Results 1 to 6 of 6

Thread: Nh́n lại sử Việt

  1. #1
    Dac Trung
    Khách

    Nh́n lại sử Việt

    Thăng Long, những ngày cuối năm 1788 - Rợp cờ đại Thanh ô nhục





    Dũng Tấn (danlambao)


    Hết bị Trịnh Khải o ép, được Nguyễn Huệ đặt lên ngai vàng, lại gặp nạn Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền qua mặt, để rồi Vũ Văn Nhậm ra Thăng Long xua đuổi, vua bất tài Lê Chiêu Thống cùng triều đ́nh yếu kém tan tác như ong vỡ tổ, phải chịu những năm tháng đắng cay khi rời khỏi kinh thành Thăng Long, lúng ta lúng túng, khốn tới khôn lui… May mà nhân dân Bắc Hà c̣n ân sâu nghĩa nặng với 300 năm nhà Lê nên nhà vua lưu vong c̣n có chỗ dựa.

    Năm Mậu Thân(1788) vua Lê Chiêu Thống, sau một ṿng đường biển về Thanh Hóa lánh nạn, giả thường dân trốn ra nương náu ở Phượng Nhăn, Kinh Bắc, bí mật t́m các vị tiến sĩ triều Lê nhờ giúp rập. Công bằng mà nói, việc cầu viện nhà Thanh đâu chỉ là tự quân “ngây thơ chính trị” mà phải c̣n do một số tiến sĩ triều Lê, quá mơ hồ về dă tâm của thiên triều Thanh, đă tư vấn cho vua Lê Chiêu Thống! Thật vậy, những ngày trốn ở Kinh Bắc, vua Lê có các vị tiến sĩ, từng là đại quan, như Lê Quưnh, Lê Duy Đàn, Trần Danh Án,… tham mưu trong “màn trướng”. Nhà vua đă có một quyết định cực kỳ sai lầm, để rồi ôm hận thiên thu, lưu tiếng xấu muôn đời, tên ḿnh thành danh từ riêng “Lê Chiêu Thống”, biểu tượng “măi quốc cầu vinh” hay “cơng rắn cắn gà nhà” hay “rước voi về giày mă tổ”, đó là cầu viện thiên triều Thanh.

    Một số tiến sĩ làu thông Bắc sử, tinh thông triết học Tống Nho, sùng chính đạo, muốn làm bậc quân tử với lư tưởng ngu trung, tin vào Thiên triều Thanh thực ḷng bảo vệ chư hầu Đại Việt,… đă pḥ nhà vua hèn yếu họ Lê. Học Bắc sử quá nhiều nên sớm quên sử Việt, với học phí phải trả bằng máu, xương, mồ hôi, nước mắt, chủ trương nội phụ hoặc cầu viện thiên triều phương Bắc, phục hồi nhà Lê để cùng hưởng đỉnh chung.

    Vị tiến sĩ hăng hái nhất phải kể Lê Quưnh. Ông ta hăng hái nhận lệnh vua Lê Chiêu Thống bí mật đưa Thái Hậu và hoàng tử sang Đại Thanh cầu viện. Vị thứ hai cũng nhiệt t́nh không kém là Trần Danh Án, cũng làm sứ giả “đội lốt con buôn”, luồn lách đường rừng qua chầu hầu các quan hàng tỉnh, mong được giúp đỡ ra tay cứu vớt… Tay cáo già Tôn Sĩ Nghị, bấy lâu ŕnh rập Thăng Long khi hắn ta đương nhiệm tổng đốc Lưỡng Quảng. Máu bành trướng sục sôi trong tim đen của hắn, bỗng trào dâng khi những giọt nước mắt đớn hèn lăn dài trên má mẹ vua Lê, đang qú mọp trước sănh viện của quan tổng đốc họ Tôn. Thế rồi ng̣i bút lông của tiến sĩ hoang tưởng Lê Quưnh tha hồ vẫy vùng những câu nịnh hót hoàng đế Càn Long, viết thay vua Lê cầu xin hoàng đế thiên triều ra tay cứu vua Lê, trừ Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị vớ được cơ hội, đây là dịp có cớ đưa nước Việt vào ách Bắc thuộc ngàn xưa, viết bản tâu, thúc ngựa trạm tức tốc về kinh đô dâng tấu biểu lên Càn Long hoàng đế. Đại cáo già Tôn Sĩ Nghị thâm hiểm chưa bằng Siêu cáo già Tôn Vĩnh Thanh, gă này c̣n tàn độc hơn khi cùng tâu lên vua Càn Long kế sách thâm độc; rằng khoan giúp Lê Chiêu Thống, tọa san quan hổ đấu thêm một thời gian nữa, để mấy tay An nam tranh bá đồ vương, nồi da xáo thịt, hao của tốn người, dân chúng điêu linh, …rồi đem quân qua dựng một An Nam quốc vương Lê bù nh́n và An Nam thành một tỉnh của Đại Thanh vậy.



    Càn Long, máu siêu bành trướng c̣n hơn đại bành trướng Hán tộc, phối hợp hai mưu kế của hai gă họTôn, liền lệnh ngay Tôn Sĩ Nghị đưa mấy vạn quân qua “giúp nhà Lê”, không quên dặn ḍ Tôn Sĩ Nghị bằng một mật dụ vô cùng nham hiểm; rằng qua An Nam nên tiến quân thận trọng, lập được đầu cầu, dừng binh để bảo toàn lực lượng, dùng ngay người Việt đánh người Việt, cụ thể cho họ Lê đánh họ Nguyễn để An Nam tả tơi. Khi ấy mới thu phục An Nam vào đồ bản.

    Thực ra Càn Long cũng có nghe mưu kế của Tôn Vĩnh Thanh khi dặn ḍ Tôn Sĩ Nghị; mưu đó là ǵ? Chia đôi An Nam, Thuận Hóa về nam giao cho Tây sơn, Hoan Ái về bắc giao cho họ Lê, phong An Nam quốc vương “bù nh́n”cho hai họ, cùng làm chư hầu của Đại Thanh, c̣n quân Thanh ở lại An Nam để kềm chế. Quá ư tham ác, tàn độc! Đáng buồn là một số đại trí thức triều Lê như Lê Quưnh, Nguyễn Huy Túc, Trần Danh Án… đă “mơ màng” trong những ḍng “trá mị” của bài hịch “giúp Lê trị Tây Sơn” của cáo già Tôn Sĩ Nghị. Các vị khoa bảng đầy phấn khích, trong những tháng cuối năm Mậu Thân 1788, chuốc lời văn để viết hịch Cần Vương, vận động dân chúng Bắc Hà hưởng ứng cuộc khôi phục nhà Lê, có sự hỗ trợ của đại quân Thanh triều, để huynh đệ tương tàn, và Đại Thanh cứ lấn dần đất đai sông biển. Trên đống hoang tàn của hoàng thành Thăng Long, ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân[1788], tự quân Lê Chiêu Thống đă qú mọp lạy về Bắc quốc, nâng hai tay nhận ấn An Nam Quốc Vương, trông ô nhục như Trần Ích Tắc tái sinh!




    Vua sáng th́ tôi hiền, vua ngu th́ tôi dốt, có tiến sĩ lăo thần thúc giục vua Lê xin Tôn Sĩ Nghị sớm ra quân để thanh toán giặc Tây Sơn. An Nam Quốc Vương Lê Chiêu Thống cử ngay Lê Quưnh sang bản doanh họ Tôn đệ đạt nguyện vọng của vua Lê, gă họ Tôn từ chối. Hắn phải từ chối v́ đă có mật dụ của hoàng đế Càn Long, hắn ta đang củng cố những pḥng tuyến, những đại đồn quanh Thăng Long, giao trọng trách cho những hỗ tướng dày dạn chiến trường như Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống… nghĩa là cáo già họ Tôn đâu có khinh địch? Chẳng qua hắn ta đang tiến hành mưu độc, đứng chân để vua Lê truyền hịch, có thể trang bị quân trang quân dụng cho quân nhà Lê vào đánh quân Tây Sơn, c̣n hắn “tọa sơn quan hỗ đấu”, tha hồ “ngư ông đắc lợi” theo diệu kế Tôn Vĩnh Thanh, dù siêu cáo già này bị hắn “cướp công cách mạng”…Trong trái tim đen của Càn Long, Tôn Sĩ Nghị, Tôn Vĩnh Thanh, … thừa biết nội bộ của Tây Sơn đang có sự kiện mất đoàn kết: Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ và Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc mới “nồi da xáo thịt” một trận hao binh tổn tướng, v́ thế bọn họ c̣n chờ Nguyễn Huệ bị vua anh đánh sau lưng…

    Nhưng đại phúc cho Đại Việt, vẫn c̣n tiến sĩ Ngô Thời Nhậm, tiến sĩ Phan Huy Ích của triều Lê, có ẩn sĩ thánh Nguyễn Thiếp,… có thực tài và thức thời đă giúp vua Quang Trung, phá vỡ ván cờ tưởng chừng như “dở cuộc không c̣n nước” của Đại Việt. Hơn nữa vua hèn Lê Chiêu Thống dỡ tṛ ân oán quá quắt làm thất nhân tâm, quân xâm lược Thanh đang đóng quân th́ “nhàn cư vi bất thiện”, các ngài đại tướng chinh Nam bắt dầu hống hách, yêu sách đủ điều. Bao nhiêu vàng bạc, châu báu, tiềng đồng mà vua hèn Lê Chiêu Thống đổi gạo cơm rượu thịt để cung ứng cho hằng vạn quân Thanh, phút chốc tiêu tan. Thế là nhà vua ra lệnh trưng thu, trưng dụng và đè cổ dân chúng Bắc Hà ra mà thu thuế… dân chúng Bắc Hà đă vỡ mộng, bắt đầu thấy ḿnh bị lừa…




    C̣n ở Phú Xuân, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ, được bầy tôi dâng sớ, cầu Bắc B́nh Vương sớm lên ngôi hoàng để để chính danh. Và đúng 5 ngày sau khi Lê Chiêu Thống lên ngôi ở điện Kính Thiên làm vua “măi quốc cầu vinh”, da Lê Duy Kỳ hồn Trần Ích Tắc, th́ tại Bân Sơn, bên trái Ngự B́nh Sơn, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Đại Việt vào ngày 25 tháng 11, Mậu Thân (1788), huy động toàn dân ra Bắc diệt quân xâm lược cùng bè lũ “Thanh nô” Lê Chiêu Thống. Thế là ván cờ chung cuộc diễn ngay kinh thành Thăng Long, bọn ác cùng với bọn ngu, vạn đứa th́ ôm hận dưới g̣ Đông Đa, ngàn đứa th́ làm ma rà, có đứa làm ma ṿng trên cây, ngàn đứa làm hàng binh, ngàn đứa chạy thục mạng qua Tàu chết ṃn đất khách. C̣n quân dân Đại Việt oanh liệt viết tiếp trang sử anh hùng bất khuất, lấp lánh ngàn sao trên bầu trời Thăng Long năm Kỷ Dậu 1789, ôi v́ sao sáng nhất là anh hùng dân tộc, đại phá quân Thanh, Quang Trung Nguyễn Huệ.


    http://danlambaovn.blogspot.com/2011...-rop.html#more

  2. #2
    Dac Trung
    Khách
    Trần Ích Tắc




    Thời Trần của Đại Việt, có một kẻ hàng giặc cầu vinh, tự dối ḿnh gạt người bằng học vấn uyên thâm, ấy là Trần Ích Tắc. Sứ giả Nguyễn Đại Pháp của Đại Việt đă làm bẻ mặt Trần Ích Tắc vào năm Nhâm Th́n 1292 khi đi sứ nước Nguyên. Ngày xuân nghĩ về cha ông, rất đỗi tự hào, cảm phục những anh hùng liệt nữ nhưng cũng không khỏi buồn ḷng về một số nhân vật lịch sử đớn hèn, có học vấn cao nhưng vẫn mơ hồ về chủ thuyết “bốn biển là anh em” như Trần Ích Tắc. Không may cho Ả Trần, một môn đồ của ông là Lê Tắc, trong An Nam chí lược đă ghi chép khá chi tiết về hành trạng của ông, một hàng thần được thiên triều Nguyên trọng dụng và ban nhiều ân sũng.


    Trần Ích Tắc là hoàng tử thứ năm của vua Trần Thái Tông. Trần Ích Tắc rất thông minh, ham học và tài hoa. Tứ thư ngũ kinh làu thông mà các kinh Pháp Hoa, Bát Nhă, Thủ Lăng Nghiêm... ông cũng tham cứu sâu sắc, nhưng ông không đạt được minh triết của Tuệ Trung Thượng Sĩ, không có tiết tháo của Trần B́nh Trọng, Trần Quốc Toản...Thật vậy Trần Ích Tắc với tước Chiêu Quốc Vương, từng lĩnh ấn Đại Tướng, chỉ huy chống giặc miền Đà Giang, mới thua địch đă vội đầu hàng.Chẳng qua ông đă nḥm ngó ngai vàng từ trước, kẻ cơ hội chớp được thời cơ bất chấp liêm sĩ. Một tuấn sĩ sớm trở thành kẻ vô sĩ, đem triết lư Tống Nho biện minh cho hành động “nội phụ” thiên triều Nguyên, tự cho ḿnh đă thể hiện chữ trung với Nguyên đế. Trần Ích Tắc đă “chính danh hóa” việc ông đầu hàng và xu nịnh triều Nguyên, mưu đồ đưa Đại Việt vào đồ bản đế quốc Nguyên Mông, bằng triết học Tống Nho.

    Lập luận sặc mùi nô dịch của Trần Ích Tắc là khi Trần Thái Tông, phụ vương của ông, chịu thần phục thiên triều Nguyên, nhận ấn An Nam Quốc Vương th́ việc ông “hàng nhà Nguyên”, lĩnh ấn An Nam Quốc Vương là “nối chí” của tiên đế. Trong bài thơ “ Xuất quốc” của Trần Ích Tắc, ông tự cho ḿnh là người “trung quân ái quốc” thuộc loại “siêu hạng”, không ai hiểu được ông, chỉ có trời mới biết:

    “Bỏ nước ra đi nhớ tự ngày
    Ḷng trung canh cánh có trời hay.”

    Trần Ích Tắc muốn phơi bày ḷng ḿnh bằng điển cố điển tích một cách ngụy tín:

    “Chẳng qua Vi Tử buồn Ân mất,
    Há phải Văn Công trốn nước ngoài.”

    Ông biện minh việc ông bỏ nước hàng giặc không phải v́ tham sống sợ chết mà v́ mục đích cứu nước, cứu nhà như ông Vi Tử, hoàng huynh của vua Trụ. Vi Tử từng can ngăn thói hoang dâm vô độ của vua Trụ nhà Ân, vua không nghe, ông đành bỏ nước ra đi. Về sau Vơ Vương diệt Trụ Vương, phong Vi Tử ở Tống để nối ḍng dơi nhà Ân. Ông cho rằng Đại Việt không thể địch lại quân Nguyên, ông đầu hàng nhà Nguyên là để tránh nạn can qua cho tổ quốc và giữ được nghiệp nhà. Ông được nhà Nguyên trao ấn An Nam Quốc Vương để chính danh khi theo quân xâm lược Nguyên về “dày mả tổ”. Vua anh là Trần Thánh Tông, vua cháu là Trần Nhân Tông của ông đâu làm mất Đại Việt như vua Trụ để Trần Ích Tắc nối dơi! Nhưng bă “vinh hoa phú quí” mà ông được các hoàng đế Nguyên Mông đặc ân rất là “hậu hỷ” đă làm mờ mắt Trần Ích Tắc.

    Lê Tắc, trong An Nam Chí Lược, cho biết cứ mỗi lần Trần Ích Tắc về kinh đô chầu hầu trong lễ đăng quang của các vua Nguyên là được vua Nguyên “gia ân”. Năm 1284, quân Nguyên xâm lược Đại Việt, vua anh Trần Thánh Tông của ông đang lănh đạo cả nước kháng chiến, c̣n các vương hầu Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên, Trần Lộng, Trần Kiện lại tham sống sợ chết, đem mấy vạn quân đầu hàng quân Nguyên năm 1285.

    Năm sau 1286 kẻ phản bội Trần Ích Tắc đă thỏa nguyện khi vua Nguyên Hốt Tất Liệt trao ông ấn An Nam Quốc Vương, trong t́nh cảnh nước nhà đầy máu và nước mắt nhưng lửa quật khởi vẫn bừng bừng khí thế. Vua có ngai mà chẳng có dân Trần Ích Tắc được thưởng 5000 quan tiền, năm sau được thưởng gấp đôi. Con trưởng của ông là Trần Bá Ư, cũng được Hốt Tất Liệt ban ấn An phủ sứ lộ Đà Giang, chức Gia nghị Đại phu. Với bă vinh hoa phú quí như thế, cha con An Nam Quốc Vương mang hia đội măo, khoát nhung y lên ngựa, theo Trấn Nam Vương Thoát Hoan về dày xéo tổ quốc, đốt vạn nhà, mổ bụng ngàn người, đào mả Trần Thái Tông. Tội ác như thế mà Trần Ích Tắc vẫn tự cho ḿnh đúng đắn, đến mức vô liêm sĩ:

    Nghề mọn cơ cầu noi nghiệp trước,
    Tiếng thơm sử sách để sau này.

    Gă hoang tưởng Trần Ích Tắc tự dối ḿnh gạt người chứ ông thừa biết “noi nghiệp tiền nhân, tiếng thơm sử sách” thuộc về vua anh Trần Thánh Tông và vua cháu Trần Nhân Tông! Khi quân Nguyên chiếm Thăng Long, An Nam Quốc Vương Trần Ích Tắc từ nơi đóng quân, tạm gác nhung y về thăm cố cung, không gặp người thân v́ hầu hết xuôi nam kháng chiến, trong cảm thái cô đơn ông có viết bài thơ Trở về nước:

    “Bao năm xa nước khói mây mờ,
    Ḿnh gởi nhung yên tạm viếng nhà.
    Lớp lớp lâu đài trơ bóng nguyệt,
    Hàng hàng châu thúy cách phương xa.
    Hạc về Đông Hải thôi đành vậy,
    Rắn cắn Nam Môn há dám mà.
    Hiu quạnh biết cùng ai nhắn hỏi,
    Gió sông lay đóa lệ chi già.”

    Thà ông đừng gieo hai câu luận (5,6) th́ người đọc rất cảm xúc và dễ cảm thông nỗi ḷng của một người bao năm đi xa về thăm nhà, không c̣n người thân thích, không c̣n hàng xóm xưa để hỏi tin tức người thân. Cặp luận làm bài thơ chỉ là “xảo ngôn” của tay đại trí thức, lỡ bán ḿnh, hại nhà phá nước, nhằm che đậy “trái tim đen” mà thôi. Thật vậy ông vẫn tự phụ khi dùng hai điển cố Hạc và Nam Môn. Đinh Lịnh Uy người Liêu Đông từng xa quê hương t́m thầy học đạo tu tiên, về sau hóa Hạc bay về cố hương, đậu trên cột hoa biểu mà kêu.C̣n Nam Môn ở nước Trịnh, có con măng xà ở ngoài cửa cắn con măng xà trong cửa; con trong cửa là rắn lớn do yêu quái hiện h́nh, nên bị măng xà ngoài cửa cắn chết, người đời cho đó là điềm Lệ Công được về nước Trịnh.

    Trong ḍng cảm xúc thật của Trần Ích Tắc có khả năng là “Khi sao phong gấm rũ là/Giờ sao tan tác như hoa giữa đường/Mặt sao dày gió dạn sương...” nhưng khi hạ bút, Trần Ích Tắc đă dối ḷng khi dùng hai điển cố trên để tự an ủi và ngụy biện một cách tự cao tự đại. Đinh Lịnh Uy v́ Tiên mà hóa Hạc qui cố hương, c̣n Trần Ích Tắc v́ Tiền hóa Tặc về tàn phá nước nhà. Măng xà ngoài cửa Nam Môn là loài vật c̣n biết phân biệt chính tà, quyết diệt loài rắn yêu quái trong cửa, chứ Thân Vương Trần Ích Tắc tự cho ḿnh chính nghĩa, c̣n quyến thuộc họ Trần là yêu tặc nên ông theo Trấn Nam Vương Thoát Hoan về đánh giết huynh đệ.

    Hai câu luận của bài thơ Xuất quốc là bằng chứng trong thâm tâm Trần Ích Tắc rất hổ thẹn nhưng bên ngoài vẫn làm ra bộ ḿnh có chính nghĩa. Một điều chắc chắn mà Trần Ích Tắc đă thể nghiệm: “Đại Măng Xà” Thoát Hoan phải “chui ống đồng” thoát thân, “măng xà” An Nam Quốc Vương Trần Ích Tắc cũng phách lạc hồn xiêu chạy về đất Ngạc, c̣n “măng xà” Trần Thánh Tông, bề ngoài nhận ấn của thiên triều để tránh can qua chứ bề trong th́ bất phục. Năm 1287, An Nam Quốc Vương giả Trần Ích Tắc lại theo Trấn Nam Vương về nước tác quái, tất nhiên bị đại bại hơn lần trước, đành phải nhận chức quan hàng tỉnh Hồ Quảng đẳng xứ, Hành Trung thư sảnh, B́nh chương chính sự, để có lương bổng vậy...

    Những ngày ở Ngạc Châu, Trần Ích Tắc dần dần vỡ mộng và ḷng thấy thẹn khi biết ḿnh đă sai. Cú sốc đớn đau đối với An Nam Quốc Vương “giấy” Trần Ích Tắc là cuộc gặp sứ giả nhà Trần Nguyễn Đại Pháp năm Nhâm Th́n 1292. Sự kiện Nguyễn Đại Pháp của Đại Việt đi sứ sang Nguyên, Đại Việt sử kư toàn thư chép:

    “Nhâm Th́n, [Trùng Hưng] năm thứ 7 [1292]... Nguyễn Đại Pháp đến nước Nguyên, người Nguyên gọi là Lăo lệnh công. Đại Pháp đến Ngạc Châu, vào yết kiến các quan b́nh chương ở hành tỉnh. Lúc ấy Chiêu Quốc Vương Ích Tắc cũng ngồi ở đó. Đại Pháp chỉ không chào một ḿnh hắn. Ích Tắc hỏi:

    “Ngươi không phải là tên biên chép ở nhà Chiêu Đạo Vương đó ư?”(Chiêu Đạo Vương trước tên là Quang Xưởng, là con thứ của Thái Tông, anh cùng mẹ của Ích Tắc). Đại Pháp trả lời:

    “Việc đời thay đổi, Đại Pháp trước vốn là tên biên chép cho Chiêu Đạo Vương, nay là sứ giả, cũng như B́nh chương xưa kia là con vua, nay lại là người đầu hàng giặc”.

    Ích Tắc có vẻ hổ thẹn. Tứ đấy về sau, sứ ta đến, hắn không c̣n ngồi ở tỉnh đường nữa” (sđ d,tập II, tr.69).

    An Nam Quốc Vương “giấy” và B́nh chương Chính sự ăn lộc thiên triều Nguyên, sau khi nhà Nguyên băi binh, đành ngụ ở Ngạc Châu. Để vớt vát cho cái ấn An Nam Quốc Vương vô nghĩa, ông vẫn c̣n rêu rao về lư tưởng đại đồng mà ông đă theo. Ông nói thế nhằm che đậy dă tâm “măi quốc cầu vinh”, ham vạn quan tiền Chí Nguyên, vài tấm kim đoạn, vài trăm khoảnh ruộng, để nhẫn tâm làm đất mẹ bao lần bị dày xéo, mộ cha ông bị đào, đồng bào ḿnh tan nhà nát cửa, người thân ḿnh phải điêu linh...:

    Ngày nay bốn biển chung đường lối,
    Nhà cũ xa trông núi Việt dài.

    “Bốn biển chung đường lối” tất nhiên không phải đường lối nội phụ thiên triều Nguyên của ông. Đường lối của một thân vương quá nhiều lần cúi rạp ḿnh, dâng biểu chúc tụng các hoàng đế nhà Nguyên để được gia ân hàng vạn quan tiền. Đường lối của vua Đại Việt là cử sứ giả sang dâng biểu chúc tụng, dâng cống vật về mặt ngoại giao, để đổi lấy sự độc lập và toàn vẹn lănh thổ, tránh can qua cho sinh dân hai nước, chứ không bao giờ tự thân các vua Nam qua chầu hầu hoàng đế phương Bắc! Trần Ích Tắc viết như thế để che giấu đường lối sai lầm đầy ô nhục và tội lỗi của ḿnh đó thôi. Trần Ích Tắc là một trí thức lớn đời Trần, ông thừa biết Thành Cát Tư Hăn, Hốt Tất Liệt đă tiêu diệt nhiều nước, trong đó có nước Tống tức Trung Quốc thời bấy giờ, thế th́ “chung đường lối” để vào rọ của Đại Nguyên, là nô lệ ngoại bang ư?.

    Không phủ nhận Trần Ích Tắc có nỗi nhớ nhà nhớ nước, nhưng không phải nỗi đau khắc khỏai của Bà Huyện Thanh Quan đời sau: “Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc/Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Quả là “núi Việt dài” như ông nghĩ, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, sơn hà xă tắc Đại Việt vẫn trường tồn, dẫu Đại Nguyên từng mưu toan chiếm đoạt và xóa sổ. Ông không thể cảm khái như Trần Quang Khải từng cảm khái: “Bến Chương Dương cướp giáo/Cửa Hàm Tử bắt thù/Thái b́nh nên gắng sức/Non nước cũ muôn thu”.Cảm xúc của Trần Ích Tắc không thể là cảm khái của cháu ruột của ông là Trần Nhân Tông: “Xă tắc hai phen bon ngựa đá/Non sông ngh́n thuở vững âu vàng”. Hoặc ông làm sao sánh được anh ông là Trần Thánh Tông, ung dung tự tại của một người chiến thắng, nối nghiệp cha ông: “Trăng vô sự soi người vô sự/Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu/Bốn biển đă quang trần đă lặng/Chuyến đi này thắng chuyến đi xưa”.

    Kết cục buồn của An Nam Quốc Vương “giấy” Trần Ích Tắc là những ngày già ở Thiện Lạc đường ở Ngạc Châu, Hồ Quảng đẳng xứ. Có khả năng các đồng liêu của ông đă quên ông, không muốn nói là xem nhẹ ông, kẻ măi quốc cầu vinh ở Bắc quốc. Bằng chứng môn đệ ông là Lê Tắc không chép một câu đối hay bài thơ nào của một vị nào thời Nguyên viếng ông khi ông tổ chức lễ mừng thọ hay khi ông qua đời. Trong khi đó, dù xa ngàn dặm, Lê Tắc vẫn sưu tầm những bài thơ của vua quan triều Trần, có cả thơ Trần Anh Tông, thuộc hàng cháu nội của Trần Ích Tắc. Có chăng là bài thơ viếng ông của môn đệ Lê Tắc “Văn An Nam Quốc Vương”:

    “Ngày nào khách tọa nghe đàm đạo.
    Nay trước linh sàng đốt nến thờ.
    Nh́n họa dung xưa hồn phảng phất,
    Đọc thơ cáo cũ lụy chan ḥa.
    Nấm mồ Nam quốc hầu xanh cỏ,
    Lối cũ Tây môn vẫn trắng hoa.
    Bao ná chiêu hồn ca khúc Việt,
    Tro tiền gió thổi, cỏ cây mờ.”

    Những ngày cuối đời của Trần Ích Tắc, cùng với người thân tín duy nhất là Lê Tắc ông đă nhắc nhiều về những thân thuộc đồng chí hướng “hàng giặc” như Trần Tú Viên, Trần Văn Lộng, Trần Kiện. Trần Tú Viên khi hàng giặc và bị binh tướng nhà Trần đuổi đánh, gia đ́nh thiệt mạng 8 người, viết thoại điếu thảm thiết “Ba đời chịu tám tang, đau thương ngh́n thuở/ Một ḿnh ngoài muôn dặm, cô quạnh trăm năm”. Có khả năng Trần Ích Tắc, Lê Tắc đau đớn nhất và nhớ thương nhất là Chương Hiến Thượng hầu, từng hàng giặc và theo giặc chạy sang Nguyên, không may bị quân nhà Trần giết chết ở ải Chi Lăng. “Nấm mồ Nam quốc hầu xanh cỏ/Lối cũ Tây môn vẫn trắng hoa” là nổi đau da diết của Trần Ích Tắc về những người thân cùng “chí hướng”, chung cảnh ngộ của ông vào những năm tháng cuối đời.


    Cuối đông Canh Dần.

    Quang Minh

    http://danlambaovn.blogspot.com/2011...-tac.html#more

  3. #3
    Dac Trung
    Khách
    Nỏ Thần của người Việt





    Những ai từng biết đến sự tích Nỏ Thần An Dương Vương th́ đều hiểu rằng: Đó là h́nh tượng ẩn dụ về tính đoàn kết và ḷng yêu nước của người Việt, điều kiện tiên quyết để tạo nên sức mạnh vô địch chống mọi kẻ thù xâm lược. Và điều đó đă được người xưa h́nh tượng hóa bằng biểu tượng Nỏ Thần bất hủ. Mất đi sự đoàn kết và ḷng yêu nước là mất đi sức mạnh của một dân tộc, cũng như mất đi Nỏ Thần quư báu đó vậy.


    Chuyện kể rằng: Sau khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thần Kim Quy trao cho ông một chiếc móng của ḿnh để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Chiếc Nỏ Thần được tướng quân Cao Lỗ chế tạo thành công, với cái lẫy được làm từ móng chân của thần Kim Quy. Nỏ Thần có thể bắn một lần được hàng trăm mũi tên và bách phát bách trúng. Chiếc nỏ lớn và rất cứng, phải là người lực sĩ mới giương nổi. An Dương Vương quư chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng để gần bên cạnh.


    Lúc bấy giờ Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân xâm lược Âu Lạc, nhưng v́ An Dương Vương có nỏ thần nên quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều. Triệu Đà thấy dùng binh không lợi bèn xin giảng ḥa, mặt khác cho con là Trọng Thủy sang cầu thân nhưng thực chất là t́m cách để lấy trộm lẫy của nỏ thần. An Dương Vương không hề nghi ngờ ǵ cả, vả lại ông tin tưởng vào nỏ thần nên lơ là mất cảnh giác. Trọng Thủy sau khi lấy trộm được chiếc lẫy của nỏ thần bèn xin phép An Dương Vương để về nước thăm cha.


    Biết được bí mật của nỏ thần, lại có được chiếc lẫy trong tay nên Triệu Đà cả mừng và lập tức mang quân xâm chiếm Âu Lạc. Hay tin quân giặc đang đến gần nhưng An Dương Vương vẫn chủ quan v́ có nỏ thần. Đến khi quân giặc tiến đến sát chân thành ông mới lệnh cho quân lính mang nỏ thần ra để giết giặc. Nhưng nỏ thần đă bị mất lẫy, v́ vậy mà không có được sức mạnh như xưa. Quân Triệu Đà reo ḥ xông vào phá thành, trước sức mạnh như vũ băo của quân địch, An Dương Vương đành phải bỏ thành và mang theo con gái là Mỵ Châu chạy trốn.


    Câu chuyện mất nước của Thục Phán An Dương Vương là một bài học đắt giá, v́ vậy mà mọi thế hệ người Việt đều luôn đề cao cảnh giác trước bọn giặc phương Bắc đầy mưu mô quỷ quyệt.


    Ngày nay, có một bọn hậu duệ lại không cần biết đến kinh nghiệm đó của cha ông, chúng quên đi bài học đau đớn mà tiền nhân đă truyền dạy. V́ vậy mà đất nước Việt Nam ngày nay đang sắp bị mất một cách toàn diện trước bọn giặc Bắc phương. Sở dĩ có điều đó là v́ bọn hậu duệ này đi tôn thờ một chứ chủ nghĩa Cộng sản hoang tưởng nào đó mà đành nhẫn tâm bán rẻ đất nước quê hương, cũng như người dân cho kẻ thù. Bọn bán nước này đă không đợi kẻ địch t́m cách phá hoại nỏ thần mà tự chúng phá đi cái lẫy thần của người Việt. Đó là việc chúng đàn áp và bắt bớ những người yêu nước dám đứng lên chống quân xâm lược. Một mặt chúng lừa dối và ngu dân để họ không c̣n quan tâm ǵ đến vận mệnh đất nước. Người dân v́ thế mà mất đi ḷng tự hào dân tộc, quên đi cội nguồn và lịch sử của ông cha. V́ vậy mới có câu chuyện sau:


    “Trong giờ dạy Sử, cô giáo đang giảng bài. Chợt nh́n thấy một cậu học sinh ở bàn cuối đang gối đầu lên bàn ngủ ngon lành, cô liền gọi cậu ta dậy và hỏi:

    - Em cho cô biết ai đă lấy cắp nỏ thần của An Dương Vương?

    Cậu học tṛ chưa tỉnh hẳn, găi đầu găi tai rồi ấp úng:

    - Thưa cô, em... em không lấy ạ!

    Nghe thấy vậy, cô giáo giận đỏ mặt, liền gọi lớp trưởng đứng dậy trả lời câu hỏi. Lớp trưởng trả lời:

    - Thưa... thưa cô, cũng không phải là em lấy ạ. Cô cứ cho lục soát cặp th́ rơ ạ!...

    Vừa lúc này th́ th́ trống điểm giờ ra chơi. Cô giáo giận dữ xách cặp đi ra khỏi lớp, đến Văn pḥng nhà trường th́ gặp thầy chủ tịch Công đoàn. Cô liền phân ưu với thầy:

    - Học tṛ bây giờ không chịu học sử ǵ cả. Tôi hỏi ai đă lấy cắp nỏ thần của An Dương Vương mà không em nào biết, thật là tức quá đi thôi!

    Thầy chủ tịch Công đoàn liền lên tiếng trấn an:

    - Đằng nào th́ cũng mất rồi, cô tức giận làm ǵ cho mệt. Hỏi chúng nó giá chiếc nỏ đó bao nhiêu tôi sẽ bỏ tiền Công đoàn ra mà đền, thế là xong chuyện.”


    Thưa quư vị, nước Việt ngày nay như thế th́ thử hỏi làm sao mà không mất nước? Bên trong th́ cái lẫy nỏ thần của người Việt đă bị đảng Cộng sản bẻ găy. Bên ngoài th́ giặc phương Bắc đang xâm chiếm biển đảo. Mối an nguy của đất nước đang hiện hữu từng phút từng giây.


    Ôi! Nỏ Thần của người Việt đang ở nơi đâu?



    Minh Văn

    http://danlambaovn.blogspot.com/2012...viet.html#more

  4. #4
    Dac Trung
    Khách
    Đọc B́nh Ngô Đại Cáo




    Ngô Nhân Dụng (Người Việt) - ... Cả nước cùng học lại, cùng hiểu nghĩa bài B́nh Ngô Đại Cáo th́ 90 triệu trái tim cùng đập theo một nhịp. Đến nước sông Hồng cũng phải sôi lên đỏ rực, nước Cửu Long cũng phải cuồn cuộn dâng trào. Ước mong quư vị nhà giáo đồng nghiệp của tôi sẽ để ư tới đề nghị này. Ước mong ngày Giỗ Vua Lê năm nay cả nước sẽ cùng đập trống, gơ mơ, đọc B́nh Ngô Đại Cáo theo nhịp của trái tim ḿnh. Sẽ cùng nhau đọc: “Nền vạn thế xây nên chăn-chắn - Thẹn ngh́n thu rửa sạch làu-làu!” Rồi quyết tâm cùng nhau làm sao đừng để cho con cháu bị mắc một mối nhục ngàn thu!...

    *

    Gần đây tôi trở lại cái thói quen hay lẩm nhẩm bài B́nh Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trăi. Đem đạo nghĩa để thắng hung tàn - Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Đọc xong bỗng thấy cái xương sống lưng ḿnh đứng thẳng hơn, y như có người kéo cho đầu ḿnh bắt phải ngẩng lên vậy. Hồi c̣n trẻ tôi dậy học tṛ môn lịch sử, đă có lúc hành hạ các em nhỏ bằng bài văn này. Khi học đến đoạn Lê Lợi kháng Minh, tôi đố các học sinh, ai học thuộc ḷng bài Đọc B́nh Ngô Đại Cáo sẽ được 20 điểm. Không hiểu sao hồi xưa các thầy cô ở nước ta hà tiện, với môn sử, địa điểm tối đa thường chỉ cho tới 15, 16. Cho nên nghe nói 20/20 nhiều em học tṛ cũng hăng hái chấp nhận lời thách đố của thầy giáo.

    Tôi không ngờ, có rất nhiều học sinh hồi đó, những năm 1960 ở Sài G̣n, đă học thuộc ḷng bài Đọc B́nh Ngô Đại Cáo, bản dịch rất văn chương chép trong Việt Nam Sử Lược. Tới ngày trả bài, nhiều em xin lên đọc, phải cho các em đọc theo lối tiếp sức. Một em đọc nửa chừng, ông thầy ra hiệu cho một em khác đọc tiếp, rồi trở lại người cũ hay đổi sang người mới, em nào cũng phải sẵn sàng đọc tiếp, tức là phải thuộc ḷng cả bài Đọc B́nh Ngô Đại Cáo. Khi chấm dứt, “Bá cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết” th́ cả lớp vỗ tay; thầy lẫn tṛ đều nghẹn ngào. Bởi v́ khi cùng nhau đọc và nghe bài đại cáo này, ḷng yêu nước thế nào cũng dâng lên, bồi hồi nhớ các tổ tông đời trước!

    Một nửa thế kỷ đă qua, bây giờ tôi chắc nhiều học sinh cũ của tôi vẫn c̣n nhớ bài Đọc B́nh Ngô Đại Cáo, dưới ng̣i bút dịch nhuần nhă cao sang của Bùi Kỷ. Nhiều người sau này đă dịch cách khác, có thể đúng, sát nghĩa hơn; nhưng không thể coi là những áng văn chương như bản dịch Bùi Kỷ. Tôi hy vọng các em vẫn c̣n có thời giờ lâu lâu đọc lại, thưởng thức những lời văn trác tuyệt đó. Chính tôi có những lúc thấy ḿnh đang lẩm nhẩm, “Giang san từ đây mở mặt - Xă tắc từ đây vững nền.” Chợt thấy ḿnh đang đọc, xong rồi ḷng ngẩn ngơ.

    Cho nên, tôi nảy ra một ư kiến muốn đề nghị với các thầy, các cô giáo, ở Việt Nam cũng như ở các nước khác. Tại sao chúng ta không tổ chức một ngày giỗ Lê Lợi bằng một buổi đọc B́nh Ngô Đại Cáo? Tháng Tám Âm lịch sắp tới có hai ngày giỗ ai cũng nhớ: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi. Hồi nhỏ, có lần tôi đă được dự lễ ở ngay tại Đền Vua Lê bên cạnh hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Bây giờ đúng là lúc nên cho các bạn trẻ ở nước ta đọc lại Nguyễn Trăi, nhớ lại công ơn Lê Thái Tổ. Nhân ngày giỗ vua Lê, học sinh tiểu học, trung học tất cả các làng, các tỉnh, khắp nước Việt Nam hẹn nhau một giờ cùng tụng đọc bài B́nh Ngô Đại Cáo. Các em không cần học thuộc ḷng, cứ cầm bản văn đọc dơng dạc trang nghiêm cũng quư lắm rồi. Chắc tổ chức ở trong trường th́ không ai gọi là biểu t́nh. Không cần phải xin phép xin tắc ǵ cả. Ở nước ngoài th́ càng dễ tổ chức hơn nữa. Đọc trong chùa, trong nhà thờ càng thêm nghiêm trang.

    Nhiều người sẽ phản đối, v́ sợ các em học sinh không hiểu hết được cả bài B́nh Ngô Đại Cáo. Chuyện đó tự nhiên; nhưng không hiểu th́ phải học cho hiểu. Bố mẹ, thầy cô phải học trước cho rơ nghĩa từng câu, rồi giảng lại cho các em hiểu. Không nên lười, không nên ngại khó. Cái công ḿnh học cho hiểu nghĩa bài B́nh Ngô Đại Cáo không khó nhọc bằng công các cụ Lê Lợi, Nguyễn Trăi đời xưa đánh giặc Minh suốt 10 năm đâu!

    Có người c̣n than phiền là bài văn này, ngay cả bản dịch ra tiếng Việt của Bùi Kỷ, cũng có nhiều chữ Hán quá. Như vậy có ǵ mâu thuẫn không? Một bản văn nêu cao ư chí cương cường của dân Đại Việt chống lại cuộc xâm lăng và âm mưu Hán hóa của vua chúa bên Tàu, không lẽ ḿnh lại cứ sử dụng đầy chữ Hán như thế? “Nhật nguyệt hối rồi lại minh - Càn khôn bĩ rồi lại thái!” Sao không nói ra tiếng Việt ṛng cho chúng cháu nhờ!

    Xin nhắc: Những chữ đó đều thuộc vào tiếng Việt từ lâu rồi. Ông anh tôi tên là Nhật, cô em tên là Nguyệt, bộ tưởng họ người Trung Quốc hay sao? Nói đến “Càn Khôn” mà e ngại là ḿnh ăn phải đũa người Trung Hoa, thế th́ không nghe bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương nói, “Miệng túi càn khôn thắt lại rồi;” nghe mà cười khúc khích với nhau hay sao? Nếu không chịu học th́ làm sao biết mà cười? Những chữ đó, chúng không có quốc tịch. Ở bên Trung Quốc nó là chữ Tàu; qua biển sang Nhật nó thành tiếng Nhật; sang đến nước ta nó là tiếng Hán Việt. Ai nuôi nó th́ nó thành đứa con ngoan ngoăn cho ḿnh sai bảo. C̣n ai từ chối nó th́ nó đi mất luôn. Thế khi ḿnh đi biểu t́nh, hô to, “Đả đảo Trung Quốc xâm lược” th́ ḿnh đang nói tiếng ǵ đây? Cả sáu chữ được hô lên đều là gốc Hán, là con nuôi cả! Tổ tiên chúng ta đă gom chúng lại, nuôi nấng chắt chiu được mấy chục ngàn tiếng mới, gọi là tiếng Hán Việt, truyền lại cho con cháu xài trong cả ngàn năm. Bây giờ tính đem đổ xuống sông xuống biển hết hay sao?

    Có người lớn cái đầu, 40, 50 tuổi mà vẫn cứ e ngại, bảo rằng ḿnh rất khâm phục con người Nguyễn Công Trứ, nhưng không thể đọc thơ ông được. V́ trong đó toàn chữ Hán. Đọc lên tưởng như ḿnh hóa thành người Trung Hoa!

    Người nói câu đó rơ ràng là thời c̣n ít tuổi đă mất cơ hội học đến nơi đến chốn. Cho nên khi lớn lên, không muốn học, sợ khó. Mà đó chỉ là học có mấy chục chữ Hán Việt trong một bài thơ, mà đă sợ khó rồi. Bèn tự trừng phạt, không cho ḿnh đọc thơ Nguyễn Công Trứ nữa. Mà thực sự, có ai bắt chúng ta phải học chữ Hán đâu. Chỉ cần nghe đọc lên th́ hiểu cái tiếng gốc chữ Hán ư nghĩa thế nào thôi. Người Trung Hoa viết thế nào, không cần biết. Hăy tưởng tượng một học sinh người Nhật phải học chữ Hán thế nào th́ thấy việc học thơ cổ của ḿnh dễ ợt. Nước Nhật chưa bị người Trung Hoa đô hộ ngày nào, nhưng trong ngôn ngữ họ bắt cóc đem chữ Hán về nuôi và dùng, đông đúc cũng bằng một nửa số chữ thông dụng.

    Một người Nhật biết chữ có nghĩa là phải biết vài ngàn chữ Hán. Nh́n chữ người Hoa viết thế nào phải đọc lên được, hiểu được nghĩa. Mệt nhất là phải biết cách viết chữ đó, viết đúng thứ tự, có 10 nét th́ nét nào viết trước, nét nào viết sau. Ở nước Nhật 99% dân biết chữ. Một học sinh qua bậc tiểu học phải biết mấy trăm chữ, học hết trung học phải biết mấy ngàn chữ, tất cả được quy định trong chương tŕnh giáo dục. Nếu không học th́ lớn lên cầm tờ báo không đọc được!

    Nghĩ đến công khó nhọc của các học sinh Nhật th́ phải thấy ḿnh học thêm một chút để hiểu bài B́nh Ngô Đại Cáo là việc dễ như không. Cả nước cùng học lại, cùng hiểu nghĩa bài B́nh Ngô Đại Cáo th́ 90 triệu trái tim cùng đập theo một nhịp. Đến nước sông Hồng cũng phải sôi lên đỏ rực, nước Cửu Long cũng phải cuồn cuộn dâng trào.

    Ước mong quư vị nhà giáo đồng nghiệp của tôi sẽ để ư tới đề nghị này. Ước mong ngày Giỗ Vua Lê năm nay cả nước sẽ cùng đập trống, gơ mơ, đọc B́nh Ngô Đại Cáo theo nhịp của trái tim ḿnh. Sẽ cùng nhau đọc: “Nền vạn thế xây nên chăn-chắn - Thẹn ngh́n thu rửa sạch làu-làu!” Rồi quyết tâm cùng nhau làm sao đừng để cho con cháu bị mắc một mối nhục ngàn thu!


    Ngô Nhân Dụng

    http://www.nguoi-viet.com/absolutenm...54282&zoneid=7


    *

    B́nh Ngô Đại Cáo


    Nguyễn Trăi - (bản dịch của cụ Ưu Thiên Bùi Kỷ)

    Bài bố cáo với quốc dân về việc vua Lê Thái Tổ Lê Lợi đă b́nh định xong giặc nhà Minh bên Tàu, viết bằng chữ Hán, do đại thần Nguyễn Trăi làm ra. Trong bài này Nguyễn Trăi đă dùng tài văn chương ca tụng công nghiệp khai sáng của vua Lê. Lời lẽ trong bài B́nh Ngô Đại Cáo rất hùng hồn, sắc bén, nêu cao hùng khí của người xưa và tinh thần bất khuất của dân ộc ta. Đọc bài này, hậu thế lấy làm hănh diện trước cảnh vinh quang của đất nước và lấy làm hứng khởi.

    Tượng mảng:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt chỉ vi`khử bạo .
    Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đă lâu,
    Sơn hà cương vực đă chia, phong tục bắc nam cũng khác.
    Từ Đinh, Lê, Lư, Trần gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương.
    Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.

    Vậy nên:

    Lưu Cung sợ uy mất vía,
    Triệu Tiết nghe tiếng giật ḿnh.
    Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mă.
    Xét xem cổ tích đă có minh trưng.

    Vừa rồi:

    V́ họ Hồ chính sự phiền hà để trong nước nhân dân oán hận.
    Quân cuồng Minh đă thừa cơ tứ ngược,
    Bọn gian tà c̣n bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

    Chước dối đủ muôn ngh́n khóe,
    Ác chứa ngót hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn,
    Nặng khoa liễm vét không sơn trạch:
    Nào lên rừng đào mỏ,
    Nào xuống bể ṃ châu,
    Nào hố bẫy hươu đen,
    Nào lưới ḷ chim sả.

    Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay? quan quă điên liên.
    Kẽ há miệng đứa nhe răng máu mỡ bẩy no nê chưa chán.
    Nay xây nhà mai đắp đất chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề sanh cửi.
    Độc ác thay! Trúc rừng không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay! Nước bể không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất tra cho
    Ai bảo thân nhân nhịn được.

    Ta đây:

    Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dă nương ḿnh.
    Ngắm non sông căm nỗi thế thù,
    Thề sống chết cùng quân nghịch tặc.
    Đau ḷng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

    Quên ăn v́ giận, sách lược thao suy xét đă tính;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phê đắn đo càng kỹ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đổ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính là lúc quân thù đang mạnh.

    Lại ngặt v́:

    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đầu,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả.
    Thế mà trông người , người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương
    Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vă như khi chứng nịch.
    Phần th́ giận hung đồ ngang dọc,
    Phần th́ lo quốc bộ khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng bắt trải qua bách chiếc thiên ma,
    Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
    Múa đầu gậy ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cơi đan hồ.
    Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào khắp tướng sĩ, một ḷng phụ tử.
    Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
    Quân giặc nhiều ta ít mà ta được luôn.

    Dọn hay:

    Đem đại nghĩa để thắng để thắng hung tàn
    Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy,
    Miền Trà Lân trúc phá tro baỵ
    Sĩ khí đă hăng ,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan,
    Phương Chính, Lư An t́m đường trốn tránh.

    Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc,
    Lấy Đông Đô thu lại cơi xưạ
    Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông,
    Bến Tuy Động xác đầy ngoài nội.
    Trần Hiệp đă thiệt mạng,
    Lư Lương phải phơi thây.
    Vương Thông hết cấp lo lường,
    Mă Anh khôn đường cứu đỡ.

    Nó đă trí cùng lực kiệt bó tay không biết tính sao,
    Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.
    Tưởng nó phải thay ḷng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui,
    Ngờ đâu c̣n kiếm kế t́m phương gây mầm tội nghiệp.

    Cậy ḿnh là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,
    Tham công một thời, chẳng bỏ bày tṛ dơ duốc.
    Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên đức, nhàm vơ không thôi ;
    Lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đêm dầu chữa cháy.

    Năm Đinh Mùi tháng chín,
    Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang
    Mộc Thạch tự Vân Nam kéo đến.

    Ta đă điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân,
    Ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo.
    Mười tám Liễu Thăng thua ở Chi Lăng,
    Hai mươi Liễu Thăng chết ở Mă Yến.
    Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong,
    Hai mươi tám, Lư Khánh tự vẫn.
    Lưỡi dao ta đang sắc,
    Ngọn dáo giặc phải lùi.
    Lại thêm quên bốn mặt vi thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
    Sĩ tốt ra oai t́ hổ
    Thần thứ đủ mặt trảo nha.
    Gươm mài đá, đá núi cũng ṃn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận sạch thông ḱnh ngạc,
    Đánh hai trận tan nát chim muông.
    Cơn gió to trút sạch lá khô,
    Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
    Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,
    Hoàng Phúc tự trói để ra hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
    Xương Giang, B́nh Than máu trôi đỏ nước.
    Gớm ghê thay ! Sắc phong vân cũng đổi,
    Ảm đảm thay ! Sáng nhựt nguyệt phải mờ.
    Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật;
    Quân Mộc Thạnh tan chưng Cầu Trạm, chạy để thoát thân.
    Suối máu Lănh Câu nước sông rền rỉ,
    Thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đ́a.
    Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy;
    Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
    Bắt tướng giặc mang về, nó đă vẫy đuôi phục tội;
    Thế ḷng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.

    Mă Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực.
    Vương Thông, Mă Anh, phát cho vài ngh́n cỗ ngựa, về đến Tàu c̣n đổ mồ hôi.
    Nó đă sợ chết cầu ḥa, ngỏ ḷng thú phục,
    Ta toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

    Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có.
    Giang sơn từ đây mở mặt
    Xă tắc từ nay vững nền.
    Nhật nguyệt hối mà lại minh,
    Càn khôn bỉ mà lại thái.
    Nếu vạn thế xây nền chăn chắn,
    Hẹn ngh́n thu rửa sạch làu làu.
    Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy.

    Than ôi!

    Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định,
    Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
    Bá cáo xa gần, ngơ cùng nghe biết.


    http://danlambaovn.blogspot.com/2012...-cao.html#more

  5. #5
    Dac Trung
    Khách
    Thứ sáu 14 Tháng Chín 2012

    Trọng Thủy - Mỵ Châu và bài học cảnh giác xâm lược

    Lê Phước

    «Tôi kể người nghe chuyện Mỵ Châu», xin mượn câu thơ nổi tiếng này của nhà thơ Tố Hữu để bắt đầu một câu chuyện mang đẫm màu sắc huyền thoại của lịch sử Việt Nam trong buổi đầu dựng nước : Chuyện t́nh Trọng Thủy-Mỵ Châu. Cũng như tất cả các dân tộc trên thế giới, lịch sử Việt Nam thường có những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại.


    Chuyện t́nhTrọng Thủy - Mỵ Châu

    Đó chính là một trong những phần tinh túy và thiêng liêng nhất, nó góp phần tạo nên một sợi dây vô h́nh buộc chặt tâm hồn con người vào đất nước quê hương ḿnh. Thế nhưng, giá trị lớn nhất của lịch sử là « ôn cố tri tân », tức để cho hậu thế xem xét mà rút ra những bài học kinh nghiệm cho cuộc sống. Trong chuyện t́nh Trọng Thủy-Mỵ Châu, gấp sách lại, xin đừng tự hỏi rằng có những chỗ đáng tin hay không đáng tin, mà điều quan trọng là nên tự hỏi rằng : Câu chuyện đó muốn kí thác điều ǵ cho hậu thế ?

    Chuyện t́nh Trọng Thủy-Mỵ Châu gắn liền với lịch sử ngàn năm Bắc Thuộc của nước Việt Nam thuở trước, bởi sự kiện An Dương Vương mất nước đă bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc của lịch sử Việt Nam. Câu chuyện này được sách sử ghi lại như thế nào ?

    Đại Việt sử kư toàn thư thời Hậu Lê

    Đầu tiên đến với bộ Đại Việt sử kư toàn thư, là bộ quốc sử bằng chữ Hán viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương năm 2879 trước Công nguyên (TCN) đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê (1428-1879). Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697, được xem là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất c̣n tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn.

    Về chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu, Đại Việt sử kư toàn thư chép như sau: “ Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng ngh́n trượng, cuốn tṛn như h́nh con ốc, cho nên gọi là Loa Thành (Nay c̣n di tích ở huyện Đông Anh, Hà Nội), lại có tên là thành Tư Long (người nhà Đường gọi là thành Côn Lôn (Côn Lôn: Tên dăy núi Trung Quốc ở miền Tân Cương - Tây Tạng, v́ thành rất cao). Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mới trai giới khấn trời đất và thần kỳ núi sông, rồi khởi công đắp lại.

    Bính Ngọ, năm thứ 3 (255 TCN), mùa xuân, tháng 3, chợt có thần nhân đến cửa thành, trỏ vào thành, cười mà nói rằng: " Đắp đến bao giờ cho xong! ". Vua mời vào điện hỏi, thần nhân trả lời: " Cứ đợi giang sứ đến ". Rồi cáo từ đi ngay.

    Sáng hôm sau, vua ra cửa thành, quả thấy có con rùa vàng bơi trên sông từ phía đông đến, xưng là giang sứ, nói được tiếng người, bàn được việc tương lai. Vua mừng lắm, để vào mâm vàng, đặt mâm lên trên điện. Vua hỏi về nguyên nhân thành sụp, rùa vàng đáp: " Đó là do tinh khí núi sông vùng này bị con vua trước phụ vào để báo thù nước, nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi có con quỷ, đó là người con hát thời trước chôn ở đấy hóa làm quỷ. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng, đó là dư khí của tinh, phàm người qua lại, ngủ đêm ở đấy, đều phải chết v́ bị quỷ làm hại. Chúng có thể gọi nhau họp đàn lũ, làm cho sụp thành. Nếu giết con gà trắng để trừ tinh khí ấy, th́ thành tự nhiên được bền vững ». Vua đem rùa vàng đến quán ấy, giả làm người ngủ trọ. Chủ quán nói : " Ngài là quư nhân, xin đi ngay, chớ lưu lại đây mà bị họa". Vua cười nói : "Sống chết có mệnh, ma quỷ làm ǵ nổi ? ".

    Rồi ngủ lại quán. Đến đêm nghe tiếng tinh quỷ từ ngoài đến gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng, quỷ không vào được, đến khi gà gáy th́ lũ quỷ tan chạy hết. Rùa vàng xin vua đuổi theo. Tới núi Thất Diệu th́ tinh khí biến mất, vua trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng vua đă chết rồi, gọi người đến để khâm liệm đem chôn. Thấy vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán liền sụp lạy nói: " Ngài làm sao được như thế, tất phải là thánh nhân! ". Vua xin con gà trắng giết để tế. Gà chết, con gái chủ quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi, thấy có nhạc khí cổ và xương người, đem đốt thành tro, rải xuống sông, yêu khí mới mất hẳn.

    Từ đấy, đắp thành không quá nửa tháng th́ xong. Rùa vàng cáo từ ra về. Vua cảm tạ, hỏi rằng: " Đội ơn ngài thành đắp đă vững, nếu có giặc ngoài đến, th́ lấy ǵ mà chống giữ ? " Rùa vàng bèn trút chiếc móng trao cho vua và nói: " Nước nhà yên hay nguy đều do số trời, nhưng người cũng nên pḥng bị; nếu có giặc đến th́ dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn th́ không phải lo ǵ ". Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (có sách chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.

    Các bộ sử sau Đại Việt sử kư toàn thư


    Đại Việt Sử kư toàn thư đă ghi lại câu chuyện như vậy, và các thế hệ sử gia đời sau cũng tiếp nối, ghi lại câu chuyện nhuốm màu thần thoại này một cách tương tự.

    Một bộ sử đồ sộ khác của Việt Nam ra đời hồi thế kỷ 19 là Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương mục do Quốc sử quán Triều Nguyễn (1802-1945) biên soạn chép rằng: “ Tháng ba, Năm Bính Ngọ 255 TCN,Thục An Dương Vương năm thứ 3, đắp xong Loa thành. Vua Thục đắp thành ở Phong Khê, rộng đến ngh́n trượng, xoáy tṛn như h́nh trôn ốc, nên gọi là Loa thành, lại gọi là thành Tư Long ”.

    Đi vào chi tiết, chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu được ghi lại trong bộ sử này không có ǵ khác biệt so với bộ Đại Việt Sử kư toàn thư ra đời cách đó hai thế kỷ. Thế nhưng, có một nét đáng chú ư là các sử gia triều Nguyễn, khi kể lại câu chuyện này, đă ghi rất rơ : Chép theo sử cũ, mà sử cũ cụ thể là sử nào th́ họ không nói rơ. Điều đó muốn nói rằng, dù câu chuyện có nhiều chi tiết hư cấu, nhưng các sử gia này xin chép lại « theo sử cũ » để cho hậu thế được biết.

    Đến bộ Việt Sử Tiêu Án ra đời năm 1775 của Ngọ Phong Ngô Th́ Sĩ, chuyên bàn luận về những câu chuyện lịch sử c̣n nhiều nghi vấn, th́ câu chuyện xây thành Cổ Loa và nỏ thần được ghi lại giống y như chuyện của Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, nhưng cũng dẫn chuyện bằng ba chữ: “ Sử cũ chép…”, và c̣n thể hiện quan điểm rơ ràng về những chi tiết không có thật: “ Việc ma làm đổ thành, có thể tin được không? Phàm vật ǵ trái thường th́ gọi là yêu, yêu khí thắng th́ tất phải có nương tựa vào cái ǵ đó, nhưng mà nương tựa vào con gà và người con gái mà làm đổ được thành, th́ không có lẽ nào ”.

    Năm 1919, Lệ Thần Trần Trọng Kim làm quyển Việt Nam Sử Lược, dành một chương cho Nhà Thục của Thục Phán An Dương Vương, trong đó cũng ghi lại câu chuyện Thục Phán An Dương Vương xây thành Cổ Loa, rồi đến chuyện t́nh Trọng Thủy-Mỵ Châu, với nội dung cũng không có ǵ khác so với Đại Việt Sử Kư Toàn Thư. Tuy nhiên, sử gia Trần Trọng Kim cũng ghi rơ: “ Tục truyền rằng…”, đă cho thấy quá rơ ư của ông.

    C̣n nhiều chi tiết cần khảo cứu thêm


    Không chỉ chuyện xây dựng Loa Thành và chuyện Nỏ Thần mang nhiều chi tiết khó tin, mà đến một số chi tiết trong chuyện t́nh Trọng Thủy-Mỵ Châu cũng c̣n cần phải khảo cứu thêm. Chẳng hạn như chi tiết quan trọng nhất thể hiện sự chung thủy trong mối t́nh này là việc Trọng Thủy nhảy xuống giếng chết để tạ t́nh của Mỵ Châu, cũng c̣n nhiều bàn căi.

    Theo Đại Việt sử kư toàn thư, Trọng Thủy có người con trai là Triệu Hồ, sau này trở thành người nối ngôi Triệu Đà vào năm 137 TCN và qua đời năm 124 TCN ở tuổi 52. Căn cứ vào năm mất và số tuổi thọ được ghi, ta thấy Triệu Hồ sinh năm 175 TCN. Ghi chép của Đại Việt sử kư toàn thư về cuộc đời Trọng Thủy có chỗ không lô-gich: Một mặt Trọng Thủy được xác định chết khi diệt xong Âu Lạc vào năm 208 TCN, thế mà con trai ông lại sinh vào năm 175 TCN, tức sau khi ông mất đến 33 năm. Liệu ông có c̣n người con nào khác chăng? Theo khảo cứu của tác giả bài viết này, th́ sách sử chỉ thấy nói đến người con trai mang tên là Triệu Hồ nói trên của Trọng Thủy.

    Sử kư của Tư Mă Thiên đời nhà Hán được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN cho biết, Nam Việt của Triệu Đà đánh bại Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương vào khoảng năm 179 TCN. Tuy vậy, nếu Trọng Thủy chết theo Mỵ Châu lúc này th́ ông cũng không thể là cha của Triệu Hồ, v́ khoảng cách từ khi ông qua đời tới khi Triệu Hồ ra đời là 4 năm. C̣n nếu như giả thiết năm sinh của Triệu Hồ là 175 TCN là đúng, th́ ta có thể xác định Trọng Thủy c̣n sống ít nhất tới năm 175 TCN chứ không tự sát v́ Mỵ Châu vào năm 208 TCN.

    Mặt khác, qua kết quả khảo cổ mộ Triệu Văn Vương (cháu nội của Triệu Đà, là vua thứ hai của Nam Việt) được khai quật ở Quảng Châu thuộc Quảng Đông Trung Quốc, Triệu Hồ được xác định là người qua đời ở tuổi khoảng từ 35-40 tuổi, không phải là người ngoài 50 tuổi như ghi chép của Đại Việt sử kư toàn thư. Nếu Triệu Hồ mất năm 124 TCN và chỉ sống có 35-40 năm, th́ Trọng Thủy c̣n sống ít nhất tới năm 164 TCN-159 TCN và mất trước năm 137 TCN (năm mất của Triệu Đà), chứ không phải mất vào cái năm đánh bại Âu Lạc 208 TCN, tức cũng không thể nhảy xuống giếng tạ t́nh Mỵ Châu cho được.

    Một chi tiết khác đáng chú ư nữa là, Khâm định Việt sử thông giám cương mục nhà Nguyễn chỉ nhắc tới việc Trọng Thủy lừa Mỵ Châu để phá nỏ thần, rồi theo dấu lông ngỗng mà truy sát cha con An Dương Vương, chứ không nói tới việc Trọng Thủy tự vẫn chết theo Mỵ Châu và cũng không nói tới tuổi thọ của Triệu Hồ.

    Bài học mất nước thời dựng nước


    Đến đây ta có thể thấy rằng, dù có bỏ qua những chi tiết huyền thoại không thể chứng minh, th́ chuyện t́nh Trọng Thủy-Mỵ Châu vẫn c̣n nhiều chi tiết chưa thống nhất. Vậy th́ các sử gia đời trước đă trang trọng chép lại chuyện t́nh đầy nét huyền thoại này với mục đích là để cho hậu thế có thể « ôn cố tri tân », ngẫm nghĩ việc xưa mà rút ra bài học cho cuộc sống hiện tại.

    Cũng cần nói thêm, hẳn không khỏi có những mối nghi ngại khi sử dụng tài liệu truyền thuyết. Thực ra, giới nghiên cứu đă nhiều lần có những phân tích đầy tính thuyết phục về giá trị sử liệu của truyền thuyết dân gian, đặc biệt đối với những giai đoạn lịch sử người Việt chưa có chữ viết như thời Hùng Vương - An Dương Vương. Như vậy, trong các truyền thuyết lịch sử, bao giờ bên trong vỏ bọc hoang đường thần thoại cũng chứa đựng cái cốt lơi chân thực của những sự kiện, những vấn đề lịch sử có thực.

    Vậy th́, khi bỏ qua những chi tiết phép màu, chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu chứa đựng những cốt lơi lịch sử nào ? Ở đây, có hai sự thực lịch sử được phơi bài : Chuyện cái nỏ của người Âu Lạc và chuyện An Dương Vương mất nước.

    Bàn về « nỏ thần » của người Việt, có lẽ v́ người Việt khi ấy sử dụng rất hiệu quả vũ khí tên là « nỏ », bởi thế mà kẻ thù phương Bắc có phần khiếp sợ chăng ?

    Về vấn đề này, sử gia Trần Thị Mai, Phó giáo sư, Tiến sỹ lịch sử Việt Nam, trưởng Pḥng sau đại học Trường Đại học Khoa học xă hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng :

    «Nỏ là vũ khí để săn bắn thú rừng làm nguồn thức ăn. Nỏ là vũ khí để tự vệ khi đi nương, đi rẫy, đi rừng. Nỏ là vũ khí để tự vệ chống xâm lăng. Trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược nhà Tần (214 - 208 TCN) và trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược của Triệu Đà (206-179 TCN), nỏ là ưu thế quân sự của người Việt. Để chống lại đội quân xâm lược của Triệu Đà, tướng sĩ Âu Lạc đă sử dụng nỏ liên châu, một loại nỏ đă được cải tiến có thể bắn được nhiều mũi tên cùng lúc. Nhờ đó, thành Cổ Loa đă được bảo vệ vững chắc trong hơn 20 năm trước sức tấn công của quận đội nhà Triệu. Kết quả khai quật khảo cổ học tại Cổ Loa bởi các nhà khảo cổ học Việt Nam vào năm 1959 đă t́m thấy lẫy nỏ và hơn 10.000 mũi tên đồng, minh chứng cho kỹ thuật chế tác nỏ và khả năng sử dụng nỏ cùng mũi tên đồng của quân dân Âu Lạc thuở ấy ».

    Như vậy, câu chuyện cái nỏ là có thật, « nỏ thần » trong truyền thuyết Trọng Thủy-Mỵ Châu là để chỉ tài dùng nỏ « thần kỳ » của người Âu Lạc. Đó là một thế mạnh quân sự của người Âu Lạc làm khiếp sợ kẻ thù. Và bí quyết của sức mạnh quân sự đó đă bị kẻ thù nắm được, dẫn đến họa mất nước.

    Sử gia Trần Thị Mai tổng kết bài học lịch sử đắt giá này như sau :

    « Nỏ liên châu và mũi tên đồng là có thật. Trọng Thủy là nhân vật có thật, đă từng tham chiến cùng cha của ông là Triệu Đà trên chiến trường Âu Lạc. Tuy nhiên, câu chuyện Nỏ thần và chuyện t́nh Mỵ Châu - Trọng Thủy lại mang đậm chất hư cấu, huyền sử. Người xưa sáng tạo nên những câu chuyện này là muốn nhắc nhở chính ḿnh và hậu thế không bao giờ được quên bài học cảnh giác, nhất là cảnh giác trước những âm mưu xảo quyệt của các thế lực ngoại xâm. Bài học về nàng Mỵ Châu "nỏ thần sơ ư trao tay giặc", về vua An Dương Vương mất cảnh giác nhận giặc làm con rể để đến nỗi "cơ đồ đắm biển sâu" thời nào cũng c̣n nguyên giá trị của nó ».

    Đến đây ta có thể tóm lại rằng, câu chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu để lại cho hậu thế một bài học vô cùng quí giá, đó là « bài học cảnh giác trước kẻ thù xâm lược ». Và như sử gia Trần Thị Mai khẳng định, bài học này thời nào cũng c̣n nguyên giá trị của nó. Bởi thế, bao thế hệ sử gia Việt Nam đă trang trọng chép lại, để cho hậu thế nh́n vào mà « ôn cố tri tân ».

    Để thay lời kết, sau đây xin mượn bài thơ của thi sĩ Tố Hữu, những lời thơ mà mỗi người Việt Nam luôn phải xem là «câu kinh nhật niệm» để tự nhắc nhở ḿnh : Đừng bao giờ chủ quan để mất cảnh giác trước kẻ thù xâm lược.

    " Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
    Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
    Nỏ thần vô ư trao tay giặc,
    Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu ".


    http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/2012...e-thu-xam-luoc

  6. #6
    Dac Trung
    Khách
    Kỷ niệm Chiến thắng Đống Đa - Mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789)




    Vơ Đại Tôn (Danlambao)

    Hôm nay
    Ngày kỷ niệm chiến thắng Đống Đa
    Lừng danh Lịch Sử.
    Chúng tôi, đàn con lưu vong viễn xứ
    Xin cúi đầu lạy tạ Cha Ông.
    Những bậc Anh Hùng bảo vệ núi sông
    Qua chiến tích ngh́n thu dũng liệt.
    Đuổi xâm lăng, rạng ngời trang Sử Việt
    Nét vàng son Tự Chủ giống Rồng Tiên.
    Bành tượng uy nghi tỏa khí hùng thiêng
    Quân thần tốc băng sông vượt suối.
    Hẹn về Thăng Long xô thành bạt núi
    Dựng cao cờ trên đỉnh trời Xuân.
    V́ Tổ Quốc đâu quản ngại gian truân
    Đem xương máu lót đường hoa Đại Nghĩa.
    Tiếng voi đi, ngựa hí, rền vang trận địa
    Lộng tinh kỳ Đại Đế gió bừng say.
    Bắc B́nh Vương uy dũng dáo vèo mây
    Vung thần kiếm oai linh ngời tinh đẩu.
    Đánh cho tan loài Bắc phương thảo khấu
    Diệt cho tàn quân cướp nước xâm lăng.
    Đại Việt ta, nền tự chủ vĩnh hằng
    Không cúi nhục, giữ sơn hà xă tắc.
    Một trận tiến công, quân thù xanh mặt
    Trống Ngọc Hồi thay pháo Tết mừng Xuân.
    Hai trận tiến công, Quân-Tướng hợp quần
    Như vũ băo, đạp phăng thành Khương Thượng.
    Sầm-Nghi-Đống bơ vơ dưới trướng
    Đành sát thân, quân vỡ mật tan hàng.
    Núi Loa Sơn thây giặc máu nồng loang
    Hồn chưa thoát nỗi kinh hoàng khiếp vía.
    G̣ Đống Đa, nơi quân thù tuyệt địa
    Thành mồ chôn, tan vỡ mộng Thanh triều.
    Hai mươi vạn hùng binh với tướng ngạo quân kiêu
    Trong phút chốc phải tan đàn ră đám.
    Trời Bắc phương mây mù ảm đạm
    Quân xâm lăng cởi giáp quy hàng.
    Lũ đuôi sam quỳ lạy kêu van,
    Tôn-Sĩ-Nghị trốn chui về biên giới.
    Thành Thăng Long tinh kỳ phất phới
    Triệu ḷng dân mở hội hoa đăng.
    Một mùa Xuân Chiến Thắng vĩnh hằng
    Trang sử mới trời phương Nam định vị.
    Đến muôn đời, nét vàng son cao quư
    Dành riêng Người Áo Vải đất Tây Sơn.

    *

    Ngày hôm nay
    Cả non sông đang dậy sóng căm hờn
    Mộng xâm lăng từ Bắc phương tái diễn.
    Bản Giốc, Nam Quan, Hoàng Sa đảo biển
    Rừng Tây Nguyên thành sứ quận chư hầu.
    Cộng Sản Việt Nam xin dâng hiến cúi đầu
    Quên sử cũ, v́ đảng riêng toàn trị.
    Chúng tôi đây, nguyện bền gan vững chí
    Dù tha phương xin vẹn giữ Tâm thành.
    Cúi lạy Tiền Nhân từng lẫm liệt uy danh
    Xin dẫn bước cho Toàn Dân quyết thắng.
    Xuân Dân Tộc trời phương Nam rạng nắng
    Hoa Tự Do nở đẹp bước quân hành.
    Cờ Quang Trung lồng lộng giữa trời xanh
    Gương Tự Chủ một thời đang chỉ hướng.
    Quê Hương cội nguồn một ngày mai hưng vượng
    Đàn con về chung máu giữ non sông,
    Dựng lại Mùa Xuân Chiến Thắng giữa Thăng Long !



    Vơ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)




    http://danlambaovn.blogspot.com/2013...t-ky.html#more

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Hăy nh́n xem: « Lửa Từ Bi ».
    By nguoibatcao in forum Tin Việt Nam
    Replies: 391
    Last Post: 31-07-2011, 12:12 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 15-05-2011, 08:19 AM
  3. Replies: 6
    Last Post: 27-12-2010, 03:12 AM
  4. Replies: 2
    Last Post: 02-10-2010, 02:34 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •