Results 1 to 5 of 5

Thread: Huyền Thoại Một Nhà Thơ

  1. #1
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    77

    Huyền Thoại Một Nhà Thơ

    Huyền Thoại Một Nhà Thơ
    - Trần Việt Tŕnh -

    Một ngày sau năm 1975, sau khi hai miền Nam Bắc “được” giao thông, một ông già tóc râm đang thả bộ trên đường phố Sài G̣n bỗng nghe lời ca tiếng nhạc phát ra từ một người đàn ông cụt chân với cái đàn guitar cũ kỹ hát xin tiền

    Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim
    tím chiều hoang biền biệt
    Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
    khi c̣n tóc buối vai
    Mấy lúc xong pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về
    rồi một chiều mây bay
    Từ nơi chiến trường đông bắc đó lần ghé về thăm xóm
    hoàng hôn tắt sau đồi


    Lời ca nghe sao quen quá! Ông lăo mới mon men đến hỏi. Th́ ra là bài “Những Đồi Hoa Sim” và đó lần đầu tiên ông được nghe. Ông yêu cầu người hành khất hát lại một lần nữa. Nghe hát xong, ông vét sạch tiền trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả bài thơ được phổ nhạc” rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ …

    Ông lăo già tóc râm đó là Hữu Loan.



    Nhắc đến nhà thơ Hữu Loan là chúng ta nhắc đến bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đă làm say ḷng không biết bao nhiêu thế hệ yêu thơ. Bài thơ chân thực và xúc động ấy có một sức sống kỳ lạ. Bài thơ kể lại mối t́nh của chính nhà thơ với người phụ nữ đầu tiên trong đời đầy bi kịch. Bài thơ được làm để khóc người vợ mà nhà thơ hằng yêu quư vừa bị chết thảm.

    Nỗi đau vợ chết thảm ông phải giấu kín trong ḷng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Ông như một cái xác không hồn. Càng đè nén th́ nỗi đau càng dữ dội hơn. Một buổi trưa năm 1949, trong thời kỳ theo kháng chiến, lúc đang đóng quân ở Nghệ An, cơn đau trong ḷng ông được bung ra, ông ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt ông đẫm ướt, ông lấy bút ra ghi chép. Không cần phải suy nghĩ nhiều, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

    Tự chiến khu xa
    nhớ về ái ngại
    Lấy chồng đời chiến binh
    mấy người đi trở lại !
    Nhỡ khi ḿnh không về
    th́ thương
    người vợ chờ bé bỏng chiều quê
    *
    Nhưng không chết
    Người trai khói lửa
    Mà chết
    Người gái nhỏ hậu phương
    Tôi về
    Không gặp nàng
    Mẹ tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
    Chiếc b́nh hoa ngày cưới
    Thành b́nh hương
    Tàn lạnh vây quanh…


    Viết bài thơ vào cái quạt giấy để lại cho người bạn, người bạn này đă chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” ra đời như vậy đó. Người vợ hiền của nhà thơ mất đi, đứa con tinh thần này của nhà thơ ra đời.

    Tuy không ấn hành, nhưng bài thơ đă được truyền miệng rộng răi và sau đó được Nguyễn Bính đăng trên tờ “Trăm Hoa”. Rồi bi kịch chiến tranh trong bài thơ đă góp phần trở thành bi kịch của đời nhà thơ.

    “Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến t́nh cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quư, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về”. Đó là lời ông tự thuật. Năm 1988, khi có sự “Đổi mới”, ông đă viết bài “Lời Tự Thuật” gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được đăng. 19 năm sau, nhà thơ lúc ấy đă 91 tuổi, đồng ư để Talawas công bố bài trên.

    “Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giă văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng v́ tính tôi' hay căi, thích chống đối, không thể làm ǵ trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!”. Đó cũng là tâm t́nh của ông trong “Lời Tự Thuật”.

    Những năm 1955-1956, phong trào văn nghệ sĩ miền Bắc bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, ca ngợi này kia để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó th́ ông lại đề cao t́nh yêu, khóc vợ, bị cho là t́nh cảm tiểu tư sản, phản động. Bất măn, Hữu Loan bỏ đảng, bỏ cơ quan, bỏ về quê để trút bỏ mọi phiền muộn, làm công việc của một người thồ đá, nặng nề về thể xác nhưng thanh thản cho đầu óc.

    Về quê cũng không yên, “bọn họ” (từ ông dùng) tịch thâu xe của ông, ông phải đi xe cút kít, loại xe bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước và 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, nên ông phải gánh bộ. Gánh bằng vai, ông cũng cứ gánh, không chịu khuất phục. Họ theo dơi, ngăn cản. Đi đến đâu cũng có công an theo dơi, cho người hại ông. Nhưng lúc nào cũng có người cứu ông. Thơ của ông đă có lần cứu sống ông. Có một tên công an mật được giao nhiệm vụ theo dơi để ám sát ông, nhưng tên ấy đă t́m gặp và nói với ông rằng, hắn sinh ở Yên Mô, rất thích bài thơ Yên Mô của ông viết về tỉnh Yên B́nh quê hắn. Hắn thường đem bài thơ Yên Mô của ông ra đọc cho đỡ nhớ, và mỗi lần định giết ông, hắn lại nhớ đến quê ḿnh nên lại thôi, không nỡ giết ông, từ bỏ ư định ám sát.

    Lúc c̣n là chính trị viên của tiểu đoàn, chứng kiến tận mắt những chuyện đấu tố, ông đâm ra chán nản, không c̣n hăng hái kháng chiến nữa. Kháng chiến khiến chán. Ông thú thật, lúc đó ông thất vọng vô cùng.

    Ông thuật lại chuyện một trường hợp một địa chủ bị đấu tố có liên quan trực tiếp đến đời ông như sau:

    Lúc ấy, trong một xă thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, gần nơi ông ở, có một gia đ́nh địa chủ rất giàu. Ông địa chủ đó rất giàu ḷng nhân đạo và rất yêu nước. Ông địa chủ thấy bộ đội sư đoàn 304 của Hữu Loan thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Lúc đó Hữu Loan là trưởng pḥng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải đại diện cám ơn tấm ḷng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Hữu Loan được tin gia đ́nh ông địa chủ bị đấu tố. Hai vợ chồng ông địa chủ bị đem ra đ́nh làng cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để ḷi ra hai cái đầu, xong họ cho trâu kéo bừa qua bừa lại hai cái đầu, cho đến chết. Gia đ́nh ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, họ c̣n ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, dân chúng c̣n bị cấm đoán cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.

    Biết chuyện thảm thương của gia đ́nh ông bà địa chủ, biết cô bé lúc c̣n nhỏ, Hữu Loan trở về xă để xem t́nh trạng cô con gái của họ sinh sống ra sao. Ông về bắt gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc, đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, ông đến gần hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc nức nở và cho biết ai cũng xua đuổi, không dám gần gũi cô. Cô cho hay hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói ḷng, tối về ngủ trong miếu hoang. Hữu Loan mủi ḷng, bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

    Đó là bà Phạm Thị Nhu, sống cùng ông từ đó cho đến ngày ông qua đời, có với nhau 10 người con: 6 trai, 4 gái và hơn 30 cháu nội ngoại.

    Cuộc đời ông trải qua quá nhiều thăng trầm. Trong mấy chục năm dài, ông về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, vậy mà “bọn họ” vẫn trù dập, không chịu để ông yên. Ông chỉ c̣n biết đổ đau thương lên đá. Ông tưới rượu lên mặt đá và thề sẽ bám đá mà sống. Ngày ngày, ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các nơi làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngày hai bữa cơm dưa muối cho đàn con. Nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả tháng không ai hỏi mua. Thời gian trôi qua, Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen đúa, chân tay chai sần, rắn rỏi, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ hơn xưa. Cặm cụi vật lộn với núi đá, ông nuôi cả mười đứa con khôn lớn. Hơn mười năm sau cùng, tuổi đă lớn, Hữu Loan thôi không c̣n sức để bám núi đá nữa. Ông lui về nhà, trải chiếu trên thềm, ngày ngày ngồi nhâm nhi rượu và ngóng đợi con cháu về thăm, ngóng đợi những chuyển động đổi thay phận ḿnh, đổi thay cho gia đ́nh, cho làng xóm, cho nước nhà.

    Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty ViTek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài “Màu Tím Hoa Sim” của ông với gía 100 triệu đồng VN. Đây là một sự kiện được coi chưa từng xảy ra. Từ trước tới nay chưa có bài thơ nào được mua tác quyền với giá cao đến như vậy. V́ sao một doanh nghiệp thương măi lại đi mua bản quyền một bài thơ? Có nguồn tin cho rằng đây là một sự sắp xếp, mua chuộc, để đền bù những mất mát thiệt tḥi trong mấy chục năm của ông. 100 triệu đồng đủ để ông trang trải cuộc sống, bớt đi những khó khăn về vật chất trong những năm cuối đời, và mong ông “tái xuất giang hồ”. 100 triệu đồng trừ thuế c̣n 90 triệu, ông chia cho 10 người con hết 60 triệu, trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan và ông giữ lại 30 triệu pḥng đau ốm lúc tuổi ǵa. Sau đó cũng có một số công ty khác xin kư hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng ông từ chối “Thơ tôi làm ra không phải để bán!”

    Đó là con người và bản tính bất khuất của một nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam.

    Màu Tím Hoa Sim là màu tang thương của một t́nh yêu định mệnh, một t́nh vợ chồng ngắn ngủi. Màu Tím Hoa Sim c̣n là một nỗi ám ảnh khôn nguôi của cả dân tộc về chiến tranh, về những bi kịch trong chiến tranh. Điều đó giải thích v́ sao bài “Màu Tím Hoa Sim” ngay từ khi đất nước c̣n bị chia cắt đă được độc giả cả hai miền Bắc-Nam cùng yêu thích.

    Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đă được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như “Những đồi hoa sim” của Dzũng Chinh, “Áo anh sứt chỉ đường tà” của Phạm Duy và “Chuyện hoa sim” của Anh Bằng. Mỗi ca khúc một vẻ, tất cả đều đều tôn vinh thi phẩm.

    Hữu Loan đi qua chín năm kháng chiến với mười bài thơ. Đó là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Thơ của ông có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do.



    Thi sĩ Hữu Loan ra đi vào ngày 18 tháng 3 năm 2010, cách đây đúng 2 năm, nhưng bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” và khí phách của ông c̣n ở lại măi măi với chúng ta và sẽ c̣n tím măi màu hoa sim trên dương thế. Sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời, Hữu Loan đă nằm xuống, nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cho đời một pho chuyện kể, thật nhưng lạ kỳ như huyền thoại, để lại cho hậu thế không chỉ di sản thơ ca mà cả một nhân cách sống. Huyền thoại một nhà thơ bất khuất.

    Trần Việt Tŕnh
    18 tháng 3 năm 2012


  2. #2
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Một thiên t́nh sử diẽm tuyệt

    Một thiên t́nh sử diẽm tuyệt đáng được ghi vào văn học sử nước nhà.
    Cám ơn SAS

  3. #3
    Nghiên Nguyễn
    Khách

    Màu Tím Hoa Sim qua chính giọng đọc của thi sĩ Nguyễn Hữu Loan

    Uploaded by MrLecongnhan on Jul 8, 2010
    Bài ca Màu tím Hoa sim_tôi khóc người vợ bị chết thảm, vậy mà họ cho tôi là phản động! (Hữu Loan)_THI NGA _RFA



    Uploaded by mcthanhtung on Nov 1, 2010
    Đọc sách giữa trưa màu tím hoa sim
    Tác giả: Hữu Loan
    Ngâm thơ: MC Phạm Thanh Tùng
    H́nh ảnh: sưu tầm trên mạng
    Dàn dựng, nhạc: MC Phạm Thanh Tùng


  4. #4
    Member
    Join Date
    01-12-2010
    Location
    Sunshine state, USA
    Posts
    767
    .
    Người yêu thơ, yêu nhạc đều phải biết đến bài "Màu Tím Hoa Sim" này.
    Thử đặt trường hợp của tác giả, rồi đọc chậm rải bài thơ này,
    sau đó lắng nghe qua bài hát th́ sẽ cảm nhận và rung động cả trái tim, tâm hồn cùng với tác giả.

    Bài này nên đưa vào chương tŕnh văn học trong học đường.
    Ngoài nghệ thuật, nó c̣n nói lên 1 phần lịch sử của VN.

  5. #5
    Member doisoente's Avatar
    Join Date
    10-08-2010
    Posts
    335

    Bọn Việt cộng tàn ác dă man cở nào ?

    Ông địa chủ đó rất giàu ḷng nhân đạo và rất yêu nước. Ông địa chủ thấy bộ đội sư đoàn 304 của Hữu Loan thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Lúc đó Hữu Loan là trưởng pḥng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải đại diện cám ơn tấm ḷng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Hữu Loan được tin gia đ́nh ông địa chủ bị đấu tố. Hai vợ chồng ông địa chủ bị đem ra đ́nh làng cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để ḷi ra hai cái đầu, xong họ cho trâu kéo bừa qua bừa lại hai cái đầu, cho đến chết. Gia đ́nh ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, họ c̣n ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công.
    [/QUOTE]

    Đối với dân miền nam bài thơ này chẳng xa lạ ǵ đối với người dân sinh trước thập niên 70.
    Tuy nhiên các mức độ tàn ác của việt cộng đối với người làm ơn cho chúng không có chút ǵ là nhân bản,đúng thực là một bầy lục súc tranh công đă được nhà thơ đáng quí mến này xác thực.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 04-06-2012, 04:48 PM
  2. Replies: 2
    Last Post: 10-03-2012, 05:11 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 16-02-2012, 11:33 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 01-10-2010, 06:42 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 13-09-2010, 02:02 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •