Ngày Quốc Hận 30/4 Nhớ nước Việt Nam Cộng Ḥa – đau ḷng con Quốc Quốc !



H́nh hai thiếu niên Việt Nam bị đảng CSVN đưa vào bộ máy giết người cho chúng!

Nhớ nước đau ḷng con Quốc Quốc, Thương nhà mỏi miệng cái Gia Gia!
Lời thơ của bà Huyện Thanh Quan, mỗi lần nhớ đến sao nghe như những nỗi ḷng vọng tưởng cố hương vô cùng thống thiết của đa số người dân Việt Nam tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại, cho dẫu rằng không được sống trong cảnh giàu sang, nhưng ai cũng có một cuộc sống tương đối đầy đủ; song tất cả vẫn khôn nguôi nỗi nhớ về một thuở được sống dưới chính chế Cộng Ḥa Việt Nam!

Ba mươi bảy năm dài trôi qua, chúng ta đă thấm thía v́ có ai ngờ rằng “một lần đi là một lần vĩnh biệt”; trong số ấy, có những người đă vĩnh viễn nằm yên trong ḷng đất lạnh nơi xứ lạ, quê người, họ đă ôm ấp những ước mơ là được nh́n thấy lại quê hương cho đến phút cuối của cuộc đời, họ đă sống trong hy vọng, đợi chờ, và đă chết trong tuyệt vọng!

Nhưng tất cả chúng ta, những người đă từng sống, từng được thở trong bầu không khí tự do, được cắp sách đến trường từ thời thơ ấu, cho đến các mái học đường khi đă trưởng thành dưới thể chế của nước Việt nam Cộng Ḥa, mà có thể quên đi những bài học Sử Kư – Công Dân – Đức Dục từ bậc tiểu học: Yêu Nước – Chống Ngoại Xâm – Hiếu thảo với Ông Bà, Cha Mẹ – Kính trên nhường dưới.

Nhưng đau buồn thay! v́ c̣n đâu h́nh ảnh của những mái đầu xanh, tay ôm cặp sách vở, tất cả đều dỡ bỏ nón, mũ, đứng trang nghiêm để chào những người lớn tuổi, hoặc trước một đám tang đang đi qua đám học sinh bé nhỏ. Những h́nh ảnh ấy, giờ đây, chỉ c̣n trong kư ức của những người lớn tuổi khi hoài niệm về dĩ văng xa xôi; và biết đến bao giờ những h́nh ảnh đó mới được đem vào chương tŕnh giáo dục cho tuổi thơ, để làm hành trang trên suốt con đường đời để phụng sự cho Chính Nghĩa – Quốc Gia – Dân tộc, khi đă được hun đúc bởi nền giáo dục rất đầy t́nh nhân ái và vị tha ấy?!

Đại đế Napoléon đă từng nói:

“Chúng ta phải có một quá khứ để tự hào, một hiện tại để hănh diện, và một tương lai để hy vọng”.

Vậy, để biết được chính trong hiện tại, và cả tương lai nữa, th́ xin mọi người, chúng ta hăy cùng nhau chiêm nghiệm về một quá khứ vàng son của một thuở thanh b́nh của nước Việt Nam Cộng Ḥa qua bài hát:

Nắng Đẹp Miền Nam

Đây trời bao la ánh nắng mai hé đầu ghềnh lan dần tới đồng xanh.
Ta cùng chen vai đem tay góp sức tăng gia cho người người vui ḥa.
Đường cày hôm nay lên tràn bông lúa mới ôi duyên dáng đồng ơi!
Đến mai sẽ là ngày muôn hạt chín lả lơi
Ḿnh ngắm nhau cười.
Ḱa đàn chim quê chim tung bay về đâu
mang tin rằng giờ đây ta sống với b́nh minh.
Tiếng ca trong lành tiếng hát lừng trời xanh
đẹp biết bao tâm t́nh..
T́nh là t́nh nồng thắm
buộc ḷng ḿnh vào núi sông
t́nh mến quê hương.
Ngàn bóng đêm phai rồi
vầng dương lên soi đời làng ta nay rạng ngời!
Khi người lính chiến đă đấu tranh hiến hoà b́nh cho Đồng Tháp Cà Mau
Ta người nông thôn quên sương giógóp gian lao lo được mùa mong cầu.
Nhờ t́nh quân dân gây bao niềm thương ấm cúng non sông đón b́nh minh,
gắng lên với ngày này ta cùng tưới đồng xanh rồi sống no lành.
Đây quê hương thân yêu miền Nam
nắng lên huy hoàng đẹp mùa vui sang.

Nhưng than ôi! Những cảnh sống trong “Nắng đẹp miền Nam” c̣n đâu nữa! Mà nay, chỉ c̣n chẳng phải riêng cho người dân miền Nam, mà cả nước Việt Nam đă biến thành một xă hội hư nát, vong bản, phi nhân tính, không có cả t́nh thương giữa, ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, th́ c̣n mơ ǵ đến t́nh yêu nước, yêu dân và tha nhân nữa?! Một điều dễ nhận ra, đó là, khi đọc trên các trang mạng Internet, từ trong nước, th́ mọi người đă biết, hầu hết các vụ án thương tâm giữa những người ruột thịt trong gia đ́nh, con cháu đánh đập, giết chết ngay cả ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột thịt; và những người này, đa số họ được sinh ra sau ngày 30/4/1975, hoặc trước ngày này họ chỉ trên dưới mười tuổi, và họ không được đi học, không biết đọc, không biết viết! Riêng đối với những người được đi học, th́ đều đă được “giáo dục” dưới chế độ cộng sản Việt Nam. Một chế độ, chỉ “giáo dục” lớp trẻ “yêu nước là phải yêu chủ nghĩa xă hội”. Ngay từ bậc tiểu học, họ cũng bị bắt buộc phải học “tư tưởng bác Hồ” và “Mỹ-Ngụy”. Họ không được giáo dục thế nào là ḷng yêu nước thực sự, v́ yêu nước thực sự là phải đặt Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết, phải bảo vệ nền tự chủ của quốc gia, bảo vệ giang sơn gồm lănh thổ, lănh hải và các hải đảo, mà đă do tiền nhân của chúng ta dày công dựng xây bằng cả núi xương sông máu. V́ thế, là con dân nước Việt, bằng mọi giá, trong đó, có cái giá phải đánh đổi, là phải hy sinh ngay chính cả mạng sống của ḿnh để bảo vệ, không bao giờ để cho một tấc đất nào phải bị rơi vào tay của ngoại bang, như hiện nay, đảng cộng sản Việt Nam đă đem một phần biển đảo để hiến dâng cho lũ giặc Tầu.

Trong Nam Hoa Kinh – Trang Tử có viết:

“Thiết câu giả tru, thiết Quốc giả Hầu”. Nghĩa là: ăn cắp một chiếc móc (câu) th́ bị án tử; c̣n ăn cắp – cướp cả nước, th́ được là chư hầu.

Câu nói này, đă “ứng nghiệm” trong việc đảng cộng sản của nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa” đă bất chấp những Hiệp ước như Hiệp định Paris, 1973, về Việt Nam, đă xua quân xâm lăng, và đă cướp được đất nước Việt Nam Cộng Ḥa, để rồi chỉ xin được làm chư Hầu của lũ giặc Tầu, chứ chẳng phải v́ một mục đích ǵ khác, khi đă đem cả máu xương của những thiếu niên, mà có những “bộ đội sinh Bắc tử Nam” là những trẻ em chỉ mới trên dưới mười tuổi. Họ đă bị đẩy vào các chiến trường miền Nam, c̣n tại miền Bắc, th́ đă có những đội quân của Bắc Hàn, của Tầu cộng bảo vệ…, như các tài liệu đă công khai nói đến. Những tội ác đă đẩy trẻ em vào đội quân xâm lăng ở các trận chiến máu lửa, khi các em thiếu nhi, thiếu niên chưa ư thức ǵ về cuộc xâm lăng của đảng cộng sản của nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa” như một Nông Văn Dèn (Dền), dân tộc Tày, khi chết chỉ mới vừa mười bốn tuổi, là một đại tội ác của nhân loại.

Và, cũng trên những trang báo ở trong nước, đă đăng những tin về những người đă và đang bị bại liệt, tàn tật, trong đó, có cả những “công an nhân dân”, để kêu gọi mọi người giúp đỡ, tài trợ cho các chương tŕnh được gọi là “Nhịp cầu nhân ái”. Vậy, chúng ta phải tự hỏi, tại sao ba mươi bảy năm qua rồi, mà vẫn c̣n những trường hợp như thế sau ngày 30/4/1975, mà đảng cộng sản Việt Nam đă gọi là “giải phóng”. Và, tại sao những kẻ từng đă xin tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại đă trở về để xây trường học, nhà thương, lập những hội từ thiện???

Những kẻ này, có thật sự họ tự bỏ tiền túi ra để lập những “hội từ thiện”. Song hoặc giả như họ bỏ tiền ra, họ có ḷng từ thiện thật sự, th́ người viết bài này, xin nhắn với những kẻ ấy bằng một câu nói mà không nhớ là của ai, nhưng chỉ nhớ nội dung như sau:

“Nếu ta chỉ cho một người ăn xin một con cá, th́ ta nuôi họ được có một ngày. Nhưng, nếu ta chỉ cho họ biết cách câu cá, th́ ta đă chỉ cho họ biết tự nuôi lấy chính bản thân họ suốt cả một đời”.

Pháp quốc, 16/3/2012

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

———————————————————–

Kim Đồng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Kim Đồng (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) là bí danh của Nông Văn Dèn (một số sách báo ghi nhầm thành Nông Văn Dền)[1], một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở thôn Nà Mạ, xă Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Anh là người đội trưởng đầu tiên của tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đội TNTP HCM được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1941. Bí danh của năm đội viên đầu tiên là: Kim Đồng, Cao Sơn, Thanh Minh, Thanh Thủy, Thủy Tiên.

Nông Văn Dền.

Kim Đồng, tên thật là Nông Văn D. Dền tiếng Tày, Nùng có nghĩa là Tiền. Một số sách báo đội mũ cho chữ Dèn thành chữ Dền. Trong khi Dền không có nghĩa ǵ cả. Có thể khi sinh Dền, bố mẹ Dền mong đứa con trai của ḿnh sau này sẽ có cuộc sống tốt, có nhiều tiền bạc nên mới đặt tên như vậy. Ngoài ra tên đó c̣n có ư nghĩa là đứa con yêu, đứa con quư như tiền bạc vậy.[1]

Gia đ́nh Kim Đồng

Bố Kim Đồng, người làng Nà Mạ, tên là Nông Văn Ư. Trong một lần sang quê vợ ở làng Kép Ké (Nà Sác) bị nạn, chết không xác định được nguyên nhân chính xác.

Mẹ Kim Đồng tên là Lân Thị He, quê làng Kép Ké, sinh năm 1890. Bà là một phụ nữ chăm chỉ, hết ḷng v́ chồng con, giỏi nghề dệt và làm giấy bản (chỉa sla), là hội viên Hội phụ nữ cứu quốc: Sức khỏe bà yếu (bị bệnh khớp) nên từ nhỏ Kim Đồng đă làm nhiều việc của người lớn, điều đó sớm h́nh thành trong Kim Đồng những tính cách của “người lớn”: Quyết đoán, năng động, không ngại khó,…

Kim Đồng có 2 chị gái, một anh trai và một em gái. Chị gái cả tên là Nông Thị Nhằm (Nhằm, tiếng Tày, Nùng là Mong nhớ). Lấy chồng trong làng tên là Lư Văn Kinh thường được gọi là Kinh X́nh, nhà anh Kinh X́nh là nơi hội họp, đón tiếp, bảo vệ cán bộ cách mạng. Trong ngôi nhà này, ngày 14/2/1943, lănh đạo chủ chốt Châu uỷ Hà Quảng họp, nhờ hành động dũng cảm của Kim Đồng mà thoát cả lên núi phía sau nhà. Chị gái thứ hai là Nông Thị Lằng cũng lấy chồng trong làng. Anh trai là Nông Văn Tằng (bí danh là Phục Quốc) sớm tham gia cách mạng, là đội viên giải phóng quân, chiến đấu và hy sinh ở Chợ Đồn (Bắc Kạn). Để anh Phục Quốc có điều kiện hoạt động cách mạng, 12 tuổi, Kim Đồng đă thay anh đi phu, chặt cây, trồng cỏ ở đồn Sóc Giang. Em gái là Nông Thị Slấn (Slấn tiếng Tày, Nùng có nghĩa là tin tưởng), xinh đẹp, chăm chỉ. Một lần qua suối, không may trượt chân ngă, chết đuối.

Hi sinh

Kim Đồng đă cùng những đội viên này làm nhiệm vụ giao liên đưa đón cán bộ cách mạng, chuyển thư từ. Trong một lần đi liên lạc, phát hiện có địch, Kim Đồng đă đánh lạc hướng bọn địch để các bạn của ḿnh đưa bộ đội về căn cứ được an toàn. Kim Đồng chạy qua suối, qua con đường mà thường ngày vốn đă rất quen thuộc với anh. Tất nhiên bọn chúng theo không kịp liền xả súng xối xả vào anh. Anh đă anh dũng hi sinh ngay bên bờ suối Lê Nin 15/2/1943, Anh vừa tṛn 14 tuổi.

http://chauxuannguyen.wordpress.com/...-qu%E1%BB%91c/