh Viện SĐ.


    TIỂU ĐOÀN QUÂN Y
    NHẢY DÙ

    Nguồn h́nh ảnh: BKT chụp Huy hiệu của các Tiểu Đoàn Nhảy Dù dựa theo tranh ảnh QL-VNCH gia đ́nh mua được ở tiệm sách tại Hoa Kỳ.
    Qua thời gian màu sắc bị phai nhạt, nếu sai xin ACE cựu quân nhân SĐND có h́nh năm xưa xin gửi về cho BKT để điều chỉnh.


    Từ năm 1946 đến năm 1954 là giai đoạn các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam ra đời, gồm các Tiểu đoàn 1, 3, 4, 5, 6, 7; tuy nhiên các cấp chỉ huy của các đơn vị lúc đó phần đông là người Pháp. Riêng TĐ4/ND/VN sau khi giao tranh với một trung đoàn Việt Minh, bị tổn thất nặng nề tại Trung Lào (đầu năm 1952) và không hiểu tại sao cấp trên lại không bổ xung quân số cho đơn vị này, cho giải thể TĐ4/ND/VN và lấy quân số bổ xung cho hai Tiểu đoàn 1 và 6 Nhảy Dù Việt Nam.

    Cho tới năm 1954 Hiệp định Genève chia đôi lănh thổ Việt Nam, miền Bắc thuộc quyền kiểm soát của đảng Cộng Sản Việt Nam, Miền Nam thuộc về những người yêu chuộng Tự Do; Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam đang đồn trú tại miền Bắc gồm các đơn vị:

    - Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn Trưởng T/U Phan Trọng Chinh
    - Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn Trưởng Đ/U Le Chaud
    - Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn Trưởng Đ/U Trịnh Xuân Nghiêm

    Các đơn vị này được không vận từ Hà Nội vào đồn trú tại Nha Trang. Tại đây, v́ nhu cầu thành lập Liên Đoàn Nhảy Dù và Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù, nên Groupement Aéroportée Parachutiste No. 3 (PAP 3) và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù phải giải thể.

    Ngày 9 tháng 9, năm 1954 tức ngày kỷ niệm (Saint Michael) Thánh Tổ Nhảy Dù Pháp và Việt Nam; Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam ra đời, kể từ ngày này các cấp chỉ huy Pháp chính thức bàn giao quyền chỉ huy đơn vị cho các sĩ quan Việt Nam tại sân cờ của GAP3 tại Nha Trang. Nằm trong chương tŕnh trao trả chủ quyền Quốc Gia lại cho người Việt Nam. Lúc đầu Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam chờ đón cấp chỉ huy Việt Nam đầu tiên là Đại Tá Lam Sơn do Phủ Thủ Tướng đề nghị, nhưng Bộ Tổng Tham Mưu do Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh nắm quyền lại bổ nhiệm Trung Tá Đỗ Cao Trí về nhận chức vụ Tư Lệnh Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành phần tổ chức Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam như sau:

    Tư Lệnh: Trung Tá Đỗ Cao Trí
    Tiểu Đoàn Yểm Trợ: TĐT Đ/U Nguyễn Thọ Lập
    Tiểu Đoàn 1 ND: TĐT Đ/U Vũ Quang Tài
    Tiểu Đoàn 3 ND: TĐT Đ/U Phan Trọng Chinh
    Tiểu Đoàn 5 ND: TĐT Đ/U Le Chaud
    Tiểu Đoàn 6 ND: TĐT Đ/U Thạch Con.

    Tiểu Đoàn 5 ND khi vận chuyển bằng đường hỏa xa từ Nha Trang vào Sài G̣n sắp sửa ra quân đánh B́nh Xuyên, Đ/U Le Chaud mới bàn giao đơn vị cho Trung Úy Cao Văn Viên. Và sau đó Tr/U Viên được đặc cách lên Đ/U.

    * Đất nước bị chia đôi, ḷng người bị ly tán, các thế lực thao túng Nam Việt Nam. Quân Đội Quốc Gia th́ trong giai đoạn phôi thai chỉ vỏn vẹn 8 tháng trời để củng cố lại chỉ huy và huấn luyện, cuối tháng 4-1955 các chiến sĩ Nhảy Dù tưởng đă nhoà nhuệ khí, nhưng trái lại họ lại lên đường với một nhiệm vụ mới.

    Ngày 25 tháng 3 năm 1955 Toàn bộ Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam có mặt tại Sài G̣n, Bộ Tư Lệnh đóng tại Trại Quân Cụ (cạnh chợ cá Trần Quốc Toản). Trung Tá Đỗ Cao Trí được Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm vinh thăng Đại Tá; và theo lệnh của Thủ Tướng ngày 1 tháng 5 năm 1955 Liên Đoàn Nhảy Dù xuất quân trong ṿng 4 ngày đă quét sạch lực lượng B́nh Xuyên ra khỏi Sài G̣n - Chợ Lớn.

    Năm 1955 toàn bộ lực lượng B́nh Xuyên kể cả Công An Xung Phong của họ bị đánh tan tác. Tổng hành dinh B́nh Xuyên bên kia cầu chữ Y bị các Chiến sĩ Nhảy Dù Chiếm đóng. Chiến công đầu tiên của Binh Chủng Nhảy Dù đă làm sống lại ư chí quật cường của một Việt Nam tự do sau này, với nền Đệ Nhất Cộng Hoà.

    LƯỢC SỬ CÁC ĐƠN VỊ NHẢY DÙ

    Khối Bổ Sung (KBS): Là một đơn vị ngoài bảng cấp số trực thuộc Pḥng 3 SĐND. H́nh thành như một Trung Tâm Huấn Luyện các tân binh t́nh nguyện về Nhảy Dù. Khối Bổ Sung được thành lập từ khi Liên Đoàn Nhảy Dù trở thành Sư Đoàn Nhảy Dù năm 1965. V́ nhu cầu chiến trường gia tăng, cần phải đào tạo nhiều binh sĩ ưu tú qua 2 giai đoạn:

    1 Từ một người thanh niên trở thành một người lính chiến.
    2 Từ một người lính chiến trở thành người lính Nhảy Dù chuyên nghiệp.

    Các Đơn Vị Trưởng liên tục:

    1 Trung Tá Nguyển Văn Tư
    2 Đại Úy Phạm Thái Hoá
    3 Thiếu Tá Trần Như Tăng
    4 Trung Tá La Trịnh Tường

    KHỐI BỔ SUNG

    Khối Bổ Sung được tổ chức như một đơn vị biệt lập gồm có 5 ban:

    1 Ban 1 Quân Số
    2 Ban 2 An-Ninh
    3 Ban 3 Điều Hành
    4 Ban 4 Tiếp Liệu
    5 Ban 5 Tâm Lư Chiến

    Khối Bổ Sung nằm trong căn cứ Hoàng Hoa Thám của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù có thể thu nhận khoảng 2,000 tân binh nhảy dù cùng một lúc. Khối Bổ Sung có nhiệm vụ:

    1 Tuyển mộ: Phối hợp với Pḥng 3 SĐND tổ chức các toán tuyển mộ đi các quân khu tuyển mộ thẳng các thanh niên trong tuổi thi hành quân sự thích đi lính Nhảy Dù, hoặc các quân nhân của các đơn vị Bộ Binh t́nh nguyện về phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù.

    Sau khi ghi tên t́nh nguyện tại điạ phương, các tổ tuyển mộ xin phương tiện cho họ di chuyển về Khối Bổ Sung. Tại đây họ được lập các thủ tục hành chánh, lănh quân trang quân dụng và chia thành các đại đội.

    2 Huấn Luyện: gồm 2 giai đoạn.

    a) Giai đoạn 1: huấn luyện quân sự, thời gian 3 tháng. Sau các thủ tục hành chánh, các tân binh được gởi đi thụ huấn quân sự tại Tiểu đoàn Khoá Sinh Vương Mộng Hồng thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.

    b) Giai đoạn 2: huấn luyện Nhảy Dù, thời gian 1 tháng. Sau thời gian thụ huấn quân sự 3 tháng các tân binh Nhảy dù được TĐ Vương Mộng Hồng chuyển trở lại Khối Bổ Sung. Tại đây hằng ngày các cán bộ KBS hướng dẫn các Đại Đội tân binh sang Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù trong căn cứ Hoàng Hoa Thám để được huấn luyện về kỹ thuật nhảy dù.

    Sau 3 tuần lễ dưới đất thực tập mặc dù, khám dù, lên phi cơ, nhảy ra khỏi đài cao 11 thước, lấy thế đáp xuống đất, tránh dù lôi.... Các tân binh được lên phi cơ thực hiện 6 saut Nhảy dù tự động và một saut Nhảy dù đêm. Từ đây các tân binh mới thật sự là một chiến binh Nhảy dù thực sự. Và Họ sẽ được phân phối đến các đơn vị theo nhu cầu.

    TIỂU ĐOÀN KHÓA SINH VƯƠNG MỘNG HỒNG

    Cũng là một đơn vị ngoài bảng cấp số của SĐND trực thuộc Pḥng 3/SĐND gồm những cán bộ phụ trách quản trị và giám sát kỷ luật các Đại Đội tân binh Nhảy dù và hằng ngày đưa họ sang thụ huấn quân sự ở TTHL Quan Trung.

    Các Vị Tiểu đoàn Trưởng liên tiếp của TĐ Khoá Sinh Vương Mộng Hồng:

    1 Trung-Tá Trương Kế Hưng
    2 Trung Tá Lê Minh Ngọc
    3 Trung Tá Phạm Kim Bằng
    4 Thiếu Tá Miên

    Sau 3 tháng huấn luyện quân sự Các tân binh được chuyển trở lại Khối Bổ Sung ND để được đưa sang Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù huấn luyện phần kỹ thuật nhảy dù.

    (La Trịnh Tường - Đặc San Mủ Đỏ 34)

    TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN NHẢY DÙ

    I Sự h́nh thành và phát triển: Sau Hiệp định Geneve năm 1954, Các Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù của Pháp tại Đà Nẵng và Hà Nội bị giải tán, riêng trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Sài G̣n trong căn cứ Tân Sơn Nhất được chuyển giao lại cho Quân Lực VNCH vào ngày 1 tháng 5, năm 1955. Vị Huấn Luyện Viên (HLV) người Việt Nam, phụ tá cho Chỉ Huy Trưởng, Trung Úy Huott, có cấp bậc cao nhất là Thượng Sĩ I Trần Văn Vinh được thăng cấp Chuẩn Úy và được bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của TTHL/ND Việt Nam. Cùng Với Chuẩn Úy Trần Văn Vinh, có khoảng 10 Hạ Sĩ Quan (HSQ) HLV Việt Nam khác cũng được chuyển sang Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Vào năm 1954, Liên đoàn Nhảy dù cũng tuyển chọn một số SQ và HSQ từ các đơn vị gửi đi thụ huấn khoá HLV Nhảy dù tại Hà Nội và Đà Nẵng trong số nầy có Thiếu Úy Lâm Quang Thới (TĐ1ND, Trung Úy Trương Quang Ân (TĐ3ND), Thiếu Úy Vũ Văn Giai (TĐ5ND), và Thiếu Úy Nguyển Vỹ (TĐ7ND).

    Đến năm 1975, số khoá dù huấn luyện lên dến trên 200 khoá và trên 50,000 khoá sinh tốt nghiệp. Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù c̣n đào tạo 7 khoá HLV với trên 200 SQ và HSQ tốt nghiệp.

    Ngoài việc đào luyện cho các quân nhân cơ hữu của đơn vị Nhảy dù, TTHL ND c̣n huấn luyện cho các quân nhân thuộc các quân binh chủng khác gởi tới thụ huấn để nâng cao tinh thần tác chiến cũng như nhu cầu cần thiết của đơn vị như:

    - Lực Lượng đặc biệt
    - Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù
    - Các đơn vị trực thuộc Phủ Tổng Thống và Bộ Tổng Tham Mưu
    - Đơn vị Người Nhái Hải Quân
    - SVSQ Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt
    - Một số phóng viên chiến trường thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị
    - Một số nhỏ các chuyên viên quân sự ngoại quốc
    - Một số Sĩ Quan cao cấp thuộc tất cả các Quân Binh Chủng khác.

    Cấp Chỉ Huy Liên tiếp:

    1/5/1955 Chuẩn Úy Trần Văn Vinh
    1956 Thiếu Úy Đỗ Đức Hạnh thay thế trong thời gian Chuẩn Úy Vinh đi học khoá SQ Trung Đội Trưởng
    1957 Thiếu Úy Trần Văn Vinh
    1973 Trung Úy Đỗ Văn Thuận, thay thế Trung Tá Vinh về Khối Chiến Tranh Chính Trị.

    Nhiệm Vụ:

    Nhiệm vụ chính yếu của Trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù là huấn luyện nhảy dù cho các quân nhân phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù và một số các đơn vị đặc biệt trong QLVNCH. Với các khoá Huấn luyện căn bản và các khoá Huấn Luyện Viên nhảy Dù:

    1. Khoá Huấn Luyện Căn Bản:

    Tất cả quân nhân t́nh nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù không phân biệt cấp bậc, ngành chuyên môn kể cả các vị Tuyên Úy tôn giáo đều phải qua giai đoạn huấn luyện nhảy dù và được cấp bằng Nhảy dù. Trước khi nhập khoá, các quân nhân phải trải qua một cuộc trắc nghiệm sức khoẻ trong 2 ngày và phải đạt được số điểm ấn định tối thiểu.

    Ngày thứ nhất trắc nghiệm 8 môn thể dục chính của người quân nhân

    Ngày thứ hai chạy dă chiến 8,000 thước (8km) với trang phục hành quân, sau nghỉ 30 phút, tiếp tục chạy với tốc độ 1500 thước (1.5km).

    Huấn Luyện giai đoạn I:

    Tuần thứ nhất: Huấn Luyện dưới đất, gồm các môn:

    - Cách thức mang dù và các trang bị hành quân
    - Cách thức nhảy ra khỏi phi cơ
    - Kiểm soát và lái dù theo ư muốn
    - Các thế đáp (té/ngă) để tránh bị thương tích khi từ trên không đáp xuống đất
    - Thu lượm và bảo tŕ dù sau khi đáp xuống đất

    Tuần thứ hai: Huấn Luyện trên các đài nhảy cao:

    - Đài 4 thước, cách nhảy ra khỏi cửa phi cơ để làm quen ở độ cao trung b́nh
    - Đài 11 thước (thường gọi là chuồng cu) nhảy ra khỏi cửa phi cơ ở độ cao để làm quen với cảm giác mạnh
    - Đài 12 thước (thường gọi là Dây tử thần) tập đáp xuống đất để làm quen với tốc độ va chạm mặt đất từ trung b́nh đến mạnh
    - Cách tránh dù lôi khi trời có gió, lúc đáp từ trên không trung xuống đất

    Huấn Luyện giai đoạn II:

    Thực tập nhảy dù từ trên phi cơ ở độ cao 400 thước (1312 feet) xuống đất gồm có:

    - 6 lần nhảy ban ngày (1 lần với trang bị hành quân)
    - 1 lần nhảy ban đêm

    2 Khoá Huấn Luyện Viên Nhảy Dù:

    Các Sĩ Quan và HSQ khoá sinh Huấn Luyện Viên Nhảy Dù được tuyển chọn từ các cán bộ đă có kinh nghiệm nhảy dù và phải có ít nhất từ 30 lần nhảy trở lên, thuộc các đơn vị trong SĐND. Sau khi tốt nghiệp, một số được giữ lại để bổ sung quân số HLV tại TTHL/ND, số c̣n lại được trả về lại đơn vị để phụ giúp đơn vị trong các buổi nhảy dù thao duợt cũng như hành quân không vận của đơn vị. Đơn vị Lực Lương Đặc Biệt thuộc bộ TTM v́ nhu cầu bảo mật và lớn mạnh, nên cũng gởi các SQ và HSQ về thụ huấn các khoá HLV Nhảy dù, sau đó trở về thành lập một TTHL Nhảy Dù riêng của LLĐB ở Ba Ng̣i, Nha Trang thuộc Quân Đoàn II

    (Vũ Văn Hưởng 4/2004)


    Nguồn: Bài viết: http://www.nhaydu.com
    H́nh ảnh: Huỳnh Lương Thọ, K4-71/SQTB/TĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH và Ban Kỹ Thuật sưu tầm

  5. #115
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P4A









    Last edited by alamit; 17-08-2012 at 04:34 AM.

  6. #116
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P4B









    Last edited by alamit; 17-08-2012 at 04:34 AM.

  7. #117
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P4C












    Last edited by alamit; 17-08-2012 at 04:33 AM.

  8. #118
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P4D










  9. #119
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P5A




    Tiểu sử LỮ ĐOÀN 1 NHẢY DÙ

    Là hậu thân của Chiến Đoàn I Nhảy Dù được thành lập từ đầu năm 1962 do Thiếu Tá Dư Quôc
    Đống làm Chiến Đoàn Trưởng đầu tiên. BCH Chiến Đoàn với quân số 49 quân nhân Nhảy Dù có nhiệm
    vụ chỉ huy chiến thuật khi các đơn vị Nhảy Dù được tăng phái cho các Sư Đoàn Bộ Binh hoặc Khu Chiến
    Thuật hoặc Vùng Chiến Thuật hơn một Tiểu Đoàn. Và nhiệm vụ nầy được chấm dứt khi chiến đoàn trở
    về hậu cứ.
    Về sau, do nhu cầu chiến trường ngày một gia tăng, thêm các Tiểu Đoàn Tác Chiến và các Tiểu
    Đoàn Pháo Binh 105 ly Nhảy Dù được thành lập, Lữ Đoàn Nhảy Dù được phát triển thành Sư Đoàn
    Nhảy Dù vào ngày 1 tháng 12 năm 1965. Do đó cơ cấu tổ chức Sư Đoàn Nhảy Dù được cải tổ, thêm
    nhiều đơn vị yểm trợ tiếp vận như Truyền Tin, Công Binh, Quân Y…được nâng cấp và đến ngày
    1/5/1968 các Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn được cải danh thành Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Nhảy Dù để chỉ huy
    chiến thuật các đơn vị thống thuộc và tăng phái theo nhu cầu các cuộc hành quân. LĐT/LĐIND đầu tiên
    là Trung Tá Hồ Trung Hậu.
    Bản doanh của LĐ1ND nằm trong căn cứ Hoàng Hoa Thám. Đến tháng 6/1964 Trung Tá Dư
    Quốc Đống được thăng cấp Đại Tá và lên làm Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù bàn giao lại cho Trung Tá Bùi
    Kim Kha. Tháng 6 năm 1965, sau trận giải vây quận Thuần Mẫn tại Quân Khu 2, Thiếu Tá Hồ Trung Hậu
    đang là TĐT/TĐ5ND được chỉ định thay thế Trung Tá Bùi Kim Kha chỉ huy CĐ1ND.
    Trên phương diện tổ chức, Lữ Đoàn I Nhảy Dù gồm có:
    - Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các Ban Tham Mưu 1, 2, 3, 4, 5 và Truyền Tin.
    - Đại Đội Chỉ Huy Công Vu / LĐI ND.
    - Đại Đội 1 Trinh Sát Nhảy Dù.
    - Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.
    - 3 Tiểu Đoàn tác chiến : Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù.
    - Trung Đội Truyền Tin / LĐ1ND với nhiệm vụ thiết lập hệ thống liên lạc hữu tuyến, vô tuyến, hỏa bài
    quân, mật mă và điện báo từ BCH/LĐ đến tất cả các đơn vị thống thuộc.
    - Trung Đội 1 Truyền Tin do Tiểu Đoàn Truyền Tin/SĐND tăng phái với nhiệm vụ thiết lập hệ thống
    liên lạc hữu tuyến, siêu tần số, giải tần đơn, Viễn ấn tự, vô tuyến âm thoại & điện báo, hỏa bài quân và
    mật mă từ BCH/LĐ đến BTL/SĐND.
    - Đại Đội 1 Công Binh do Tiểu Đoàn Công Binh / SĐND tăng phái.
    - Đại Đội 1 Quân Y do TĐQY / SĐND tăng phái.
    - Phân Đội 1 Tiếp Vận do Tiểu Đoàn Yểm Trợ / SĐND tăng phái.
    Nhưng về phương diện chiến thuật, khi nhu cầu hành quân đ̣i hỏi, bất cứ Tiểu Đoàn tác chiến
    nào cũng có thể được BTL/SĐND chỉ định để kết hợp thành một lực lượng đáp ứng cho nhu cầu chiến
    trường của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ngay cấp thời.
    Đến ngày 25/1/1968 Trung Tá Hồ Trung Hậu bàn giao chức vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐIND lại cho
    Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng.
    Ngày 27/1/1968 sau khi nhận bàn giao LĐIND, Thiếu Tá Lê Quang Lưởng và BCH LĐIND được
    điều động ra Huế thay thế BCH/LĐ2ND do Trung Tá Đào Văn Hùng chỉ huy với 3 Tiểu Đoàn 2, 7 và 9
    Nhảy Dù để bảo vệ cho Huế, và Quảng Tri tại QKI trong dịp tết Mậu Thân.
    Lữ Đoàn I Nhảy Dù 2
    Đến tháng 7 năm 1972 Đại Tá Lê Quang Lưỡng được chỉ định giử chức vụ Phụ tá Hành quân cho
    Tư Lệnh SĐND, ông bàn giao lại cho Trung Tá Lê Văn Ngọc chỉ huy LĐ1 Nhảy Dù.
    Năm 1974, Đại Tá Lê Văn Ngọc thuyên chuyển về đặt dưới quyền sử dụng của Bộ Nội Vụ ông
    bàn giao LĐ1ND lại cho Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy LĐ1ND cho đến tháng 4 năm 1975.
    Các Vị Chỉ Huy Liên Tiếp:
    1- Thiếu Tá Dư Quốc Đống ( 1962 – 19/6/1964)
    2- Thiếu Tá Bùi Kim Kha ( 19/6/1964 – 6/1965 )
    3- Thiếu Tá Hồ Trung Hậu ( 6/1965- 25/1/1968 )
    4- Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng ( 25/1/1968 – 7/1972 )
    5- Trung Tá Lê Văn Ngọc ( 7/1972 – 1974 )
    6- Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh ( 1974 – 30/4/1975 )
    Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được 6 lần tuyên dương công trạng trước Quân Đội, được ân thưởng dây biểu
    chương màu Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương liễu


    TIỂU SỬ TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ/SĐND/QL-VNCH
    Ngày 1/8/1951, Bởi quyết định số 1547/EMIFT/1
    (Etat Major Interarmees et des Forces Terrestres)




    ĐĐ10 (CH) ĐĐ11 ĐĐ12 ĐĐ14 ĐĐ15

    Đại Đội 1 Nhảy Dù Đông Dương và Đại Đội 1 Pḥng Vệ Bắc Việt được kết hợp để thành lập Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù Việt Nam (1er Bataillon de Parachutistes Vietnamiens) đầu tiên tại Chí Hoà Sài G̣n (Nha Hỏa-Xa tại cổng Bà-Xếp Ḥa-Hưng), phần lớn các cán bộ chỉ huy đều do người Pháp nắm giữ. Tiểu Đoàn Trưởng (TĐT) đầu tiên là Đại Úy Ticheri kế đó là các Đại Úy Gérauld, Đ/U Vervelle, Đ/U Chapuis và sau đó (tháng 2/1952) mới chuyển qua SQVN là Đại Úy Nguyễn Khánh (tham dự trận Ḥa B́nh) rồi sau đó tới Thiếu Tá Albert Lê Quang Triệu (khoảng 3 tháng). Việc huấn luyện nhảy dù và đơn vị được thực hiện tại Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù trong căn cứ Tân Sơn Nhất, và một Trung tâm khác tại Phi-Trường Bạch Mai Hà Nội. Sau khi thành lập, một thành Phần của Tiểu đoàn được gởi đến Kontum vào ngày 9/8/1951 để tăng viện cho Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù Foreign Legion của Pháp.

    Từ ngày 30/8/1951 đến 9/9/1951 TĐ1ND–VN đươc thả xuống cù lao Ré tỉnh Quảng Nam trong cuộc hành quân “Pirate” của Liên Đoàn Nhảy Dù Pháp để tấn công một lực lượng CS Việt Minh vừa xâm nhập vào đảo này. Đây là trận thử lửa đầu tiên của TĐ1ND-VN.

    Ngày 1/11/1951, TĐ1ND di chuyển ra Hà Nội để làm thành phần trừ bị cho cuộc hành quân “Bretagne”. Từ ngày 15 đến ngày 19/12/1951 TĐ1ND được thả vào vùng hành quân để tiếp viện cho quân Pháp. TĐ1ND đă chạm mạnh với Cộng Sản VM tại khu vực Nam Định và sau đó tại Thái B́nh.

    Ngày 22/1/1952 trong những ngày giáp Tết, TĐ1ND-VN nhảy “saut” đầu tiên chỉ có 3 ĐĐ đánh trận Ḥa-B́nh do Đ/U Nguyễn Khánh chỉ huy và Tướng De Lattre De Tassigny làm Tư Lệnh chiến trường. Đơn vị Nhảy Dù VN này là đơn vị triệt thoái sau cùng ngày 21/2/1952. Tới cuối năm 1952 Tiểu Đoàn mới thành lập thêm ĐĐ thứ tư để đáp ứng đúng nhu cầu cấp số. Lần lượt sự huấn luyện & chỉ huy đơn vị được chuyển giao cho phía Việt-Nam.

    Đến tháng 4/1952 TĐ1ND trở về Sàig̣n và tham gia ngay trận đánh tại Tây Ninh vào ngày 25/4/1952 trong cuộc hành quân ”Chaumiereut” và đến ngày 15/5/1952 TĐ1ND nhảy xuống Xuyên Mộc, tấn công vào mật khu Lê Hồng Phong căn cứ địa của Việt Minh Cộng Sản. Vị Sĩ Quan VN đầu tiên của Tiểu Đoàn bị hy sinh trong cuộc chiến là Trung Úy Nguyễn Trung Hiếu. Từ đó căn cứ của TĐ1ND được gọi tên là Trại Nguyễn Trung Hiếu.

    Sau đó TĐ1ND tham gia các trận đánh với Việt Minh Cộng Sản tại miền cao nguyên Trung Việt như một đơn vị bộ chiến với Liên Đoàn 1 Nhảy Dù thuộc địa GAP-1 như cuộc hành quân Atlas từ ngày 9 đến 29/4/1952 tại Quảng Ngăi.

    Ngày 27/12/1952 TĐ1ND đă nhảy xuống Bắc Thái, Hà Nội để tảo thanh lực lượng Việt Minh Cộng Sản mưu toan lập căn cứ địa dựa vào địa thế hiểm trở của vùng này.

    Khoảng Tháng 7/1953 đến đầu năm 1954, TĐ1ND được đưa về hoạt động trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong các chiến dịch hành quân của Liên Đoàn 1 Nhảy Dù GAP-1 (1er Groupement Aeroportees Parachutiste).

    Ngày 25/3/1955 được điều động về Sài G̣n cùng với Liên Đoàn Nhảy Dù để tảo thanh lực lượng B́nh Xuyên ra khỏi Sài G̣n Chợ Lớn. Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, TĐ1ND vẫn tiếp tục hiện hữu như là nhân tố thành lập Lực Lượng Nhảy Dù/Việt Nam và gia nhập vào Liên Đoàn 3 Nhảy Dù (3e Groupement Aeroportees Parachutiste).

    Những trận đánh đáng ghi nhớ của TĐ1ND:

    Ngày 21/9/1955 tham gia chiến dịch Hoàng Diệu tảo thanh lực lương B́nh Xuyên ở khu rừng Sát đến 24/10/1955 do Đại Úy Trần Văn Đô làm Tiểu Đoàn Trưởng.

    Ngày 1/1/1956 đến ngày 17/2/1956 tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ hành quân b́nh định miền Tây (vùng Sa Đéc) để giải giới các lực lượng giáo phái quá khích không chịu hợp tác với Chính Phủ Đệ Nhất Cộng Ḥa.

    -Tháng 5/1960, TĐ1ND nhảy dù xuống Mộc Hóa để tảo thanh VC nằm vùng, do Đại Úy Dư Quốc Đống làm Tiểu Đoàn Trưởng.

    Ngày 11/11/1960 tham gia cuộc đảo chính do Đại Tá Nguyễn Chánh Thi và Trung Tá Vương Văn Đông chủ xướng bị thất bại.

    Ngày 15/6/1961 Hành quân Sa Đéc, Cao Lănh. Chiến thắng lớn tại Ấp Mỹ Quư, kinh Thước Thợ. Tất cả quân nhân thuộc TĐ1ND đều được thăng một cấp, Đ/U Dư Quốc Đống TĐT được thăng cấp Thiếu Tá.

    Ngày 18/9/1961, TĐ1ND nhảy dù tiếp cứu và giải vây tỉnh Phước Thành đă bị địch tràn ngập.

    Tháng 1/1962, TĐ1ND nhảy dù xuống Vị Thanh Chương Thiện yểm trợ khai triển Khu Trù Mật.

    Tháng 5/1962, TĐ1ND nhảy dù giải cứu đồn Phước Tân, vùng biên giới Miên Việt và một Trung Đoàn Bộ Binh VNCH bị địch bao vây theo chiến thuật “công đồn đă viện”.

    Tháng 2/1963, Ngày mùng 3 và mùng 7 Tết, TĐ1ND nhảy 2 saut liên tiếp, theo tin tức t́nh báo, để chận bắt Văn Tiến Dũng vào họp với cục “R” tại chiến khu C.

    -Từ ngày 2 đến 4 Tháng 3 năm 1964, TĐ1ND cùng TĐ8ND tham dự hành quân Quyết Thắng đánh thẳng vào hậu cần của VC trong vùng biên giới Miên Việt tại Tân Châu Hồng Ngự.(cố vấn Mỹ Thiếu Tá Mc Cathy tử trận), Đại Tá Cao Văn Viên được thăng cấp Thiếu Tướng tại mặt trận.

    Ngày 03/1/1965, TĐ1ND hành quân trực thăng vận tiếp viện trận B́nh Giả giải vây cho TĐ4TQLC.

    Ngày 16/2/1967, TĐ1ND cùng TĐ7ND tham gia hành quân Liên Kết 81 dưới sự điều động của Chiến Đoàn 1 Nhảy Dù ở Sơn Tịnh, Quảng Ngăi. TĐ1ND do Thiếu Tá Lê Văn Đặng làm Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Thu Lương làm Tiểu Đoàn Phó.

    -Từ những ngày cuối tháng 1/1968, TĐ1ND tham gia hành quân giải tỏa áp lực VC và bảo vệ đài phát thanh trong Khu Vực Đài Sài G̣n và khắp các mặt trận trong Năm Mậu Thân.

    -Năm 1969, TĐ1ND hành quân Tây Ninh giải tỏa áp lực Cộng quân quanh Sài G̣n, trận Cầu Khởi tháng 2/1969, trận G̣ Nổi tháng 7/1969, Thiếu Tá Phạm Hy Mai làm Tiểu Đoàn Trưởng.

    -Đầu tháng 5/1970, TĐ1ND tham gia chiến dịch B́nh Tây, hành quân vùng Mỏ Vẹt Campuchia trong cuộc Hành Quân Toàn Thắng 43 do BTL/QĐ-III tổ chức. Trung Tá Phạm Hy Mai làm Tiểu Đoàn Trưởng, về sau Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phan thay thế.

    -Từ ngày 29/1/1971, TĐ1ND tham gia hành Quân Lam Sơn 719 tại chiến trường Hạ Lào cho đến 6/4/1971. Thiếu Tá Ngyễn Xuân Phan tử trận, Thiếu Tá La Trịnh Tường thay thế chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng.

    -Trong “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, trên chiến trường Tây Nguyên, ngày 15/3/1972, TĐ1ND được không vận đến Vơ Định, Kontum để giải tỏa áp lực địch quân quanh căn cứ 6 và thiết lập căn cứ Delta.

    Sau đó TĐ1ND được rút về Chơn Thành để hành quân giải tỏa An Lộc trên QL-13. Trực thăng vận vào suối Tào Ô, tiến chiếm Ấp Tân Khai.

    -Ngày 28/5/1972, TĐ1ND cùng với LĐ3ND, TĐ1 được không vận ra Huế tham dự hành quân tái chiếm Quảng Trị. Đầu tháng 7/1972, Thiếu Tá Lê Hồng thay thế Trung Tá La Trịnh Tường trong chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng.

    -Ngày 8/8/1974, TĐ1ND di chuyển đến Đà Nẵng tham dự mặt trận Thường Đức do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm Tiểu Đoàn Trưởng, cho đến cuối tháng 3/1975, toàn bộ SĐND được rút khỏi Quân Khu-I kéo theo sự sụp đổ của VNCH ngày 30/4/1975.

    -Ngày 12/4/1975, TĐ1ND cùng với các Tiểu Đoàn 8 và 9 Nhảy Dù thuộc LĐIND tham gia trận chiến thắng cuối cùng tại mặt trận Long Khánh gây kinh hoàng cho Quân Đoàn-4 CSBV.

    CÁC TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ

    1-Đại Úy Nguyễn Khánh (22/1/1952 – 22/2/1952) chỉ huy TĐ1ND tham gia nhảy trận Ḥa B́nh. Trong khoảng thời gian 1949 – 1952 Trung Úy Nguyễn Khánh là Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 Nhảy Dù Việt Nam đầu tiên. Ngày 22 tháng 1 năm 1952 ông được thăng cấp đặc cách Đại Úy và được chỉ định chỉ huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù Việt Nam gồm có 3 Đại Đội tham gia cuộc hành quân Ḥa B́nh tại miền Bắc Việt Nam dưới quyền của Tư Lệnh chiến trường là Tướng De Latre De Tassigny.

    2-Thiếu Tá Albert Lê Quang Triệu: 1952 sau trận Ḥa B́nh Đại Úy Nguyễn Khánh được chỉ định chỉ huy Chiến Đoàn V100 tại Quân Khu 2, Thiếu Tá Albert Triệu thay thế chỉ huy Tiểu Đoàn 1 trong một thời gian ngắn khoảng 3 tháng.

    3-Đại Úy Vũ Quang Tài (1952 – 1955) là vị Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên của TĐ1ND Việt Nam kể từ khi Liên Đoàn Nhảy Dù được chuyển giao lại cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam vào tháng 9 năm 1954.

    4-Đại Úy Trần Văn Đô (1955 - 1959) Sau Chiến dịch Hoàng Diệu tiểu trừ lực lượng B́nh Xuyên tại Đặc Khu Rừng Sát, Thiếu Tá Vũ Quang Tài bàn giao quyền chỉ huy TĐ1ND lại cho Đại Úy Trần Văn Đô.

    5-Đại Úy Dư Quốc Đống (1959 - 1962) Năm 1959, Đại Úy Dư Quốc Đống là quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù được thuyên chuyển về làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1ND cho đến khi lên làm chiến Đoàn Trưởng CĐ1ND năm 1962. Sau này là Trung tướng tư lệnh SĐND và Tư lệnh Quân Đoàn III VNCH.

    6-Thiếu Tá Bùi Kim Kha (1962 - 1964) Thay thế Thiếu Tá Dư Quốc Đống nắm quyền chỉ huy TĐ1ND cho đến lúc lên làm Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 1ND vào năm 1964.

    7-Đại Úy Đoàn Văn Nu (1964 - 1967) Đại Úy Đoàn Văn Nu đang là Trưởng Pḥng 2 Liên Đoàn Nhảy Dù thay thế Thiếu Tá Bùi Kim Kha chỉ huy TĐ1ND cho đến năm 1967 đi làm Tùy viên quân sự cho Sứ quán VN tại Ba Lan và bàn giao lại cho Thiếu Tá Lê Văn Đặng.

    8-Thiếu Tá Lê Văn Đặng (1967 - 1968) Thiếu Tá Lê Văn Đặng chỉ huy TĐ1ND đến năm 1968 về làm Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh SĐND và bàn giao nhiệm vụ lại cho Thiếu Tá Nguyễn Thu Lương.

    9-Thiếu Tá Nguyễn Phẩm Bường (1968 khi Trung Tá Đặng TĐT và Thiếu Tá Lương TĐP cùng đi du khảo ở quốc ngoại, Okinawa và Australia, Thiếu Tá Bường thay thế chức vụ XLTV/TĐT trong 6 tuần lễ trước khi Thiếu Tá Nguyễn Thu Lương đáo nhậm thực thụ).

    10-Thiếu Tá Nguyễn Thu Lương (1968 - 1968) sau trận chiến Tết Mậu Thân bàn giao lại cho Thiếu Tá Phạm Hi Mai về làm Trưởng Pḥng3/SĐND.

    11-Thiếu Tá Pham Hy Mai (1968 – 1970) Đặc cách tại mặt trận 1969, được thăng cấp Trung Tá 3/71LĐP/LĐ3ND đến tháng 3/1972 đi học khóa chỉ huy tham mưu bàn giao lại cho Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phan tại mặt trận B́nh Tây Kampuchea,1970.

    12-Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phan (1970 - 3/1971) Thiếu Tá Phan đang là Tiểu Đoàn Phó TĐ6ND được Trung Tướng Dư Quốc Đống điều về thay thế Trung Tá Phạm Hi Mai tại mặt trận Kampuchea và cho đến khi bị tử trận tại Hạ Lào trong những ngày cuối cùng của cuộc hành quân Lam Sơn 719.

    13-Thiếu Tá La Trịnh Tường (3/1971 - 7/1972) Sau khi Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phan tử trận, Thiếu Tá La Trịnh Tường về thay thế chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng cho đến những ngày đầu chiến dịch Lôi Phong tái chiếm Tỉnh Quảng Trị tháng 7 năm 1972.

    14-Trung Tá Lê Hồng (7/1972 – 1973) Thiếu Tá Lê Hồng TĐP/TĐ5ND về đảm nhiệm vai tṛ chỉ huy TĐ1ND để khởi đầu chiến dịch Lôi Phong vượt sông Mỹ Chánh tấn công về phía Bắc tái chiếm Tỉnh Quảng Trị. Đến cuối năm 1973 Thiếu Tá Lê Hồng được thăng cấp Trung Tá và được Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng chỉ định làm Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Thiếu Tá Ngô Tùng Châu đang làm TĐP lên thay thế. Tham dự các trận đánh cuối cùng tại Thường Đức và Xuân Lộc cho đến ngày 30/4/1975. Đă không đầu hàng VC, một ḿnh chỉ huy LĐ1ND triệt thoái khỏi mặt trận Xuân Lộc, và sau cùng chỉ huy đại bộ phận LĐ1ND vượt đại dương tị nạn CS tại Hoa Kỳ sau khi Dương Văn Minh đầu hàng địch quân CSBV. Đầu thập niên 1980 theo Đoàn Đông Tiến trở về Cam-bốt lập chiến khu và mất tích tại đây.

    15-Thiếu Tá Ngô Tùng Châu từ Ban 4/LĐ1ND về làm Tiểu Đoàn Phó TĐ1ND. Sau khi Trung Tá Lê Hồng lên làm Lữ Đoàn Phó LĐ1ND, Thiếu Tá Ngô Tùng Châu lên thay chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1ND tham dự các trận đánh cuối cùng Thường Đức và Xuân Lộc cho đến ngày 30/4/1975.

    Trải dài cuộc chiến TĐ1ND đă lập nhiều chiến công hiển hách với thành quả 14 lần tuyên dương trước Quân Đội. Đă mang giây biểu chương:

    1-Anh dũng bội tinh (3 lần tuyên dương trước Quân Đội với nhành dương liễu)

    1-Quân cộng bội tinh (6 lần tuyên dương trước Quân Đội với nhành dương liễu)

    3-Bảo Quốc huân chương (10 lần tuyên dương trước Quân Đội với nhành dương liễu)

    4-Giây Tam hợp ba màu vàng xanh đỏ bện lại với nhau. Giây biểu chương cao nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và là đơn vị Nhảy Dù đầu tiên được danh dự và xứng đáng mang giây biểu chương này.

    Tài liệu tham khảo:

    -Các Trận đánh của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù của Mũ Đỏ La Trịnh Tường trên trang nhà http://nhaydu.com

    -General Nguyễn Khánh from Wikipedia the free encyclopedia

    -Insignia of The Republic Of VietNam Airborne Division copyright @ 2002 by Harry F. Pugh

    -Phỏng vấn trực tiếp một số chiến hữu và Niên Trưởng trong SĐND: Đại Tướng Nguyễn Khánh, Hàng Công Thành, Nguyễn Tự Bảo, Hồ Chi Hoa, Nguyễn Phẩm Bường, Thái Văn Minh....

    Đại Úy Vơ Trung Tín - Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – (714)856-9202

    Đại Úy Nguyễn Hữu Viên - Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – (714)897-1435.

    Chúng tôi rất mong được đón nhận những ư kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót v́ vấn đề thời gian đă trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp.
    Last edited by alamit; 17-08-2012 at 04:58 AM.

  10. #120
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa

    Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    TIỂU SỬ BINH CHỦNG NHẢY DÙ
    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    1952-1975
    P5B







    Tiểu Đoàn Trưởng thứ 14 của TĐ1ND -
    Trung Tá Lê Hồng (7/1972 – 1973)
    Vài nét về Cố Trung Tá Lê Hồng: Trung Tá Lê Hồng (*) là vị Tiểu Đoàn Trưởng thứ 14 của TĐ1ND. Sau khi bàn giao TĐ1ND cho Thiếu tá Ngô Tùng Châu tại quận Điện Bàn tỉnh Quảng Nam mặt trận Thường Đức vào mùa thu 1974, Trung Tá Lê Hồng về Bộ chỉ huy LĐ1ND và nhận chức vụ Lữ đoàn phó Lữ Đoàn. Tham dự chiến trận Thường Đức gồm có LĐ1ND với ba Tiểu Đoàn: TĐ1ND, TĐ8ND, và TĐ9ND. TĐ1ND là TĐ đầu tiên (khinh binh) lên Đỉnh núi 1062 với cố Trung úy Phạm Thanh Quang thuộc ĐĐ11, là SQ Trung đội trưởng đầu tiên mở đường đem được quân Trung đội 2 của anh lên Đồi 1062, anh đă tử trận cùng ngày sau khi tạm thời chiếm được mục tiêu (Đồi 1062). Sau này Đồi 1062 đă hoàn toàn trong tay quân ta kiểm soát, rồi th́ cũng đă có một ngày TĐ1ND được lệnh hạ san (xuống núi) bỏ mục tiêu chiếm đóng. [Người viết bài này lúc bấy giờ đang ở Bộ chỉ huy TĐ1ND, Ban 5 - Ban Tâm lư chiến TĐ, cách Trung đội 2/ĐĐ11ND đang quần thảo với địch quân trên Đỉnh 1062 khoảng 200-250 mét]. Cũng tại mặt trận này cố Trung úy Lê Văn Bá Trung đội trưởng thuộc ĐĐ14 tử trận, đồng đội không lấy được tử thi của anh, nhưng một tháng sau anh Bá về báo mộng cho Trung tá Lê Hồng [anh Hồng kể lại] biết anh đang nằm ở một khe đá(?) trên Đồi 1062, và binh sĩ TĐ1ND đi lục soát và đă t́m được tử thi của anh Bá đem về cho gia đ́nh anh ở Quảng Ngăi.

    Toàn bộ LĐ1ND sau đó về Sài G̣n để dưỡng quân và bổ sung quân số. Khoảng đầu tháng 4/1975, LĐ1ND lại được trực thăng vận xuống mặt trận Xuân Lộc/Long Khánh cũng với ba Tiểu đoàn 1, 8, và 9. Đoàn quân tiếp tục chiến đấu đến khi được lệnh triệt thoái khỏi mặt trận Xuân Lộc/Long Khánh. Trong trận lui binh này, Trung tá Lê Hồng là người đă điều động toàn bộ LĐ1ND bao bọc đoạn chót của đoàn quân (lúc bấy giờ không c̣n bóng dáng SĐ18BB) gồm các lực lượng dân quân cán chính của Tiểu khu Long Khánh và đồng bào nghèo khổ chạy tị nạn VC ra khỏi Long khánh về Phước Tuy. Tại Phước Tuy, ĐĐ11/TĐ1ND đă được các thuyền chở muối của ngư dân chở về Vũng Tàu. Một ngày sau th́ LĐ1ND chèo thuyền về bến Vàm Láng, Tiểu khu G̣ Công, nói là để về Quân Khu-IV(?) thiết lập ṿng đai pḥng thủ mới nhưng việc đă không thành.

    Ngày thứ Tư mùng 30 tháng 4, năm 1975, Tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng VC. Tại chợ Vàm Láng, một số anh em binh sĩ và sĩ quan đă rời bỏ đơn vị để về với gia đ́nh của họ. Trung tá Lê Hồng quyết định không đầu hàng địch quân CSBV mặc dù lúc bấy giờ Vàm Láng, G̣ Công không có bóng dáng quân địch cũng như tiếng súng của hai bên. Trung tá Lê Hồng tiếp tục chỉ huy phần c̣n lại của LĐ1ND xuống tàu và vượt biển ngay trong đêm cùng ngày. Đêm định mệnh: 30-4-1975.

    Các con tàu vượt biên của LĐ1ND gồm ba chiếc tầu lớn: Tàu Bộ chỉ huy LĐ1ND là một chiếc tàu buôn Sài G̣n-Hương Cảng bằng gỗ, chở các binh sĩ của BCH LĐ1ND và TĐ1ND, hai chiếc tàu sắt lớn (tầu dầu) chở TĐ8ND và TĐ9ND, và một số ghe nhỏ. Các con tàu 8 & 9ND đă đi trước, riêng tàu BCH/LĐ1ND vẫn c̣n bỏ neo ngoài khơi Vàm Láng để đợi 2 sĩ quan LĐT/LĐ1ND và TĐT/TĐ1ND đă rời đơn vị trong ngày để về Sài G̣n rước gia đ́nh họ. Đại Đội 11/TĐ1ND đă cử Trung đội 1 do Trung sĩ Nguyễn Văn Đức chỉ huy thay cho Tr.đội trưởng, cố Trung úy Mẫn, đă tử trận tại Long Khánh, lưu lại tại chợ Vàm Láng để rước LĐT & TĐT/TĐ1ND cùng với gia đ́nh họ lên tàu. Đến khoảng 10:30g đêm 30/4/1975 không thấy 2 sĩ quan LĐT/LĐ1ND và TĐT/TĐ1ND và gia đ́nh họ, Trung tá Lê Hồng đă lệnh cho TS N.V.Đức rời vị trí trở ra tàu Lữ đoàn, và cho tàu nổ máy ra khơi hướng về Biển Đông. (Ghi chú: xét về "lư" th́ không ai có thể hay có quyền trách móc những anh em đă rời bỏ hàng ngũ để về với gia đ́nh của họ v́ họ đă chu toàn trách nhiệm của họ. Khi người lănh đạo của một chính thể đă tuyên bố đầu hàng địch quân th́ đoàn quân của chính thể đó có quyền ai về nhà người nấy nếu chưa chính thức lọt vào tay địch. Xét về "t́nh", và với tinh thần "Nhảy Dù Cố Gắng" th́ giă từ đồng đội ngay trong những giờ phút "cô đơn & và buồn tủi" nhất trong đời chiến binh... là một điều khó quên suốt đời.)

    Mờ sáng Thứ năm, mùng 1 tháng 5, năm 1975, đoàn tàu đă đến được hải phận quốc tế (ngoài bể Thái B́nh Dương) và đổ bộ lên xà lan của Quân Đội Hoa Kỳ cùng ngày b́nh an. Con thuyền bằng gỗ chở BCH LĐ1ND sau đó đă được ai đó phóng hỏa ngay trên biển TBD. Khoảng năm ngày sau th́ đoàn quân LĐ1ND đă được tàu Hải quân Hoa Kỳ chở về vịnh Subic, căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ lớn nhất tại Thái B́nh Dương, Phi Luật Tân. Mặc dầu không c̣n nước VNCH nữa nhưng anh Lê Hồng vẫn tiếp tục lo cho đoàn quân tị nạn LĐ1ND làm giấy tờ nhập trại tị nạn tại đảo Guam, Phi Luật Tân một cách chu đáo. Vả lại anh nói thạo anh văn lắm nên mọi việc anh lo đều thuận tiện dễ dàng giữa lính VNCH & Ban quản trị trại tị nạn người Mỹ. (Ghi chú: sau khi xuống bến tàu tại vịnh Subic th́ các đơn vị đă tách rời đi riêng chỉ c̣n một số khoảng hơn một trăm anh em thuộc BCH LĐ1ND và các anh em TĐ1ND là theo Trung tá Lê Hồng đáp chuyến phi cơ C-141 của Không Lực Hoa Kỳ về trại tị nạn ở đảo Guam ngay trong đêm. Sĩ quan trong toán này có Lê Hồng, Đỗ Tiếp, Trần Văn Thể, & Nguyễn Bá Toản đều là CCB của TĐ1ND. Sau này các đơn vị lại có cơ hội gặp nhau tại trại tị nạn CS ở đảo Guam, Phi Luật Tân).

    Phong cảnh đảo Guam thật đơn giản, toàn đất đá, chung quanh là biển cả, trên đảo lác đác vài nhóm cây phi lao (dương liễu), trời nóng bức như ở Việt Nam ta nhưng nhờ ở sát biển thỉnh thoảng có gió biển thổi vào cũng thoải mái chút đỉnh. Chúng tôi ở đây khoảng hơn một tháng, quần áo muốn kiểu nào cũng có, cứ việc ra băi quần áo "mới" mà lựa cho hợp với bộ xương cách trí của ḿnh, c̣n cơm nước th́ hàng ngày có lính Mỹ "đút" cho ăn (nghĩa là một ngày có 3 bữa cơm đúng theo tiêu chuẩn của người Mỹ tại lục địa Hoa Kỳ. Chúng tôi chẳng phải làm lụng chi cả, cứ đến các giờ ăn là thầy tṛ tự động kéo nhau đi xếp hàng một vào nhà cơm. Nhà cơm là một cái lều dă chiến của nhà binh to lắm, rất vệ sinh sạch sẽ, có thể chứa được 1 đến 2 trăm người.) Nước Mỹ thật vĩ đại (hồi đó cơ!) Đối với lính trận như tôi th́ đời sống ở Guam thật là thần tiên bù lại những năm tháng trận mạc ăn cơm cá mối khô muôn đời Lục quân VN! Tôi lợi dụng tối đa thời điểm này chỉ ăn và ngủ cho lại sức! Cũng nên nhắc lại sự kiện có một số AE ND và nhiều người thuộc lănh vực dân sự đă xin hồi hương và được chấp thuận. Những người tị nạn hồi hương về VN trên con tầu Việt Nam Thương Tín được QĐHK tiếp tế nhiên liệu và lương thực trước khi rời Phi Luật Tân.

    Vào lục địa Mỹ, anh Lê Hồng và đa số các anh em LĐ1ND được bay về một trại tị nạn thuộc tiểu bang Pennsylvania. Trại tị nạn này là một đồn lính có tên là "Fort Indiantown Gap" thuộc địa phận quận Lebanon, là Trung tâm Huấn luyện Vệ Binh Quốc gia của Hoa Kỳ (National Guard), và cũng là Tổng hành dinh của các Bộ Quốc pḥng, Bộ Cựu Chiến Binh, và Lực lượng Vệ Binh Quốc gia thuộc tiểu bang Pennsylvania. Đồn Indiantown Gap cách thành phố Harrisburg 35 dặm về hướng Đông bắc. Trong suốt thời gian ở trại tị nạn CS, anh Hồng đă dàn xếp để 4 sĩ quan thuộc TĐ1ND khi xưa, cùng ở chung một doanh trại và cùng một pḥng với anh cho vui: đó là các anh Lê Hồng (Tr. Tá LĐP), anh Đỗ Tiếp (Đ.úy B3 LĐ1ND), anh Trần Văn Thể (Đ.úy B3 TĐ1ND), và Nguyễn Bá Toản (Th.úy ĐĐ11 TĐ1ND). Địa chỉ của chúng tôi lúc bấy giờ (June/1975) là Doanh trại số 6-47, Trại tị nạn CS Indiantown Gap, Pennsylvania như sau:

    Deptpartment Of the Army
    Headquarters Task Force New Arrivals
    46th Task Force, Barrack No. 6-47
    Fort Indiantown Gap, PA 17003.

    Anh Hồng là một cựu quân nhân công giáo rất "ngoan đạo". Khi c̣n là TĐT TĐ1ND đóng ở Cổ Bi, Huế, thỉnh thoảng anh mời Cha cố Trung Tá Mathia Vũ Ngọc Đáng, Tuyên úy trưởng SĐND/QL-VNCH bay ra vùng hành quân để giải tội, làm lễ, và ban phúc lành cho các AE CG TĐ1ND. Vào những dịp này, anh lệnh cho các Đại đội trưởng tác chiến phải tạo mọi cơ hội thuận tiện cho các AE CG về BCH/TĐ tham dự thánh lễ. Vào những dịp này tôi thích lắm v́ được miễn công tác, lại vừa đi vừa được ngắm cảnh "đẹp" nữa, rồi lại được BCH/TĐ đăi một chầu cơm trưa sau thánh lễ. Tại trại tị nạn ở Mỹ anh Hồng cũng không quên đời sống đạo. Vào một ngày nọ anh nhắc tôi thế này: "Toản đă đi rửa tội chưa?"; tôi ngạc nhiên hỏi lại: anh muốn nói "xưng tội?"; anh trả lời: không, anh nói là "rửa tội cơ." Tôi trả lời: "thưa anh, em đă được rửa tội ngay khi lọt ḷng mẹ được hai tháng". Anh nói: "nhưng chúng ta đến nơi này không c̣n giấy tờ ǵ cả và pḥng Tuyên úy công giáo của trại đang khuyến khích đồng bào tị nạn CG nên ghi danh để thiết lập lại chứng chỉ rửa tội đó!" Thế là tôi lên pḥng Tuyên úy trại gặp cha Tuyên úy Phạm Văn Phương và ngài kư cho ngay một giấy chứng chỉ rửa tội tại Huê Kỳ ngon lành, không cần nhân chứng, cũng chẳng có bố mẹ đỡ đầu! (Chú ư: Trên mảnh giấy này có một vài chỗ được tẩy xóa v́ lư do cá nhân, xin quí vị thông cảm.)

    Anh Hồng sau đó được một sĩ quan Mỹ đă về hưu (?), cựu cố vấn SĐND/VNCH thuộc Sư Đoàn 82 Nhảy Dù bảo trợ ra khỏi trại. SĐ82ND/HK hiện đang đồn trú tại thành phố Fayetteville tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ. Cuộc đời anh Hồng, như bao nhiêu người Việt tị nạn CS khác, bắt đầu trở về con số không từ đây: người bảo trợ t́m được cho anh một công việc "vá dù & xếp dù" trong Đại bản doanh của SĐ82ND (82nd Airborne Division).

    Đầu tháng 8 năm 1975 anh Hồng t́m được một gia đ́nh người Mỹ (để bảo trợ tôi) ở cách thành phố anh đang định cư khoảng nửa giờ lái xe và dặn tôi nên nhận lời họ v́ anh muốn tôi về vùng gần anh đang ở cho có AE, tôi đă nhận lời. Khoảng giữa tháng 8 năm 1975 th́ Ban quản trị Trại tị nạn báo cho tôi chuẩn bị lên văn pḥng làm giấy tờ để xuất trại. Và vào ngày Chúa Nhật mùng 7 tháng 9, năm 1975, tôi đáp chuyến bay hăng TWA phi vụ số 881 từ phi trường Harrisburg, Pensylvannia, máy bay ngừng ở Pittsburgh, PA để đổi sang phi vụ số 739, và sau đó bay thẳng về Raleigh, thủ phủ của tiểu bang North Carolina, máy bay đáp xuống đất khoảng 7 giờ chiều cùng ngày. Anh Hồng và người Mỹ bảo trợ đón tôi tại phi trường Raleigh. (Ghi chú: vé máy bay là do cơ quan từ thiện Công Giáo Hoa Kỳ tặng cho những người tị nạn CS có ghi danh nhận sự giúp đỡ của họ bất kể tôn giáo, tên tiếng Anh là "United States Catholic Conference" viết tắt "USCC" (hiện nay USCC đă đổi tên thành Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ - United States Conference of Catholic Bishops)). Khi về nhà người bảo trợ mỗi người tị nạn phải có giấy chứng nhận sức khỏe của Bộ Y Tế HK và giấy chứng nhận tài sản khi xuất trại.

    Nhà ông bà bảo trợ của tôi cách bản doanh SĐ82ND/HK khoảng 30 phút lái xe. Ông là người gốc Ái-Nhĩ-Lan (Ireland) công giáo, bà là người gốc Đức đẹp lắm, theo đạo Tin lành (Lutheran), họ hiền và rất tử tế, cả hai đều có con riêng và các con họ đă trưởng thành như đàn chim đă vỡ tổ. Nhà chỉ c̣n hai ông bà, anh con cả bệnh của ông, con chó tên skippy, và tôi. Ông bà đối xử với tôi không khác chi một người con trong gia đ́nh. Ông qua đời năm 1991, 93 tuổi, bà mất năm 2009, 87 tuổi. Anh Hồng thường hay đi lễ Chúa Nhật ở nhà thờ ông bà bảo trợ tôi nên thỉnh thoảng anh đưa tôi về (lúc bấy giờ tôi chưa có xe hơi) chung cư của anh ở thành phố Fayetteville để AE tâm sự cuối tuần cho vui, nhưng mục đích chính là để cho tôi khỏi "đào ngũ" khỏi vùng này để về các đô thị phồn hoa lớn như California.... Một thời gian sau đó th́ anh Đỗ Tiếp (Đại úy B3-LĐ1ND) cũng về ở cùng căn chung cư (apartment) với anh. Như vậy là 3 Sĩ quan thuộc TĐ1ND: Hồng, Tiếp, & Toản c̣n ở gần nhau trong khoảng cách nửa giờ lái xe trong khoảng hơn một năm. Chỉ có anh Thể lúc bấy giờ đă đi định cư ở tiểu bang California cho đến nay.

    Năm tháng trôi qua không bao lâu th́ anh Hồng rời thành phố Fayetteville về tiểu bang Virginia sinh sống, tôi vẫn ở với ông bà bảo trợ, vừa đi làm vừa đi học nghành Điện toán. Ở Virginia anh Hồng đi làm thợ sơn với cựu Hải quân Đề đốc/VNCH Chuẩn tướng Hoàng Cơ Minh. Trong thời gian này, thỉnh thoảng anh về North Carolina để gây xứ bộ ở đây và có ghé thăm ông bà bảo trợ và tôi. Anh có thuyết tŕnh sơ sơ về Lực Lượng Quân Nhân VNHN cho tôi nghe. Tôi đă gia nhập "LLQNVNHN" trong lúc c̣n đang đi học ở đây, và vào một buổi sáng đẹp trời tôi theo anh về Virginia để làm lễ tuyên thệ "Trung thành với Tổ Quốc" (thật ra là trung thành với cái LLQNVNHN của Hoàng Cơ Minh lúc bấy giờ th́ đúng hơn). Đây là tập tục của LLQNVNHN lúc bấy giờ, các Tân đoàn viên phải làm lễ tuyên thệ trước bàn thờ Tổ quốc sau một thời gian ngắn hoạt động với lực lượng trước sự chứng kiến của các bố già... như lăo Đại tá Liễu, Minh-râu-cá-chốt (bác này có bộ râu như râu con cá chốt. Ngày c̣n bé sau mỗi buổi chiều tan học, làm bài vở xong là tôi xin phép mẹ đi ra bờ mương câu cá, mỗi lần câu được con cá chốt là tôi ghét vô song, tôi vật nó xuống đất cho chết tươi ngay, v́ con cá này nhỏ như ngón tay út nhưng rất gian ngoan, nếu ta không khéo th́ hai nghạnh của nó đâm vào gan ngón tay ḿnh th́ đau nhức... đến rơi nước mắt!), và người giới thiệu đoàn viên như anh Hồng. Ngày ấy chúng tôi c̣n trẻ lắm, làm bao nhiêu $ là đem về đóng "hụi chết" cho cái LLQNVNHN phải gió kia! Phải nói rằng AE chúng tôi lúc bấy giờ "hiền quá", rất dễ bị lường gạt bởi những lời đường mật của các cụ cáo già kia....

    Sau một thời gian vừa đi làm vừa đi gây xứ bộ trên khắp nước Mỹ cho Lực Lượng Quân Nhân VN Hải Ngoại, anh Hồng đă giă từ Thiên đàng của trần thế tại Hoa Kỳ, theo tiếng gọi non sông cùng với đoàn "Đông Tiến" về Thái Lan lập chiến khu đối đầu với VC. Anh Lê Hồng, cố Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1ND, Lữ Đoàn Phó LĐ1ND/QL-VNCH đă vĩnh viễn ra đi để lại một vợ (Chị Nhạn) (**) và năm người con tên Nhân, Nghĩa, Lễ, Tín, và Điệp.

    Ngày nay mỗi khi làm việc cực nhọc quá, tôi lại liên tưởng đến hai địa đàng trần thế của tôi ngày xưa: trại tị nạn ở đảo Guam và trại Indiantown Gap, PA. V́ ở hai nơi đó tôi chẳng cần mần đếch ǵ cả mà cũng có ăn, thiên hạ đưa mâm cơm đến mơm ḿnh 3 lần một ngày! Đời quả là tuyệt! Nhưng mà h́nh như những điều tốt lành trong đời người lại qua đi rất chóng...! Good things don't last long quí vị ạ!

    Kết: trong đoạn kết này, tôi không dám đại diện cho ai nhưng chỉ bày tỏ cảm tưởng cá nhân của tôi đối với anh Lê Hồng về những ǵ anh đă làm ở TĐ1ND, ở LĐ1ND, ở các Trại tị nạn, ở Mỹ, và những sự việc đă xảy ra trước mắt tôi ba mươi bảy (37) năm về trước: thật sự tôi được sống vẹn toàn đến ngày hôm nay tại Hoa Kỳ là nhờ tài chỉ huy của cố Trung Tá Lê Hồng, anh đă sử dụng hết kinh nghiệm bản thân và sự hiểu biết về cách hành binh trên chiến trường, chấp nhận mọi rủi ro, đă có những quyết định chính xác và gan dạ, và đă hướng dẫn đoàn quân LĐ1ND đến nơi an toàn, ngoài cánh tay với của quân thù. Phải công nhận rằng ngoài hai binh chủng Không quân và Hải quân QL-VNCH v́ họ có phương tiện cơ hữu, th́ không có một đơn vị bộ binh QL-VNCH nào đă vượt biên như Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với 3 Tiểu Đoàn tác chiến sau Ngày Quốc Hận 30-4-1975. Tôi cảm tạ Thiên Chúa đă ban cho anh em chúng tôi một Sĩ quan chỉ huy can đảm, bất khuất, và thao lược. Không e ngại hiểm nguy, quên ḿnh v́ đơn vị, và anh đă sẵn sàng chết cho quê hương và Tổ quốc VN mến yêu. Tôi lại nhớ ơn chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă có một chính sách Tự do & Nhân bản, đă huấn luyện anh em chúng tôi trở thành những chiến binh tốt cho Quân Đội miền nam Việt Nam. Con cảm ơn Cha Giuse Đinh Tường Huấn đă hướng dẫn đời sống tinh thần con trong những năm tháng êm đềm bên cạnh gia đ́nh. Và sau cùng cảm ơn Bố Mẹ tôi đă giáo dục "con nên người, và đă thuật lại cho con những kinh nghiệm hiểu biết quí báu của bố mẹ về người cộng sản" để con biết pḥng thân.

    XIN CÁC ACE CỰU QUÂN NHÂN CÔNG GIÁO TĐ1ND THÊM LỜI CẦU NGUYỆN CHO
    LINH HỒN GIOAN BAO-TI-XI-TA LÊ HỒNG


    Viết xong ngày Thứ ba, February 21st, 2012
    Virginia, Hoa Kỳ
    BKT

    Ghi chú:

    (*) - Trung tá Lê Hồng bắt đầu cuộc đời Binh nghiệp của anh từ cấp bậc B2 (Binh nh́), ôm máy truyền tin cho các đơn vị Nhảy dù chiến đấu ngoài mặt trận, rồi được gửi đi học Khoá Hạ Sĩ quan, và sau cùng là khóa Sĩ quan đặc biệt tại quân trường Đồng Đế, Nha Trang.

    (**) - Mặc dù có đầy đủ phương tiện để đem vợ con xuống bến Vàm Láng, Trung tá Lê Hồng đă không thực hiện điều này. Anh quyết tâm cùng đồng cam cộng khổ với toàn thể binh sĩ LĐ1ND. Không đầu hàng địch quân CSBV. Quyết ra đi để bảo toàn tính mạng cho binh sĩ LĐ1ND, bảo toàn Danh dự cho QĐ-VNCH nói chung, và cho Sĩ quan QĐ-VNCH nói riêng. Anh thật xứng đáng là đại diện cho ba người chiến binh tiêu biểu của QL-VNCH: Binh sĩ, Hạ Sĩ quan, và Sĩ quan.

    CÁC CỐ VẤN TRƯỞNG QUÂN ĐỘI HOA KỲ
    ĐĂ PHỤC VỤ Ở TIỂU ĐOÀN 1 NHẢY DÙ
    (Từ năm 1963 đến năm 1973)

    1. Đại úy YUMKER
    2. Thiếu Tá RICHMON
    3. Đại úy J.F.C. KENNY, Jr
    4. Đại úy T.W. MAC CATHY (Tử Trận ở Tân Châu, Hồng Ngự tháng 3 năm 1964)
    5. Thiếu Tá J. J. LINDSAY
    6. Đại úy J. F. CORBY
    7. Đại úy W. L. GOLDEN
    8. Đại úy R. H. WEBB, Jr
    9. Đại úy P. M. DAWKINS
    10. Đại úy G. L. RHOADES
    11. Đại úy J. C. McNERVY
    12. Đại úy B. L. CORLEY
    13. Đại úy J. C. ELLISON
    14. Đại úy E. H. KLINK
    15. Thiếu Tá C. H. DUCKWORTH
    16. Đại úy R. W. WINN
    17. Đại úy E. J. HAYDASH
    18. Thiếu Tá E. R. GREEN
    19. Thiếu Tá L. J. DACUNTO
    20. Thiếu Tá J. SKLAR
    21. Thiếu Tá R. BAILEY

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 4 users browsing this thread. (0 members and 4 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 27-12-2011, 03:37 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 28-04-2011, 12:11 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •