Chuyện kể rằng: Cả nhà bà đội Lộc choàng tỉnh giấc vào lúc nửa đêm, rồi cùng chạy về phía giựng của thằng bé Nam khi nghe tiếng la hét đầy hoảng loạn của nó:

- Thối qúa, chôn nó đi. Chôn nó đi!

Đến nơi, bà đội Lộc, vợ chồng An vội vàng vén cái mùng lên. Họ ngạc nhiên nh́n nhau khi thấy thằng bé vẫn nằm ngủ yên lành như chẳng có chuyện ǵ xảy ra. Bà đội Lộc chừng như chưa yên tâm, bà ngồi xuống mép giường, đặt tay lên trán nó. Không thấy một dấu khác lạ nào. Chợt có tiếng An bảo chồng.

- Em nghĩ, anh đừng ép con học qúa sức nó. Có học cũng chưa chắc ǵ đi đến đâu!
- Mẹ cũng nghĩ vậy. Cho nó nghĩ ngơi vài ngày xem sao.


Bằng đưa mắt nh́n bà đội Lộc. Cái câu “ chẳng đi đến đâu” bỗng nhiên như khoét sâu váo nỗi đau trong ḷng của anh. Bằng nh́n mẹ, bà đội Lộc, người sắp bưóc vào lớp tuổi “ cổ lai hy”, có khuôn mặt thanh thản, phúc hậu, cũng ngườc nh́n con. Bà được gọi theo tên chồng trong phong cách tập tục của dân gian xưa. Thời ấy, dù không phải kỵ húy, người ta phần v́ để dễ phân biệt với người khác trùng tên, phần v́ nể thân danh của người ra làm việc cho làng cho nước, nên họ thường gọi thêm chữ lót chỉ chức vụ, hay công việc mà ngựi đó đang làm. Bà đội Lộc là một điển h́nh. Bà được láng giềng gọi bằng cái tên và chức phận của chồng bà. Gọi riết, tên thật của bà có lẽ con bà cũng chẳng nhớ.

Năm ấy, bà đội vừa đôi tám là lập gia đ́nh. Bà làm dâu nhà cụ tú chưa được bao lâu th́ cậu ấm Lộc, chồng bà gia nhập đội nghĩa binh chống Pháp. Phần v́ thân danh gia đ́nh, phần v́ có học thức, cậu ấm Lộc được đề cử làm đội trưởng đội dân binh. Khi chiến tranh lan rộng, đội dân binh rời làng, đi kháng chiến. Sau mùa chinh chiến, ông đội không về. Rồi bà Đội nhận được bản tin ông đă tử trận và được nhà nưóc Việt cộng phong cho hàm Liệt Sỹ. Cái bảng liệt sỹ th́ vẫn để trong nhà, bên cạnh tâm h́nh bán thân của ông để nhát khỉ. V́ gia đ́nh bà chẳng ăn lộc ǵ từ cái tấm bảng ấy. Phần bà, theo bản tin, bà để tang cho chồng vào lúc con bà mới lên ba.

C̣n nhớ trước đó, nếu không chờ bản tin từ ông đội Lộc, chắc bà đă bế con vào nam theo thân nhân họ hàng bên ngoại. Kết qủa bà ở lại, bà lỡ chuyến đ̣ vào nam và Bằng cũng chẳng nh́n thấy mặt bố. Có lẽ, v́ thông cảm được những nỗi ḷng u uân của bà đội Lộc, Bằng chẳng bao giờ dùng tấm bảng ấy như một thế lực chống lưng hay tiến thân. Tệ hơn, Bằng không hề bon chen vào đoàn, đảng để kiếm chữ công danh, quan cán. Trái lại, Bằng t́m nguồn vui trong nghề gỏ đầu trẻ ở trong làng đề sớm tối được kề cận bên bà đội. Đây cũng là một trong những lư do, sau này Bằng lập thân với An, một thiếu nữ chân chất. Nàng có nhan sắc, hiền thục, là cháu ngoại của viên chánh Tổng lừng lẫy thời trưóc, nhưng gia đ́nh bị quy vào án thành phần trong mùa đấu tố. Cũng may, đám cưới của họ được tổ chức vào thời người ta nói đến từ đổi mới, nên tránh được những gáo nươc lạnh từ phía nhà nước và chính quyèn tại địa phương.

Câu chuyện trong đêm chỉ có thế. Sáng hôm sau, thằng bé vẫn tỉnh táo và đi học b́nh thường. Tuy nhiên, buổi chiều th́ có dấu khác lạ. Đi học về, Nam đi lục hết từ nhà trong ra nhà ngoài, hết pḥng này đến góc kẹt khác. Bà đội Lộc thấy lạ, nhưng không lên tiếng. Tuy thế, bà khó để bụng lâu hơn.

- Cháu t́m cái ǵ vậy?
- Nội à, chắc có con ǵ chết ở nhà ḿnh, cháu thấy có mùi hôi lắm.
- Làm ǵ có con ǵ chết ở đây.

Bà trả lời chắc như thế, nhưng chân vẫn lần đi theo thằng bé như có ư theo dơi câu chuyện trong đêm.

- Có mà, chắc phải có cái ǵ? Hay là nó ở trong buồng của bà?
- Bà có thấy ǵ đâu.
Thằng bé mở to đôi mắt như vừa phát giác ra sự bí mật:
- Vậy là đúng rồi. Bà nội ở nhà cả ngày, bà không thấy có mùi ǵ khác. Cháu ở ngoài về là ngủi thấy ngay.

Nói xong, nó tiếp tục đi t́m. Đến lúc ấy, bà đội tuy miệng nói rất cứng, qủa quyết là chả có con ǵ chết ở trong nhà, nhưng ḷng trí bắt đầu nghi hoặc. Bà đảo mắt nh́n đến những cái gầm tủ, gầm giường, chỗ nào xem ra cũng khả nghi. Để chắc bụng, bà mở toang mấy cái cửa sổ ra cho ánh sáng chiếu vào. Bà lấy cái chổi quyét nhà, quyét rê thật chậm và ấn nặng tay ở dưới gầm giường, gầm tủ, các khe kẹt xem có t́m được dấu vết con chuột, con bọ nào chết ở trong nhà hay không. Bà phải cẩn thận như thế là v́ ở miền quê th́ nhà nào chả có chuột. Có khi là ngủ chung với chuột! Vất vả một lúc, bà chỉ quyét được vài cái rác và t́m thấy cái kim băng gài túi áo, bà làm rơi hôm nào.

- Chả làm ǵ có con ạ.

Trả lời xong, bà mất tự tin ở đôi mắt. Bởi lẽ, bà như thấy cái mùi hôi thối khá nặng nó ập vào mũi. Bà chép miệng:

-= Lạ thật, chẳng thấy như thế bao giờ. Hay là có con ǵ chết ở ngoài sân?
Nghĩ vậy, bà cầm theo cái chổi, bước ra sân trưóc. Tay quét vài cọng rác, gom mấy cái lá rơi trên sân, mắt th́ không ngừng nh́n sâu vào phía chân hàng rào, hay dưới đáy cái chậu hoa kê trên viên gạch. Nh́n chưa đủ, bà c̣n bảo thằng bé.

- Nào giúp bà, nâng cái b́nh hoa này lên xem có ǵ ở dưới ấy không?
- Nội cũng thấy mú hôi à?

Thay v́ trả lời, hai bà cháu cùng nâng cái b́nh hoa ra khỏi viên gạch. Bà nghĩ bụng, rơ thật trông gà hóa quốc. Nào có cái ǵ đâu, vài cái là tre khô nằm ờ đây lại tưởng chuột bọ chết. Bà chép miệng, vài cái lá th́ lấy ǵ mà hôi với thối. Bà tính quay ra phía nhà sau th́ An, rồi Bằng cũng vế tới. Chị An thấy bà mẹ chồng cầm cái chổi đứng trên sân. Chị nhanh nhảu đến đỡ lấy cái chổi trên tay bà:

- Mẹ vào nghỉ đi để con thu dọn cho.
Thay v́ đưa cái chổi cho con dâu, bà bảo:

= Mợ vào trong buồng của cậu mợ xem có con chuột con bọ ǵ chết ở trong ấy hay không? Chiều nay tôi thấy hôi lắm.

Bằng đứng lại, bán tín bán nghi nh́n bà đội, rồi bước nhanh vào trong buồng. Cùng những động tác như bà đội, nhưng nhanh nhẹn và mạnh tay hơn. Một lúc sau, Bằng bước ra phía của sau, bảo bà:

- Không thấy ǵ mẹ ạ.
- Thôi, anh đi tắm rửa đi rồi c̣n cơm nước, kẻo trễ.

Trong bữa cơm chiều, chẳng ai nhắc đến chuyện ấy. Sau đó chị em Nam vui câu chuyện nhà trường tuyển chọn học sinh xuất sắc để đi tham quan Hà Nội, chúng kéo nhau vào giường và đi ngủ sớm. Hôm sau, nhằm ngày cuối tuần, cả hai chị em Nam ra cái sân sau nhà và cuộc chiến chừng như không phân thắng bại:

- Như vậy là mũi của Bắc bị tỹ rồi!
- Tỹ mũi à, khéo mà có người ngủ mơ nói, la hét làm người ta hết hồn!
- Nam mơ nói à? Đừng có mà điêu nhá!

Lúc ấy, bà đội Lộc bước ra sân. Bà nh́n thấy thằng Nam quơ tay múa chân, phùng mang lên. Thế rồi cả ba bà cháu cùng đi t́m kiếm khắp mặt sân và các gốc cây sau nhà. Một lúc sau, Bắc lại đem chuyện ngủ mơ ra nhạo cậu em. Phần bà đội th́ chống cán chổi đứng ưỡn người ra sau cho thẳng cái lưng. Bà không biết giải quyết câu chuyện giữa cái mũi và đôi mắt thế nào. Từ phía bên kia của hàng rào thấp, có tiếng nói lanh lảnh hỏi vọng sang?

- Bà đội bị mất trộm hay đánh rơi cái ǵ mà đi t́m sớm thế?
- Chào chị Lúa. Nào có mất cái ǵ đâu. Thấy có mùi hôi, bà cháu tôi đi t́m xem có con chuột con bọ ǵ chết ở trong vườn không?
- Nó thối lắm à? Bên đây th́ chẳng thấy ǵ, chắc là ở bên bà đội đấy!

Nói xong, thị Lúa thích chí, chu cái mỏ lên rồi bước quay vào. Đây là mẫu người đàn bà xát vách mà không xát t́nh bên nhau. Thật ra, thị Lúa, người hàng xóm của bà đội chỉ đáng tuổi con cháu bà thôi, bà chả chấp. Nhưng xem ra chị ta càng ngày càng hỗn láo với người lớn tuổi. Sự hỗn láo cũa thị Lúa cũng có nguồn từ một nguyên do khá sâu sắc. Chồng thị đă nắm công an xă, một chức vụ hét ra lửa ở làng Kim Đại. Nhưng dân làng cứ lôi tên tục của thị ra mà gọi. Đă thế, c̣n nh́n thị bằng nửa con mắt.

Việc dân làng có đôi mắt đại bất ḱnh với thị cũng có một lư do riêng. Bố chồng của thị nhân mùa đấu tố đă đấu láo nhiều ngựi, khiến một số ngựi trong làng bị chết oan. Kế đến chồng thị học chỉ qua mặt chữ, trước kia sang học nhờ bên nhà cụ Tú, sau vào đội thiếu nhi, di tiên phong chỉ điểm từng nhà từng nguời cho đội đấu. Nhờ thời đấu tố, cả hai bố con tranh công, cùng ra tay đấu tố người. Sau này ông bố chế sớm, Báo vào công an. Lúc gân đây, Báo được đề bạt lên nắm công an xă. Riêng bản thân, thị Lúa cũng có cái lư lịch khá u buồn. Lúa thuộc thành phần bần cố nông. Gia phả mấy đời không có lấy mảnh đất cắm dùi, luôn theo nhau đi ở đậu, làm canh điền cho cánh Lư,Tổng ở trong vùng. Dĩ nhiên, không phải v́ cái lư lịch nghèo mà thị Lúa bị dân làng khinh miệt, nhưng v́ cái tính phản phúc của cả bên chồng và bên thị trong mùa đấu tố mà tạo ra thành kiến cho cả làng. Để ra oai, đă nhiều lần thị nói khích chồng,

- Ông làm công an xă mà không trị được cái lăo gíao không biết điều xát vách à?
- Gớm, sao mà ḿnh lắm nhời thế. Ngựi ta được cả làng, cả xă nể v́. Nhà người ta có làm ǵ động đến ḿnh đâu mà gây chuyện?

Nói thế, không phải v́ Báo là người tử tế. Cũng có lúc nốc ly rượu vào, Báo thấy nóng mặt thêm v́ lời nói khích của vợ. Nhưng khi hạ hỏa, Báo biết, dù có ghen tuông v́ sự việc không được dân làng kính nể như bà đội Lộc, hay ông gíao Bằng, Báo cũng không thể làm ǵ hơn được. Bởi lẽ, sức học th́ kém, thân danh th́ không. Có nắm công an xă là do con dao mă tấu chỉ đạo, nên phải biết điều nhường người như bà đội. Đây là phương cách đánh đĩ chín phương c̣n một phương để lấy chồng, Báo không dám vi phạm. Riêng thị Lúa, vợ Báo th́ rất kém trí khôn, lúc nào cũng muốn nhẩy lên bàn độc, hoặc xo găng với bà Đội!

Câu chuyện với thị Lúa vừa dứt, bà đội bước dần sang phía hàng rào đối diện:

- Chào bà đội, bà có khoẻ không? Nắng mới lên ấm qúa bà nhỉ?
- Phải, chào bà Mơ, ăn sáng xong bà cháu tôi ra ngoài sân hong tư nắng bà ạ.

Trả la lời xong, hai bà đứng xát bên nhau chuyện tṛ ra chiều tương đắc lắm. Họ tương đắc bên nhau cũng là phải. Bởi v́ đây là hai người đàn bà không phải chỉ là hàng xóm, nhưng đă sống cùng thời, có chung một nỗi lo âu, đợi chờ. Chuyện này kể ra khá dài, v́ nó đă trải qua mấy chục năm! Thời ấy, mới 16 bà đă đi lấy chồng. Bà lấy chồng được vài năm th́ ông ấm Tiên mất. Tội cho bà ấm, người ta cứ đồn với nhau là cô gái trẻ làm chết ông chồng ǵa, yếu! Mấy năm sau, bà gá nghĩa với Mơ. Từ đó bà được gọi theo tên chồng mới. Chẳng mấy ngựi c̣n nhớ đến bà ấm Tiên, hay là cái tên riêng của bà.

Ở trong làng, bà Mơ ba được đánh gía là người đơn giản và lắm hạnh phúc. Tuy thế, nếu đem so với ông, bà c̣n kém đôi phần. Chồng bà tên Được, trước mùa chinh chiến giữ chân mơ làng. Chiều chiều, Mơ chân thấp chân cao, tay cầm cái mơ, gơ kêu coong cóc, đi dọc làng thông báo tin tức của làng, của Tổng:

- Nghe đây nghe đây, nam phụ lăo ấu nghe đây, làng xă có lệnh truyền....

Công việc của thằng mơ nghe ra vô bổ. Vậy mà chiều nào vắng tiếng mơ của Mơ th́ làng xóm nghe như thấy thiều hẳn một cái gi. Mơ là người vui vẻ, hay chuyện. Chả nhà nào, người nào Mơ gặp mà không đứng lại chuyện tṛ mấy câu. Nhưng điều đáng nể và Mơ được coi là người hạnh phúc nhất làng, và làm cho nhiều ngựi phải ghen tương với Mơ là y có đến ba bà vợ! Đa phần là các bà góa trẻ, lại có của ăn của để. Mà lạ lắm, những bà vợ này hết mực chiều chuộng Mơ và chẳng dám ghen tương với nhau bao giờ. Mơ có lệ, ngảy ngày lên Tổng lấy tin, chiều chiều th́ đi gơ mơ thông báo cho các thôn. Cứ đến thôn nào th́ Mơ ở lại thôn ấy. Lâu thành thói quen, cứ nghe thấy tiếng mơ gần nhà là các bà biết đến phiên ḿnh nên rộn ràng cơm nước. Riêng việc làm ăn, đồng áng, Mơ để cho các bà vợ tự túc, tự quản, Mơ chả giúp được phần việc ǵ. Nếu không có việc đi kháng chiến có lẽ các bà chả biết “ lăo Mơ” anh hùng thế. Dám bỏ ba bà mà đi!

Tính về tuổi tác th́ Mơ sinh trước ông đội Lộc gần mười năm. Với số tuổi và gia cảnh đùm đề lắm vợ con như Mơ, chẳng mấy ai muốn tham gia vào đội binh. Trường hợp Mơ có khác, thứ nhất là hàng xóm, kế đến là đang giữ chân Mơ làng. Mơ muốn đi xa một chuyến để lấy điểm với các bà, nên xin với ông đội Lộc cho Mơ được theo đội kháng chiến để làm liên lạc. Nói riết, ông đội Lộc nể t́nh, ông thuận. Đến khi đội dân binh có lệnh rời làng, đi tập trung, lăo Mơ cũng hăng hái xin đi. Thời gian đầu, Mơ chính là bản tin sống, liên lạc giữa đội binh với làng thôn. Ai có con theo kháng chiến cũng muốn gặp Mơ hỏi thăm và nhắn gởi đôi điều. Đắc thời, các bà Mơ xem chừng rất hài ḷng về ông chồng đa năng của ḿnh. Sau này, Mơ nghe lời bà ba, dự kiến chỉ đi liên lạc vài chuyến nữa rồi xin kiếu ông đội Lộc, trở về giữ chân Mơ Làng như truớc. Không ngờ, khi vừa đến trại binh th́ có lệnh di chuyển, đổi vùng hoạt động. Rồi v́ lư do an ninh, Mơ không được quay về làng xưa. Từ lúc ấy, Mơ thành binh mơ, ngựi như bóng với h́nh luôn theo xát bên ông đội Lộc.

Khi hết chiến tranh, dân làng Kim Đại được lệnh tổ chức ngày mừng chiến thắng và đón đoàn binh kháng chiến trở về. Nghe tin, ai cũng nôn nao trông ngóng. Bởi lẽ, đến hôm ấy, chẳng một ngựi nào trong làng biết là đội binh ấy ai c̣n, ai mất. Bà đội Lộc, bà Mơ ba cũng không có ngoại lệ. Trước đây hai bà đă có những giờ lo lắng, thót ruột, rồi cùng chạy giặc bên nhau. Nay nghe tin ḥa b́nh đến, cả hai lại được dịp ngôi bên cái đèn dầu leo lét mà chờ đêm xuống và chờ bản tin của chồng. Kết qủa, cuộc đợi chờ xem ra không có nhiều niềm vui. Bởi v́ từ nhiều ngày trước, chả biết có phải là do thằng địch tung tin, hay tại ủy ban bất cẩn, mà cả làng đều rúng động về bản tin là chẳng c̣n mấy người trở về.

Con đường làng dẫn vào đến cửa đ́nh, nơi dựng tạm cái đài làm lễ đón binh hôm ấy rợp bóng cờ. Các viên chức, đội tiếu nhi, rồi cán bộ, quan cán đi lại rầm rập trên đường. Hai bên đài th́ nam phụ lăo ấu trong làng có đủ mặt. Măi đến gần trưa mới có một đoàn xe, gồm hai chiếc chở đoàn cán bộ huyện, và các chiến binh trở về đậu cách đài chừng hơn trăm thước. Khi đoàn xuống xe, cán bộ khung của từng khu xóm, đội thiếu nhi bắt đầu hô hoán những khẩu hiệu vang trời để chào mừng.

Ngày đón binh là ngày ngập nứớc mắt. Lúc đi th́ có đến năm, bẩy chục ngừời thanh niên trai tráng. Lúc về, đếm đi đếm lại cũng không qúa năm bẩy người! Dẫn đầu đoàn quân chiến thắng về làng là một ngựi nom hom hem, dấu thân trong một bộ quần áo màu cứt ngựa rộng qúa khổ. Đi giữa những tráng pháo tay, ông ta không dấu được những ngượng ngùng trong lúc cái mũ cối, là bỉểu tượng cho sự đần độn, phủ lấp tương lai của đất nưóc ở trong tay ông ta không ngừng quơ bên tả, quơ bên hữu như một dấu hiệu chào mừng đáp lễ. Đi sau lăo là ba người một tay và bốn người khác bó chân. Nh́n đoàn hùng binh ấy dân làng rớt nước mắt.

- Ai nom như lăo Mơ?

Một người, rồi hai ba ngựi lên tiếng chuyền tai nhau. Người ta nhận ra lăo không phải v́ cái mơ ở trong tay lăo, cũng không phải v́ cái giọng thông tin của lăo ngày nào. Nhưng v́ cái tướng đi chân thấp chân cao, mà có người đùa rằng, lăo c̣ tướng đi nghiêng trời lệch đất!

- Ông Mơ, ông Mơ, phải Mơ làng không?

- Phải, Mơ đây, Mơ làng đây. Chào dân, chào làng. Nói rồi lăo ̣a lên khóc và khuất vào trong lễ đài.

Chiều đến, lăo về thẳng nhà bà đội thay v́ về nhà. Vừa nom thấy bà đội là lăo lăn ra nức nở.

- Khổ thân tôi bà đội ôi, ông đội bỏ tôi rồi...

Bà đội Lộc, không cầm được nước mắt, mời lăo vào nhà. Lăo kể trong tiếng nấc chân thành của lăo:

= Suốt từ ngày ra đi, lúc nào tôi cũng hầu bên ḿnh ông đội. Những tưởng ngày ḥa b́nh , tôi theo ông về với dân làng. Nào ngờ, khi vào chiến dịch Điện Biên, đội đưọc trên điều đi tiếp tế. Một nửa đi trước, chúng tôi đi sau. Trời th́ mưa như trút nước. Súng đạn ngày đêm c̣n kinh hoàng hơn thế. Rồi lúc tinh mơ, tôi theo ông ra khỏi hầm trú. Thương đau lắm bà Đội ôi. Vừa ra khỏi hầm, ông ngă xuống, tôi ôm lấy ông.... Đạn pháo cứ ầm ầm xung quanh. Lúc tôi t́nh dậy th́ đă đưọc anh em khiêng trên cáng. Binh Măo hậu cần cũng là ngựi đưa ông đội đi và đưa tôi về. Chẳng may sau này lại bị thương nặng. Mất một chân rồi...

Câu chuyện đau thương ấy như chảy dài măi, Chảy dài đến hết cuộc đời của Mơ. Sau này, Mơ được điều lên làm chủ tịch hội thương binh liệt sỹ trong làng, nhưng Mơ vẫn muốn được dân làng, người thân quen gọi Mơ là Mơ làng, hơn là ông chủ tịch hội thương binh! Cách riêng, cái t́nh cảm của Mơ đối với bà Đội lúc nào cũng được Mơ rất tôn qúy. Hơn thế, c̣n đậm đà t́nh nghĩa hơn cho đến lúc lăo ra đi vào cái tuồi ngoài 70 cách đây mấy năm. Từ đó, hai bà góa lại càng có dịp kề xát bên nhau.

Rồi giữa lúc câu chuyện về cái mùi hôi mà bà đội Lộc, với sự tiếp tay của bà Mơ ba, lan sang cả lối xóm chưa t́m ra lời giải thích. Một cuộc chiến ngắn ngủi, nhưng đậm nét, bỗng bùng nổ trong nhà công an Báo. Sau gần một tuần lễ Báo không về nhà, thị Lúa đi ra đi vào như người sắp đi đánh lộn. Thị tự hứa, lành làm gáo vỡ làm môi, thị không thể chấp nhận cái cảnh đi ngang về tắt của Báo. Lửa giận vốn đă bốc sẵn lên đầu, nên vừa thấy Báo bước vào nhà theo kiểu chân tả đá chân hữu với mùi hôi nồng nặc, thị liền khai chiến:

- Ông đi đâu, ăn phải cái ǵ, hay dẵm vào phẩn của ai mà mang về nhà cái mùi thối như là chuột chết thế?

Báo quắc đôi mắt đỏ lên nh́n Lúa một cái, rồi lẳng lặng đi ra phiá cái chum đựng nước sau hè. Gă toan cởi quần áo ra dội vài gáo nước, thị Lúa bước ra theo. Cái mồm của thị vẫn ong ỏng vươn cao. Thật là cây muốn lặng, gió chẳng ngừng. Suốt cả tuần lễ Báo phải phục dịch bên cái quan tài đă rỉ nước của viên quan hoạn ở đầu làng đă trăm cay ngh́n đắng. Báo mong về nhà dội vài gáo nước cho bớt mùi. Không ngờ c̣n bị Lúa xỉa xói. Máu uất bốc lên, Báo cao giọng như thằng... Chí Phèo:

- Đéo mẹ mày, có câm cái mồm thối lại không th́ bảo?

Thị Lúa giật ḿnh đứng lại. Từ trước đến nay Báo đă quen nếp, có bao giờ phản ứng ngược như thế? Trái lại, mọi chuyện ở trong nhà này, tuy không có văn bản như tờ giấy hiến pháp chia quyền, chia lợi, chia phe cho nhau như của nhà nước “ Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Cộng”. Nhưng nó đă thành nếp, giống như một quy luật không tài nào thay đổi là: Bước ra khỏi cửa, Báo muốn ḥ hét, hiếp đáp, la hét, đàn áp ai, thây kệ, Lúa không cần biết đến. Hoặc gỉa, nếu cần thêm miệng, Lúa sẽ tiếp tay. Nhưng khi đă về cái nhà này th́ Lúa là bí thư, định liệu mọi việc. Một người đảng viên như Báo th́ phải biết khép ḿnh vào kỷ luật. Không thể chống lệnh!

Thị Lúa có lư luận đỉnh cao như thế cũng là phải. Bởi v́ vào mùa đấu tố, Báo và Lúa đều là đội viên trong đội thiếu nhi quàng khăn đỏ, và gia đ́nh thuộc giai cấp bần cố nông, là giai cấp lănh đạo đảng và nhà nước. Sau nhờ cuộc đấu tố láo, đảng gọi là cải cách ruộng đất, mà cả hai làm nên danh phận. Báo giỏi đấu tố, ŕnh rập, tố cáo gian cho người khác nên được đưa vào công an. Lúa hết thời quấn khăn quàng đỏ th́ được kết nạp vào đội sản xuất, rồi nắm chủ tịch hội phụ nữ đă được giải phóng. Đó là hội của những chị em chả c̣n ǵ để mất! Lúa c̣n nhớ rơ, trưóc ngày từ gĩa đội thiếu nhi, Lúa đă đưọc Báo “giải phóng”. Ngày Lúa được Báo “giải phóng” giống như bác giải phóng thị Xuân, thị ngồi khóc rưng rức trong lúc Báo lập lời thề với thị là thà chết, thà mất đảng chứ không dám to tiếng, căi lời Lúa. Chính v́ sự kiện này mà Báo phải ngậm miệng bấy lâu nay. Phần thị Lúa, to mồm riết rồi thành tật. Ít kiêng nể ai. Cho đến chiều nay, Báo có phản ứng mạnh làm thị giật ḿnh. Tuy thế, với bản lănh của chủ tịch hội phục nữ đă được giải phóng, thị Lúa không lùi bước dù Báo uống phải thuốc liều, hay nghe theo lời con mẹ góa nào mà về gây chuyện cũng mặc.Thị gào lên:

- Ôi giời đất ơi, bà Đội ơi cứu tôi với, công an nó đánh tôi gần chết rồi. bớ... bớ...

Nghe tiếng thị la cầu cúu, lại gặp gáo nước lạnh, Báo run cả người, xuống nước:

- Lấy hộ tôi cái áo.
Thị làm lành ngay:
- Đă ăn uống ǵ chửa?
- Có ǵ mà ăn với uống?
- Thế mấy hôm nay nhà đi đâu?
Thay v́ trả lời, Báo kể:

- Ông quan nhớn ở đầu làng trên lăn ra chết rồi?
- Ai ? cái lăo quan hoạn không vợ con ấy à?
- Bé mồm một tư. Ai cũng bảo là lăo không vợ. Không ngờ, lăo vừa nằm xuống là con đàn cháu đống kéo nhau về.
- Chôn chửa?
- Chảy nước rồi mà lũ gia nhân, đám đầy tờ, con nuôi con nhận của lăo c̣n bàn cứ để lại. Nếu cần th́ ướp thuốc!
- Rơ thối, chết không chôn để thối cho cả làng à?

- Thối cũng phải chịu. Đám gia nhân c̣n đang tính tẩy cả cái hồ sơ gốc Tầu của lăo nữa đấy?

- Không phải ngựi bên ta à?

- Chẳng ai dám quyết. Tôi đang sửa hồ sơ đây. C̣n đám mơ đảng th́ gơ trống, thổi kèn đưa ông ta lên đến tận đỉnh chói loà!

- Liệu đấy mà làm. Chẳng được ăn cái giải ǵ, lại khốn v́ cái tội sửa hồ sơ cho lăo!


- Bạc thế mà nói được à. Cái hàm quan cán này cũng của người ta ban cho. Nó bảo ǵ mà không phải làm theo. Bà liệu bé mồm một tư. Bức vách có lỗ tai, hàng rào có khe hở đấy...

Chuyện là thế. Rồi cái ngày chị em Bắc đưọc chọn vào đoàn học sinh đi thăm thành phố, và thăm “ lăng Bác” cũng có lắm đề tải. Với lũ trẻ th́ xem ra có đầy phân khởi và hănh diện. Với làng xóm, thật khó tránh tiếng ra tiếng vào. Người thỉ bảo rằng tại nhà ấy có cái bằng liệt sỹ chống lưng. Kẻ lại bảo v́ chúng là con ông giáo! Phía ông giáo Bằng th́ chẳng có lấy một chút phấn khởi nào. Riêng chị An, phần thương con đi xa, phần lo lắng cho chúng, nên chị đă sửa soạn từ quần áo, giày dép cho đến nắm sôi, chai nước cho con mang theo ăn đường. Đến lúc nh́n thấy cái khăn đỏ quần quanh cổ của đứa cháu lúc trời mờ sáng, tự nhiên bà đội Lộc thở dài. Bà hết nh́n con Bắc, lại đên thằng Nam. Bà không nói lời nào nên không thể diễn tả được ánh mắt của bà vào lúc ấy ẩn chứa những ǵ? Xót thương hay vui mừng cho tương lai của con cháu?

Sau tuyến đường dài, chiếc xe chở học sinh dừng lại trong khuôn viên quảng trựng Ba Đ́nh. Đoàn hướng dẫn hùng dũng bước xuống. Họ khoa chân múa tay như những ông thấy bói mù, nay bỗng được sáng mắt nh́n thấy cảnh lạ mà họ từng tưởng tượng trước kia. Riêng đám học sinh th́ ôm bụng nhăn nhó. Đứa mót đái, đứa đ̣i đi ỉa. Chúng nhốn nháo chạy quanh t́m kiếm nhà cầu. Kết qủa, không t́m ra nhà cầu, chỉ thấy đứng sừng sững trước mặt là một cái “ lăng” thật lớn. Chúng chỉ chỏ, bảo nhau, như có người thật nằm trong đó mày ạ. Nghe thế, có đứa sợ qúa, lại nhịn không được, đái cả ra quần. Thấy vậy, vị trưởng đoàn liền ra lệnh tập họp học sinh vào đội ngũ để vào viếng “ bác”

Trong nghiêm trang, yên lặng, đoàn học sinh đếm từng bước một đi về phía “ lăng bác”. Khi đến trước những bậc thềm cao dẫn vào trong, tṛ Nam bỗng nhiên tung tăng nhẩy lên trước mấy bậc, rồi đứng quay mặt về phía đoàn học sinh, nói lớn tiếng:

- Chuột chết, có chuột chết. Thối qúa. Chôn nó đi!
- Chuột chết, đảng hết. Chôn nó đi. Chôn nó đi!

Nói xong, Nam ngă vật xuống trên bậc thềm. Nữ giáo viên dẫn đầu đoàn cũng là vị phụ trách trựng tṛ Nam theo học, chạy vội đến đỡ em dậy. Người Nam mềm nhũn ra như một sợi bún, bất tỉnh. Cùng lúc ấy, lũ trẻ hoảng loạn, đứa th́ gào thét gọi nhau không thành tiếng. Đứa b́nh tĩnh hơn th́ thuật lại chuyện chính mắt thấy tai nghe về việc của Nam trước khi ngă xuống cho những người đứng sau cùng nghe. Câu chuyện càng lúc càng náo động. Nhưng thật nhanh, viên trưởng đoàn, có giọng nói lơ lớ như kiểu “ ngộ ái ni” đến. Y nắm bắt t́nh h́nh rất nhạy. Y nghiêm mặt ra lệnh. Cấm tuyệt đối không ai được nói câu chuyện này ra ngoài. Nếu có ai hỏi th́ bảo là tṛ Nam được bác giáng, dặn bảo: “Bác Hồ sống mài trong quần chúng em”!

Lạ! Câu chuyện chỉ đơn giản thế mà rồi như mưa tuôn, như thác lũ, trở thành chuyện long trời lở đất. Gió thổi đến đâu, tin đến đó. Ở bất cứ nơi nào, từ cái cḥi giữa đồng trống, hay căn nhà sàn bên vách núi, đến cái nhà trốc mái với bức vách gió lùa ở làng quê, lên tận những nhà tầng, đỉnh cao chói lọi ở giữa phố. Sang nhà ông quan đầu huyện, đầu tỉnh, đầu xă. Vào trong dinh thự, khách sạn, nhập dinh chủ tịch, tướng phủ, vào trại binh, đồn công an. Không một nơi nào, nhà nào mà không ám cái mùi hôi thối nồng nặc của con chưột chết. Nhà càng cao, dinh thự càng lớn, quan tước càng trọng, mùi hôi thối bốc lên càng nhiều. Người người xanh xao, ho lao thổ huyết v́ dị ứng cái mùi ô uế ấy. Riêng phận quan cán v́ tranh ăn nên phải qùy mọp đầu xuống đất, bái lạy mà hít lấy cái cái mũi ấy không một chút hổ ngươi, rồi gây họa cho đời!

Thật là một tai bay vạ gío cho dân, cho nước. May là trong bối cảnh chờ chết, cả muớc điêu linh, cả làng thống khổ, toàn dân chờ ngày khóac áo nô lệ cho giặc Tàu. Bỗng nhiên, em bé ra dấu, trẻ thơ lên tiếng, ngựi già đứng đậy và ngựi ngựi cùng tiến lên: Chôn nó đi.

“Chôn Nó Đi” trở thành một hiệu lệnh. Thành một phong trào làm thay đổi đất nước.

“Chôn Nó Đi” là một giải pháp duy nhất và cấp bách cho toàn bộ mọi vấn đề Chính Trị, Xă Hội, Văn Hóa, và Tôn Giáo tại Việt Nam. Chuột chết, đảng hết. Chôn Nó Đi.



Viết vào mùa thu đau thương thứ 68 của dân tộc Việt Nam.
Bảo giang
Tháng tám-2012