Page 2 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 11 to 20 of 58

Thread: Chiến tranh biên giới Việt-Trung

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
    Kinh C. Chen
    Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ




    Lời Cảm Tạ

    Cuốn sách này là kết quả mối quan tâm lâu dài của tôi về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Dù phần lớn cuốn sách này đă viết xong trong mùa hè và mùa đông nhưng cuốn sách là kết quả làm việc liên tục trong nhiều năm. Trong quá tŕnh nghiên cứu, phỏng vấn, viết rồi viết lại, tôi đă được nhiều bạn bè và học giả giúp đỡ. Tôi muốn bày tỏ ḷng cảm ơn của tôi với tất cả mọi người đặc biệt là những người sau đây: Zbigniew Brezeninski của Đại học Columbia, tôi cảm ơn sự giúp đỡ của trong phần nghiên cứu ban đầu. Tôi xin cảm ơn Thomas W. Robinson, Donald S, Zagoria, Michael Y.M. Kau, Hungdah Chiu, William M. Kissam, Joseph Zasloff, William J. Duiker (Hoa Kỳ); Philippe Devillers (Pháp); Pao-min Chang (Singapore); Carlyle A. Thayer (Australia); Feilung Lui, Ming-hsiung Hsu (Đài Loan); Kong-Ja Chang (Triều Tiên); Henry Kamm (New York Times) và Alexander Casella (Geneva) đă góp ư, cung cấp thông tin và tài liệu. Tôi xin cảm ơn những ấn phẩm và sự giúp đỡ của Ủy ban lâm thời Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân Chủ tại Liên Hiệp Quốc. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người sau đây đă giành cho tôi những cuộc phỏng vấn tṛ chuyện. Đó là Hoàng thân Norodom Sihanouk, Ieng Sary (Campuchia); Nitya Phibulsonggram (Phibunsongkhram), Preedee Kasemsup, Lawat Tangthongthawi, Shen Ke-chin, Lin Tien-hsiu (Thái Lan) Chen Ch’ing-li (trước đây ở Việt Nam, hiện nay ở tại Đài Loan); Chang Wen-ho, Nguyễn Văn Châu, Vũ K. Thu (trước ở Việt Nam nay định cư tại Hoa Kỳ); Lo Kau (Hong Kong); và một số “người tị nạn” Trung Quốc và Đông Dương tại Thái Lan, Hong Kong, Đài Loan và Hoa Kỳ, những người đă tṛ chuyện với tôi nhưng không sẳn sàng nêu rỏ danh tính. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Uỷ ban Thái Lan và Indonesia tại Liên Hiệp Quốc đă cung cấp dữ liệu và Bộ ngoại giao Malaysia cung cấp Chính sách Tị nạn Malaysia. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Đại học Rutgers đă tài trợ cho việc nghiên cứu; Học viện Hoover đă hổ trợ và Cô Linda W. Perry đă giúp đỡ biên tập rất tốt. Tôi gửi lời cảm ơn đến vợ tôi Grace và các con tôi đă tích cực khuyến khích và giúp đỡ tôi trong dự án đầy thử thách này.

    Giới Thiệu

    Với qui mô và thương vong chưa từng có, cuộc chiến biến giới ngắn ngủi 1979 là cuộc xung đột quân sự đẩm máu nhất giữa “những người anh em” trong thế giới cộng sản. Có nhiều lư do gây nên cuộc chiến. Mối quan hệ thất thường giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá khứ, xung đột biên giới, yếu tố Liên Xô, vấn đề Campuchia và Hoa Kiều, tất cả đă góp phần quan trọng làm leo thang xung đột. Tuy nhiên, Trung Quốc là nước đă phát động chiến tranh. Bằng cách ồ ạt tấn công Việt Nam, Bắc Kinh muốn đạt được những mục tiêu trong chính sách ngoại giao. Kết quả là, cuộc chiến không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ Việt-Trung mà c̣n c̣n ảnh hưởng sâu rộng đến những hệ quả quốc tế. Vấn đề rất phức tạp và đan xen nhau khi xem xét đến những khía cạnh trong đó, nếu bỏ qua những yếu tố khác, th́ đó là một đánh giá sai lệch hoàn toàn. Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu cuộc chiến 16 ngày này đ̣i hỏi một cuộc nghiên cứu toàn diện gồm cơ cấu chính sách đối ngoại Trung Quốc, bối cảnh, quyết định, bản thân cuộc chiến và sự can dự của quốc tế. Cơ cấu chính sách và bối cảnh cho thấy phạm vi và khuôn mẫu hoạt động ngoại giao-quân sự của Trung Quốc trong quá khứ và tính chất nghiêm trọng trong nhiều vấn đề khác nhau đă dẫn hai nước “anh em” đi đến chiến tranh. Cần có sự lưu tâm đặc biệt vế khía cạnh ra quyết định, chính trị, mô h́nh và tiến tŕnh. Chính trị rất cần thiết dưới sự khôi phục lănh đạo của Đặng Tiểu B́nh, chỉ ra mối liên hệ giữa chính trị trong nước và chính sách ngoại giao dưới h́nh thức tranh giành quyền lực vào thời điểm đó, gồm tranh cải ư thức hệ và tái lập phe phái. Cuộc chiến này được minh chứng khi quyền lực của Đặng Tiểu B́nh càng được tăng cường hơn sau năm 1979 do được ủng hộ bởi ḍng chảy ôn ḥa thông tin từ đại lục ra thế giới bên ngoài. Mô h́nh được xây dựng lên nhằm minh họa quyết định đi đến chiến tranh đă xảy ra như thế nào. Tiến tŕnh h́nh thành do t́nh h́nh trong nước và quốc tế tại thời điểm đó và tính thẳng thắn trong Đặng Tiểu B́nh. Đó là một hoàn cảnh hiếm thấy. Bàn luận về sự dính líu quốc tế là đánh giá sâu rộng ảnh hưởng của nhiều vấn đề quốc tế khác nhau. Tầm quan trọng về hậu quả của cuộc chiến hạn chế này có thể đo lường bằng mối quan hệ đối nghịch giữa Việt Nam- Trung Quốc hiện nay, vấn đề Trung-Xô chưa được giải quyết, t́nh trạng phức tạp của Campuchia và sự gia tăng ảnh hưởng Liên Xô tại Châu Á. Những vấn đề này tạo ra một thách thức vớí Hoa Kỳ. Những nhà nghiên cứu về cộng sản thường gặp khó khăn về sự khan hiếm tài liệu để phân tích và diễn giải. Thậm chí khó khăn hơn nửa là việc tiếp cận thông tin về những người làm chính sách và qui tŕnh đưa ra quyết định. Điều này xảy ra trong sự kiện Trung Quốc can dự vào Chiến tranh Triều Tiên và xung đột biên giới. Từ năm 1949, Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ tất cả thông tin, bề ngoài là để bảo vệ bí mật nhà nước. Người ngoài kể cả những nhà nghiên cứu về Trung Quốc gần như không thể tiếp cận được bất kỳ thông tin nào ngoại trừ những thông do chính phủ công bố. Người nghiên cứu phụ thuộc rất lớn và những thông tin không chính thức c̣n giới hạn. Tuy nhiên, trong cuộc chiến 1979 đă có ít nhiều sự khác biệt. Chiến dịch bất ngờ và ngắn ngủi nhằm “giải phóng” suy nghĩ nhân dân kéo dài từ 1977-1979 đă khuyến khích nhiều thông tin truyền miệng. Đây là chiến dịch Đặng Tiểu B́nh phát động nhằm chống lại phe cánh chính trị của Mao Trạch Đông và vai tṛ lănh đạo của Hoa Quốc Phong. Chiến dịch này cũng làm gia tăng việc tiết lộ một số bí mật nhà nước từ đại lục đến Hong Kong và những khu vực ngoại vi. Sự tiết lộ này rất quan trọng đối với người bên ngoài, đặc là những nhà nghiên cứu học thuật. Bằng cách thức lựa chọn nghiêm túc, tôi đă đưa vào cuốn sách nhiều tài liệu có được từ các cuộc phỏng vấn và thông tin thu tập tại Hong Kong và những nơi khác. Đây là những thông tin rất hữu ích. Niềm tin của tôi vào những nguồn thông tin này được cũng cố vững chắc sau khi tôi đọc ba cuốn hồi kư quan trọng là Giữ vững Niềm tin (Keeping Faith) của Jimmy Carter, Quy tắc và Quyền lực (Power and Principle) của Zbigniew Brzezinski và Lựa chọn Khó khăn (Hard Choices) của Cyrus Vance về đàm phán giữa Đặng Tiểu B́nh và chính quyền Carter vào đầu năm 1979 về kế hoạch chống Việt Nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nghiên cứu của tôi về nguồn gốc cuộc chiến của Đặng Tiểu B́nh gần như hoàn tất vào tháng 12 năm 1980, trong khi ba cuốn hồi kư này xuất bản vào năm 1982 và 1983. Sự giống nhau đáng lưu ư giữa thông tin về Đặng Tiểu B́nh và thông tin tại Hong Kong với một ít khác biệt, không chỉ xác nhận giá trị của thông tin truyền miệng và thông tin bị tiết lộ mà c̣n chứng tỏ Đặng Tiểu B́nh là người đứng trong việc đưa ra quyết định cho cuộc chiến. Điều này cũng cho thấy quyết định phát động chiến tranh có thể được xem là quyết định của Đặng Tiểu B́nh và cuộc chiến chính là cuộc chiến tranh của Đặng Tiểu B́nh. Hai lĩnh vực nghiên cứu khác là mô h́nh quan hệ Việt-Trung và mức độ kiểm soát khủng hoảng của Trung Quốc. Về khía cạnh lịch sử, cuộc chiến 1979 là một gia đoạn trong mối quan hệ lịch sử lâu đời giữa Việt Nam và Trung Quốc và cho thấy mô h́nh trong quan hệ giữa hai nước. Tác giả đă phân tích mô h́nh trong công tŕnh nghiên cứu trước đây là cuốn sách Việt Nam-Trung Quốc 1938-1954. Khi Trung Quốc c̣n mạnh, thân thiện và hào hiệp, Việt Nam tôn trọng, hợp tác và noi gương Trung Quốc. Khi Trung Quốc bị phân chia và hoảng loạn, Việt Nam hưởng được độc lập và tự do hơn và khi Trung Quốc tấn công,Việt Nam sẽ kháng cự. Trong mối quan hệ một ngàn năm với Trung Quốc, Việt Nam chứng minh cho thấy là một dân tộc anh hùng và độc lập. Nhưng quan hệ đồng minh Việt-Xô gần đây đă làm phức tạp mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Trong mức độ nhất định, điều này cũng làm lu mờ vị thế hoàn toàn độc lập của Việt Nam mà Hồ Chí Minh đă chiến đấu rất gian khổ mới giành được. Trong khi mô h́nh quan hệ không thay đổi th́ những yếu tố thiết lập nên mô h́nh quan hệ đă bắt đầu đổi thay. Biến chuyển này là ví dụ cho thấy lợi ích dân tộc và chiến lược đă làm lu mờ ràng buộc chung về ư thức hệ cộng sản. Nếu quan hệ đồng minh chiến lược Việt-Xô trở nên vững chắc như Hiệp ước Warsaw, điều khó xảy ra hiện nay, th́ mô h́nh quan hệ Việt-Trung sẽ trải qua những thay đổi lớn. Việc quản lư khủng hoảng của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa là một vấn đề của sự gia tăng lợi ích. Nhiều nhà nghiên cứu đă bàn luận về vấn đề này, nhưng vẫn chưa đưa ra được một cơ cấu cụ thể để phân tích mức độ và cách thức quản lư khủng hoảng của Bắc Kinh. Trong nỗ lực nhằm đáp ứng nhu cầu này, tôi tŕnh bày trong công tŕnh nghiên cứu này một cơ cấu gồm 6 thành phần khủng hoảng và hệ thống xếp hạng. 8 cuộc khủng hoảng trong quá khứ (trước cuộc chiến 1979) được sử dụng để lập ra tiêu chí đánh giá mức độ và cách thức quản lư của Bắc Kinh. Kết quả là bản cơ cấu cho thấy không chỉ được áp dụng trong chiến tranh 1979 và những cuộc khủng hoảng khác của Trung Quốc mà c̣n cả những cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh Thế giới lần Thứ hai. Trong quá tŕnh nghiên cứu mức độ can dự vào khủng hoảng của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, vấn đề về “chiến tranh giới hạn” và “chiến tranh nhân dân” được nêu ra vào từng thời điểm. Cỏ vẻ như, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa đă tiến hành chiến tranh giới hạn trong tất cả những cuộc khủng hoảng từ 1949 đến 1978, ngoại trừ cuộc xung đột Triều Tiên. Tuy nhiên, Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa không thể thực hiện chiến tranh chống lại Việt Nam vào năm 1979 như dự định và như những ǵ mà họ đă làm trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản trong giai đoạn 1937-1945. Lư do chính là những điều kiện của một cuộc chiến tranh nhân đă không có tại Trung Quốc, những điều kiện này đ̣i hỏi tiêu chí về một ư thức chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ và sự tham gia rộng lớn của quần chúng nhân dân. Ngược lại, Việt Nam có khả năng chống chiến tranh giới hại của Trung Quốc năm 1979 không chỉ v́ vấn đề chiến lược mà c̣n v́ Việt Nam có những điều kiện để thực hiện. Cuối cùng, một điểm nhận xét cần phải nêu ra đây là trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế trước đây, Trung Quốc đă hoán đổi giữa việc sử dụng những biện pháp ḥa b́nh và quân sự. Bắc Kinh đang đấu tranh thực hiện chương tŕnh hiện đại hóa. Chương tŕnh này đ̣i hỏi phải mất 3 đến 4 thập niên mới đạt được và một môi trường ḥa b́nh trong nước và quốc tế là điều kiện tiên quyết để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao này. Nếu những nhà hoạch định chính sách Bắc Kinh không nhận thức đầy đủ điều kiện thiết yếu đó trong thời điểm quan trọng này và áp dụng những biện pháp quân sự vào các vấn đề quốc tế và trong nước như đă làm định kỳ từ 1949, th́ cơ hội hiện đại hóa có thể sẽ trôi qua. Để tránh nhầm lẫn, cần phải lưu ư về việc chuyển từ ở đây. Đối với tài liệu của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa, tôi sử dụng Pinyin c̣n với tài liệu của Đài Loan, tôi sử dụng phương pháp phát âm tiếng Quan Thoại bằng kư tự Latinh (Phương pháp Wade Giles).

    Phần 1

    Cơ Cấu Chính Sách Ngoại Giao Bắc Kinh

    Trước khi bàn đến cuộc chiến Trung-Việt 1979, cần phải thiết lập ra một bộ khung để phân tích. Bắc Kinh đă đưa ra kế hoạch thực hiện “cuộc phản công tự vệ” chống Việt Nam, nên vấn đề cần phải được phân tích bằng việc hướng vào cách tiếp cận của Trung Quốc. Theo cách thức đó, chính sách ngoại giao Bắc Kinh có thể là cơ sở để phân tích vấn đề phức tạp này.

    Chính phủ CHND Trung Hoa chưa bao giờ lư giải một cách rơ ràng chính sách của ḿnh. Điều đó tồn tại khi chúng ta diễn giải phản ứng quốc tế của Trung Quốc. Đó là một nền tảng lư thuyết chỉ đạo chính sách đối ngoại của Trung Quốc. V́ thế, lư thuyết và thực tiễn sẽ mang lại nền tảng cho cơ sở phân tích. Một cách lư giải cô đọng và súc tích là cần thiết.

    Nền tảng Lư thuyết

    Về lư thuyết, chính sách ngoại giao Bắc Kinh thiết lập từ triết lư đối ngoại truyền thống của Trung Quốc, ư thức hệ cộng sản, cơ sở chiến lược và lợi ích quốc gia. Những yếu tố này biểu hiện rất rỏ nét khi đặt vào bối cảnh quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam.

    Theo truyền thống, quan hệ đối ngoại Trung Quốc bắt nguồn từ khái nhiệm “Thiên tử”. Biện minh cho quyền lực này, những triều đại của Trung Nguyên xem Trung Quốc là trung tâm của thế giới và những nước bên ngoài chỉ là những nước láng giềng man rợ. Trung Hoa thiết lập quan hệ với những nước này thông qua qui tắc cống nạp-thể chế quan hệ ngoại giao duy nhất. Sau một thời gian dài thực hiện, Trung Hoa xây dựng uy quyền bằng đô hộ chính trị và vượt trội văn hóa. Mặc dù, những cuộc nổi dậy quân sự đôi khi cũng diễn ra, nhưng chúng chỉ là những cuộc nổi dậy theo yêu cầu của lân bang hoặc để duy tŕ qui tắc cống nạp. V́ thế, chính sách này thực hiện nhằm mang lại lợi ích về chính trị, văn hóa và chiến lược cho Trung Quốc.

    Trong khi loại trừ được những cường quốc hùng mạnh khác trong khu vực, sự thống trị về chính trị cũng làm cho Trung Quốc bị cô lập chính trị. Để duy tŕ vị trí thống lĩnh tại Châu Á, Trung Quốc đă thực hiện theo qui tắc truyền thống là: “khen thưởng người vâng lời và trừng trị kẻ chống đối”. Chính sách thưởng phạt này áp dụng trên toàn bộ khu vực Châu Á, từ Triều Tiên tới Annam (Việt Nam) cho đến Nepal, và hầu hết đều rất thành công.

    Nhưng t́nh h́nh đă thay đổi sau khi những cường quốc Tây phương xuất hiện. Anh, Pháp, Đức, Nga và thậm chí cả Nhật Bản đều đ̣i hỏi ảnh hưởng trên toàn Trung Quốc. Trung Quốc trở nên yếu kém và nhục nhă. Cơ chế triều cống chấm dứt từ cuối thể kỷ 19 cho dù lợi ích của Trung Quốc tại Châu Á vẫn không thay đổi.

    Sau khi thành lập chính quyền tại Bắc Kinh năm 1949, Trung Quốc xác lập lại chủ nghĩa dân tộc cũng như khẳng định lại vị trí của ḿnh tại Châu Á. Trong số những tuyên bố của Bắc Kinh th́ một trong những biểu hiện rơ nhất đó là bài xă luận đăng trên báo Trung Quốc trong thời kỳ diễn ra Hội nghị Geneva về Đông Dương 1954. Bài xă luận tuyên bố một cách kêu ngạo rằng Chu Ân Lai, trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc tại Hội nghị Geneva, không phải chỉ nói cho “500 triệu người Trung Quốc” mà c̣n nói cho “toàn bộ những người yêu chuộng ḥa b́nh tại Châu Á”. Bắc Việt mù quáng lập lại điều này một cách rất tích cực và cho rằng “không có Trung Quốc th́ không thể nào giải quyết được vấn đề của Châu Á, không có Trung Quốc th́ sẽ không thể có giải pháp giải quyết những mối quan hệ quốc tế”. Việt Nam rỏ ràng đă chấp nhận vai tṛ lănh đạo mới của Trung Quốc tại Á Châu. Từ trước cho đến nay, vai tṛ lănh đạo là yếu tố mà hai quốc gia này hợp tác. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Việt Nam (1964-1975) và Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1965-1976) kết thúc, Trung Quốc phải đối chọi với một Việt Nam ngày càng độc lập và lớn mạnh hơn tại Đông Dương. Cường quốc mới là Liên Xô đă nhảy vào hỗ trợ Việt Nam. Quan hệ Trung-Việt trở nên xấu đi và nhân tố lănh đạo trở thành một yếu tố của xung đột.

    Tuy nhiên, để giữ mối quan hệ “anh em” và truyền thống lâu dài với Việt Nam, Trung Quốc duy tŕ và tránh mở rộng quá mức quyền lực tại Đông Dương cho dù. Về ư thức hệ cộng sản, chính quyền Bắc Kinh tuyên bố hồi năm 1950 rằng chính sách Trung Quốc thiết lập trên nguyên tắc khoa học của Marx, Engel, Lenin, Stalin và kiến thức khoa học của qui luật phát triển xă hội. Trung Quốc gần như diễn giải mọi vấn đề quốc tế theo lư luận biên chứng của Mao, gồm tư tưởng về sự đối lập, khái niệm “khu vực trung gian” và lư thuyết “ba thế giới”. Khi Trung Quốc áp dụng ư thức hệ vào mối quan hệ Việt-Trung, Trung Quốc xem xét đến những mục tiêu chung và sự khác biệt của hai nước.

    Những mục tiêu chung là đấu tranh chống phản động và đế quốc chuyển biến xă hội thành xă hội chủ nghĩa. Trong xác nhận mục tiêu chung, hai bên sử dụng ư thức hệ để tăng cường quan hệ song phương. Tuy nhiên, khi những mục tiêu chung bị lu mờ bởi xung đột lợi ích, cả hai đều diễn giải chủ nghĩa Marx-Lenin theo cách có lợi cho ḿnh. Do đó, Trung Quốc lư luận rằng sự hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô là một công cụ bá quyền nhằm bao vay Trung Quốc và xem cuộc chiến tranh du kích của Pol Pot như là một cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của Việt Nam đối với Campuchia. Ngược lại, Việt Nam cáo buộc Trung Quốc vi phạm tội ác bá quyền bằng việc đàn áp và xâm lược Việt Nam. V́ thế, ư thức hệ cũng được hai bên cũng sử dụng để leo thang xung đột.

    Khái niệm chung về chiến lược và lợi ích quốc gia là hiểu rơ được. Rơ ràng, hai nước đều chấp nhận điều này như là nguyên tắc hướng dẫn thực hiện chính sách ngoại giao. Cả hai đều theo đuổi vấn đề an ninh quốc gia, thống nhất đất nước, chấp dứt can thiệp của ngoại bang, phát triển kinh tế, quyền lực và ảnh hưởng quốc gia. Trong vài trường hợp, sự giúp đỡ lẫn nhau để thúc đẩy các lợi ích này đă tăng cường hợp tác và thống nhất giữa hai nước, như việc Trung Quốc cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam và Việt Nam học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc về cải cách ruộng đất, thương mại và trao đổi văn hóa.

    Tuy nhiên trong quá tŕnh thúc đẩy lợi ích, hai nước cũng chứng kiến nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Mỗi giai đoạn khác nhau cần có những chính sách khác nhau mà thông thường là do ảnh hưởng bởi những thời kỳ và môi trường khác nhau, gồm cả sự can thiệp của những cường quốc bên ngoài. Khi thiết lập nên những chính sách khác nhau, hai nước đi đến đối đầu về lợi ích. Cuộc tấn công Việt Nam 1979 của Trung Quốc là h́nh mẫu trong xung đột lợi ích dưới h́nh thức nghiêm trọng nhất từ 1949. Kết quả là yếu tố lợi ích chiến lược và lợi ích quốc gia cũng trở thành một yếu tố của xung đột.

    Nhưng v́ nhiều lư do khác nhau xung đột lợi ích đă không đi đến đỉnh điểm. Trung Quốc nhận thấy việc tiến hành chính sách chống Việt Nam ở mức độ hạn chế cũng mang lại lợi ích cho ḿnh.

    Thực tiễn

    Để minh chứng cho học thuyết diễn giải chính sách đối ngoại của Bắc Kinh đă nêu ở trên, chúng ta phải đánh giá phản ứng quốc tế của Trung Quốc. Một cuộc khảo sát vắn tắt về sự dính líu của Trung Quốc trong 8 cuộc khủng hoảng trước 1979 sẽ cho thấy mức độ thực hiện chính sách đối ngoại và từ đó hỗ trợ cho cách diễn giải nêu trên.

    Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), 320.000-400.000 quân “t́nh nguyện” Trung Quốc đă chiến đấu quyết liệt chống lại các lực lượng Liên Hiệp Quốc và đẩy lực lượng này lùi về phía nam. Tuy nhiên, quân Trung Cộng không tấn công quân Liên Hiệp Quốc đến tận Pusan. Thay vào đó, họ dừng lại ở khoảng vỹ tuyến 38. Thông điệp đưa ra là rơ ràng: Trung Quốc đă đă “giải cứu” Bắc Triều khỏi bị thống nhất với miền nam bởi quân Liên Hiệp Quốc và bảo vệ an ninh của vùng Măn Châu. Việc quân đội Trung Quốc chiếm đóng Nam Hàn không mang lại lợi ích cho Bắc Kinh, mặc dù họ không bị hạn chế về khả năng.

    Trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương (1950-1954 và 1964-1975), Trung Quốc nỗ lực trợ giúp những người đồng chí tại Đông Dương. An ninh Trung Quốc không trực tiếp bị đe dọa. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều thấy Trung Quốc không cần thiết phải can thiệp quân sự tại đây.

    Các vụ ném bom vào đảo Quemoy và Matsu (1954-1955 và 1958) là những chiến dịch mạo hiểm nhưng rủi ro thấp v́ Trung Quốc không thể nào chiếm được những đảo này với giá thấp. Tuy nhiên, Trung Quốc có khả năng gây ra thiệt hại nặng nề trên đảo, nhất là năm 1958 khi quân trên đảo gần như bị phong tỏa và nhận lệnh không được bắn trả nhằm bảo đảm đạn dược đề pḥng nguy cơ cộng quân bất ngờ đổ bộ lên đảo.

    Trong hai cuộc xung đột biên giới với Ấn Độ vào năm 1959 và 1962, Bắc Kinh chứng tỏ rỏ ràng sự kiềm chế của ḿnh. Sau khi dạy cho Ấn Độ một bài học đau đớn, Trung Quốc không nỗ lực để giành một chiến thắng quân sự to lớn trước Ấn Độ. Việc đơn phương rút quân sau một tháng từ tháng 10 đến tháng 11 năm 1962 rỏ ràng cho thấy phản ứng quân sự của Trung Quốc được tính toán rất kỹ lưỡng và hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát.

    Cuộc chiến biên giới với Liên Xô tháng 3 năm 1969 càng minh chứng thêm sự bất ngờ nhưng có giới hạn trong chính sách của Trung Quốc. Đối mặt với một kẻ thù nguy hiểm và hùng mạnh hơn, năng lực yếu kém và sự tính toán thực tế đă ngăn cản Trung Quốc khỏi việc đẩy xung đột thành một cuộc chiến lớn.

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
    Kinh C. Chen
    Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ

    Phần 2



    Vấn đề xung đột: Viện trợ Trung Quốc, Liên Xô và Campuchia

    Có 5 yếu tố chính dẫn đến cuộc xung đột Trung-Việt 1979 gồm: viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương (1946-1954) và Chiến tranh Việt Nam (1964-1975), can thiệp của Liên Xô, vấn đề Campuchia, tranh chấp lănh thổ và Hoa kiều tại Việt Nam. Một số vấn đề có nguồn gốc xâu xa của lịch sử, nhưng tất cả chỉ trở nên nghiêm trọng ngay sau khi quan hệ Việt-Trung trở xấu đi. Những vấn đề này sẽ được xem xét tại Chương 2 và 3.

    Viện trợ của Trung Quốc

    Để hỗ trợ cuộc chiến lâu dài giành độc lập và hiện đại hóa của Việt Nam, CHND Trung Hoa đă thực hiện nghĩa vụ quốc tế xă hội chủ nghĩa của ḿnh. Khi Trung Quốc viện trợ mà không kèm theo bất cứ điều kiện nào th́ mối qua hệ hai nước tốt đẹp. Nhưng xung đột và khó khăn nảy sinh khi hai bên có lợi ích khác nhau. Trong Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, mối quan hệ xung đột-hợp tác này được xây dựng giữa hai nước.

    Chiến tranh Đông Dương (1946-1954)

    Pháp tấn công Việt Nam tại Hải Pḥng mở đầu Chiến tranh Đông Dương vào tháng 11 năm 1946. Lên kế hoạch tái chiếm toàn bộ bán đảo Đông Dương và được khuyến khích bởi môi trường chống cộng quốc tế trong những năm đầu của thời kỳ chiến tranh lạnh (1946-1947), quân đội Pháp mở cuộc tiến dữ dội chống lại Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh) vào cuối năm 1947. Cuộc tấn công buộc Hồ Chí Minh phải bỏ rơi tất cả những thành phố chính tại miền bắc Việt Nam. Hồ Chí Minh rút quân và tản vào rừng tại khu vực biên giới Việt-Trung. Trong thế trận quân Pháp phía trước và Trung Hoa dân Quốc phía sau, lực lượng của Hồ Chí Minh bị cô lập và không thể hoạt động. Trong giai đoạn này, nhiều quan chức Pháp ở Đông Dương đă tuyên bố sẽ không c̣n có bất kỳ khó khăn quân sự nào tại Đông Dương nữa. Tuy nhiên tài năng xoay sở của Hồ Chí Minh và sự ngoan cường của binh lính đă ngăn chặn Việt Minh đi đến sụp đổ.

    Việt Minh hết sức phấn khởi với chiến thắng của Trung Cộng trước Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1949. Vào tháng 7 năm đó, Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Y Tế chính phủ Việt Minh, đă nói với nhà văn Pháp rằng: “Thành công của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc… báo trước sự chấm dứt chuổi ngày đen tối” của Việt Minh. Tháng 11, Lưu Đức Phổ, trưởng phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị Công đoàn Australia và Châu Á tại Bắc Kinh đă lặp lại tích cực nhất bài phát biểu về mô h́nh cách mạng của Lưu Thiếu Kỳ. Ông nói mô h́nh của Lưu Thiếu Kỳ “phải được xem như là kim chỉ nam cho tất cả công nhân tại Đông Nam Á”.

    Tất nhiên đối với Việt Minh sự thay đổi lớn đă không xảy ra cho đến khi Trung Cộng viện trợ ồ ạt vào năm 1950. Sau chuyến thăm bí mật của Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh vào đầu năm 1950. Bắc Kinh nhanh chóng gửi tướng Trần Canh đến Việt Nam để giúp tổ chức, huấn luyện quân Việt Nam và chuẩn bị cho những chuyến dịch sắp đến. Tronh khi đó, theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Bắc Kinh gửi đến Việt Nam một đoàn cố vấn quân sự do Tướng Vi Quốc Thanh đứng đầu. Một nhóm cố vấn chính trị do La Quư Ba (Lo Kwei-po, cựu đại sứ đầu tiên của Trung Quốc tại Việt Nam) cũng được gửi đến Việt Nam để truyền bá kinh nghiệm của Trung Quốc về kinh tế tài chính, chỉnh đốn cán bộ, tư tưởng, công việc điều hành và huy động quần chúng.

    Trước tháng 9 năm 1950, Vân Nam và Quảng Đông đă giúp huấn luyện và trang bị cho 5 sư đoàn (sư đoàn 304, 308, 312, 316 và 320) và cung cấp hàng ngh́n tấn vú khí. Trước cuộc tấn công năm 1950, Việt Minh được cho là có 250.000 quân chính quy và lính du kích với 30 khẩu pháo binh, 140 súng cối, 230 súng máy và 100.000 súng trường. Sự chuẩn bị cho cuộc chiến đă hoàn thất và với tinh thần rất cao. Quan chức Pháp tại Sài G̣n dự báo vào giữa tháng 8 rằng quân Việt Minh được huấn luyện tốt sẽ sớm tấn công mạnh quân Pháp. Một tuần sau đó, Đài Bắc Kinh cũng đưa ra tuyên bố tương tự.

    Gần một tháng sau lời tuyên bố của Bắc Kinh, Việt Minh phát động một cuộc tấn công dữ dội và được tổ chức tốt chống lại Pháp từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 2 tháng 11. Việt Minh đă “tiêu diệt hơn 10.000 lính Pháp”, phá hủy toàn bộ hệ thống của Pháp từ Cao Bằng đến Lạng Sơn. Khi kết thúc cuộc tiến công, Tướng Vơ Nguyên Giáp đă nói với các sĩ quan của ḿnh: “Từ trận này, chúng ta càng hiểu rỏ hơn sự lớn lao của tư tưởng Mao Trách Đông. Tôi mong rằng tất cả chúng ta sẽ nỗ lực gấp đôi để học tập tư tương này, nhất là học thuyết quân sự của Mao”.

    Sau khi kết thúc chiến dịch 1950, phái đoàn quân sự Trung Quốc tiếp tục giúp Việt Minh tổ chức các chiến dịch như Trung Du (đoạn giữa Sông Hồng, năm 1950), Đông Bắc (1951), Ninh B́nh (1951), Tây Bắc (1952) và Thượng Lào (1953). Việt Minh giành được nhiều thắng lợi. Với sự trợ giúp của cố vấn Trung Quốc, quân đội Việt Minh đă lớn mạnh và cuộc chiến giành độc lộc của họ đă có được điểm tựa. Quân Việt Minh tăng từ 4.000 lên 8.000. Tờ Le Mond tường thuật có khoảng 3.000 đến 4.000 sĩ quan Trung Quốc trong quân đội Việt Minh gồm khoảng 3 đến 4 tướng lĩnh.

    Giữa tháng 12 năm 1953 đến tháng 5 năm 1954, phái đoàn quân sự Trung Quốc giúp quân Việt Nam tổ chức và tiến hành chiến dịch lừng danh Điện Biên Phủ. Theo Bắc Kinh: “Tất cả vũ khí, đạn dược, thiết bị thông tin liên lạc, lương thực và thuốc men sử dụng trong chiến dịch này đều do Trung Quốc cung cấp”. Tại thời điểm quan trọng của trận chiến, Pháp lập lại yêu cầu không quân Mỹ tham gia. Tổng thống Eisenhower từ chối lời yêu cầu nhưng quyết định giữ miền nam Việt Nam là một quốc gia phi cộng sản. Kết quả là Việt Nam đă chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5. Quân Pháp gánh chịu một thất bại chưa từng có. Thất bại này gần như chấm dứt luôn chủ nghĩa thực dân Pháp tại Đông Dương. Nhưng Hoàng Văn Hoan đă chỉ ra rằng: “Nếu không có pháo binh do Trung Quốc gửi sang th́ Việt Nam không thể phá hủy được những cứ điểm quan trọng của quân Pháp và nếu không có sự tham gia trực tiếp của đồng chí Vi Quốc Thanh tại sở chỉ huy tiền phương trận th́ rất khó để đạt được thắng lợi hoàn toàn.” Nh́n chung quan chức quân đội Pháp tại Đương Dương đồng t́nh với nhận định này.

    Nhưng cho đến bây giờ Hà Nội vẫn không thể tin tưởng vào Trung Quốc. Ngay cả với viện trợ dồi dào của Trung Quốc giành cho Việt Minh trong giai đoạn 1950-1954, Hà Nội chỉ đề cập “Trung Quốc là nước cung cấp vũ khí chính cho Việt Nam trong những năm cuối của cuộc chiến tranh chống Pháp”.

    Hội nghị Geneva

    Tướng Henri Eugene Navarre nhận định thời điểm Việt Minh chiếm Điện Biên Phủ, một ngày trước khi Hội nghị Geneva về Đông Dương khai mạc ngày 8 tháng 5 1954, là một phương kế theo “cố vấn của phái đoàn quân sự Trung Quốc”. Hiển nhiên, mục đích là muốn tăng cường sức mặc cả của Việt Minh tại Geneva.

    Những bên tham gia tại Hội nghị Geneva về Đông Dương gồm 9 nước là Pháp, Anh, Liên bang Xô Viết, Cộng ḥa Nhân Dân Trung Hoa, Hoa Kỳ, Bắc Việt (Việt Minh, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa), Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Anh và Liên bang Xô Viết giữ cương vị đồng chủ tịch. Có nhiều vấn đề cần phải giải quyết nhưng những vấn đề trọng tâm là làm thế nào để đạt được một thỏa thuận ngừng bắn trên toàn cỏi Đông Dương và một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Tất cả những nước tham gia chính trừ Hoa Kỳ đă đóng góp đáng kể vào thành công của hội nghị kể cả Trung Quốc và Bắc Việt.

    Tiến tŕnh hội nghị có thể được chia ra làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 20 tháng 6 chủ yếu là để đưa ra đề xuất; giai đoạn thứ hai từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 7 tháng 9 là giai đoạn các bên về nước bàn thảo và giai đoạn ba từ ngày 10 tháng 7 đến ngày 21 tháng 7 là giai đoạn đàm phán cuối cùng.

    Trong giai đọan đầu tiên, điều kiện tiên quyết để ngừng bắn là thỏa thuận để Việt Minh rút lực lượng quân cách mạng ra khỏi Lào và Campuchia. Cùng với đó, Việt Minh cũng cũng đề cập việc tham gia hội nghị của chính quyền cách mạng Pathét Lào và chính quyền Khơme. Tranh căi nổ ra giữa một bên là Việt Minh và bên kia là Lào và Campuchia. Do tranh luận kéo dài nên tiến tŕnh đạt được rất ít ỏi. Nhiều đại biểu phải kiên nhẫn. Ngày 10 tháng 6, Anthony Eden, vị đồng chủ tịch của Anh đe dọa sẽ rời hội nghị nếu không đạt được thỏa thuận trong thời gian ngắn về vấn đề quân Việt Minh tại Lào và Campuchia và về thành phần của đề xuất Ủy ban Quốc tế (sẽ bàn ở phần sau). Sau khi thỏa luận giữa phái đoàn Liên Xô, Trung Quốc và Việt Minh, Chu Ân Lai, trưởng phái đoàn Trung Quốc, đă đến gặp Eden vào sáng ngày 16 tháng 6, một ngày sau khi tạm hoăn đàm phán về Triều Tiên. Chu Ân Lai nói với Bộ trưởng Ngoại giao Anh rằng sẽ thuyết phục được Việt Minh rút quân khỏi Lào và Campuchia và Trung Quốc sẽ công nhận hai chính phủ hoàng gia này với điều kiện là sẽ không có bất kỳ căn cứ nào của Mỹ đặt tại hai vương quốc này. Eden đă có “ấn tượng mạnh rằng Chu Ân Lai muốn giải quyết vấn đề”. Trong cuộc họp kín vào buổi chiều, Chu Ân Lai chính thức yêu cầu Việt Minh rút quân khỏi Lào và Campuchia. Điều này đă được những người tham gia hội nghị khác xác nhận, kể cả trưởng phái đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng. Báo chí Phương tay ca ngợi đây là một bước tiến đạt đến thỏa thuận. Ngày 19 tháng 6, hiệp định ngừng bắn đầu tiên tại Lào và Campuchia đă đạt được và được xem như là một thành công trong giai đoạn đầu.

    Trong giai đoạn hai, các trưởng phái đoàn trở về nước để tham vấn, tuy nhiên có một số sự kiện quan trọng xảy ra bên ngoài hội nghị. Ngày 23 tháng 6 Pierre Mendes gặp Chu Ân Lai tại Bern, Thụy Sĩ. Pierre Mendes là tân thủ tướng Pháp, ông đă dọa sẽ từ chức nếu đến ngày 20 tháng 7 mà thỏa thuận ḥa b́nh tại Đông Dương vẫn chưa đạt được. Cuộc họp làm “xôn xao” giới quan sát nhưng đă đạt được thỏa thuận có tính xây dựng. Thỏa thuận bao gồm đề xuất ngưng bắn tại 3 nước Đông Dương kèm theo một dàn xếp chính trị, đề xuất thống nhất chính phủ tại Việt Nam thông qua bầu cử và Trung Quốc hứa công nhận chính phủ hoàng gia Lào và Campuchia. Sau đó, hầu hết nội dung của thỏa thuận ba điểm này đă được đưa vào Hiệp định Geneva.

    Sau đó, trên đường về nước Chu Ân Lai đă ghé thăm Ân Độ. Chu Ân Lai đă tuyên bố 5 năm nguyên tắc cùng tồn tại ḥa b́nh nổi tiếng với Thủ tướng Nehru. Sau đó, ông đến thăm Myanmar và nhắc lại nguyên tắc 5 điểm với Thủ tướng U Nu. Cuối cùng, Chu Ân Lai, được tháp tùng bởi Hoàng Văn Hoan (sau này là phát ngôn viên của phái đoàn Việt Nam tại Geneva) đă gặp Hồ Chí Minh tại Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7. Hai bên đồng ư phân chia ranh giới Việt Nam theo như thỏa luận trước đây tại Geneva giữa phái đoàn Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam.

    Trong giai đoạn ba từ ngày 10 đến ngày 21 tháng 7, các phái đoàn quay lại Geneva để tập trung đàm phán. Các bên đă thực hiện nhiều thủ đoạn, mặc cả và thỏa hiệp. Việc phân chia ranh giới quân sự tại vỹ tuyến 17 đă đạt được thỏa thuận. Điều này có được thông quan cuộc thảo luận trực tiếp giữa Phạm Văn Đồng và Mendes của Pháp về điều kiện tổ chức tổng tuyển cử trong ṿng 2 năm để thống nhất đất nước. Thời điểm tố chức tổng tuyển cử là tháng 7 năm 1956, 2 năm sau khi thúc hội nghị. Một vấn đề quan trọng khác là thành phần của Ủy ban Giám sát Quốc tế. Đề xuất và trả lời đề xuất của những nước cộng sản và phi cộng sản đều bị các bên kiên quyết bác bỏ. Bế tắc lại nảy sinh. Cuối cùng, ngày 18 tháng 7 Chu Ân Lai đề xuất một uỷ ban ba thành viên, gồm bên cộng sản, Tây phương và nhóm nước trung lập, mỗi nước một thành viên bao gồm Ba Lan, Canada và Ấn Độ. Các bên đă nhất trí chấp thuận đề xuất này. “Từ thời điểm đó”, Eden nhớ lại “sự rối loạn chấm dứt và đàm phán bắt đầu được sắp xếp lại”. Truyền thông Bắc Kinh thúc dục mạnh mẽ những nước tham gia chia sẻ quan điểm thoả hiệp này của Chu Ân Lai.

    Cuối cùng, Hội nghị Geneva đạt được một số thoả thuận gồm: thoả thuận ngừng bắn trên toàn cỏi Đông Dương, thoả thuận phân chia ranh giới Việt Nam tại vỹ tuyến 17, thoả thuận cấm liên minh quân sự của những nước tại Đông Dương, thoả thuận thành lập Uỷ ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế (ICC) và thoả thuận thống nhất Việt Nam thông qua tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956. Trong tuyên bố của Phạm Văn Đồng tại phiên họp kết thúc hội nghị, bài xă luận trên báo Nhân Dân ngày 25 tháng 7 và tuyên bố của Hồ Chí Minh trước đồng bào, tất cả đều hoan nghênh thành quả của hội nghị như là một chiến thắng vĩ đại của Việt Nam và thúc dục nhân dân đấu tranh thống nhất đất nước.

    Ghi nhận viện trợ của Trung Quốc trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Phạm Văn Đồng đă tổng kết vào ngày 3 tháng 8 năm 1954 như sau:

    “Trong suốt 8 năm kháng chiến, nhân dân Việt Nam đă có được sự ủng hộ nhiệt t́nh và sự trợ giúp của nhân dân Trung Quốc, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Chính phủ CHND Trung Hoa…Chúng ta đă học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc về đấu tranh vũ trang, chiến tranh nhân dân, cải cách ruộng đất, cải cách dân chủ và vấn đề kinh tế tài chính trong suốt cuộc kháng chiến. Bằng việc kết hợp giá trị kinh nghiệm của Trung Quốc với điều kiện thực tế đấu tranh tại Việt Nam, chúng ta đă giành được những thắng lợi quân sự to lớn và đạt được những thành quả nổi bật về cải cách ruộng đất, kinh tế tài chính và nhiều lĩnh vực khác”.

    Bản tuyên bố không chỉ dối trá về chiến thắng quân sự mà c̣n dối trá trong việc xác nhận đă đạt được một số thành quả về cải cách ruộng đất và kinh tế tài chính. Như Hoàng Văn Hoàn nêu trong bài viết của ḿnh, phái đoàn cố vấn chính trị Trung Quốc do La Quư Ba đứng đầu đă giúp Việt Nam điều hành công việc kinh tế tài chính, chỉnh đốn tư tưởng cán bộ và những công việc hành chính khác. Nỗ lực này đảm bảo cho thành công của cuộc chiến.

    Tuy nhiên, tinh thần đằng sau tuyên bố hợp tác và ghi nhận giúp đỡ trong cuộc chiến Đông Dương bây giờ đă đổi khác. Việt Nam đă xung đột nghiêm trọng với Trung Quốc. Hà Nội cho rằng sau chiến thắng Điện Biên Phủ nhân Việt Nam có đủ khả năng giải phóng toàn bộ đất nước nhưng Trung Quốc đă ngăn cản Việt Nam thực hiện điều đó. Hà Nội cũng cáo buộc Trung Quốc đă có lập trường khác hoàn toàn so với Việt Nam và giải pháp Geneva là kết quả của sự thông đồng giữa Trung Quốc và thực dân Pháp và sau đó đem áp đặt cho Việt Nam. Cuối cùng, lần đầu tiên Hà Nội cho rằng lănh đạo Trung Quốc đă phản bội cách mạng Đông Dương.

    Dĩ nhiên Bắc Kinh phủ nhận những cáo buộc này. Năm 1979, Hoàng Văn Hoan mạnh mẽ bảo vệ lập trường của Trung Quốc. Hoàng Văn Hoan, phát ngôn viên của Việt Minh tại Geneva, đă bác bỏ cáo buộc của Hà Nội từng điểm một. Ông lập luận rằng tại Geneva, Trung Quốc duy tŕ lập trường tương tự như Việt Nam và Liên Xô và đă có được sự chấp thuận của Hồ Chí Minh trong hầu hết những vấn đề quan trọng. Hoàng Văn Hoan cũng nhạo báng cáo buộc của Lê Duẩn đối với Trung Quốc là một sự ngu xuẩn, v́ nếu cáo buộc của Lê Duẩn là đúng th́ phái đoàn Việt Nam và Liên Xô chỉ là bù nh́n của Trung Quốc.

    Có hai điểm cần phải bàn ở đây. Thứ nhất, một điều không c̣n bí mật nữa đó là phe phái do Vơ Nguyên Giáp đứng đầu trong Việt Minh muốn hoàn thành giải phóng Việt Nam bằng quân sự ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Được thúc đẩy từ chiến thắng lịch sử này, những người ủng hộ muốn tiếp tục cuộc chiến nhưng không cách ǵ để đo lường khả năng chiến thắng, họ cũng không nắm rỏ được xu thế của t́nh h́nh quốc tế.

    Thứ hai, bằng việc vu cáo Trung Quốc thông đồng với thực dân Pháp, Hà Nội đă hoàn toàn ngược đăi hoặc bóp méo xu thế ḥa b́nh thế giới. Trong nguyên cứu của tôi về t́nh h́nh hoà b́nh quốc tế giai đoạn 1953-1954, những phát hiện của tôi cho thấy chính Liên Xô và CHND Trung Hoa v́ sự cần thiết trong nước và quốc tế đă tích cực thúc đẩy ḥa b́nh thế giới. Điều này xảy ra ngay sau khi Stalin qua đời (tháng 3 năm 1953) và phát triển thành một lực lượng không thể chống lại tại Hội nghị Geneva. Nếu Trung Quốc bị quy trách nhiệm thông đồng với Pháp tại Geneva th́ Liên Xô cũng được cho là thông đồng với Trung Quốc trong việc thúc đẩy giải quyết ḥa b́nh Đông Dương. Tuy nhiên, Hà Nội không lên tiếng về Maxtcova.

    Thực chất vấn đề đó là sự hợp tác hay xung đột lợi ích giữa Việt Nam và Trung Quốc.Trước trận Điện Biên Phủ, khi Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam chống thực dân Pháp, hai bên nước đă toàn tâm toàn ư hợp tác. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cả Trung Quốc và Liên Xô đều thúc đẩy ḥa b́nh quốc tế v́ lợi ích quốc gia của ḿnh, trong khi Việt Minh vẫn quan tâm nhiều đến giải phóng toàn bộ đất nước. Khi lợi ích hai bên khác nhau th́ bất đồng nảy sinh.

    Chiến tranh Việt Nam,1965-1975

    Trong số những nguyên dân dẫn đến leo thang Chiến tranh Việt Nam th́ chính sách ngăn chặn của Washington và quyết tâm với nhiệm vụ thiên liêng giải phóng miền nam Việt Nam của Hà Nội đóng vai tṛ nền tảng quyết định cuộc chiến như là một cuộc xung đột không thể tránh khỏi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Cả hai nước dường như không thể và không muốn đảo ngược xu hướng không thể tránh khỏi này, đặc biệt là Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không chính thức tham chiến cho đến khi sự kiện Vịnh Bắc Bộ xảy ra vào đầu tháng 8 năm 1964 bất kể đó chỉ là cuộc đụng độ đôi khi vẫn xảy ra giữa Việt Cộng và quân Hoa Kỳ.

    Ngay sau khi sự kiện này xảy ra, Hoa Kỳ càng leo thang hơn nửa trong cuộc chiến. Trung Quốc gửi một phi đội MIG-15 và MIG-17 đến Hà Nội và bắt đầu xây dựng thêm hai sân bay tại Vân Nam và Quảng Tây để máy bay Hà Nội ẩn náu. Tại thời điểm này, tầm quan trọng trong cuộc chiến với Hoa Kỳ của Hà Nội và chính quyền Sài G̣n xảy ra cùng lúc với Bắc Kinh. Mao Trạch Đông quyết định duy tŕ Hà Nội đi theo cuộc chiến trong khi Nikita Khrushchev bỏ qua Hồ Chí Minh. Mối quan hệ quân sự hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc c̣n nồng ấm và tinh thần chống Mỹ lên cao.

    Sau khi Khrushchev rời bỏ quyền lực vào tháng 10 năm 1964, Liên Xô lại nêu lên lập trường tại Đông Dương. Tuy nhiên, việc Hoa Kỳ ném bom Bắc Việt tháng 2 năm 1965 và chuyến viếng thăm của Thủ tướng Liên Xô Kosygin đến Hà Nội đă làm thay đổi chính sách của Liên Xô với Việt Nam. Cho dù Liên Xô vẫn muốn duy tŕ t́nh trạng bớt căng thẳng với Hoa Kỳ và hy vọng chấm dứt leo thang chiến tranh tại bàn đàm phán, lănh đạo Liên Xô vẫn muốn hỗ trợ Việt Nam nhiều hơn. Song song với đó, Matxcova chịu áp lực của Việt Nam và Trung Quốc phải theo chuyến tuyến quân sự chống Hoa Kỳ.

    Ngay sau khi Kosygin trở về nước, Maxtcova đă đưa ra đề xuất hành động thống nhất về Việt Nam gửi đến Trung Quốc. Đề xuất này gồm: (1) quyền quá cảnh vũ khí Liên Xô qua lănh thổ Trung Quốc; (2) Xô Viết sử dụng một hoặc hai sân bay tại Vân Nam và được quyền đóng khoảng 500 quân tại những căn cứ này; (3) thiết lập một hành lang bay cho Liên Xô bay qua lănh thổ Trung Quốc; (4) cho phép 4.000 chuyên viên quân sự Liên Xô được qua lănh thổ Trung Quốc trên đường đến Việt Nam; và (5) đàm phán 3 bên gồm Liên Xô, Việt Nam và Trung Quốc để thỏa luận chi tiết về đề xuất và những vấn đề trong tương lai. Phạm Văn Đồng ủng hộ đề xuất này. Ngoại trừ việc quá cảnh vũ khí qua Trung Quốc, Bắc Kinh chính thức từ chối tất cả những đề xuất c̣n lại vào tháng 11 năm 1965. Lư do rơ ràng là Mao Trạch Đông muốn tiếp tục chính sách chống Liên Xô và không muốn nh́n thấy chủ quyền Trung Quốc bị xâm phạm.

    Rơ ràng sự khước từ của Bắc Kinh là trực tiếp chống lại Maxtcova chứ không phải Hà Nội, nhưng chính Hà Nội mới là phía phải chịu thiệt hại. Tuy nhiên sau khi bị từ chối, kế hoạch thống nhất vẫn chưa bị hủy bỏ. Maxtcova tiếp tục đưa ra những đề xuất tương tự và một phái đoàn cộng sản Nhật cũng cố thuyết phục Bắc Kinh hợp tác với Maxtcova. Mao Trạch Đông kiên quyết từ chối. Sự không khoan nhượng của Bắc Kinh làm Hà Nội gia tăng oán hận với Trung Quốc.

    Trong hoàn cảnh này, Bắc Kinh phải đề ra chính sách mới với Việt Nam. Cuối năm 1965, Trung Quốc đă định h́nh chính sách cho cuộc chiến. Chính sách này chứa đựng những điểm chính như sau: (1) tăn cường viện trợ kinh tế và quân sự, khuyến khích chiến tranh nhân dân dựa trên cơ sở tự lực. Mức viện trợ trung b́nh khoảng 200 triệu đô la Mỹ một năm với một lượng lớn nhân lực về pḥng không, công binh, xây dựng cầu, đường sắt và hậu cần. Từ 1965 đến 1971, tổng cộng 320.000 quân đă được gửi sang Việt Nam, trung b́nh từ 50.000 đến 60.000 quân một năm; (2) không để xảy ra chiến tranh Trung-Mỹ v́ Việt Nam; Trung Quốc sẽ không tấn công trừ khi bị tấn công. (3) từ chối đề xuất của Liên Xô trừ việc cho phép quá cảnh để vận chuyển vũ khí đến Việt Nam. (4) Không đàm phán ḥa b́nh với Hoa Kỳ, cố vấn để Hà Nội đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng. (5) điều kiện để can thiệp: Nếu Hoa Kỳ đẩy chiến tranh trên bộ đến Bắc Việt và tạo ra mối đe dọa trực tiếp đến an ninh Trung Quốc, Trung Quốc sẽ đáp lời đề nghị can thiệp của Hà Nội.

    Tại thời điểm khi Bắc Kinh đưa ra chính sách này th́ có hai diễn biến quan trọng xảy ra đó là cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc và sự gia tăng can dự của Liên Xô vào Việt Nam. Hai diễn biến này có ư nghĩa lớn đối với cuộc chiến.

    Cách mạng Văn hóa Trung Quốc bắt đầu vào tháng 11 năm 1965 và kéo dài trong một thập kỷ. Vấn đề quan trọng đặt ra là liệu có mối quan hệ nào giữa Cách mạng Văn hóa và Chiến tranh Việt Nam? Câu trả lời là Mao Trạch Đông đă cân nhắc và chuẩn bị gần 10 năm trời trước khi đưa ra chiến dịch chống khuynh hướng tư bản và chủ nghĩa xét lại tại Trung Quốc và Chiến tranh Việt Nam đă xảy ra vào thời điểm đó. Kết quả là sự kiện trước đă có tác động lớn đến sự kiện xảy ra sau.

    Để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế với Việt Nam, lănh đạo Bắc Kinh đă h́nh thành chính sách với cuộc chiến như đă đề cập, trước khi bắt đầu Cách mạng Văn hóa. Mao là một chính trị gia có đầu óc thực tế. Do đó, ông ta cương quyết đặt ra giới hạn viện trợ cho Việt Nam và quyết liệt thúc đẩy xu hướng chống Liên Xô. Mao Trạch Đông đă gửi một thông điệp rơ ràng cho Việt Nam vào tháng 9 năm 1965 thông qua bài viết của Lâm Bưu “Thắng lợi của chiến tranh nhân dân muôn năm”, rằng “cách mạng hay chiến tranh nhân dân tại bất kỳ quốc gia nào đều là công việc của quần chúng nhân dân quốc gia đó và phải được tiến hành chủ yếu bằng chính nổ lực của nước đó; không có con đường nào khác”. Trong lúc đó, Mao lập lại việc bác bỏ đề xuất của Liên Xô. Mao làm như thế v́ ông ta không muốn nh́n thấy một cuốc chiến tranh Triều Tiên lần hai với Hoa Kỳ, mà với điều đó th́ không bên nào thật sự có lợi trừ Liên Xô.

    Nói ngắn gọn, Cách mạng Văn hóa là cuộc đấu tranh lớn nhất trong nội bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kể từ khi thành lập năm 1921. Cuộc cách mạng đă phí phạm cả một thập kỷ xây dựng đất nước. V́ sự phá hoại và tàn phá, lănh đạo Trung Quốc chỉ c̣n chú tâm đến những khó khăn trong nước. Họ dần dần giảm sự chú ư đến cuộc chiến tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc vận chuyển vũ khí của Liên Xô qua Quảng Đông đă bị gián đoạn nhiều lần dù Thông tấn xă Việt Nam, dưới sự cho phép của chính phủ, đă phủ nhận điều này vào ngày 19 tháng 6 năm 1966. Tuy nhiên, tác giả đă t́m ra bằng chứng xác đáng cho thấy hai phe cánh ḱnh địch của Hồng Vệ Binh tại Quảng Đông đă chặn tuyến xe lửa Việt Nam tại Liễu Châu trong ṿng ít nhất 2 tháng (từ tháng 6 đến tháng 7 năm 1968) và đă cướp quân dụng trên xe lửa. Ngay lập tức Chu Ân Lai và những lănh đạo khác của Bắc Kinh đă gửi điện khẩn và gọi điện chỉ thị ngay lặp tức phải văn hồi trật tự. Khi những người này không tuân lệnh, Chu Ân Lai và những viên chức Cách mạng Văn hóa khác đă gọi lănh đạo Hồng Vệ Binh của phe cánh đối địch tại Quảng Đông đến Bắc Kinh và khiển trách nặng nề.

    Tóm lại, Cách mạng Vănn hóa đă hạn chế trợ giúp của Trung Quốc cho Việt Nam trong khi Liên Xô tăng cường viện trợ lên đáng kể. Cuộc cách mạng cũng hủy hoại nặng nề mối quan hệ chung giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sự gia tăng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam không chỉ gắp đôi, gắp ba viện trợ của Trung Quốc mà c̣n bao gồn cả những vũ khí hiện đại như xe tăng và chiến đấu cơ. Quan trọng hơn, Matxcova đă từng bước gia tăng thái độ với Hoa Kỳ về Việt Nam.

    Đầu năm 1967, chính sách của Hà Nội dần dần độc lập hơn khỏi Trung Quốc. Hà Nội lập lại việc đưa ra tín hiệu đàm phán ḥa b́nh vào năm 1967 và 1968. V́ thế, Tổng thống Johnson đă đề xuất đàm phán ḥa b́nh vào ngày 31 tháng 3 năm 1968 sau Tổng tiến công Mậu Thân. Đề xuất này được chấp thuận vào ngày 3 tháng 4. Bắc Kinh xem đây là một động thái bất thường mà Hà Nội tiến hành sau lưng Trung Quốc. Sau đó, Trung Quốc không b́nh luận ǵ về hội đàm Paris trong ṿng 7 tháng. Ngược lại, Bắc Kinh lên án việc Liên Xô xâm lược Czech-Slovakia như là hành động của chủ nghĩa đế quốc. Phát ngôn viên của Hà Nội tại Paris đă xác nhận điều này. Năm 1969, rơ ràng Trung Quốc đă tổn thất tại Việt Nam trong khi Liên Xô đạt được lợi ích.

    Cuộc xung đột biên giới tháng 3 năm 1969 và việc Mỹ bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam vào giữa năm 1969 làm cho Mao Trạch Đông tin rằng kẻ thù tiềm ẩn của Trung Quốc bây giờ đă chuyển từ phía nam lên phía bắc Trung Quốc. Hồ Chí Minh qua đời tháng 9 năm 1969 là cơ hội để Bắc Kinh hâm nóng lại mối quan hệ nguội lạnh với Việt Nam. Chu Ân Lai bay đến Hà Nội để bày tỏ ḷng tôn kính cuối cùng với Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đồng, người có quan điểm ôn ḥa trong quan hệ Việt-Trung, đă có chuyến viếng thăm đáp lễ vào tháng 10 năm đó. Cuộc khủng hoảng Campuchia đầu năm 1970 là một cơ hội khác để Trung Quốc hợp tác với Việt Nam, Lào và Campuchia. Hà Nội rất quan ngại việc Hoa Kỳ và chính quyền Sài G̣n xâm lược Lào từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1971 và đă mời Chu Ân Lai sang thăm từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 3. Trong tuyên bố chung, Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai một lần nửa sử dụng ngôn từ mạnh mẽ để cảnh báo Hoa Kỳ, điều này đă vắng bóng 8 năm nay trong những tài liệu công bố về mối quan hệ Trung-Việt. Bản tuyên bố cho rằng nếu Hoa Kỳ mở rộng chiến tranh tại Đông Dương, Trung Quốc sẽ thực hiện tất cả những biện pháp cần thiết để ủng hộ nhân dân Đông Dương, “không hề do dự thậm chí có phải hy sinh lớn nhất quyền lợi quốc gia ”.

    Trong diễn biến đó, việc Trung Quốc mời Nixon sang thăm viếng tất nhiên là một cú sốc đối với Hà Nội. Giữa chuyến viếng thăm Trung Quốc của Henry Kissinger tháng 7 năm 1971 và chuyến viếng thăm của Nixon tháng 2 năm 1972, Chu Ân Lai đă bay đến Hà Nội hai lần để giải thích. Nhưng lư do Chu Ân Lai đến Hà Nội không phải để thuyết phục giới lănh đạo Việt Nam. Ngay sau khi Nixon trở về Hoa Kỳ đầu tháng 3 năm 1972, Hà Nội tuyên bố Hoa Kỳ là “kẻ thù số 1 của tất cả các nước trên thế giới”. Thậm chí sau khi Liên Xô mời Nixon sang thăm viếng cấp nhà nước vào tháng 5 năm 1972 sau khi Hoa Kỳ đánh bom Hà Nội, cũng không làm thay đổi thái độ của Hà Nội với Matxcova. Việt Nam bày tỏ sự gay gắt với Trung Quốc mạnh hơn so với Liên Xô.

    Cuối năm 1972, quân Hoa Kỳ giảm xuống nhanh chóng bằng việc rút từ 543.000 quân năm 1969 xuống c̣n 24.200 quân. Thương vong cũng giảm xuống từ mức trung b́nh 181 người một tuần năm 1969 xuống khoảng 6 người một tuần năm 1972. Dù trách nhiệm chiến đấu và thiệt hại nhân mạng của Nam Việt Nam gia tăng, nhưng t́nh h́nh chiến sự đă giảm. Tháng 1 năm 1973, chiến dịch ném bom dịp giáng sinh của Hoa Kỳ buộc Hà Nội phải kư hiệp định ḥa b́nh Paris. Trung Quốc tán dương điều này. Bắc Kinh cho rằng bản hiệp định sẽ có “ảnh hưởng tích cực đến việc giảm t́nh trạng căng thẳng tại Châu Á và trên thế giới”. Hà Nội lại không thích điều này. Mặt khác, viện trợ quân sự của Liên Xô gồm những vũ khí hiện đại đặc biệt là tên lửa không đối đất đă bắn hạ ít nhất 50 máy bay B-52 trong kỳ ném bom giáng sinh đă làm cho Hà Nội rất phấn khích.

    Không giống như những nổ lực cho hiệp định Geneva 1954, Trung Quốc không đóng góp ǵ nhiều trong việc kư kết hiệp định ḥa b́nh Paris về Việt Nam năm 1973. Sau khi kư kết hiệp định, chiến tranh giảm bớt. 50.000 chuyên viên quân sự Trung Quốc cũng rút khỏi Việt Nam. Hà Nội sử dụng thời hạn ḥa b́nh chiến thuật này để tăng cường vị thế chính trị và quân sự tại nam Việt Nam. Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Thị B́nh và nhiều lănh đạo Việt Nam khác đă đến Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai để tham vấn. Do có mối đe dọa Liên Xô, lănh đạo Trung Quốc thay đổi mạnh mẽ lập trường thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị Trung-Mỹ và cố vấn cho những đồng chí Việt Nam tận dụng thời gian và chuẩn bị cho thắng lợi cuối cùng. Ví dụ, Mao Trạch Đông đă nói với Lê Duẩn rằng việc giải phóng Nam Việt Nam cần phải được tiến hành theo hai bước. Bước đầu tiên là buộc Hoa Kỳ rút quân, bước thứ hai là phải “giải quyết” vấn đề quân đội của Nguyễn Văn Thiệu “bằng chiến tranh”. Chu Ânn Lai truyền đạt kinh nghiệm Trung Quốc cho Việt Nam: giai đoạn 1945-1947 ĐCSTQ đàm phán với Trung Hoa Dân Quốc; nhưng đến giữa năm 1947 Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bắt đầu phản công và không hề do dự loại trừ quân Trung Hoa Dân Quốc. ‘Việt Nam cũng vậy” Chu Ân Lai nói “nên tận dụng thời gian để chuẩn bị và không chần chừ loại bỏ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu”. Có vẻ như điều mà lănh đạo Trung Quốc đề xuất là hăy đợt đến khi có thời cơ thích hợp để tấn công. Việt Nam muốn nhanh chóng giành thắng lợi cuối cùng. Sự khác biệt chính bây giờ không phải là mục tiêu giải phóng mà là vấn đề thời gian.

    Một số diễn biến mới đă diễn ra tại Hoa Kỳ, ngoài tâm lư phản chiến gây bất lợi cho Nam Việt Nam. Tháng 11 năm 1973, Quốc hội thông qua Đạo luật Quyền hạn Chiến tranh. Đạo luật yêu cầu tổng thống phải thông báo cho Quốc hội trong ṿng 48 giờ khi triển khai quân đội Mỹ ra nước ngoài và buộc tổng thống phải rút quân về nước trong ṿng 60 ngày nếu không được quốc hội chấp thuận. Đây là một giới hạn trực tiếp đến thẩm quyền của tổng thống tại Việt Nam. Tháng 8 năm 1974, Nixon bị buộc phải từ chức do vụ bê bối Watergate. Tháng 9 năm đó, Quốc hội cắt giảm mạnh viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam từ mứic đề xuất 1,5 tỷ đô la Mỹ xuống c̣n 700 triệu đô la Mỹ gồm cả chi phí vận chuyển. Những chuyển biến này được truyền thông Hoa Kỳ loan tải rộng rải trên thế giới.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
    Kinh C. Chen
    Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ

    Phần 3

    Giới lănh đạo Việt Nam đă lưu ư đến những sự kiện này. Giữa tháng 12 năm 1974, Hà Nội sử dụng 8.000 quân tấn công 2.000 quân bảo vệ Phước Long và đă chiếm toàn bộ tỉnh này trong ṿng 3 tuần. Sau đó ngày 10 tháng 2 năm 1975, quân đội Bắc Việt dưới sự chỉ huy của Tướng Văn Tiến Dũng tấn công dữ dội Ban Mê Thuột , một thành phố quan trọng tại cao nguyên. Quân Bắc Việt chiếm Ban Mê Thuột một ngày sau đó. Hôm sau, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và những tướng lĩnh của ḿnh đă đưa ra một quyết định mạnh mẽ và gây ngạc nhiên là rút quân pḥng thủ khỏi Pleiku, Kontum và Dack Lak (tất cả đều là những tỉnh cao nguyên) xuống khu vực ven biển Nha Trang. Lănh đạo Hà Nội nhận ra sự yếu kém trầm trọng của quân lực Sài G̣n và nhanh chóng đưa ra quyết định tổng phản công đánh chiếm Sài G̣n. Như tướng Vơ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng đă viết sau này, Hà Nội kết luận rằng thậm chí nếu Hoa Kỳ có đáp trả lại những đợt tấn công bằng không quân và hải quân, họ cũng không thể “cứu chính quyền Sài G̣n khỏi sự sụp đổ thảm hại”. Ngày 30 tháng 4, Sài G̣n sụp đổ. Chiến thuật tháo lui của Hoa Kỳ làm Mao Trạch Đông ngạc nhiên. Có vẻ như chiến thắng nhanh chóng và toàn diện của Hà Nội làm Bắc Kinh thấy bất ngờ.

    Những thỏa luận trên đây rơ ràng cho thấy đă có một số bất đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh trong khi Trung Quốc vẫn tiếp tục hổ trợ Việt Nam. Bây giờ, Hà Nội cáo buộc Trung Quốc đă có hành vi sai trái trầm trọng chống lại Việt Nam. Hà Nội kết tội Trung Quốc ép buộc Việt Nam phải chấp thuận chính sách kéo dài thời gian chuẩn bị nhằm ngăn chặn Việt Nam tăng cường đấu tranh vũ trang tại miền nam, và bật đèn xanh để Hoa Kỳ xâm lược Việt Nam. Hà Nội cũng cáo buộc Trung Quốc phá hoại đề xuất của Liên Xô, chống đối Việt Nam đàm phán với Hoa Kỳ và ngăn Hà Nội giải phóng hoàn toàn Nam Việt Nam. Hà Nội cũng quy kết Trung Quốc đă đàm phán với Hoa Kỳ sau lưng Việt Nam. Hà Nội một lần nửa kết luận điều này cho thấy lănh đạo Trung Quốc đă phản bội Việt Nam.

    Bắc Kinh đă bác bỏ những cáo buộc của Hà Nội. Bắc Kinh cho rằng từ 1950 đến 1975 Trung Quốc đă viện trợ cho Việt Nam trên 20 tỷ đô la Mỹ. Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc đă gửi hơn 300.000 chuyên viên quân sự sang Việt Nam theo nhiệm vụ luân phiên (cao nhất là 170.000 quân một năm), trong đó 1.000 quân đă thiệt mạng. Trung Quốc cũng tự bào chữa rằng từ đầu đến cuối Bắc Kinh ủng hộ việc giải phóng hoàn toàn Nam Việt Nam. Cuối cùng, Trung Quốc cáo buộc ngược lại rằng lănh đạo Việt Nam vô ơn và đă phản bội quan hệ hữu nghị Việt-Trung.

    Xem xét sự giúp đỡ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam từ 1950 đến 1975 cho thấy Trung Quốc đóng góp nhiều hơn những ǵ mà họ lấy được từ Việt Nam về khía cạnh viện trợ kinh tế, quân sự cũng như nhân sự. Tuy nhiên, việc ủng hộ giải phóng hoàn toàn Việt Nam theo kế hoạch hai bước của Bắc Kinh. Vấn đề đă bị cường điệu v́ hai bên quyết liệt cáo buộc lẫn nhau. Thực ra, xung đột giữa Hà Nội và Bắc Kinh 1978-1979 gần như khác biệt hoàn toàn với thái độ nồng ấm và tán dương của Phạm Văn Đồng với Trung Quốc hồi năm 1954.

    Về khía cạnh lịch sử, tranh căi của Việt Nam về sự giúp đỡ của Trung Quốc thật sự chưa bao giờ xảy ra. Cách ứng xử kịch liệt của tranh cải này chỉ có thể được so sánh với tranh luận của Trung Quốc với Liên Xô vào những năm 1960. Cũng tương tự như tranh chấp Liên Xô-Trung Quốc, một điều rơ ràng là xung đột lợi ích giữa Việt Nam và Trung Quốc đă bị thổi phồng lên bởi hệ tư tưởng gắn chặt của hai bên là chủ nghĩa Mác-Lenin.

    Can dự của Liên Xô

    Nh́n chung, những nhà phân tích chính sách đối ngoại Liên Xô có chung quan điểm rằng về truyền thống Liên Xô không có lợi ích sống c̣n tại Đông Nam Á nếu so với những lợi ích tại Châu Âu. Dù Leonid Brezhnev nhấn mạnh Liên bang Xô Viết không chỉ là một nước Âu Châu mà c̣n là một cường quốc Châu Á. Matxcova luôn luôn xem lợi ích ở Âu Châu là ưu tiên hàng đầu, đặc biệt là tại Đông Âu sau đó mới đến Châu Á. Lợi ích của Liên Xô tại Đông Dương có thể xếp một cách linh động vào vị trí thứ ba hoặc thứ tư. Tuy nhiên, phạm vi quan điểm này đă thay đổi đáng kể từ khi xảy ra Chiến tranh Việt Nam. Có ít nhất hai nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi này đó là sự cạnh tranh của Liên Xô với Hoa Kỳ và sự ḱnh địch với Trung Quốc. Như một chuyên gia đă chỉ ra, cách ứng xữ quốc tế trước đây của Liên Xô không phải lúc nào cũng là chỉ dẫn đáng tin cậy về hành động trong tương lai.

    Việc Liên Xô cạnh tranh với Hoa Kỳ làm cho Matxcova vừa phải căng thẳng trong chi tiêu vừa phải tham gia vào cuộc chạy đua vũ trang. Để chống lại ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á, Liên Xô tăng cường quan hệ với một số nước Á Châu bằng các hiệp ước cam kết. Những hiệp ước này gồm hiệp ước với Ấn Độ (1971), Iraq (1972), Afghanistan (1978), Việt Nam (1978) Nam Yemen (1979) và Syria (1980). Việc Việt Nam liên minh với Liên Xô là phù hợp với chiến lược toàn cầu chống Hoa Kỳ và Trung Quốc.

    Lợi ích của Liên Xô tại Đông Dương

    Xung đột Trung-Xô buộc lănh đạo Liên Xô phải tiến hành bao vay Trung Quốc. Để thực hiện điều này, Maxtcova đă viện trợ về vật chất, thắt chặt ư thức hệ với những đồng chí tại Châu Á và đề xuất hệ thống pḥng thủ chung cho những nước cộng sản và phi cộng sản ở Châu Á. Ngay sau khi Leonid Brezhnev đê ra đề xuất này vào tháng 6 năm 1969, hầu hết những nhà phân tích về Châu Á và Liên Xô cho rằng kế hoạch này nhằm bao vay Trung Quốc và làm suy yếu ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á. Liên Xô nhắc lại tuyên bố và lập luận rằng hệ thống, vốn sẽ bao quát tất cả các quốc gia từ Trung Đông cho đến Nhật Bản, là v́ an ninh, ḥa b́nh, hữu nghị và hạnh phúc của nhân dân Châu Á. Liên Xô cũng hy vọng Ấn Độ, Pakistan và Afghanistan, bắt đầu bằng hợp tác kinh tế, sẽ trở thành trung tâm của hệ thống. Trung Quốc phản ứng với hệ thống này bằng sự coi thường. Như cựu Bộ trưởng Ngoại giao Chiao Guanhua nhận xét: “Thứ nhất, chúng tôi phản đối hệ thống này, thứ hai chúng tôi coi thường nó”52. Bất kể thế nào, chiến dịch quân sự của Liên Xô tại Afghanistan cũng đă gây tổn hại nghiêm trọng đến kế hoạch vốn đă bị nghi ngờ là nhằm chống lại Trung Quốc và Hoa Kỳ.

    Do đó, rơ ràng những mục tiêu chung trong chính sách hiện tại của Liên Xô ở Châu Á là (1) thay thế hiện diện và ảnh hưởng của Hoa Kỳ và Trung Quốc, (2) ủng hộ chủ nghĩa cộng sản bất cứ khi nào có thể, (3) sử dụng được những cảng chiến lược để tăng cường vị thế hải quân đi từ Vladivostok đến Ấn Độ Dương và (4) kiểm soát càng nhiều quốc gia và khu vực càng tốt. Các mục tiêu cụ thể của Liên Xô tại Đông Dương có thể được tóm tắt bằng những điểm sau (1) loại trừ ảnh hưởng của Trung Quốc (và Hoa Kỳ) trong khu vực; (2) sử dụng Vịnh Cam Ranh và những cảng chiến lược khác; (3) ủng hộ và gây ảnh hưởng lên những đảng phái cộng sản và chính phủ ở Đông Dương; và (4) tạo ra những nhà nước Đông Dương phụ thuộc vào Liên Xô (đặc biệt là Việt Nam) bằng việc ḥa phóng giúp đỡ kinh tế và xây dựng quân đội(5)

    Thực hiện theo những nguyên tắc này, Liên Xô đă đạt được thành công đáng kể tại Đông Dương mà Việt Nam là trường hợp nổi bật nhất.

    Sau khi Bắc Kinh từ chối đề xuất của Liên Xô cuối năm 1965, Liên Xô tích cực nâng cao vị thế của Lê Duẩn. Matxcova từng bước thành công trong việc xây dựng Lê Duẩn trở thành nhà lănh đạo mới, mạnh mẽ và thân Liên Xô tại Hà Nội sau Hồ Chí Minh. Câu hỏi làm thế nào Matxcova lôi kéo được Lê Duẩn có thể trả lời bằng những nguyên do chính như sau: viện trợ ồ ạt của Matxcova cho Hà Nội; không có những bất ổn lớn trong nước làm gián đoạn sự ủng hộ của Liên Xô cho Việt Nam, như Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc; Trung Quốc cương quyết ngả về hướn quan hệ hữu hảo với Hoa Kỳ; và Liên Xô muốn dung dưỡng vai tṛ lănh đạo của Lê Duẩn. Kết quả là Lê Duẩn được vinh dự tung hô tại Đại hội lần thứ 23 Đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1966, điều này Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ giành cho Lê Duẩn. Đáp lại, Lê Duẩn tuyên bố Liên Xô là quê thương thứ hai của ḿnh, cụm từ mà Lê Duẩn chưa bao giờ giành cho Trung Quốc. Khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Lê Duẩn xây dựng vững chắc vai tṛ lănh đạo thân Liên Xô tại Hà Nội.

    Sau khi giải phóng Sài G̣n, Matxcova tiếp tục chiến dịch chống Bắc Kinh. Cuối tháng 5 năm 1975, tàu chở dầu Liên Xô lần đầu tiên cập cảng Việt Nam để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cấp thiết cho Sài G̣n, nơi xăng được bán với giá 8 đô la Mỹ một gallon54. Trong lúc đó, Liên Xô tăng cường nhanh chóng ảnh hưởng tại Lào. Cố vấn Liên Xô tăng từ 100 người vào tháng 6 năm 1975 lên khoảng 500 người vào tháng 10 năm đó.

    Với việc kết hợp chương tŕnh kinh tế hàng năm và Kế hoạch 5 năm (1976-1980), Việt Nam đến Trung Quốc và Liên Xô từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1975 để t́m kiếm viện trợ. Vốn không hài ḷng với mối quan hệ gần gũi của Việt Nam với Liên Xô, Trung Quốc chỉ cấp cho Việt Nam một mức viện trợ thông thường vào khoảng 200 triệu đô la Mỹ trong năm 1976. Bắc Kinh không giành khoản viện trợ nào cho Kế hoạch 5 năm. Thực ra, bằng việc gửi thông báo chính thức cho Hà Nội vào tháng 2 năm 1977, Trung Quốc đă không cung cấp viện trợ mới cho Việt Nam từ năm đó.55 Tuy nhiên, hai ngày trước khi kư kết thỏa thuận viện trợ năm 1975 tại Bắc Kinh, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Kiều Quán Hoa đă nói tại Liên Hiệp Quốc vào ngày 27 tháng 9 trong đó ông cáo buộc Liên Xô thu hút ảnh hưởng ở Đông Dương và cảnh báo các nước Châu Á đừng bao giờ “để hổ luồn vào cửa sau trong khi cố đẩy lùi sói ở cửa trước”. Sau khi kư kết thỏa thuận, Lê Duẩn, trưởng phái đoàn Việt Nam tại Trung Quốc, đă vội vă đi Maxtcova. Lê Duẩn cho thấy không cần thiết phải đợi thêm hai ngày nửa để dự kỷ niệm ngày thành lập CHND Trung Hoa ngày 1 tháng 10.

    Tại Maxtcova, Lê Duẩn đạt được một mức viện trợ cực kỳ ấn tượng vào tháng 11 năm 1975. Ba tháng sau người ta mới biết được chi tiết của khoản viện trợ này. Những nhà phân tích Tây phương cho rằng mức viện trợ là 500 triệu đô la Mỹ trong năm 1976 và 3 tỷ đô la Mỹ cho Kế hoạch 5 năm.56 Theo thỏa thuận, Liên Xô sẽ giúp Việt Nam tài trợ cho 40 dự án gồm nhà máy thủy điện, khai thác than, nhà máy chế biến thực phẩm và các dự án khác. Một số phân tích gia cũng nhận xét Matxcova muốn đưa Hà Nội vào Hội đồng Tương trợ Kinh tế (được biết hơn với tên COMECON). Tất nhiên, điều lớn nhất mà Việt Nam phải trả là đứng về chuyến tuyến chính trị với Liên Xô chống Trung Quốc.

    Trong mối giao kết này, mối quan hệ mật thiết giữa hai đảng cộng sản có lẻ là chuyển biến quan trọng nhất giữa Matxcova và Hà Nội sau 1975. Tại Đại hội Đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ 25 vào cuối tháng 2 năm 1976, trưởng phái đoàn Việt Nam, Lê Duẩn không chỉ ca ngợi Liêng bang Xô Viết là “nhà nước xă hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất thế giới” mà c̣n nói nhân dân Việt Nam với sự giúp đỡ của Liên Xô sẽ xây dựng thành công một Việt Nam xă hội chủ nghĩa, ḥa b́nh, độc lập và thống nhất. Đảng Cộng Sản Trung Quốc không gửi phái đoàn đến dự Đại hội Đảng Cộng Sản Liên Xô.

    Quan hệ đảng được thúc đẩy hơn nửa bằng việc tổ chức Đại hội lần thứ 4 Đảng Lao Động Việt Nam tháng 12 năm 1976 tại Hà Nội, đại hội đầu tiên sau chiến tranh. Liên Xô chứng tỏ ảnh hưởng và sự ủng hộ cho Việt Nam bằng cách gửi một phái đoàn quan trọng do Mikhail A. Suslov, Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Liên Xô sang tham dự. Trong bản báo cáo dài tại Đại hội, Lê Duẩn nhấn mạnh Việt Nam sẽ làm tất cả mọi nổ lực “trong khả năng cùng với những nước anh em và quốc tế cộng sản đóng góp vào việc phục hồi và củng cố khối đoàn kết quốc tế”58 Suslov dẫn đầu cuộc diễu hành các phái đoàn cộng sản nước ngoài lên lễ đài và chuyển lời cam kết của Brezhnev rằng “trong nhiệm vụ tái thiết Việt Nam, Đảng Lao Động hăy luôn luôn tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên bang Xô Viết”.

    Dù có tất cả những tuyên bố này, chỉ dấu thật sự quan trọng mà Liên Xô đạt được là thành phần Bộ chính trị mới đầy quyền lực của Đảng Lao Động Việt Nam (sau Đại hội, Đảng Lao Động đổi tên thành Đảng Cộng Sản Việt Nam). Bảng 2.1 tŕnh bày liên minh chính trị mới này.

    Tất cả lănh đạo Việt Nam đều được xem là thân Việt Nam nên cụm từ thân Liên Xô hay thân Trung Quốc chỉ nhằm để thuận tiện trong việc xác định khuynh hướng chính trị của họ trong một thời điểm nhất định.

    Phe cánh chính trị trong Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, tháng 12 năm 1976

    Nhóm thân Liên Xô: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Vơ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh).

    Nhóm thân Trung Quốc: Trường Chinh.

    Nhóm trung lập (ôn ḥa): Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, Vơ Toàn (Vơ Chí Công), Chu Huy Mân.

    Không rơ lập trường: Vơ Văn Kiệt.

    Nguồn: Bản này được soạn ra từ những nguồn tin được biết và những nguồn tin không thật sự rơ ràng bao gồm các tài liệu sau: Nguyên cứu Tài liệu Việt Nam (Viet-Nam Documents and Research Notes), Sài G̣n 1967-1972; Lănh đạo Cộng Sản Việt Nam (Sài G̣n 1972); Vietnam Courier (Hà Nội, 1975-1978); Biểu đồ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Cơ cấu Chính phủ” (Washington DC, tháng 5 năm 1974); Bộ ngoại giao Campuchia Dân Chủ, Sách đen: Việt Nam Xâm lược và Sát nhập Campuchia, Sự thật và Bằng chứng, (Campuchia, tháng 9 năm 1978); và Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, ngày 9 tháng 6 năm 1978.

    Bảng này đưa ra những phân tích sau: (1) lănh đạo thân Liên Xô chiếm đại đa số trong Bộ chính trị do Lê Duẩn đứng đầu là kết quả của những chuyển biến sau chiến tranh. Một số lănh đạo thân Liên Xô như Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh và vài người khác không phải là thân Trung Quốc ban đầu mà là những người ôn ḥa (trung lập) với cuộc đối đầu Xô-Trung. Hoàn Văn Hoan không có tên trong danh sách. Không rơ liệu Liên Xô có gây áp lực để loại bỏ Hoàng Văn Hoan hay không nhưng Hoàng Văn Hoan chính là nạn nhân trong chính sách thân Liên Xô của Lê Duẩn. Nhóm lănh đạo thân Trung Quốc phải chuyển phe cánh để tồn tại, thậm chí Trường chính đă phải trở nên ôn ḥa hơn. Sự thay đổi này cho thấy quyết tâm của Lê Duẩn chống lại sự phản kháng của phe ủng hộ Trung Quốc. (3) Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ duy tŕ lập trường thân Liên Xô đến khi nào Lê Duẩn và thế lực bảo hộ của ông c̣n nắm quyền.

    Trước đại hội, Liên Xô đă tăng cường vị thế trong khi ảnh hưởng của Trung Quốc lại suy giảm. Vị linh mục và là học giả người Pháp rời khỏi Việt Nam sau 1976 đă tận mắt chứng kiến và báo cáo:

    Người Nga đă có mặt và rất hùng mạnh ở miền bắc và truyền h́nh tại Sài G̣n chỉ chiếu toàn những phim tuyên truyền của Liên Xô… Thỉnh thoảng những phim này xuất hiện hai, ba ngày một lần và được “báo chí” gồm những bài xă luận của nhật báo chính thống như tờ Sài G̣n Giải Phóng…Tiếp theo là tin tức quốc tế về “những người anh em Liên Xô và Cuba của chúng ta”, nhưng không hề có tin về Trung Quốc; người ta nghĩ Trung Quốc không hề tồn tại”.

    Sau đại hội, ảnh hưởng của Liên Xô tiếp tục phát triển. Chuyên gia và cố vấn tại Việt Nam ước tính tăng từ 2.000 đến 3.000 vào giữa năm 1977 lên 5.000 đến 8.000 giữa năm 1979. Khi Tướng Vơ Nguyên Giáp thăm Bắc Kinh từ Matxcova đầu tháng 6 năm 1977, ông thậm chí c̣n công khai phản kháng Trung Quốc khi nói Việt Nam “đánh tan đế quốc Mỹ mà không cần phải chống chủ nghĩa xét lại”. Tuy nhiên, cuối năm đó, thời kư hậu Mao, Bắc Kinh đă nhiệt t́nh đón tiếp Tổng thống Josip Tito, cựu lănh đạo theo chủ nghĩa xét lại hiện đại trong thời kỳ Mao.62 Ngày 20 tháng 11 năm 1977, Lê Duẩn dẫn đầu phái đoàn đảng và chính phủ sang thăm Bắc Kinh. Lê Duẩn hội đàm với Hoa Quốc Phong vào ngày 21 và 22. Hoa Quốc Phong nhắc lại vấn đề chống Liên Xô trước đây, nhưng Lê Duẩn đă không đáp lại. Sau đó Lê Duẩn vội vă về nước. Hai bên không đưa ra tuyên bố chung. Truyền thông Việt Nam đưa tin ít ỏi về sự kiện này.63 Dù không đưa ra thông tin chi tiết, nhưng Camphuchia chắc chắn là vấn đề trọng tâm trong nghị tŕnh. Cuộc hội đàm thất bại, chỉ một tháng sau (cuối tháng 12 năm 1977), Campuchia cắt đứt quan hệ với Việt Nam. Tiếp theo sau là một cuộc chiến vi mô lớn, khi Trung Quốc ủng hộ Campuchia, Liên Xô kiên quyết đứng sau Việt Nam.

    Vịnh Cam Ranh và Hiệp ước Việt-Xô

    Quan hệ Việt-Trung xấu đi nhanh chóng vào năm 1978. Đầu tháng 5, Hoa Kiều bị áp lực phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng 5, một tờ báo cộng sản tiếng Hoa tại Hong Kong cáo buộc Liên Xô kiểm soát Hải Pḥng, Vịnh Cam Ranh và xây dựng căn cứ tên lửa gần Hương Khuê trực tiếp chống lại Trung Quốc. Đầu tháng 6, Phó thủ tướng Đặng Tiểu B́nh cho biết Trung Quốc đă cắt viện trợ giành cho Việt Nam.65 Đầu tháng 6, Đặng Tiểu B́nh cáo buộc Việt Nam trục xuất 110.000 Hoa Kiều và tiết lộ Trung Quốc đă viện trợ cho Việt Nam từ 1950 đến 1978 hơn 20 tỷ đô la Mỹ. Sau khi Việt Nam gia nhập COMECON theo dàn xếp của Liên Xô, t́nh trạng căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc gia tăng.

    Cáo buộc trực tiếp giữa Bắc Kinh và Hà Nội trở nên công khai vào tháng 7. Giữa tháng 7, Hà Nội công khai cáo buộc lănh đạo Trung Quốc là những kẻ phản động.66 Sự kiện này có thể được khuyến khích bởi việc Albani chỉ trích Trung Quốc vào ngày 7 tháng 7.67 Cũng trong tháng 7, Lào đă đứng về phía Việt Nam trong cuộc tranh căi với Trung Quốc. Trong khi đó, số lượng cố vấn Liên Xô gia tăng nhanh chóng tại Lào. Vào tháng 8, Việt Nam và Trung Quốc đàm phán về vấn đề người tị nạn nhưng cuộc hội đàm bị đổ vỡ nhanh chóng sau khi hai bên quyết liệt cáo buộc lẫn nhau. Khi đó Phạm Văn Đồng nói với một phái đoàn Hoa Kỳ tại Hà Nội rằng Việt Nam không chỉ muốn ḥa giải với Hoa Kỳ mà c̣n muốn b́nh thường hóa quan hệ giữa hai nước.68 Tuy nhiên 10 ngày sau đó Việt Nam được cho là đă cho phép Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự tại Vịnh Cam Ranh. Bắc Kinh xem động thái này là một sự hợp tác nhằm theo đuổi tham vọng của Liên Xô và Việt Nam: Việt Nam cần Liên Xô ủng hộ để chống lại Trung Quốc và hiện thực hóa cái gọi là “Liên bang Đông Dương”, c̣n Liên Xô th́ muốn có Vịnh Cam Ranh. Bắc Kinh cáo buộc những hoạt động của đế quốc XHCN Liên Xô tại Đông Nam Á là “một phần trong chiến lược toàn cầu của Xô Viết”.(70)

    Việc kư kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam-Liên Xô vào ngày 3 tháng 11 năm 1978 thực sự đă làm leo thang căng thẳng giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Trọng tâm là điều 6 của hiệp ước:

    Hai nước kư kết hiệp ước sẽ trao đổi quan điểm về tất cả những vấn đề quan trọng quốc tế liên quan đến lợi ích của hai quốc gia.

    Trong trường hợp một bên bị tấn công hoặc bị đe dọa tấn công, hai nước kư kết hiệp ước sẽ ngay lặp tức hội đàm với nhau trên quan điểm nhằm loại trừ mối đe dọa đó và sẽ thực hiện những biện pháp thích hợp và hiệu quả để bảo vệ ḥa b́nh và an ninh của hai nước.(71)

    Truyền thông Việt Nam tất nhiên ca ngợi việc kư kết hiệp định là một hành động rất hữu nghị và sẽ gắn kết chặt chẽ vận mệnh của Việt Nam vào Liên Xô và là một sực xác thực về “sự hợp tác và đoàn kết to lớn giữa hai nước xă hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên Trung Quốc đă xỉ vả không thương tiếc bản hiệp ước. Khi sang thăm Thái Lan, Đặng Tiểu B́nh gọi đây là mối đe dọa với hoàn b́nh, an ninh tại Châu Á Thái B́nh Dương và trên thế giới. Theo sau sự lên án của Đặng Tiểu B́nh, báo chí Trung Quốc cáo buộc Việt Nam là “Cuba của phương đông” và lá một tiểu bá hợp tác với nước bá quyền lớn để thiết lập “Liên minh Thần thánh” tại Châu Á và bành trướng ra toàn thế giới.(73)

    Về mặt chiến lược, chúng ta có thể thấy rơ tầm quan trọng trong quan hệ hiệp ước là chuyển biến không thể tránh khỏi khi Liên Xô hiện diện quân sự tại Châu Á. Bắt đầu bằng việc sử dụng Vịnh Cam Ranh, việc mở rộng sức mạnh trên biển của Liên Xô chắc chắn sẽ làm suy yếu vị thế hải quân của Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực74. Hà Nội xác nhận việc cho Liên Xô sử dụng Vịnh Cam vào cuối tháng 3 năm 1979. Lực lượng Xô Viết hoạt động ngoài căn cứ sẽ nằm ngay bên sườn vào đúng điểm yếu của Hạm đội Nam Hải Trung Quốc. Hạm Đội Nam Hải triển khai quân từ những căn cứ chính tại Hoàng Phố, Trạm Giang và Ngọc Lâm. Những đơn vị hải quân Liên Xô cũng sẽ đối trọng với lực lượng không quân, hải quân Hoa Kỳ đóng tại Vịnh Subic và Clark Field tại Philipine. Điều này ảnh hưởng sâu rộng đến sự cân bằng lực lượng trong khu vực, tương lai an ninh và ḥa b́nh sẽ đi xa hơn những ǵ mà Hà Nội có thể trù tính được.

    Tóm lại, yếu tố Liên Xô ảnh hưởng rất lớn đến bản chất của cuộc xung đội Việt-Trung. Nếu không có quan hệ đồng minh Xô-Việt th́ cuộc chiến 16 ngày giữa Việt Nam và Trung Quốc đă không xảy ra. Như đă bàn luận trước đây, Cộng ḥa Nhân Dân Trung Hoa đă hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của ḿnh khi liên tục giúp đỡ Việt Nam từ 1950 đến 1978, nhưng đă không suy luận rằng lănh đạo Bắc Kinh không bao giờ có ư định viện trợ cho Việt Nam để Hà Nội xâm chiếm Campuchia và Lào và rất ít ủng hộ vào đồng minh Xô-Việt chống Trung Quốc.

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
    Kinh C. Chen
    Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ

    Phần 4


    Chiến đấu v́ Campuchia

    Cuộc đối đầu Trung-Việt tại Campuchia không phải đến năm 1975 mới h́nh thành mà thật ra đă có những căng thẳng trước đó. Trong vấn đề này, lợi ích chiến lược, lợi ích quốc gia và nguốn gốc lịch sử một lần nửa đă vượt qua ư thức hệ cộng sản chung và kết quả là đă tạo nên lập trường trái ngược nhau của hai nước về Campuchia.

    Bối cảnh

    Thực tế là trước đây Trung Quốc đă có một số ảnh hưởng tại Campuchia, chính quyền Trung Quốc không thực sự quá lưu tâm đến Camphuchia cho đến năm 1954.75 Như đă đề cập trước đây, tại Hội ghị Geneva Chu Ân Lai đă thuyết phục Pham Văn Đồng tuyên bố rút lực lượng Việt Minh ra khỏi Campuchia, cam kết công nhận chính phủ hoàng gia nhưng yêu cầu không nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Campuchia. Tháng 4 năm 1954, Chu Ân Lai cam kết với Hoàng thân Norodom Sihaniouk tại Hội nghị Bandung ở Indonesia rằng Trung Quốc sẽ luôn luôn ủng hộ sự độc lập và trung lập của Campuchia.(76) Năm 1956, Sihanouk sang thămm Bắc Kinh và Trung Quốc cấp một khoảng viện trợ kinh tế trị giá 22.500.000 đô la Mỹ. Năm 1958, Campuchia thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa. Tiếp theo sau là hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, đường bay Quảng Đông-Phnom Penh, tăng thêm viện trợ (1960, 1965), tăng cường trao đổi văn hóa, thương mại và thêm nhiều chuyến thăm viếng lẫn nhau của Chu Ân Lai, Sihanouk và Lưu Thiếu Kỳ.( 77) Chủ yếu v́ có tin cho rằng Hoa Kỳ dính líu vào cái chết của Ngô Đ́nh Diêm tại Nam Việt Nam nên vào tháng 11 năm 1963 Sihanouk đă yêu cầu phái đoàn viện trợ kinh tế và quân sự Hoa Kỳ phải rời khỏi Campuchia. Chính quyền Trung Quốc ngay lặp tức đưa ra tuyên bố cứng rắn bày tỏ việc hoàn toàn ủng hộ Campuchia chống lại bất kỳ nguy cơ tấn công quân sự nào của Hoa Kỳ.(78) Sihanouk hoan nghênh tuyên bố đó và nói rằng nếu không có viện trợ của Hoa Kỳ th́ Campuchia sẽ nghèo hơn nhưng được tự do hơn. Ông cũng nói thêm rằng “nếu một ngày nào đó Campuchia bị ch́m ngập bởi cộng sản th́ tôi muốn đó phải là Trung Quốc chứ không phải bởi một nước [Bắc Việt] mà sẽ kiểm soát Campuchia, bởi v́ Trung Quốc sẽ duy tŕ toàn vẹn lănh thổ của Campuchia.(79)

    Cuộc đảo chính tháng 3 năm 1970 của Lon Nol tại Campuchia đă thúc giục Đông Dương tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Nhân dân Đông Dương vào cuối tháng 4 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Tạm thời Sihanouk liên minh với lănh đạo Khơme Đỏ, Việt Nam và Pathét Lào v́ sự nghiệp chung chống lại Hoa Kỳ và chế độ Lon Nol. Trung Quốc ủng hộ điều đó. Sihanouk lưu lại Bắc Kinh từ 1970 đến 1975 đóng vai tṛ như lănh đạo bù nh́n của Khơme Đỏ và chính phủ lưu vong. Trong suốt 6 năm đó, Sihanouk đă nhiều lần viếng thăm Việt Nam trên đường đến hoặc từ khu vực du kích Khơme Đỏ. Ngoài ra, Trung Quốc c̣n cấp không vũ khí và vận chuyển đến Khơme Đỏ để chống lại chế độ Lon Nol. Trong khi đó, Khơme Đỏ tiếp tục giành nơi ẩn nấu cho Cộng Sản Việt Nam chống lại Hoa Kỳ trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam.(80) Tuy nhiên, người Khơme không bao giờ thật sự tin tưởng Việt Nam.

    Về mặt lợi ích chiến lược, lợi ích quốc gia và khoảng cách địa lư, có vẻ Trung Quốc đă h́nh dung ra rằng một Campuchia độc lập và trung lập sẽ duy tŕ mối quan hệ hữu nghị với Bắc Kinh. Đó cũng sẽ là một yếu tố đoán đầu ngăn chặn Việt Nam kiểm soát toàn bộ Đông Dương.

    Vào thế kỷ 18 và 19, Campuchia nằm dưới sự ảnh hưởng của Việt Nam ở phía đông và Thái Lan ở phía tây. Khi th́ Campuchia là một nước chư hầu của Việt Nam, khi khác là chư hầu của Thái Lan. Quan hệ theo kiểu cống nạp này đôi khi đă dẫn đến những cuộc xung đột với hai quốc gia xâm lược láng giềng cho tới khi người Pháp đến.82 Sau khi thực dân Pháp kư hiệp ước bảo hộ với Vua Norodom năm 1863, Campuchia vẫn tiếp tục bị mất lănh thổ vào tay Việt Nam. Thực ra, Pháp đă tùy tiện sáp nhập một lượng lớn đất đai nơi chủ yếu là người Khơme sinh sống vào lănh thổ của Việt Nam hiện nay.(83)

    Dựa vào nền tảng này, Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930 đă nhanh chóng mở rộng và đổi tên thành Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD). Tháng 2 năm 1951 tại miền bắc Việt Nam, khi ĐCSĐD tái tổ chức thành Đảng Lao Động, Việt Nam cam kết thiết lập khối đại đoàn kết Việt Nam, Lào và Campuchia. Như đài phát thanh của Hồ Chí Minh đă hứa hẹn: “Đảng Lao Động Việt Nam sẽ gắn kết nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và Campuchia và quyết tâm giải phóng Đông Dương”.(84)

    Ngay sau khi Đông Dương giành lại độc lập từ tay Pháp năm 1954, Sihanouk tuyên bố tiếp tục chủ quyền đối với vùng đất đă bị mất tại Đồng bằng Sông Cửu Long. Đàm phán và trao đổi quan điểm diễn ra trong nhiều đợt nhưng không mang lại kết quả. Trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam, Cộng Sản Việt Nam đă biến khu vực biên giới Campuchia-Việt Nam thành nơi ẩn nấu có lợi ích sống c̣n đối với Việt Nam bất kể Sihanouk có biết hay không biết đến việc này. Năm 1967, Sihanouk yêu cầu Việt Nam tuyên bố tôn trọng biến giới hiện tại của Campuchia. Mặc dù Mặt trận Giải phóng Miền nam Việt Nam đă đáp lại lời yêu cầu này, nhưng sau đó đă diễn giải rằng những tuyên bố đó chỉ là biện pháp trong thời chiến.85 Xung đột nhỏ lẻ giữa Việt Nam-Campuchia bắt đầu từ năm 1970 dưới chế độ Lon Nol, sau đó những cuộc đụng độ đă diễn ra.(86) Từ năm 1970 đến 1975, Việt Nam cũng thi hành nghĩa vụ quốc tế giúp huấn luyện quân đội Khơme Đỏ nhằm giải phóng Phnom Penh.

    V́ thế trong lịch sử, Việt Nam là một thế lực xâm chiếm Đế chế Khơme biến họ trở thành một nước chư hầu. Do sự gần gũi địa lư và quyền lợi, từ lâu Việt Nam đă có kế hoạch thiết lập một đại Đông Dương nằm dưới quyền lănh đạo của Việt Nam.

    Cuộc chiến Campuchia

    Việt Nam biết Campuchia nghi ngờ tham vọng của Việt Nam muốn kiểm soát nhà nước Khơme ngay cả trong những năm hợp tác tốt đẹp nhất (1970-1975). Trong tức giận, tướng Giáp đă nói xúc động nói với Sihanouk: “Bắc Việt chúng tôi là những người cộng sản chân thật, những người luôn giữ lời. Chúng tôi hứa với ngài một cách chính thức và bằng văn bản rằng chúng tôi luôn luôn tôn trọng chủ quyền, độc lập quốc gia và lănh thổ của Campuchia như hiện nay gồm cả những đảo ven biển. Chúng tôi sẽ không bao giờ thất hứa.” (87)

    Có lẻ cả người Việt Nam và Campuchia đề thấy trước bóng đen của xung đột trong tương lai sau khi giành thắng lợi cuối cùng trước Hoa Kỳ và chế độ Lon Nol.

    Khi Khơme Đỏ chiếm Phnom Penh tháng 4 năm 1975, Trung Quốc trở thành người bạn hùng mạnh và đáng tin cậy nhất của Campuchia, Liên Xô bị đối xử như một kẻ thù đáng nghiền rủa. Như lời một phóng viên đă viết lúc đó:

    Bảy người Nga đến đây đă không được trông đợi, họ đứng ngoài Đại sứ quán Liên Xô. Họ liều lĩnh cố gắng giữa liên lạc thân thiện với những nhà lănh đạo mới của Campuchia nhằm đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc.

    Nhưng chính Trung Quốc chứ không phải Nga là người cung cấp vũ khí cho Khơme Đỏ. Cộng sản Campuchia đă khước từ đề nghị của Liên Xô, bắn rocket vào tầng hai ṭa đại sứ, cướp phá ṭa nhà và yêu cầu người Nga đến khu vực của người Pháp.(88)

    Sau đó hoàng thân Sihanouk đă xác nhận bài báo này …Nga sẽ không bao giờ bỏ qua cho Khơme Đỏ v́ sự nhục nhă này.

    Rơ ràng Trung Quốc đă giành thắng lợi tại ṿng đầu trong cuộc chiến tại Campuchia nhưng không phải tại một nước Đông Dương khác, đó là Lào. Là “con đẻ” của Việt Nam, những quyết định quân sự của Pathet Lào đều do Việt Nam đưa ra hoặc có sự chấp thuận của những cố vấn Việt Nam trong các đơn vị Lào. 90 Ngay sau khi giải phóng Nam Việt Nam, Pathet Lào nhẹ nhàng chiếm toàn bộ lănh thổ Lào. Chính quyền cộng sản được thiết lập vào tháng 12 năm 1975. Sau đó Việt Nam và Liên Xô gia tăng ảnh hưởng trong khi ảnh hưởng của Trung Quốc đă suy giảm.

    Trong chuyến viếng thăm đầu tiên đến Bắc Kinh sau khi giành chiến thắng vào tháng 8 năm 1975, phái đoàn chính thức của Campuchia Dân Chủ (Khơme Đỏ) do Phó thủ tướng Khieu Samphan dẫn đầu đă kư hiệp định viện trợ kinh tế không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật với Trung Quốc. Khi đó hai chính phủ đă cam kết đoàn kết chặt chẽ hơn nửa trong sự nghiệp chung chống chủ nghĩa bá quyền. 91 Được Chu Ân Lai thu xếp, Sihanouk được mời trở lại Campuchia vào đầu tháng 9 trong sự hân hoan chào đón. Ông cũng nhận được tuyên bố mạnh mẽ từ Khieu Samphan, Son Sen (sau này là bộ trưởng quốc pḥng) và những lănh đạo Khơme Đỏ khác rằng họ quyết tâm thực hiện “những biện pháp hà khắc nhằm loại bỏ sự hiện diện của Bắc Việt và Việt Cộng tại Campuchia”. (92)

    Tuy nhiên trước đó Sihanouk bất lực nh́n Campuchia chuyển từ một vùng đất tuy lạc hậu nhưng yên b́nh trở thành một quốc gia của giết chóc, nghèo đói. (93) Theo Sihanouk, Chu Ân Lai đă dứt khoát cố vấn cho Khieu Samphan vào năm 1975 về sự cần thiết phải tiến hành “từng bước” đi lên chủ nghĩa xă hội. Tiến tŕnh này sẽ mất nhiều năm thực thi một cách kiên nhẫn, nhưng đó là kinh nghiệm của Trung Quốc. Và chỉ sau đó Campuchia mới tiến lên xă hội cộng sản, Chu Ân Lai kết luận. Ieng Sary xác nhận Chu Ân Lai đă nói về kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc với lănh đạo Campuchia, kể cả Ieng Sary; nhưng Chu đă không nói đủ rơ ràng với người Campuchia hoặc họ đă không suy nghĩ một cách thấu đáo. (94) Trong bất kỳ trường hợp nào, Khieu Samphan và cộng sự đă biến Campuchia trở thành quốc gia đầu tiên thiết lập một xă hội cộng sản hoàn chỉnh mà không phải mất thời gian đi qua những bước quá độ. Đây là một câu trả lời gián tiếp đến Chu Ân Lai. (95) Tuy nhiên sau khi khó khăn nảy sinh, họ đă nhờ Trung Quốc giúp đỡ để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng nặng nề là hiện đại hóa và xây dựng một Campuchia đang rơi vào hoảng loạn. Trung Quốc cử một phái đoàn do Phương Nghi dẫn đầu đến Phom Penh vào tháng 12 năm 1976. Những ǵ mà người Trung Quốc t́m thấy là dân chúng đang kiệt quệ, một đất nước không có chuyên gia kỹ thuật hay nhà khoa học và một quân đội không có sỹ quan thấu hiểu về toán học hay kỹ thuật. Trung Quốc cũng thấy thật khó khăn để tuyển mộ và huấn luyện người Campuchia vận hành những nhà máy, phụ trách pháo binh, những sư đoàn thiết giáp và đặc biệt là không quân. Như Sihanouk đă viết một cách thẳng thắn, “Trong suốt cuộc chiến Việt Nam-Campuchia, thậm chí trong năm 1978, không một chiến đấu cơ MIG Trung Quốc nào hoạt động”. (96) Khắp nơi đều rơi vào hoảng loạn. Mỗi nơi là một vương quốc hoạt động theo việc của riêng vương quốc đó. Đó là một thảm họa quốc gia. Cuối cùng vào năm 1980 Phó thủ tướng Ieng Sary đă thừa nhận sai lầm nghiêm trọng này dưới chế độ Pol Pot. Như ông ta đă nói với tác giả: “Chúng tôi đă tiến hành quá nhanh. Chúng tôi đă mắc sai lầm về chính trị. Chúng tôi không có cơ hội để suy nghĩ đầy đủ về tổ chức nhà nước và chúng tôi có rất ít kinh nghiệm”. (97) Đối với người bên ngoài, lời tuyên bố của ông ta có vẻ như chỉ là lời xin lỗi về tội ác tàn sát của Pol Pot đối với người Campuchia.

    Trong gia đoạn 1975-1978, chế độ Khơme Đỏ nhiều lần yêu cầu quân Việt Nam rút khỏi Campuchia. Một cách miễn cưỡng, Việt Nam chỉ rút quân đến biên giới Việt Nam-Campuchia. Yêu cầu rút quân đưa ra v́ người Khơme không bao giờ ngừng xem Việt Nam là “Kẻ Thù Số Một” của họ, thậm chí trong cuốc chiến tranh chống Mỹ. Thực ra, lănh đạo Hà Nội đă xem xét việc can thiệp quân sự vào Campuchia từ 1970-1972. (99)

    Hoàn toàn biết được chủ nghĩa dân tộc và ư thức độc lập của người Campuchia nhưng bực bội trước yêu cầu rút quân của Khơme Đỏ, Việt Nam cảm thấy họ phải đứng ngang hàng với người Khơme. Thứ nhất, Việt Nam cho rằng Campuchia giành được độc lập là nhờ sự giúp đỡ của Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần phải được đối xử như “những người anh lớn”. Nhưng Campuchia lại lập lại yêu cầu Việt Nam rút quân. Thứ hai, Việt Nam rất không hài ḷng khi Khơme Đỏ thanh lọc hơn 4.000 quân do Việt Nam huấn luyện vào năm 1976. Theo Hoàng Hoa và Canh Bưu, thành phần của Quân đội Giải phóng Campuchia cực kỳ phức tạp, một số xuất thân từ binh lính hoàng gia, một số do Trung Quốc huấn luyện, số khác do Khơme Đỏ tổ chức và vẫn c̣n một số do Việt Nam đào tạo. Sau giải phóng, lănh đạo Campuchia đă giải tán một số đơn vị, bắt giữ và thanh trừng nhiều phần tử, trục xuất nhiều thành phần có thể gây rối và tái tổ chức các lực lượng c̣n lại. Do đó đă thanh lọc được hàng ngũ và tăng cường khả năng chiến đấu. Hầu hết quân do Việt Nam huấn luyện đều bị hành h́nh hoặc bỏ tù.(100) Thứ ba, Việt Nam khó chịu với cách đối xử của Khơme Đỏ đối với những nhà ngoại giao Nga tại Phnom Penh vào năm 1975 như đă đề cập lúc trước. Thứ tư, Việt Nam không đạt được một tiến tŕnh nào trong việc đàm phán với Khơme Đỏ của Campuchia, giống như với Lào, về khối đại đoàn kết Đông Dương (cách nói trại của “Liên bang Đông Dương”). Thứ năm, Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ Campuchia, chống đối và tăng cường quấy rối Việt Nam. Tồi tệ nhất là đụng độ quân sự tại biên giới diễn ra nhiều lần làm gia tăng căng thẳng giữa hai nước. Nhằm giải quyết khó khăn, cuối cùng Lê Duẩn và cộng sự đă thiết lập một chính sách mới đối với Campuchia.

    Công thức của Việt Nam: Những mối quan hệ đặc biệt

    Tại Đại hội 4 Đảng Lao Động Việt Nam tháng 12 năm 1976, Cộng Sản Việt Nam đă đưa ra nhiều quyết định quan trọng. Họ quyết định thực hiện Kế hoặch 5 năm lần thứ hai, đổi tên đảng thành Đảng Cộng Sản Việt Nam và xây dựng công thức về mối quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia. Như Lê Duẩn đă nêu ra trong báo cáo chính trị của ḿnh:

    Nỗ lực bảo vệ và phát triển quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và Campuchia, tăng cường đoàn kết chiến đấu, tin tưởng lẫn nhau, hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau trong tất cả mọi lĩnh vực giữa nước ta với các nước Lào và Campuchia anh em trên nguyên tắc hoàn toàn b́nh đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích hợp pháp của nhau để ba nước gắn kết hơn nửa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.(101)

    Công thức này được tiến hành bằng đàm phán ḥa b́nh nếu có thể hoặc cưỡng bức bằng quân sự nếu cần thiết. Trong trường hợp với Lào, mối quan hệ đặc biệt đă sớm được thiết lập. Hai bên đă kư kết hiệp ước hữu nghị và hợp tác có thời hạn 25 năm vào ngày 7 tháng 7 năm 1977, cùng với hiệp ước viện trợ, hiệp định biên giới và tuyên bố chung.(102) Phái đoàn Việt Nam do Lê Duẩn dẫn đầu cũng ḥa phóng hứa hẹn với Lào sẽ mở cửa hải cảng trước đây tại Đà Nẳng, cách Sài G̣n 370 dặm, để hoạt động ngoại thương. Tháng 9 năm đó, Bộ trưởng Quốc pḥng Lào Khamtai Siphandon dẫn đầu một phái đoàn đến Hà Nội. Ông đă bày tỏ ḷng kính trọng đối với binh lính Việt Nam đă chiến đấu tại Lào trong Chiến tranh Việt Nam và cho rằng quân đội Lào và Việt Nam đang tăng cường liên kết trong chiến đấu, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong tất cả mọi lĩnh vực.(103)

    Theo Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia, phái đoàn Đảng Cộng Sản Campuchia đề xuất đàm phán vấn đề biên giới và kư kết hiệp ước hữu nghị và không xâm lược với Việt Nam. Tuy nhiên đàm phán đă không mang lại kết quả.(104) Sau đó hai bên cũng không có liên lạc nào. Thay vào đó, những năm sau chiến tranh gần như chỉ có xung đột biên giới và sự cáo buộc lẫn nhau giữa hai nước. Tháng 6 năm 1977, một cuộc đảo chính do Việt Nam chỉ đạo được cho là đă thất bại. Một tháng sau, Việt Nam kư kết hiệp ước với Lào với hy vọng Campuchia sẽ làm theo, nhưng Campuchia muốn kư hiệp ước hữu nghị và không xâm lược chứ không phải hiệp ước hữu nghị và hợp tác. Việt Nam từ chối kư kết hiệp định này, v́ một hiệp ước không xâm lược sẽ đặt Campuchia vào vị thế ngang bằng và độc lập với Việt Nam trong khi hiệp ước hợp tác sẽ không đem lại cho Campuchia điều đó. Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vẫn là mô h́nh của Liên Xô áp dụng với những nước thuộc Thế giới Thứ ba. Việt Nam muốn sao chép mô h́nh này áp dụng cho Campuchia. Sự chối từ của Campuchia làm cho Lê Duẩn nổi giận và sử dụng những áp lực quân sự mới lên Khơme Đỏ.

    Từ tháng 9 đến 10 năm 1977, Pol Pot sang thăm Bắc Kinh nhằm xin thêm viện trợ và cũng được cho là nhằm đạt được sự bảo vệ quân sự từ Trung Quốc. Dù Pol Pot không đạt được một cam kết bảo vệ quân sự của Bắc Kinh, ông ta vẫn được chào đón nồng nhiệt và được hứa cấp thêm viện trợ vật chất, điều này làm cho Hà Nội cảm thấy quan ngại. Như đă đề cập ở trên, cuối tháng 11 năm 1977, Lê Duẩn dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ đến Trung Quốc. Mục đích chính của chuyến viếng thăm là để đàm phán về Campuchia. Lê Duẩn cố gắng thăm ḍ lập trường thật sự của Trung Quốc trong vấn đề này. Không đạt được một kết quả khả quan nào, phái đoàn Lê Duẩn nhanh chóng rời Bắc Kinh hai ngày sau đó. Đầu tháng 12, Bắc Kinh gửi Trần Vĩnh Quư (ủy viên Bộ chính trị) đến Phom Penh để thuật lại với Pol Pot thông tin về chuyến viếng thăm của Lê Duẩn và kinh nghiệm của Tachai. Do Việt Nam bắt đầu tấn công với vi mô lớn từ cuối tháng 12, Campuchia cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 31 tháng 12, cáo buộc Hà Nội đă xâm chiếm một cách dă man và tàn bạo. Theo cách gọi của tây phương, đây được gọi là cuộc chiến tranh ủy nhiệm bắt đầu từ tháng 1 năm 1978. Cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng, kèm theo những cáo buộc lẫn nhau.(105) Trung Quốc nhanh chóng đưa ra lập trường rơ ràng. Ngày 12 tháng 1 năm 1978, chính phủ Trung Quốc đưa ra thông cáo thúc giục một cuộc ngừng bắn ngay lập tức, quân Việt Nam phải rút khỏi Campuchia và một giải pháp ḥa b́nh. Trong khi đó, Trung Quốc cam kết tiếp tục ủng hộ và viện trợ cho Campuchia. Ngày 18 tháng 1, Bắc Kinh cử Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) theo một phái đoàn t́m hiểu t́nh h́nh thực tế đến Campuchia.

    Lúc này, Hà Nội đă đưa ra một quyết định mới về Campuchia. Tại cuộc họp đặc biệt của Trung Ương Đảng vào tháng 2 năm 1978, Hà Nội quyết định lật đổ chế độ Pol Pot vào tháng 12.(106) Chiến lược của Việt Nam gồm những bước sau: (1) mô tả chính phủ Pol Pot là một chế độ khủng bố; (2) công kích viện trợ của Trung Quốc giành cho Campuchia; (3) tuyên truyền cuộc nổi dậy của nhân dân Campuchia chống chế độ Pol Pot; và (4) chơi lá bài Liên Xô. Trong khi đó, Hà Nội tăng cường thêm quân tại biên lên mức 12 sư đoàn. Ở đây cần có một sự lư giải cho những bước đi chiến lược này. Việt Nam bắt đầu mô tả Campuchia của Pol Pot là một đất nước của khủng bố vào đầu năm 1978 và gia tăng vận động sau mùa xuân năm 1978. Việt Nam gọi chế độ Pol Pot là những tên đồ tể, bè lũ Phát-xít, những kẻ sát nhân và là kẻ thù của nhân dân. Campuchia được mô tả như là một địa ngục trần gian!

    Khi đó, vào tháng 2 năm 1978 Hà Nội bắt đầu cáo buộc Trung Quốc vũ trang cho Campuchia để chống lại Việt Nam. Sau tháng 7, Hà Nội công kích trực tiếp và gay gắt với Trung Quốc. Việt Nam buộc tội Trung Quốc là thủ phạm chính trong nạn diệt chủng tại Campuchia và trong cuộc chiến của Campuchia với Việt Nam. Việt Nam cũng lên án Trung Quốc là tên phản động quốc tế, là kẻ bành trướng và bá quyền. Ngoài ra Hà Nội c̣n xỉ vả vào hành động tội ác của Trục Bắc Kinh-Phnom Penh. Một bài báo trên Tạp chí Cộng Sản đă tóm lược lại những công kích này như sau:

    Tại sao chính quyền Trung Quốc lại ủng hộ bè lũ phát xít và diệt chủng tại Campuchia? Tại sao chúng lại lại ủng hộ hoàn toàn cho chế độ tàn bạo này và tại sao chúng lại làm thinh như không nghe thấy ǵ trước tiếng kêu cứu bi thương của hàng triệu nạn nhân ở Campuchia? Tại sao Trung Quốc chi ra hàng tỉ đô la để cung cấp một lượng lớn vũ khí cho lũ đao phủ tại Campuchia và gửi hàng trăm cố vấn quân sự giúp duy tŕ bằng mọi giá hệ thống xă hội đầy tội ác này, một hệ thống xă hội mà cả nhân loại đều lên án nguyền rủa? Câu trả lời chỉ có thể là: bè lũ phản động Pol Pot-Ieng Sary là lũ tay sai khát máu mà chính quyền Trung Quốc rất cần đến để tiến hành chính hành chính sách bành trướng tại Đông Dương và trên toàn cơi Đông Nam Á. Chính quyền Trung Quốc đang sử dụng hệ thống xă hội tàn bạo tại Campuchia như là một công cụ để chống lại Việt Nam…(107)

    Sự tuyên truyền của Việt Nam về cuộc nổi dậy của người Campuchia là nhằm để tạo ra xu thế công luận phù hợp cho cuộc tấn công chớp nhoáng sắp tới vào Phnom Penh. Kế hoạch lật đổ chế độ Pol Pot được quyết định vào đầu năm 1978 sau khi Việt Nam thiết lập Heng Samrin trở thành một nhà lănh đạo. Heng Samrin, rất ít được thế giới bên ngoài biết đến trước 1979, bắt đầu hoạt động cách mạng với cương vị là người đưa tin giữa Khơme Đỏ và Việt Cộng. Ông trở nên thân thiết với người Việt và công việc của họ. Với nguồn gốc thấp kém, Heng Sarim sau đó được Việt Nam huấn luyện khi Việt Cộng tổ chức quân đội Campuchia cùng song hành đấu tranh chống Khơme Đỏ của Pol Pot và lực lượng của Lon Nol và Hoa Kỳ. Ông thăng cấp lên làm tư lệnh sư đoàn tại Quân khu Chiến 4 gần Việt Nam. Năm 1976, khi Pol Pot bắt đầu thanh trừng quân Campuchia do Việt Nam huấn luyện, Heng Sarim đă chạy sang Việt Nam. Việt Nam cho ông ta chỉ huy một nhóm được tái tổ chức (cấp sư đoàn) của những người tị nạn Campuchia tại Nam Việt Nam. (108) Sau đó Hà Nội bắt đầu chiến dịch nổi dậy của người Campuchia vào đầu tháng 10 và gia tăng hơn nửa vào đầu tháng 12 khi Việt Nam chỉ đạo thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Cứu quốc Campuchia (KNUFNS). Báo Nhân Dân sau đó tuyên bố “cơ hội lớn cho cách mạng Campuchia” đă đến. 109 Ngay sau đó là cuộc tấn công chớp nhoáng của Việt Nam lật đổ chế độ Pol Pot vào ngày 7 tháng 1 năm 1979.

    Con bài Liên Xô và Chiến thắng của Việt Nam

    Đánh giá từ tiến tŕnh đưa ra quyết định theo như bài báo của Hoàng Văn Hoan nêu lên, lănh đạo Việt Nam phải thảo luận với lănh đạo Liên Xô trước khi Hà Nội quyết định chiếm Phnom Penh bằng vũ lực vào đầu năm 1978. Sau khi đưa ra quyết định, sự tính toàn thời gian của Hiệp ước Việt-Xô và việc Việt Nam tấn công Campuchia đă được đặt ra. Con bài Liên Xô tác động rất quan trọng đến cuộc tấn công của Việt Nam vào Campuchia.110 Hà Nội đă chơi một nước bài tốt.

    Vài tháng trước khi kư kết hiệp ước, Liên Xô bắt đầu chuyển những chuyến hàng không quân đặc biệt với MIG-23 và những vũ khí khác cho Việt Nam qua ngă Ấn Độ. 111 Khi đă kư kết hiệp ước, Uông Đông Hưng (Phó chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Quốc), vội vă đến Campuchia vào ngày 5 tháng 11 năm 1978, với sứ mệnh ủng hộ về tinh thần và vật chất. Ngày 11 tháng 11, báo Nhân Dân đă công kích Wang, “Chuyến đi của Wang Tung-hsing …là nhằm t́m kiếm cách thức kéo dài thảm họa tồi tệ tại Campuchia để thực thi kế hoạch bá quyền Bắc Kinh-đấu tranh chống Việt Nam đến người Campuchia cuối cùng”. Khi đó Việt Nam đưa ra cảnh báo đến cả Trung Quốc lẫn Campuchia. Hà Nội cho rằng những người cách mạng Campuchia sẽ sớm lật đổ chế độ Pol Pot. Thậm chí nếu Trung Quốc có viện trợ ồ ạt cho Phnom Penh th́ cũng không thể “cứu chế độ Pol Pot tránh khỏi sụp đổ hoàn toàn” (112). Cách nói và lối tuyên bố này rất giống với cách mà Văn Tiến Dũng đă viết vào đầu mùa xuân 1975 khi tấn công chính quyền Sài G̣n. Cùng lúc đó, Liên bang Xô Viết tăng cường cung cấp vũ khí cho Hà Nội thêm nhiều MIG-23 và hai tàu hộ tống 2.000 tấn. Theo đài phát thanh của Pol Pot, cố vấn Liên Xô nằm trong tất cả các đơn vị của quân Việt Nam.(113) Điều này có thể không đúng, nhưng sự gia tăng có thể thấy được của Liên Xô tại Việt Nam là rơ ràng sau khi Việt Nam thống nhất đất nước năm 1975.

    Thực ra, Hà Nội rất quan ngại khả năng Trung Quốc can thiệp quân sự vào Campuchia và chính quyền Pol Pot đă đưa ra đề nghị này. Theo như tiết lộ trong bài phát biểu của Phó thủ tướng Gen Biao ngày 16 tháng 1 năm 1979, yêu cầu cầu của chính quyền Campuchia đưa ra khi Uông Đông Hưng viếng thăm Campuchia vào tháng 11 năm 1978. 114 Lănh đạo Bắc Kinh đă bác bỏ đề nghị này. Lư do chính là nếu Trung Quốc can thiệp, họ có thể rơi vào vũng lầy Đông Dương như Hoa Kỳ đă từng mắc phải. Lănh đạo Trung Quốc quyết định thay vào đó bằng việc gửi viện trợ vật chất cho Campuchia và ủng hộ chế độ Pol Pot đến cùng (chi tiết hơn ở Chương 4).

    Đương nhiên Trung Quốc lập lại việc phản đối cuộc xâm lược của Việt Nam và KNUFNS. Khi Việt Nam sử dụng 100.000 quân trong cuộc tấn công kéo dài 2 tuần, Phom Penh nhanh chóng sụp đổ. Trước ngày thủ đô sụp đổ, (ngày 6 tháng 1 năm 1979) Phó thủ tướng Đặng Tiểu B́nh loại bỏ một sự can thiệp quân sự ngay lập tức vào cuộc xung đột Việt Nam-Campuchia nhưng nói thêm rằng một ngày bào đó Trung Quốc phải tiến hành những biện pháp ngược lại với mong muốn ḥa b́nh của ḿnh. Ông ta gọi cuộc xâm lăng của Việt Nam tại Campuchia là một phần của chủ nghĩa bành trướng Xô Viết và là mối đe dọa Việt-Xô với Trung Quốc. (115)

    Tuy nhiên, theo như tiết lộ chỉ ra trước đây từ nguồn tin của Lâm Bưu, cân phải lưu ư rằng có khoảng 1.500 người Trung Quốc đă ở lại Campuchia trong cuộc di tản khẩn cấp tháng 1 năm 1979. Họ không di tản và sau đó tự nguyện chọn ở lại những chính quyền Khơme. Hiện nay số người này đang làm việc và chiến đấu như những người Campuchia trong các nhóm phiến quân Khơme chống lại Việt Nam.

    Ngày 8 tháng 1 năm 1979, một ngày sau khi Phnom Penh bị chiếm, Hội đồng Cách mạng Nhân dân được thành lập do Heng Samrin đứng đầu. Đúng như trông đợi, Maxtcova và Hà Nội gửi lời chúc mừng nồng nhiệt đến Heng Samrin và công nhận chế độ của ông ta, trong khi đó Trung Quốc chỉ trích một cách giận dữ rằng “cuộc xâm lược bất hợp pháp này phải chấm dứt”. Vài ngày sau, báo quân đội của Hà Nội đưa ra một cảnh báo cứng rắn đến cả Trung Quốc và Thái Lan rằng “không ai có thể can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia!”(116) Thật sự quan ngại về anh ninh của ḿnh, Thái Lan b́nh tĩnh quan sát, tất cả mọi con mắt trên thế giới đều nh́n vào Thái Lan để xem người Thái sẽ ứng phó như thế nào trước t́nh h́nh mới. Thái Lan thúc giục Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc giúp “xây dựng một nước Thái vững mạnh”. (117)

    Gần như bị quản thúc tại gia ở Phnom Penh trong 3 năm 3 tháng, Sihanouk bay đến Bắc Kinh vào ngày 7 tháng 1 năm 1979 và sau đó bay đến New York để nói chuyện trước Hội đồng Bảo an vào ngày 10 tháng 1. Bài phát biểu của Sihanouk kích động những chỉ trích về Việt Nam của Singapore, Zambia, Gabon, Bồ Đào Nha, Malaysai và New Zealand. (118) Những khẩn cầu của ông ta với Hoa Kỳ nhắm giúp tống khứ Việt Nam ra khỏi Campuchia chỉ nhận được những sự ủng hộ về tinh thần.

    Khi Việt Nam cũng cố kiểm quyền kiểm soát trên hầu hết lănh thổ Campuchia, lực lượng Pol Pot giảm xuống thành những đơn vị du kích nhỏ tại vùng rừng nhiệt đới phía tay đất nước. Cuối tháng 1 năm 1979, Phạm Văn Đồng nói với những đại sứ Á Châu rằng Cộng ḥa Nhân dân Campuchia (CHNDC) dưới sự lănh đạo của Heng Samrin sẽ chấp nhận việc đóng quân của Việt Nam tại Campuchia. Ngày 18 tháng 2, một ngày sau khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam, Phạm Văn Đồng và Heng Samrin kư kết Hiệp ước Ḥa b́nh, Hữu nghị và Hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia tại Phnom Penh, có thời hạn trong 25 năm. Bản hiệp ước qui định về việc giúp đỡ lẩn nhau trong pḥng thủ quốc gia và tái thiết kinh tế. Đều 2 của hiệp ước nói:

    Trên nguyên tắc pḥng thủ quốc gia và xây dựng đất nước là sự nghiệp của nhân dân mỗi nước, hai bên cam kết toàn tâm ủng hội và giúp đỡ lẫn nhau trong tất cả các lĩnh vực và với tất cả những h́nh thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lănh thổ và ḥa b́nh của nhân dân mỗi nước chống lại tất cả những âm mưu và hành động phá hoại của những thế lực phản động quốc tế. hai bên sẽ tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm thực hiện cam kết này bất cứ khi nào một bên có yêu cầu.(119)

    Như vậy, bản hiệp ước đă hợp pháp hóa việc quân đội Việt Nam đóng quân và hoạt động tại Campuchia. Giấc mơ về mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam, Campuchia và Lào, một lối nói trại của Liên Bang Đông Dương, đă trở thành hiện thực. Dù điều này đạt được và duy tŕ được bằng vũ lực.

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
    Kinh C. Chen
    Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ

    Phần 5



    Hoa Kiều tại Việt Nam

    Hoa Kiều tại Việt Nam, cũng giống như ở những quốc gia Đông Nam Á khác, chủ yếu đến từ các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. (55) Dưới đời nhà Tống (960-1279), người Hoa phát triển mạnh mẽ hải quân và giao thương tại miền duyên hải Nam Trung Hoa, thúc đẩy thương mại tại Đông Nam Á. Theo những bằng chứng có sức thuyết phục, thương nhân Trung Hoa đă có mặt nhiều tại những chợ và hải cảng ở Vịnh Thái Lan vào thế kỷ thứ 13, trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 13, người Hoa liên tục đi đến Campuchia, nơi bao gồm phần lớn diện tích của miền nam Việt Nam ngày nay. (56) Trong thời nhà Minh (1368-1644), người Hoa đến Việt Nam v́ mục đích giao thương và định cư, số lượng khác đến Việt Nam trong thời nhà Thanh (1644-1911). Sau cuộc Chiến tranh Nha phiến (1840-1842), sự rối loạn tại Trung Hoa và sự thịnh vượng tại Đông Nam Á đă thúc đẩy mạnh mẽ ḍng chảy người Hoa đổ về Đông Nam Á, gồm cả Việt Nam. Động cơ chính của việc di dân là kinh tế.

    Tổ chức

    Trong suốt những thế kỷ qua, cộng đồng người Hoa tại Việt Nam và ở những nước Đông Nam Á khác đă h́nh thành nên nhiều đặc tính khác nhau. Đầu tiên, tư duy kinh tế và khả năng làm việc chăm chỉ đă giúp họ đạt được vị thế kinh tế tại Việt Nam. Phần lớn định kỳ hoặc gửi tiến một cách có hệ thống về lại Trung Quốc. Thứ hai, họ truyền tải những di sản văn hóa của ḿnh bằng cách mở các trường học người Hoa và xuất bản báo chí bằng tiếng Hoa. Một số người giàu có hoặc cha mẹ có định hướng giáo dục cũng gửi con cái trở về lại Trung Hoa để học tập trước khi được gửi đến Tây Âu học ở những bậc cao hơn. Thứ ba, nh́n chung họ duy tŕ hôn nhân trong cùng sắc tộc. Hôn nhân ngoài sắc tộc chỉ là lựa chọn thứ hai, một vài người kết hôn với người không phải người Hoa v́ lư do kinh tế hoặc di trú. Thứ tư, họ không nắm quyền lực chính trị, một phần v́ họ không phải là những con người chính trị, phần khác v́ người Hoa chỉ là một sắc dân thiểu số. Họ cũng không sản sinh ra những nhà lănh đạo quân đội. Tư tưởng truyền thống của người Hoa là “hảo tử bất tân binh” (một chàng trai tốt sẽ không phải là một người lính), tư tưởng này vẫn chiếm ưu thế trong cộng đồng người Hoa. Khi người Hoa buộc phải gia nhập quân đội như công dân Việt Nam, họ sẽ t́m cách để miễn quân dịch thông qua những quan chức Việt Nam tham nhũng hoặc tham gia lực lượng lính gác của Sài G̣n hơn là chiến đấu ngoài mặt trận. (37)

    Về chính trị, việc người Hoa ủng hộ chính quyền Nam Việt Nam đă chứng kiến một sự thay đổi lớn vào năm 1965. Trước 1965, chỉ khoảng một nửa trong số 1,3 triệu người Hoa ủng hộ chế độ Sài G̣n (chế độ chống cộng sản). Sau 1965, đặc biệt là sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968, lực lượng người Hoa chống cộng gia tăng lên 75-80%. (38) Lư do rất đơn giản: người Hoa cũng như phần đông người Việt từ 1965-1968 đă có cơ hội tốt hơn để quan sát và chứng kiến chính sách thật sự của cộng sản là ǵ. Tuy nhiên, một phần nhỏ người Hoa, phần lớn là thế hệ trẻ, vẫn gia nhập Việt Cộng. Họ tham gia đe dọa, ám sát và chiến tranh du kích. Đương nhiên những phần tử chống cộng là mục tiêu của họ. Dù người Hoa có những hội đoàn kinh tế xă hội được tổ chức tốt nhưng những hội đoàn này là để người Hoa gia nhập chứ không phải để kiểm soát hành vi chính trị của người Hoa. Trong phần lớn trường hợp, thông lệ này không mang lại hiệu quả. Trước 1975, chỉ có 5 dân biểu gốc Hoa trong chính quyền Sài G̣n. Không ai trong số đó có thực quyền. Do những đặc tính trên, người Hoa vẫn duy tŕ một vị thế phức tạp tại Việt Nam. Một mặt họ có đóng góp lớn vào đất nước, mặt khác họ không hoàn toàn ḥa nhập vào xă hội Việt Nam. Họ giữ đặc trưng cơ bản của ḿnh và có địa vị kinh tế tốt hơn so với người Việt. Đặc tính đó cũng làm người Hoa trở thành một vấn đề tại Việt Nam (cũng như ở những nước Đông Nam Á khác). Hoàn cảnh này được kết hợp bởi những thay đổi mạnh mẽ trong chính quyền và xă hội sau khi Bắc Việt giải phóng Nam Việt Nam.

    Trước tháng 4 năm 1975, nhiều tổ chức phi chính phủ và tổ chức kinh tế xă hội được thành lập vững chắc trong cộng đồng người Hoa. Trên cơ sở khác biệt về ngôn ngữ và địa lư, người Hoa được chia thành 5 nhóm (bang hội) bao gồm Bang Quảng Đông (nhóm Quảng Đông và Quảng Châu), Bang Phúc Kiến, Bang Triều Châu, Bang Khách Gia và Bang Hải Nam. (99) Mỗi bang thành lập các hội đoàn riêng tại cả Sài G̣n và Chợ Lớn và bầu ra chủ tịch bang (người chỉ huy của bang). Nói cách khác, có tất cả 10 bang tại khu vực Sài G̣n-Chợ Lớn. Thành viên của bang bao gồm tất cả mọi thành phần trong xă hội. Mỗi bang có riêng trường học, bệnh viện và câu lạc bộ thể thao người Hoa. Họ xuất bản 11 tờ báo tiếng Hoa phục vụ cho khoảng từ 1,2 đến 1,4 triệu người Hoa tại Nam Việt Nam, nhưng việc xuất bản không được các bang ủng hộ hay tài trợ. Trên các bang là Cơ quan Quản lư Khu vực người Hoa. Thực ra cơ quan này có thể được gọi là Tổng hội đồng của 10 bang tại Sài G̣n và Chợ Lớn. Đó là một tổ chức hoạt động hiệu quả và giàu có. Ngoài ra, người Hoa c̣n thành lập Pḥng thương mại người Hoa tại Nam Việt Nam phục vụ cho cộng đồng người Hoa và hoạt động kinh doanh khắp miền nam, tương tự như Pḥng thương mại tại Hoa Kỳ. Việc thành lập (Hội đồng Bang) căn cứ trên các nhóm ngôn ngữ và địa lư c̣n việc thành lập Pḥng thương mại căn cứ trên hoạt động kinh doanh. Các bang cùng tồn tại độc lập trên cơ sở b́nh đẳng dưới chính phủ Nam Việt Nam. (60) Để nh́n nhận rơ hơn, vui ḷng xem Biểu đồ 3.1.

    Có ba điểm quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây. Thứ nhất, những bang hội này đă tổ chức người Hoa thiểu số vào những cơ quan thống nhất về mặt xă hội, gần như không ai đứng ngoài tổ chức của cộng đồng người Hoa. Theo truyền thống người mới đến phải báo cáo với bang của ḿnh và gia nhập bang. Mặc dù không có thông lệ cụ thể về việc đăng kư dân số nhưng mỗi bang đều theo dơi số lượng dân số của ḿnh. Ngoài chức năng là một tổ chức xă hội, các bang c̣n có chức năng duy tŕ lễ nghi và tục lệ. Thứ hai, hoạt động kinh doanh phần lớn dựa trên cơ sở cá nhân, bang hội không kiểm soát vấn đề này. Hợp tác và trợ giúp lẫn nhau diễn ra thường xuyên hơn trong mỗi bang hơn là giữa các bang. Hợp tác và cạnh tranh đă thúc đẩy doanh thương phát triển. Hầu hết đều thành công nên đă giữ vị thế độc quyền kinh tế tại Nam Việt Nam. Thứ ba, có hơn 11 tờ báo tiếng Hoa tại Sài G̣n Chợ Lớn và 34 trường tiểu học và trung học tại khu vực này. Mục đích là để khuyến khích những di sản văn hóa của người Hoa. Dù một số người Việt gốc Hoa trẻ tuổi cũng tham gia trường quân sự Việt Nam, nhưng không có người nào là chỉ huy quân sự. Do đó cộng đồng người Hoa có khả năng thúc đẩy và duy tŕ con người về văn hóa nhưng không tạo ra những nhà lănh đạo về chính trị và quân sự. Kết quả là cộng đồng người Hoa thậm chí gần như không có quyền lực để chống chọi trước những cơn băo tố trên chính trường Việt Nam, chứ đừng nói việc chống chọi lại cuộc cách mạng thay đổi triệt để do người Việt tạo ra.

    Tại miền bắc Việt Nam, hàng trăm ngàn Hoa Kiều đă di cư vào miền nam sau khi đất nước bị phân chia tháng 7 năm 1954. Năm 1955, Bắc Kinh và Hà Nội đồng ư rằng người Hoa tại miền bắc sẽ từng bước được nhập tịch. Họ phải được đối xử như những người Việt Nam. Vào năm 1978 có khoảng 300.000 người Hoa sinh sống tại miền bắc Việt Nam.

    Tại miền nam, những cơn băo chính trị chống lại người Hoa được tạo ra bởi hai động cơ chính là kinh tế và chủ nghĩa dân tộc. Vào năm 1954, sau khi Ngô Đ́nh Diệm, người sau này trở thành tổng thống Nam Việt Nam, cũng cố quyền lực tại miền nam, ông đă ban hành một nghị định yêu cầu tất cả người Hoa phải từ bỏ quốc tịch Trung Quốc và nhập quốc tịch Việt Nam nếu họ muốn tiếp tục kinh doanh tại Việt Nam. Vào tháng 4 năm 1957, chế độ Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố thêm rằng tất cả thẻ căn cước ngoại kiều của người Hoa đều không c̣n hiệu lực. Người Hoa không có quyền để phản kháng. Họ chấp nhận những biện pháp này một cách miễn cưỡng. Một số người bày tỏ chính sách bất hợp tác bằng cách đóng cửa kinh doanh trong một thời gian. Rơ ràng người Hoa đă chịu tổn thất lớn, nhưng chính phủ cũng mất một khoảng tiền đóng thuế đáng kể.

    Người Hoa đă có được một giai đoạn phát triển kinh tế từ 1963 đến 1975. (62) Tuy nhiên sau khi Cộng Sản chiếm Nam Việt Nam, lợi tức của họ đă trở thành mục tiêu tấn công của người Việt. Tờ luận thuyết hàng tháng Tạp chí Cộng Sản của Hà Nội đă cáo buộc:

    Đến cuối 1974, họ [người Hoa] đă kiểm soát hơn 80% lương thực, may mặc, hóa chất, công nghiệp xây dựng và điện năng, và gần như độc quyền về giao thương-chiếm 100% về môi giới, hơn 50% về bán lẻ và 90% về xuất nhập khẩu thương mại. Họ hoàn toàn kiểm soát việc mua lúa gạo và nắm 80% tiền cho vay trên toàn miền nam. Họ sở hữu 42 trên tổng số 60 công ty có doanh số hàng năm lơn hơn 1 triệu đồng tiền chế độ cũ và đầu tư của họ luôn luôn chiếm 2/3 tổng số đầu tư hàng năm ở miền nam.

    Dù có sự thổi pḥng trong cáo buộc trên, nhưng người Hoa đă nắm giữ phần quan trọng trong nền kinh tế miền nam trước 1975 như đă đề cập. T́nh h́nh này sẽ trở thành một điều không thể bỏ qua được dưới chế độ mời, nơi mà chính sách kinh tế không cho phép tư hữu và ư thức chủ nghĩa dân tộc và sự căm phẫn với Trung Quốc là rất lớn trong thời điểm đó. Việc thanh lọc sự giàu có của người Hoa và thay đổi địa vị của họ là không thể tránh khỏi. Bi quan trước viễn cảnh t́nh h́nh Việt Nam, nhiều người Hoa giàu có đă lặng lẽ rời khỏi Sài G̣n trước ngày thành phố sụp đổ vào cuối tháng 4 năm 1975.

    Những biện pháp mới và Hoa Kiều giai đoạn 1975-1978

    Nh́n lại quá khứ chúng ta nhận thấy rơ ràng là từ 1975-1978 chính phủ Việt Nam thống nhất đă tiến hành một loạt những biện pháp chuyển đổi kinh tế xă hội tại miền nam Việt Nam và gần như những biện pháp này chỉ nhằm đánh vào cộng đồng người Hoa. Theo tŕnh tự thời gian, những biện pháp đó gồm phong trào đánh tư sản mại bản (1975), cải cách tiền tệ (1975, 1978) chuyển đổi sang xă hội chủ nghĩa đối với tư hữu và thương mại (1978). Những biện pháp này áp dụng cho tất cả người Việt tại miền nam (cải cách tiền tệ cũng được áp dụng tại miền bắc), chứ không chỉ áp dụng đối với Hoa Kiều. Tuy nhiên, phần lớn Hoa Kiều là những doanh nhân giàu có hoặc tư sản mại bản. do đó họ trở thành những mục tiêu chính làm bùng nổ t́nh cảm chủ nghĩa dân tộc của người Việt. Việc trục xuất Hoa Kiều là biện pháp có ảnh hưởng nhất gần như chỉ nhằm để quét sạch cộng đồng người Hoa trên toàn cỏi Việt Nam.

    Phong trào đánh tư sản mại bản 1975

    Sau khi chiếm Sài G̣n tháng 4 1975, chính quyền Việt Nam lập kế hoạch thanh trừng sự giàu có của cộng đồng doanh nghiệp. Vào tháng 7 và tháng 8 năm 1975, chính quyền tuyển mộ hàng trăm thanh niên trẻ kể cả những sinh viên gốc Hoa để huấn luyện về tư tưởng trong một thời gian ngắn. Khóa huấn luyện tập trung học tư tưởng Mác về đấu tranh giai cấp và nhằm để thanh trừng những phần tử bóc lột, giàu có, phản động và tư sản mại bản.Tất cả người Hoa giàu có được xác định thuộc vào nhóm này và phải đăng kư với chính quyền. Khi đă hoàn tất việc huấn luyện và chuẩn bị, chiến dịch đầy mạnh mẽ đẵ bắt đầu từ ngày 5 tháng 9 tại Sài G̣n-Chợ Lớn cũng như tại một số thành phố khác ở miền nam. Những cuộc biểu t́nh và mít-ting rộng lớn được tổ chức hàng ngày. Truyền thông không ngừng lên án tội ác của tư sản mại bản, cáo buộc họ độc chiếm thị trường, thao túng giá cả, tích trữ hàng hóa và mua bán vàng và đô la trái pháp luật. Cuộc vận động vừa hào hùng vừa đáng sợ, nó đáng sợ đối với những người giàu, đặc biệt là người Hoa và nó hào hùng đối với những người trẻ tuổi, những người ảo tưởng về một xă hội tốt đẹp hơn dưới chế độ cộng sản.

    Chiến dịch rộng lớn kéo dài trong 5 ngày. Sau đó cơn băo bắt đầu nổi lên. Từ 10 giờ tối ngày 9 tháng 9, nhiều nhóm cảnh sát trang bị vũ khí, nhân viên an ninh và những thanh niên qua đào tạo đă tiến chiếm một số công ty, cửa hàng, nhà máy và nhà ở của những doanh nhân người Việt lẫn người Hoa tại Sài G̣n-Chợ Lớn. Những thanh niên gốc Hoa hỗ trợ các nhóm này trong việc phiên dịch và xác minh. Họ bắt giữ các doanh nhân hoặc tạm giam (trong một hoặc hai ngày). Khi đó họ lục soát và hoàn tất hồ sơ về hàng tích trữ và tài sản, gồm đô la Mỹ, vàng thẻ, kim cương, hàng hóa, xe cộ, tủ lạnh, ti vi, nội thất và cả quạt máy. Họ lục soát tỉ mỉ từ pḥng khách đến đền cái lư hương bé nhỏ, để không thiếu sót dù chỉ là “một cây kim hay sợi chỉ”.

    Không phải đến tận sáng ngày hôm sau khi chính phủ ban hành bản thông cáo 14 điểm về chiến dịch. Bản thông cáo cáo buộc tư sản mại bản đă “phá hoại nền kinh tế, độc chiếm thị trường và tích lủy giàu có bằng xương máu của đồng bào”. Bản thông có cũng nói rằng nhân dân yêu cầu nhà nước cần phải áp dụng những biện pháp khắt khe đối với họ. (65) Trong điểm thứ tư và thứ năm, bản thông cáo đưa ra khả năng xung công nhưng cơ sở kinh doanh và tài sản:

    4. Nhà nước sẽ nỗ lực hết sức ḿnh để khuyến khích và giúp đỡ tư sản đóng góp vốn, hiểu biết kỹ thuật và tài năng để tham gia xây dựng các vùng kinh tế mới.

    5. Trong một số trường hợp đặc biệt, tư sản có thể bán sản phẩm và cơ sở kinh doanh cho nhà nước. Nhà nước sẽ đánh giá và xem xét theo từng trường hợp cụ thể.

    Trong ngày hôm đó, phát ngôn viên Ủy ban Quân quản thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố chính quyền đă ra lệnh bắt giữ một số phần tử tư sản “sai trái”; chính quyền cũng ra lệnh kê biên tất cả tài sản của họ. (66) Cũng trong ngày đó, tờ Sài G̣n Giải Phóng đăng bài xă luận nói rằng bọn tư sản mại bản đă thông đồng với bọn xâm lược Mỹ và chính quyền bù nh́n. Máu của “đổng bào chúng ta” càng đổ ra, th́ sự giàu có của chúng càng gia tăng hơn. Chúng đă trở thành “những ông vua”, như vua lúa gạo, vua thép gai, vua xây dựng, vua café và vua sắt thép. Tội ác của bọn chúng là “cực kỳ nghiêm trọng và hoàn toàn không thể dung tha”, tờ nhật báo cáo buộc đầy giận dữ. Phải “cương quyết than trừng” bọn chúng. Ngày 12 tháng 9, thêm nhiều ông vua nữa bị bắt. Những vụ bắt giữ cũng được tiến hành ở nhiều thành phố khác. Tờ Sài G̣n Giải Phóng tiếp tục công kích tư sản mại bản, Đài phát thanh Hà Nội nói rằng người Hoa đă chào đón chiến dịch này. (68)

    Chiến dịch này kéo dài đến đầu tháng 10, gần một tháng. Về lư thuyết cả tư sản người Hoa và người Việt đều là mục tiêu. Nhưng trong thực tế người Hoa chịu tổn thất lớn nhất. Nhưng có bao nhiều công ty của người Hoa hay cửa hàng bị lục soát và “làm tê liệt”? và có bao nhiêu nhà tư sản người Hoa bị bắt giữ? Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ công bố một con số chính xác. Không cách ǵ để biết chắc chắn. Tuy nhiên sau đó người ta biết rằng có ít nhất 100 công ty của người Hoa đă bị lục soát một cách kỹ lưỡng chỉ trong một đêm, ngày 9 tháng 9, và hơn 250 người Hoa giàu có đă bị bắt trong suốt chiến dịch. Một số đă tự sát. Tài sản vô chủ kể cả nhà cửa đều bị tịch thu ngay lập tức. Những người bị bắt gồm chủ tịch và/hoặc chủ sở hữu các công ty kinh doanh bột ngọt, kim loại, bột ḿ, rạp hát, xuất nhập khẩu, dệt, giấy, nhà hàng và đồ sắt. (69) Phần lớn trong số họ được thả ra trước 1979 sau khi đă đóng góp vốn liếng và cơ sở kinh doanh cho nhà nước. Đối với những nhà lănh đạo chính trị phản động, lănh đạo văn hóa-giáo dục, họ là một trong số những nhóm đầu tiên trở thành tù nhân hoặc thất nghiệp.

    Như đă đề cập, đầu tháng 4 năm 1975, một số lănh đạo cộng đồng người Hoa đă rời Việt Nam ra nước ngoài. Sau tháng 5 năm 1975, thêm nhiều lănh đạo bang hội khác ra đi. Những lănh đạo ban đầu gần như không c̣n tồn tại. Sau đó chính quyền cách mạng chiếm ṭa nhà văn pḥng của Tổng hội và Tổng hội đồng, rồi là câu lạc bộ của các bang và đóng cửa 11 tờ báo tiếng Hoa. Chính quyền cũng chiếm luôn Bệnh viện đa khoa Sùng Chính vào đầu 1976 và 5 bệnh viện khác của các bang vào tháng 1 năm 1978.
    Cải cách tiền tệ, 1975 và 1978

    Từ khi giải phóng Sài G̣n năm 1975 đến khi xảy ra chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, chính quyền Việt Nam đă tiến hành hai đợt cải cách tiền tệ (đổi tiền-ND). Lần đầu vào tháng 9 năm 1975 tại miền nam Việt Nam, lần thứ hai vào tháng 5 năm 1978 trên toàn quốc. Cuộc cải cách năm 1975 nhằm chuyển đổi đồng tiên tư bản của Sài G̣n thành đồng tiền xă hội chủ nghĩa và để thực thi chính sách thiết lập ra một xă hội quân b́nh bằng cách giảm đáng kể sự giàu có của người dân tại miền nam. Cuộc cải cách năm 1978 được thực thi theo chính sách thúc đầy đoàn kết dân tộc và thanh trừng những phần tử trục lợi sau chiến tranh, đó là những doanh nhân và người buôn bán lẻ. Tuy nhiên cả người Hoa và người Việt đều chịu tổn thất nặng nề từ những cuộc cải cách này.

    4 giờ chiều ngày 21 tháng 9 năm 1975, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh thông báo qua đài phát thanh cho tất cả người dân rằng họ phải trở về lúc 11 giờ tối (giờ giới nghiêm là từ 11 giờ tối đến 5 giờ sáng) để đợi lắng nghe một thông báo quan trọng của chính quyền. Lúc đó nhiều bà vợ của những cán bộ Việt Nam đổ xô ra chợ để mua quần áo, lương thực, rượu ngoại và nhiều hàng tạp phẩm khác. Tiếng đồn càng lên cao. Ngay sau 11 giờ tối, đài phát thanh thông báo gia hạn giờ giới nghiêm thêm 6 tiếng đồng hồ vào ngày 22 tháng 9, tức đến 11 giờ sáng. (70) Ba tiếng sau (2 giờ sáng, ngày 22 tháng 9) Chính quyền Cách mạng cấp tỉnh tuyên bố một cuộc đổi tiền. Sau đó Ủy ban Quân quản thành phố Hồ Chí Minh lư giải rằng việc gia hạn thêm giờ nhằm giúp người dân có thể chuẩn bị cho việc đổi tiền. (71)

    Sáng ngày 22 tháng 9, Ngân hàng Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh ban hành thông cáo về đổi tiền. Bản thông cáo có thể được tóm lược như sau:

    1. Tỷ lệ trao đổi giữa tiền mới và tiển cũ (đồng) là 1 đồng tiền mới đổi 500 đồng tiền cũ;
    2. Mỗi hộ gia đ́nh có thể đổi 100.000 đồng tiền cũ (tương đương 200 đồng tiền mới) để dùng cho những nhu cầu sinh sống hàng ngày.
    3. Những gia đ́nh kinh doanh buôn bán nhỏ có thể đề nghị đổi thêm 100.000 đồng tiền cũ, và phải chờ có chấp thuận.
    4. Những tổ chức kinh doanh lớn có thể đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng tiền cũ. Nếu thật sự có nhu cầu, mỗi công ty kinh doanh lớn có thể đổi thêm tối đa 500.000 đồng tiền cũ.
    5. Số tiền cũ c̣n lại (từ 100.000 đến 100 triệu đồng hoặc lớn hơn) phải đổi sang tiền mới và nộp vào ngân hàng.
    6. Tất cả việc đổi tiền phải kết thúc lúc 11 giờ tối ngày 22 tháng 9.
    7. Những ai vi phạm các qui định này phải chịu trách nhiệm h́nh sự.

    Những người đang nắm giữ tiền cũ, đặc biệt là Hoa Kiều, phải đối mặt với một t́nh thế tiến thoái lưỡng nan. Một số chỉ c̣n biết bán hàng hóa hay thiết bị kinh doanh với một cái giá thấp không tưởng cho những cán bộ Bắc Việt dưới áp lực rất lớn của phong trào đánh tư sản bắt đầu từ ngày 10 tháng 9. Nếu họ đổi thêm 100.000-500.000 tiền cũ (tương đương 200-1.000 đổng tiền mới) và gửi số tiền đó vào ngân hàng th́ họ lo ngại sẽ bị xác định vào dạng tư sản mại bản, nhưng nếu họ giữ lại số tiền cũ c̣n lại mà không c̣n giá trị nữa, th́ họ sẽ bị trừng phạt nếu bị phát hiện. Đứng giữa những sự hổn loạn lớn lao, một số đành nộp số tiền cũ c̣n lại, số khác nhờ người thân hay bạn bè đổi thêm tiền đồng mới, một số th́ bán tiền đồng cũ cho những cán bộ cộng sản với tỷ lệ 5.000 đồng tiền cũ đổi một đồng tiền mới, có người chỉ c̣n biết quẳng tiền đi, cũng có người chỉ đơn giản là đốt hết số tiền vượt quá giới hạn cho phép. (73) Do đó khá nhiều doanh nhân người Hoa giàu có, những người trước đây đă đổi tiền đồng lấy vàng hay ngoại tệ với số lượng đáng kể, đă chịu tổn thất lớn chỉ trong một đêm.

    Vậy c̣n số tiền vượt mức phải gửi vào ngân hàng th́ sao? Chính quyền mất gần 6 tháng mới cho phép người gửi được rút 30 đồng tiền mới trong một tháng. Tuy nhiên bắt đầu từ tháng 12 năm 1976, chính quyền ra lệnh chấm dứt hoàn toàn những việc rút tiền này.

    Ngay sau cuộc cải cách tiền tệ đầu tiên, chính quyền ban hành nghị định yêu cầu tất cả người nước ngoài phải báo cáo và nộp ngoại tệ vào ngân hàng. Những người từ chối không nộp sẽ có nguy cơ bị trừng phạt ngoài và bị tịch thu ngoại tệ. Kết quả là giá trị ngoại tệ tăng vọt, giá cả leo thang vượt mức kiểm soát (tỷ giá chính thức: 1 đô la Mỹ bằng 1,50 tiền đồng mới).

    Hai chính sách quan trọng khác cũng gây thiệt hại cho người Hoa và người Việt được ban hành từ 1976-1977 trước khi tiến hành cuộc cải cách tiền tệ lần thứ hai năm 1978. Chính sách thứ nhất là đánh thuế nặng và chính sách kia gọi là khu kinh tế mới.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
    Kinh C. Chen
    Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ

    Phần 6






    Tháng 8 năm 1976, một nghị định mới qui định rằng tất cả những người kinh doanh kể cả bán thuốc lá trên vỉa hè mà có lợi tức hơn 10% từ tháng 5 năm 1975 sẽ chịu mức thuế là 80% và qui định này có hiệu lực hồi tố. Tuy nhiên mức thuế thực tế tăng lên đến 100% do lạm phát bắt đầu từ tháng 7 năm 1976, cũng có hiệu lực hồi tố. Nói cách khác, tất cả lợi tức của doanh nhân từ tháng 5 năm 1975 phải giao lại cho chính phủ. Quyết định này “nhắm vào những người buôn bán nhỏ nói chung, nhưng chủ yếu nhắm nhiều hơn vào những triệu phú người Hoa” tại Sài G̣n và Chợ Lớn. (74) Ngoài ra chính quyền cộng sản c̣n ra lệnh cho doanh nhân phải trả thuế trước 4 tháng, từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1976. Thuế được chia ra 3 cấp với 3 bậc trong mỗi cấp. Theo những cấp này, mức thuế cao nhất là 13.750.00 đồng tiền cũ (tương đương 27.500 đồng tiền mới) (75) Lợi tức của doanh nhân người Hoa gần như bị mất sạch.

    Việc xây dựng những vùng kinh tế mới dựa trên một kế hoạch trong sự tưởng tượng của giới lănh đạo Việt Nam. Đây là một phần của kế hoạch 5 năm (1976-1980). Mục đích của kế hoạch có hai phần: tái phân bổ lực lượng lao động từ những thành phố đông dân đến những vùng nông thôn không người ở và tạo ra những khu vực sản xuất lương thực và kinh tế.

    Tại Đại hội 4 Đảng Cộng Sản Việt Nam giữa tháng 12 năm 1976, lănh đạo Việt Nam chính thức công bố kế hoạch. Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, đă nói với những đại biểu quốc hội vào ngày 15 tháng 12 năm 1976 rằng: “Trong một tương lai gần, hơn 1 triệu người dân tại thành phố Hồ Chí Minh sẽ được định cư toàn bộ ở những vùng kinh tế mới ..những khu vực ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh sẽ phát triển thành một nông trường rộng lớn bao quanh thành phố cung cấp đầy đủ thực phẩm và rau quả cho thành phố.” (76) Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng tuyên bố vào ngày 16 tháng 12 rằng việc phân phối lực lượng lao đông có thể lên mức 4 triệu người sẽ bắt đầu vào năm 1977. (77) Phạm Hùng, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư đảng tại miền nam, nói thêm rằng khu vực đồng bằng sông Cửu Long “sẽ sản xuất gạo và những thực phẩm khác.” (78)

    Sau khi việc tái phân bổ dân cư bắt đầu, khó khăn đă nảy sinh. Người dân chỉ trích chính sách này là “phục hồi dân số miền nam bằng dân miền bắc”. Trong cuộc trả lời phỏng vấn với phóng viên tờ Le Monde ngày 16 tháng 4 năm 1976, Phạm Văn Đồng đă bảo vệ kế hoạch này:

    Chúng tôi đang đối mặt với những vấn đề phức tạp, cần phải có giải pháp cấp thiết, làm sao để những thành phố tại miền nam ít dân hơn và phục hồi “những vùng trắng” tại nông thôn…Đối với Việt Nam…vấn đề bây giờ là thiết lập và thực thi kế hoạch này theo cách thức hợp lư nhất có thể được. Đây cũng là biện pháp hiệu quả nhất và thực tế nhất để đảm sự phát triển cân bằng và đối xứng về công nghiệp và nông nghiệp tại các thành phố và vùng nông thôn, tránh ô nhiểm và xáo trộn hệ sinh thái..” (79)

    Tuy nhiên thành phần nào sẽ bị tái định cư tại những vùng kinh tế mới? Họ sẽ đến những nơi nào và bằng cách thức nào? Đă chuẩn bị được những ǵ cho họ tại những vùng đất mới? Đă đạt được những kết quả như thế nào? Và kế hoạch đó tác động như thế nào đối với Hoa Kiều? Những người tận mắt chứng kiến đă đưa ra câu trả lời đầy đủ cho những câu hỏi này. (80)

    Từ 1976-1977, đời sống tại thành phố Hồ Chí Minh mỗi ngày một tồi tệ hơn. Tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát và thiếu hụt lương thực được nói đến rộng răi qua những bức thư từ lọt ra nước ngoài kể cả Hoa Kỳ từ Việt Nam. (81) Dù có tiền, người dân vẫn không thể mua lương thực và thuốc men. Hàng trăm ngàn người phải trải qua một gia đoạn cực kỳ khó khăn để kéo dài cuộc sống. Trong t́nh cảnh đó, những vùng kinh tế được giành cho họ. V́ thế những người định cư mới từng là viên chức, lao động tại thành thị, chủ cửa hàng và dân thất nghiệp sau chiến dịch đánh tư sản. Phần lớn họ từ thành phố Hồ Chí Minh. Số khác tự nguyện tham gia v́ không thể tồn tại ở thành phố lâu hơn nửa, họ “không c̣n ǵ để bán, không có lựa chọn nào khác”. Số khác bị ép buộc phải đi v́ họ là “những người không sản xuất ra của cải”. Vùng kinh tế mới được phân tại những khu vực đất đai không dùng đến, xa xôi hẻo lánh, và những khu vực miền núi kém phát triển, thường có ít chuẩn bị hoặc không có chuẩn bị ǵ để đón nhận những người đến định cư. Thỉnh thoảng những người mới đến bị chết bởi bom ḿn c̣n sót lại sau Chiến tranh Việt Nam. Họ không có đủ nơi ở, lương thực, nước và y tế. Họ phải trải qua một đời sống thậm tệ. Một vị linh mục công giáo gốc người Pháp gốc Canada, đă sống tại Việt Nam trong 28 năm mô tả:

    Những ǵ đă diễn ra là một tháng trước khi người di cư đến, các sinh viên được gửi đến để chuẩn bị lều trại, mỗi gia đ́nh họ lập căn nhà với bốn cọc tre lợp lá chuối…không có tường, sàn nhà là mặt đất, mưa có thể đổ vào.

    Vấn đề đáng ngại hơn là t́m kiếm được nước sinh hoạt. Đời sống vô cùng khó khăn trong những vùng kinh tế mới…Bệnh sốt rét xuất hiện tràn lan và không có đủ lương thực. Về mặt chính thức, chính phủ hứa cung cấp gạo trong ba tháng cho những người khai hoang trong khi chờ đến vụ thu hoặc mới, nhưng tôi không hề biết có trường hợp nào mà chính phủ đă giữ lời hứa. (82)

    Vị linh mục cũng viết rằng vào sáng sớm ông thấy hàng đoàn xe quân sự chất đầy người dân chở đi đến những vùng đất hoang sơ. “Hơn 3.000 người rời khỏi thành phố mỗi ngày”, ông viết. Đến tháng 2 năm 1977, 600.000 người đă rời khỏi Sài G̣n. Theo số liệu của chính phủ, lượng người di cư đă tăng lên 1 triệu người vào giữa tháng 4 năm 1977. Tháng 4 năm 1977, Thông tấ xă Việt Nam loan báo rằng “Khoảng vài trăm ngàn chủ cửa hàng, chủ tiệm café, nhà hàng và người bán hàng rong vẫn c̣n kinh doanh, buôn bán bất hợp pháp, đầu cơ, làm giá và thu nhiều được nhiều lợi tức. Tồi tệ hơn, nhiều thanh niên lười nhát làm việc, thích làm ăn bất hợp pháp hơn để kiếm sống”. Do có hơn 80% dân chúng tại Sài G̣n không làm được việc ǵ có ích cho nhà nước, nên họ phải đi đến những vùng nông thôn, bản thông cáo viết tiếp. Ước tính có hơn 6 triệu người nửa tại miền nam phải rời bỏ thành phố, phần lớn họ đi tới những khu kinh tế mới, thông tấn xă công bố. Nhưng nhiều người gọi những khu này là “những trại tập trung không có hàng rào”. (84)

    Tháng 5 năm 1978, khoảng 300.000-350.000 người Hoa ở Sài G̣n-Chợ Lớn phải đi đến khu kinh tế mới. (85) Tất cả đều kêu ca và chịu đựng cuộc sống khắc khổ. Một số trốn chạy về lại thành phố, sống nhờ nhà của người thân hay bạn bè v́ nhà cửa đă bị chính quyền chiếm đoạt khi họ ra đi. Họ liên tục t́m kiếm trợ giúp từ trong và ngoài nước thông qua bạn bè, người thân, bạn học, đoàn thể và những mối quan hệ trong cùng bang hội. Họ vật lộn để tồn tại ở thành phố. Mộ số người cố gắng rời khỏi Việt Nam trước khi chính phủ cho phép họ ra đi vào tháng 1 năm 1978. Người Hoa thường xuyên bị bắt giữ và bỏ tù.

    Cuộc cải cách tiền tệ lần thứ hai diễn ra vào ngày 3 tháng 5 năm 1978. Như đă đề cập, bề ngoài là để thúc đẩy đoàn kết dân tộc, loại bỏ những phần tử tư bản trục lợi. Hà Nội hy vọng cuộc cải cách này sẽ thúc đẩy chuyển biến sang xă hội chủ nghĩa.

    Theo nghị định của chính phủ, mỗi gia đ́nh ở thành thị được phép đổi tiền cũ lấy từ 100 đến 500 phiếu ngân hàng mới, và mỗi hộ gia đ́nh tại nông thôn được đổi lấy từ 50 đến 300 tùy vào qui mô gia đ́nh. Công chức, đơn vị quân đội và những tổ chức kinh tế-xă hội khác được đổi lấy không quá 1.000. (86) Tỷ lệ đổi tiền là một đồng tiền miền bắc đổi một đồng tiền mới và 0.8 đồng miền nam đổi lấy một đồng tiền mới. Tất cả số tiền vược mức được chứng minh là thu nhập hợp pháp phải đổi sang tiền mới và nộp vào ngân hàng. Số tiền gửi vào ngân hàng có thể được rút ra khi người gửi có nhu cầu tiền bạc không lường trước phát sinh do đau ốm bệnh tật, sinh con, tai nạn hoặc ma chay. Việc rút tiền phải được chấp thuận. (87) Số tiền cũ vượt mức và không gửi vào ngân hàng sẽ mất giá trị sau 24 tiếng. Dù tỷ lệ đổi tiền có khác so với đợt đổi tiền năm 1975 nhưng đợt đổi tiền lần này gần như chỉ là sự lập lại.

    Rút kinh nghiệm từ vụ đổi tiền năm 1975, trước 24 giờ người dân đổ xô đi mua vàng, đô la và tiền Hồng Kông c̣n sót lại trên thị trường chợ đen bất kể với giá nào. Một lần nửa vô số tiền cũ phải vẳng đi hoặc đốt bỏ. Nhiều người dân đă mua thực phẩm với giá cao (như 200 đồng tiền một con cá, 100 đồng tiền mới mua một con gà) và thưởng thức các món ăn chỉ trong một ngày! (88) Vài ngày sau, cảnh sát bố ráp vào nhiều nhà, mang đi nhiều thùng, giỏ đựng tiền cũ. Hơn một lần, cảnh sát đă t́m thấy hơn 10.000 đồng tiền cũ trong một ngôi nhà v́ chủ nhân không thể chứng minh được họ có số tiền đó một cách hợp pháp. (89) Tủ lạnh, xe máy, bộ radio hi-fi, ti vi và những đồ dùng xa xỉ khác bị cảnh sát lấy đi. Người Việt và người Hoa chịu tổn thất nặng nề lần thứ hai.

    Có thể Bắc Kinh rất quan ngại về cách đối xử với người Hoa trong đơt cải cách tiền tệ. Tuy nhiên, Trung Quốc không nằm trong vị thế có thể can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Khi đó, chính quyền Việt Nam không nhận thức được hậu quả nên đă tiến thêm một bước nửa nhằm loại trừ những thương gia giàu có.

    Chuyển đổi tư bản tư nhân, thương mại sang xă hội chủ nghĩa 1978

    Giống như chiến dịch đánh tư sản 1975, chiến dịch chuyển đổi xă hội sang mô h́nh xă hội chủ nghĩa vào tháng 3 năm 1978 đă được chuẩn bị ít nhất một tháng trước khi tiến hành. Điểm khác biệt duy nhất trong quá tŕnh chuẩn bị giữa hai chiến dịch này là chiến dịch chuyển đổi xă hội sang mô h́nh xă hội chủ nghĩa phụ thuộc nhiều vào truyền thông đại chúng và ít có những cuộc biểu t́nh và tuần hành rộng lớn.

    Dấu hiệu đầu tiên của chiến dịch xuất hiện trên bài xă luận của báo Nhân Dân ngày 24 tháng 2. Bài báo viết rằng việc chuyển đổi này tại miền nam là “một trong những nhiệm vụ kinh tế cấp thiết cần phải tiến hành” vào năm 1978 và v́ thế” chiến dịch cần phải được đẩy mạnh”. (90) Bài xă luận viết, mục đích của chiến dịch là loại trừ sở hữu tư nhân trong công nghiệp và thương mại, xây dựng và mở rộng thị trường xă hội chủ nghĩa, b́nh ổn giá cả, đồng tiền, sản xuất, nghề nghiệp của nhân dân, và tăng cường an ninh chính trị. Tờ báo của đảng và chính phủ cũng nhấn mạnh việc chuyển đổi chỉ có thể thành công nếu có sự tham gia của quần chúng nhân dân. (91). Sau đó chiến dịch được tăng cường bởi truyền thông tại thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngày 23 tháng 3 năm 1978, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành một bản thông cáo viết:

    Có hiệu lực ngay lập tức, nhà nước thống nhất quảng lư thị trường và thay đổi tất cả các tổ chức kinh tế xă hội, thống nhất hoạt động kinh doanh và tổ chức phân phối đối đối với tất cả hàng hóa có tầm quan trọng đối với sản xuất xuất và sinh kế của nhân dân…

    Tất cả hoạt động kinh doanh thương mại của những thương nhân tư sản đều bị cấm. Những thương nhân này sẽ được nhà nước hướng dẫn và trợ giúp để sử dụng nguồn vốn của ḿnh sản xuất ra của cải vật chất cho xă hội. Nếu thương nhân có tŕnh độ chuyên môn và kỹ thuật, họ sẽ được nhà nước tuyển dụng làm việc trong lĩnh vực thương mại do nhà nước quản lư nhằm phục vụ cho cách mạng. (92)

    Đối với hàng hóa và cơ sở kinh doanh của thương nhân tư sản, nhà nước sẽ trưng dụng hoặc mua lại, bản thông cáo viết. (93)

    Chiến dịch bắt đầu từ ngày hôm đó. Dưới tên gọi “tổng kiểm tra”, cảnh sát vũ trang và nhân viên an ninh đă đi đến tất cả công ty kinh doanh và nhà ở. Việc lục soát của họ thậm chí c̣n kỷ càng hơn so với chiến dịch đánh tư sản 1975. Tất cả vàng bạc, đồ trang sức và ngoại tệ đều bị tịch thu. Hàng hóa trong kho và phương tiện kinh doanh đều bị xe quân đội chở đi và gân như không hề được bồi thường. Tivi và tủ lạnh một lần nửa trở thành mục tiêu. Sau khi hàng hóa và phương tiện kinh doanh bị lấy đi, các nhà máy và công ty đều đóng cửa. Sau đó chính quyền đưa những gia đ́nh tư sản cũ đến vùng kinh tế mới. Chiến dịch càn quét kéo dài hơn một tháng. Nhiều người Việt và Hoa Kiều đă mất hết tất cả những ǵ mà họ có và bị đẩy đến những vùng kinh tế mới. (94)

    Cộng với đợt cải cách tiền tệ lần thứ hai vào ngày 3 tháng 3, chiến dịch chuyển đổi dường như đă đạt được mục tiêu là loại bỏ những vết tích cuối cùng của tư bản tư nhân. Không c̣n một thương nhân người Hoa giàu có nào tại miền nam. Một số người vẫn giữ vàng hay ngoại tệ tại những điểm bí mật, nhưng phần lớn tùy thuộc vào mối quan hệ ở nước ngoài để tồn tại và đào thoát.

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    BÍ MẬT LỊCH SỬ: TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆT LẦN THỨ HAI: 1984-1989. CỘNG SẢN VIỆT NAM GIẤU NHẸM VIỆC MẤT NÚI LĂO SƠN VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM. (bài 1)




    Bản đồ nơi xăy ra trận chiến biên giới lần 2 1984 trong tỉnh Hà Tuyên. H́nh trích từ mạng Quốc Pḥng Trung Quốc China-Defense.com


    Trước hết chúng tôi xin được cám ơn một bạn đọc của Vietnam Exodus đă cung cấp những tài liệu quư báu liên quan đến cuộc chiến tranh biên giới giữa Trung Cộng và Việt Nam lần thứ hai từ năm 1984 đến 1989. Những tài liệu này đa số đến nhiều nhất từ nguồn của Trung Cộng, phần c̣n lại đến từ những kư ức và cuộc trao đổi lẫn nhau giữa các cán binh bộ đội cộng sản đă từng tham dự trận chiến biên giới lần thứ hai bắt đầu từ năm 1984 và chấm dứt vào năm 1989. Cuộc chiến tranh biên giới lần hai chấm dứt với sự thua trận của cộng sản Việt Nam!

    Chính quyền cộng sản VN đă dấu nhẹm cuộc chiến này cũng như việc kư hiệp ước biên giới công nhận chủ quyền của Trung Cộng trên ngọn núi Lăo Sơn ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên.....


    Phải nói rằng rất ít người biết đến đến cuộc chiến biên giới lần hai xăy ra vào năm 1984 so với cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979, cho đến khi các tài liệu từ phía Trung Cộng được tung ra. Lư do tại sao cả hai bên Trung Cộng và Việt Nam giữ bí mật về cuộc chiến này vẫn là vấn đềỿ chúng ta cần t́m hiểu. Riêng về phía Việt Nam, việc giữ bí mật về cuộc chiến này có thể giải thích bằng hai sự kiện: Thứ nhất, vào năm 1984, cộng sản Việt Nam ở trong t́nh trạng tứ bề thọ địch: quân đội CSVN phải đối phó với cuộc chiến tại Cam Bốt; trên trưởng quốc tế, CSVN bị thế giới cấm vận. Thứ hai: nền kinh tế xă hội chủ nghĩa đang ở trong t́nh trạng phá sản, cả nước phải ăn bo bo và nạn chết đói đă xăy ra tại Miền Bắc. Với tất cả những khó khăn như thế, CSVN không dám loan tin về một cuộc chiến biên giới lần hai xăy ra tại tỉnh Hà Tuyên. Ŀến khi thua trận, núi Lăo Sơn bị chiếm đóng, cộng sản VN im luôn, rồi âm thầm kư hiệp định biên giới nh́n nhận chủ quyền của Trung Công trên ngọn núi này.

    Tài liêu từ phía Trung Cộng tung ra không chỉ riêng các kư ức, bài viết mà c̣n có cả cuộn băng video nói về trân chiến tranh biên giới Trung-Việt lần 2. Cuốn phim video có nhan đề Anh Ngữ là Operation Blue Sword B - tạm dịch là Chiến Dịch Kiếm Xanh B. Trong cuộn phim video này, có ghi lại h́nh ảnh của những cán binh Trung Cộng chuẫn bị xuất quân vào trận Lăo Sơn, và những h́nh ảnh trở về của những cán binh này. Trong phim c̣n điểm rơ những cán binh nào đă không có mặt khi trở về so với h́nh ảnh trước khi xuất quân. Một cuộn phim khác cũng với nhan đề như trên nhưng do quân đội Trung Cộng thực hiện với các h́nh ảnh cho thấy kế hoạch hành quân được đề ra như thế nào; lính được tổ chức ra sao trước khi vào trận.

    Chúng tôi sẽ lần lượt đưa lên trang báo điện tử này những tư liệu liên quan đến cuộc chiến biên giới lần thứ hai - từ năm 1984-1989 trong nhiều bài viết, tổng hợp tất cả những nguồn tài liệu mà chúng tôi t́m được từ cả hai phía Việt Nam cũng như Trung Cộng. Quư bạn đọc nào t́m được những tư liệu nào khác xin vui ṿng phổ biến và gởi đến chúng tôi.


    CUỘC CHIẾN BIÊN GIỚI LẦN THỨ NHẤT - 1979

    Đây là cuộc chiến mà cả thế giới đều biết. Nguyên nhân xăy ra cuộc chiến này - theo sự phân tích của các chuyên gia về Trung Cộng và Việt Nam - là v́ Trung Cộng muốn phá vỡ ṿng vây của Liên Xô đang muốn bao vậy Trung Cộng ở phía Nam. Sự kiện CSVN đánh chiếm Cam Bốt, tiêu diệt phe Khmer Đỏ do Trung Cộng ủng hộ là hành động Trung Cộng cho rằng CSVN đă theo hẳn Liên Xô và thực hiện các mục tiêu chiến lược bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô khắp Ŀông Dương. Hành động này không thể chấp nhận được đối với Trung Quốc khi đứa con ghẻ - CSVN - mà họ đă phải cưu mang, giúp đỡ viện trợ trong cuộc chiến tranh cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nay lại phản bội họ và đi hẳn vào quỹ đạo của Liên Xô. Trong buổi họp của bộ chính trị Trung Cộng tại Trung Nam Hải, tướng Vi Quốc Thanh - tác giả của trận Ŀiện Biên Phủ - đă tuyên bố: "Trung Quốc sẽ dạy cho Việt Nam một bài học!" Tuy Vi Quốc Thanh không trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh biên giới lần thứ nhất 1979, nhưng ông nổi tiếng v́ chính câu nói trên. Muốn biết thêm về Vi Quốc Thanh - tác giả của trận Ŀiện Biên Phủ như thế nào xin xem bài Sự Thật Về Huyền Thoại Anh Hùng Ŀiện Biên http://www.vietnamexodus.info/vne/mo...article&sid=78






    Tướng Vi Quốc Thanh

    Sau cuộc chiến biên giới lần thứ nhất năm 1979, cả hai phía Trung Cộng và Việt Nam đều tuyên bố chiến thắng. Tuy nhiên phiá Trung Cộng khám phá ra một sự thật sau cuộc chiến: vũ khí trang bị cho cán binh Trung Cộng thua xa vũ khí của phiá cán binh cộng sản Việt Nam. 2/3 cán binh Trung Cộng được trang bị loại súng 56 bán tự động, trong khi hầu hết cán binh Việt Nam được trang bị súng tự động loại 56 do Trung Cộng, Tiệp Khắc và Liên Xô chế tạo. Về lượng vũ khí, phiá CSVN cũng nhiều hơn so với Trung Cộng nhờ vào kho vũ khí của Hoa Kỳ để lại sau năm 1975!

    Có thể nói Trung Cộng đă thành công trong việc dạy cho cộng sản VN một bài học, nhưng thất bại về mặt quân sự!. Trung Cộng mất 30 ngàn quân và phía cộng sản Việt Nam mất 26 ngàn quân không tính số thương dân bị thương vong. Dĩ nhiên cả hai con số thương vong vẫn c̣n nằm trong ṿng tranh cải. Theo tài liệu của Quốc Pḥng Trung Quốc th́ những sĩ quan tham dự trận đánh biên giới năm 1975 bị kỷ luật bằng cách không cho thăng chức và cho giải ngũ gần hết. Tuy nhiên các các sĩ quan cao cấp tham dự cuộc chiến tranh biên giới lần thứ 2 1984 th́ được tăng thưởng và có vị nay đă được đề bạt vào bộ chính trị.



    Cán binh CSVN bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến biên giới 1979. Để ư, người cán binh này dùng súng M79 và súng tiểu liên của Mỹ.



    Lính Trung Cộng tiến vào thị xă Lạng Sơn năm 1979


    Doanh trại CSVN bị lính Trung Cộng chiếm năm 1979



    CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI LẦN THỨ HAI - 1984-1989

    Nguyên nhân cuộc chiến tranh biên giới lần thứ hai xăy ra chính v́ sự tranh chấp biên giới tại ngọn núi Lăo Sơn ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hạ Tuyên. Ngọn núi Lăo Sơn có h́nh dạng của một chữ "U" nằm gần biên giới giữa Trung Cộng và Việt Nam. Trên đỉnh núi h́nh chữ "U" đều có có cột biên giới được cắm mốc, và ngọn núi Lăo Sơn nằm dưới đáy của chữ "U". Việc tranh chấp không nằm ở cột mốc biên giới, nhưng việc tranh chấp giữa đôi bên là vẽ đưỿng biên giới như thế nào? Phía cộng sản VN cho rằng phải vẽ một đường thẳng giữa hai cột mốc, do đó núi Lăo Sơn nằm bên biên giới Việt Nam; thế nhưng Trung Cộng lư luận rằng đường biên giới phải theo địa thế thiên nhiên; thí dụ lằn ranh biên giới phải nằm trên chóp núi; nghiă là Lăo Sơn nằm trong biên giới Trung Cộng! Việc tranh cải phương pháp vẽ đường biên giới thoạt đầu tưởng rằng chỉ liên quan đến vấn đề kỹ thuật, nhưng thực chất là một điều quan trọng về mặt chiến lược v́ nó quyết định phần lănh thổ này thuộc chủ quyền của nước nào.

    Sau cuộc chiến tranh biên giới lần thứ nhất 1979, quân đội Trung Cộng không theo truyền thống đóng quân dọc biên giới nữa, nên đóng rất xa lằn ranh biên giới. Ngược lại phía cộng sản VN quyết định đóng quân gần biên giới và nhất là đóng quân trên đỉnh núi Lăo Sơn cùng với những ngọn núi lân cận.

    Học được bài học 1979, trong thời gian 5 năm, từ năm 1979 đến năm 1984, Trung Cộng quyết định canh tân quân đội, và mua thêm các thiết bị quân sự từ Hoa Kỳ để chuẫn bị cho cuộc chiến tranh biên giới lần thứ hai. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây là sau cuộc chiến tranh 1979, Trung Cộng và Việt Nam không hề kư bất cứ một hiệp ước đ́nh chiến nào cả, nên về mặt kỹ thuật cả hai nước vẫn c̣n trong t́nh trạng chiến tranh. Với chủ trương tiếp tục dạy cho cộng sản VN một bài học và làm cho CSVN tiếp tục chảy máu, Trung Quốc lấy cớ quân cộng sản VN chiếm đóng núi Lăo Sơn - là đất của Trung Cộng, nên xua quân tràn vào đánh chiếm lại Lăo Sơn.

    Từ năm 1984 đến năm 1989, nhiều trận giao tranh đă diễn ra giữa quận đội Trung Cộng và CSVN, và có lần lên đến cả cấp sư đoàn. Trận giao tranh lớn nhất xăy ra là vào ngày 12 tháng 07, 1984 tại ngọỿn núi Lăo Sơn. Ŀến ngày 28 tháng 04, 1984, Trung Cộng chiếm được núi Lăo Sơn. Những cuộc phản công sau đó của quân đội cộng sản VN nhằm chiếm lại Lăo Sơn hoàn toàn thất bại. Những trận đánh lớn xăy ra tại Lăo Sơn và những ngỿn núi lân cận được ghi nhận vào các ngày:

    12 tháng 7, 1984
    20, 21 tháng 12, 1984
    15 tháng 1, 1985
    8 tháng 03, 1985
    19-20 tháng 07, 1985
    23 tháng 09, 1985
    28 tháng 01, 1986
    19 tháng 10, 1986
    6 tháng 01, 1987
    23 tháng 04, 1987

    Trong trận chiến 1984, quân đội Trung Cộng được trang bị vũ khí tối tân hơn với loại súng 81, và mỗi người lính được trang bị áo giáp. Ŀặt biệt nhất là việc xử dụng hệ thống radar mua của Hoa Kỳ nhằm ḍ t́m địa điểm xuất phát của pháo binh địch để bắn trả.. Hệ thống radar này chính xác đến độ chỉ cần pháo binh CSVN bắn phát đầu tiên, vài giây đồng hồ sau, Radar cho biết toạ độ của viên đạn được bắn ra. Biết được toạ độ của CSVN, pháo binh của Trung Cộng chỉ cần không đầy 3 phút để bắn trả lại. Kết quả là pháo binh của CSVN bị đánh tan ngay từ những phút đầu tiên của trận đánh.


    (c̣n tiếp)




    Ảnh trích từ mạng Quốc Pḥng Trung Quốc (Defense-China.com). Đọan phim video

    tài liệu về kế họach và hành quân đánh chiếmLăo Sơn. Phim video có tên Operation

    Blue Sword B.














    http://www.vietnamexodus.info/vne/mo...rticle&sid=178

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    BÍ MẬT LỊCH SỬ: TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆT LẦN THỨ HAI TỪ 1984-1989. VIỆT NAM BỊ MẤT "NÚI ĐẤT" (bài 2)




    Đỉnh núi 1509 (Lăo Sơn) được đánh kư hiệu A.

    05h50 ngày 28 tháng 4 năm 1984 trung đoàn 118 thuộc sư đoàn 40, quân đoàn 14 trực thuộc quân khu Côn Minh có pháo binh yểm trợ tấn chiếm cao điểm Núi Đất 1509, TC gọi là Lăo Sơn, cùng lúc với các cao điểm khác.H́nh trích từ mạng Quốc Pḥng-Trung Quốc


    Trong bài nh́ viết về trận chiến tranh biên giới giữa Trung Cộng và Việt Nam lần thứ hai từ 1984-1989, chúng tôi cần định danh lại một từ đă dùng cho bài trước: đó là điạ danh núi Lăo Sơn. Lăo Sơn là tên mà phía Trung Cộng đặt cho ngọn núi họ chiếm được từ tay CSVN. Ngọn núi nằm trong lănh thổ Việt Nam, thuộc xă Thanh Thuỷ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên, nay là tỉnh Hà Giang. Phía Việt Nam không gọi ngọn núi này là Lăo Sơn mà gọi là "Núi Đất"! Trong các bản đồ hành quân cũng như trong các bài viết của cán binh cộng sản VN kể lại trận đánh tại Núi Đất, họ không gọi là Núi Đất mà lại gọi là cứ điểm 1509, đôi khi c̣n gọi là 1800. Do vậy, kể từ bài này trở đi chúng tôi sẽ dùng điạ danh là Núi Đất khi nói về phiá VN và Lăo Sơn khi nói về phía Trung Cộng.

    Trung Cộng Đánh Chiếm Núi Đất - 1509 - (Lăo Sơn)

    Núi Đất, cao 1,422m so với mực nước biển nằm trong lănh thổ VN, thuộc xă Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), có cao độ lớn nhất trong toàn chiến trường Thanh Thủy. Đỉnh 1509 của nó nằm ngay trên đường biên giới, sống núi nằm dọc theo hướng tây bắc. Sau cuộc chiến năm 1979, 1509-Núi Đất-Lăo Sơn được quân CSVN xây dựng thành một vị trí pḥng ngự quan trọng, từ đó họ có thể mở các cuộc đột kích vào lănh thổ TQ



    Đỉnh núi 1509 (Lăo Sơn) được đánh kư hiệu A.

    Ở ngọn núi 1509, lực lượng pḥng ngự của VN theo phía Trung Cộng ghi là ở cấp tiểu đoàn. Tuy nhiên, điều này có thể là phóng đại, lư do là địa h́nh khu vực khá hiểm trở không thể cho phép bố trí một số quân lớn như vậy chỉ trên một đỉnh (thực tế các trận địa pḥng ngự khác của CSVN đều ở cấp đại đội trở xuống).

    Năm 1984, nại cớ quân CSVN cứ thường hay pháo kính qua biên giới, quân đội Trung Cộng tiến công đánh chiếm ngọn núi 1509. Sự kiện này được coi là chính thức mở màn cuộc chiến biên giới Việt-Trung lần thứ hai.

    Lúc 05h50 ngày 28-4-1984, trung đoàn bộ binh 118 thuộc sư đoàn bộ binh 40, quân đoàn 14, Đại quân khu Côn Minh được pháo binh chi viện với mật độ cao tấn công đỉnh 1509. Ngoài ra quân Trung Cộng cũng tổ chức đánh chiếm một số cao điểm khác ở xung quanh.


    Lúc 06h24, bộ binh Trung Cộng bắt đầu xung phong.


    Theo tài liệu của mạng Quốc Pḥng Trung Quốc, Defense-China.com. phía Trung Cộng đánh giá là chỉ vấp phải sức kháng cự yếu từ phía bộ đội CSVN. Tuy nhiên qua nhiều thông tin của các cán binh Trung Cộng th́ không hoàn toàn như vậy. Trung đoàn 118 của Trung Cộng phải đến 15h30 mới hoàn toàn chiếm được đỉnh 1509 sau khi đơn vị pḥng ngự hy sinh đến người cuối cùng. Đặc biệt, có 4 nữ cán binh CSVN cố thủ trong hang đá, không chịu đầu hàng và lính Trung Cộng đă phải dùng súng phun lửa mới tiêu diệt được những cô gái này. Quân Trung Cộng cũng bị thương vong nặng : trung đoàn 118 bị chết 198 lính cùng một số bị thương. Trong đó một tiểu đoàn của trung đoàn này có tới 70% quân số bị loại khỏi ṿng chiến.







    Sự kiện 4 nữ cán bịnh CSVN cố thủ trong hang đá bị lính Trung Cộng dùng súng phóng hoả thiêu chết trong hang, đă được một cán binh Trung Cộng kể lại trong hồi kư của anh, đặng trong mạng Quốc Pḥng Trung Quốc. Đoạn thiêu đốt 4 nữ cán binh CSVN, anh ta đă viết:


    Tiếp sau đó là những đợt phản kích của CSVN.

    Ngày 11-6-1984, lúc 03h00, một lực lượng cấp tiểu đoàn của CSVN đă tấn công Núi Đất 1509. Mặc dù bộ đội CSVN đă đột kích được vào trong trận địa địch nhưng sau đó đă bị đẩy lùi.

    Ngày 12-7-1984, được coi là trận đánh lớn nhất của giai đoạn 1984-1991. Theo phía Trung Cộng, phía CSVN đă huy động 6 trung đoàn bộ binh thuộc các sư đoàn bộ binh 312, 313, 316 và 356 để tấn công 1 trung đoàn bộ binh Trung Cộng pḥng ngự ở 1509. Quân TQ được sự yểm trợ của hàng vạn quả đạn pháo đă đẩy lui cuộc tấn công. Theo phía Trung Cộng th́ CSVN bị tổn thất rất lớn, riêng số xác bỏ lại trận địa là 3,700 !

    Theo thông tin của các cán binh cộng sản tham dự trận đánh 1509, "trung đoàn bộ binh 982 của sư đoàn bộ binh 313 đă tái chiếm thành công 1509. Nhưng sau đó bộ phận pḥng ngự v́ nhiều lư do đă tự ư bỏ chốt và Trung Cộng chiếm được 1509 lần thứ hai. Kể từ đây không có thêm trận phản kích nào nữa. Từ 1509, quân Trung Cộng lấn xuống tới b́nh độ 1200 th́ bị chặn lại, bộ đội CSVN giữ được từ b́nh độ 1100 trở xuống."

    Các trận giành giật tiếp tục diễn ra, chủ yếu với quy mô đại đội, ác liệt nhất trong những năm 1984-1987. Từ đó trở về sau, giao tranh bộ binh ít dần, hai bên chủ yếu sử dụng pháo. Trận đụng độ bộ binh cuối cùng diễn ra ngày 13-2-1991.





    Trung Cộng xử dụng các tấm bích chương tuyên truyền này để kêu gọi cán binh cộng sản Việt Nam đầu hàng tại Núi Đất (Lăo Sơn). H́nh mạng Quốc Pḥng Trung Quốc.

    Một điều đặc biệt ở đây chúng ta cần phải chú ư là sự bỏ ngỏ ngọn núi 1509 sau khi bộ đội CSVN đă chiếm lại được 1509. Câu hỏi đặt ra là lư do ǵ sau khi đă hy sinh 3,700 binh lính, cộng sản VN lại bỏ chốt ngọn 1509 - mà Trung Cộng gọi là núi Lăo Sơn? Phải chăng đă có sự thương lượng ngay sau trận chiến để trao Núi Đất 1509 cho Trung Cộng mà sau này Trung Cộng gọi là núi Lăo Sơn? Cán binh cộng sản VN nghĩ thế nào khi tính mạng của họ đă bị bán đứng bằng những thương lượng chính trị giữa Trung Cộng và đảng CSVN? Câu hỏi kế tiếp là tại sao nhà cầm quyền CSVN đă dấu nhẹm việc này măi cho đến đến ngày hôm nay nếu không có sự việc tiết lộ từ phía Trung Cộng qua tác phẩm Dữ Kiện Bí Mật Của Chiến Tranh Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War) của ba tác giả Jin Hui, Zhang Hui Sheng and Zhang Wei Ming vừa mới được chuyễn ngữ qua tiếng Anh. Chính qua tác phẩm này trận chiến xăy ra tại "Núi Đất" mới được tiết lộ cho thế giới biết.



    Cứ điểm 164 nơi giao tranh xăy ra vào ngày 12 tháng 07, 1984



    Cứ điểm 164 được đánh kư hiệu là B



    Huy hiệu trao tặng đơn vị lính Trung Cộng chiếm đóng Núi Đất (Lăo Sơn) từ năm 1986-1988



    Các cựu cán binh Trung Cộng nay quay lại núi Lăo Sơn để chụp h́nh lưu niệm. Dĩ nhiên ngon núi này nay đă nằm bên biên giới Trung Cộng sau hiệp định ngừng chiến được kư giữa Trung Cộng & CSVN năm 1990

    Chúng tôi xin trích một đoạn bài viết dựa theo lời kể của một trung đoàn trưởng pháo binh Trung Cộng đă tham dự trận đánh chiếm Núi Đất (Lăo Sơn) năm 1984 từ cuốn sách nói trên, do Trần Trung Đạo dịch. Mặc dù nhiều đoạn không che dấu được tính khoát loát, cường điệu cố hữu, những dữ kiện do viên trung đoàn trưởng cung cấp, cũng chứng tỏ rằng Trung Cộng vẫn không từ bỏ giấc mộng thiên triều xâm lược bắt nguồn từ chính sách bá quyền truyền thống của họ. Đồng thời, những lời kể cũng nói lên sự bất lực của giới lănh đạo cộng sản Việt Nam chỉ biết cúi đầu thần phục, chỉ biết hối lộ tham nhũng, sống xa hoa trên sự nghèo đói của nhân dân và không biết nhục khi nh́n đất nước từng mảnh đang rơi vào tay Trung Cộng.

    "Bài tường thuật do môt Trung Đoàn Trưởng Pháo Binh Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc trong cuộc chiến Trung-Việt lần thứ hai. Tôi không biết chắc chắc mức độ chính xác của bản tường thuật nhưng khá gần với những ǵ tôi đă được đọc về chiến tranh Trung-Việt lần thứ hai. Bài tường thuật có nhiều dữ kiện rất chi tiết.

    Lưu ư: Núi Lăo Sơn, cao 1422 mét trên mặt biển. Lăo Sơn có nghĩa là “Núi Già” theo tiếng Tàu. Lăo Sơn nằm bên trong lănh thổ Việt Nam gần biên giới Trung Quốc. Sau cuộc chiến 1979, Việt Nam đă xử dụng đỉnh Lăo Sơn như một trạm xuất phát, nơi các lực lượng Việt Nam điều hợp các cuộc lục soát lớn vào Trung Cộng.

    Đầu năm 1984, trung đoàn của chúng nhận lịnh phải chiếm mủi Lăo Sơn. Ngày 18 tháng 2 chúng tôi tiến đến Ei-Liang, và ngày 20 đến đồi Ma-Sho. Sau 40 ngày chuẩn bị, ngày 1 tháng Tư, 3 đại đội gia nhập “Đề án 142”. Họ bắn vài loạt đạn về phía Việt Nam và rút ngay, để buộc phía Việt Nam trả đủa, và qua đó, để lộ vị trí.

    Chúng tôi dùng đại pháo để áp đảo địch. Ngày 26 tháng Tư, mọi việc đă được chuẩn bị sẵn sàng và Lực Lượng Đặc Nhiệm Pháo Binh 119 được thành lập.

    Để chiếm một căn cứ hỏa lực, chúng tôi tiến quân vào ban đêm. Không ai được phép gây tiếng động. Chúng tôi tháo gỡ các bộ phận súng 85 ly và chỉ lắp ráp lại sau khi đến căn cứ. Tầm hỏa lực chỉ cách địch quân 500 mét. Để thấy đường đi, chúng tôi dùng các tấm vải trải giường trắng. Chúng tôi bố trí súng đọc phía bên phải của một căn nhà hoang. Trung đội 4 thám thính tiến quá sát với địch quân, chỉ cách địch 400 mét và trong tầm bắn thẳng.

    Ngày 28 tháng 4, lúc 5 giờ 50 sáng, pháo binh bắt đầu khai hỏa. Sau 34 phút pháo kích, mặt đất như bắt đầu rung chuyển. Lúc 6 giờ 24 phút sáng, khi trận pháo kích vừa ngưng, bộ binh mở cuộc tấn công. Quân đội Việt Nam phản ứng trong ṿng 2 phút. Và ngay trong những viên đạn đầu tiên họ đă bắn hạ một trung đội trưởng của chúng tôi. Anh ta là đồng chí đầu tiên hy sinh tại Lăo Sơn. Chúng tôi bắn yểm trợ cho bộ binh. Bộ binh tiếng bằng cách nhảy từ miệng hố đạn này sang hố đạn khác. Sau 9 phút, chúng tôi chiếm được điểm cao 662.6, và 54 phút sau, núi Lăo Sơn hoàn toàn lọt vào tay chúng tôi. Đến 3 giờ 30 chiều, khoảng 20 điểm cao phía đông điểm cao 662.6 cũng lọt vào tay chúng tôi. Chúng tôi cũng triệt hạ một xe tăng địch bằng 5 phát pháo trực xạ.

    Ngày 11 tháng 6, lúc 3 giờ sáng, một viên pháo sáng được bắn lên. Chúng tôi tự hỏi chuyện ǵ đang xảy ra. Trong suốt 30 phút, chúng tôi không liên lạc được với các đơn vị khác bằng điện thoại. Tiểu đoàn 2 thám thính cũng bị gián đoạn liên lạc. Duy nhất một trung đội trưởng liên lạc được với chúng tôi và yêu cầu chúng tôi khai hỏa. Chúng tôi từ chối với lư do các đơn vị bạn cũng ở ngay trong vị trí đó. Chúng tôi yêu cầu 5 lính thám thính của tiểu đoàn 2 đến mặt trận, nhưng họ bị hỏa lực của địch ngăn chận. Trời sáng, viên chỉ huy toán thám thính với cả đại đội thám thính cũng bị đẩy lui. Tại điểm này chúng tôi biết các vị trí tiền phương của chúng tôi đă bị địch quân tràn ngập. Vào 5 giờ 30 sáng, với sự yểm trợ của tiểu đoàn pháo, chúng tôi mở cuộc phản công. Trong ṿng 30 phút, chúng tôi chiếm lại các vị trí đă mất. Lúc 6 giờ, địch quân mở cuộc tấn công mới. Các đơn vị bộ binh của chúng tôi gọi pháo binh bắn yểm trợ. Khoảng 500 đến 600 địch quân tấn công vào pḥng tuyến của chúng tôi giữa lúc các giàn tên lửa của chúng tôi cũng bắt đầu khai hỏa.

    Chúng tôi giữ được vị trí và bắn hạ khoảng 100 quân địch. Tiểu đoàn pháo thứ hai của chúng tôi cũng vừa gia nhập mặt trận và tuôn đại pháo vào quân thù. Đến 3 giờ chiều, quân địch không thể nào đạt đến vị trí pḥng thủ của chúng tôi. Lực lượng tiếp viện của địch đang cố gắng vượt qua sông và tấn công vào phía cạnh sườn của chúng tôi. Tư lịnh sư đoàn ra lịnh chúng tôi khai hỏa. Trước hết chúng tôi hướng ṇng pháo vào 10 độ phía bên trái và rồi 10 độ phía bên phải. Cả đại đội địch quân đă không thể rút về vị trí của chúng.

    Ngày 12 tháng 7, địch quân phản kích.

    Sau 11 tháng 6, chúng tôi đă học được bài học. Các ống phóng tên lửa do tôi chỉ huy. Pháo 82 ly do các tiểu đoàn chỉ huy. Đơn vị pháo 100 mm được đào sâu vào và đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tôi. 12 trung đội đại pháo, bao gồm 4 trung đội xe tăng được phân phối cho mỗi đơn vị. Các hỏa lực tăng cường sẽ được hướng dẫn để bắn thẳng vào những con đường mà quân địch chắn chắn sẽ dùng để tiến. Những con đường đó được chia ra. Mỗi đơn vị thám thính được chọn một hướng. Hai trung đội pháo sẽ bắn vào con đường chính với mục đích làm chậm chân quân địch. Ba trung đội tên lửa đóng trên cao điểm 152. Một trong số đó do Li Hai-Ren chỉ huy. Mật ngữ để tấn công là Heo Rừng.

    Ngày 12 tháng 7, chúng tôi biết được danh sách các đơn vị địch quân. Theo sự ước tính của chúng tôi, địch quân gồm hai trung đoàn thuộc sư đoàn 356, một trung đoàn thuộc sư đoàn 316, va 6 trung đoàn độc lập sẽ tham gia trận đánh.

    Chúng tôi quả quyết địch quân sẽ tấn công lúc 5 giờ sáng. Lúc nửa khuya, chúng tôi có 2.5 lần số đạn b́nh thường sẳn sàng cho các khẩu pháo. Lúc 3 giờ sáng, tổng hành dinh thông báo 3 vị trí của địch quân và ra lịnh khai hỏa vào các vị trí đó.

    Sau tràng pháo thứ nhất, tôi nói chuyện với trung đoàn trưởng Chang Yo-Hop. Tôi hỏi ông ta nếu ông ta là chỉ huy địch quân, khu vực nào chắc chắn nhất ông sẽ tấn công. Viên trung đoàn trưởng trả lời là khoảng rộng 300 mét phía bắc của ḍng sông.

    Tôi đồng ư với ông và chỉ thị cho 6 trung đội trọng pháo tập trung hỏa lực vào mục tiêu 1000 mét chung quanh khu vực đó. Tôi báo cáo quyết định đến bộ chỉ huy. Tư lịnh phó sư đoàn chấp thuận. Tôi ra lịnh pháo binh bắn từng loạt cách nhau 10 phút. Sau loạt pháo thứ hai, không có ǵ xảy ra (gạch bỏ phần chửi tục bằng tiếng Tàu). Tôi chỉ thị bắn hỏa châu soi sáng khu vực và kết quả cũng không có ǵ. Thật phí đạn. Bộ tư lịnh chỉ thị chúng tôi ngưng bắn. Lúc đó khoảng 3 giờ sáng. Nhiều binh sỉ của chúng tôi lăn ra ngủ ngay.

    Ngay lúc đó chúng tôi mới khám phá ra rằng lực lượng tấn công của địch chỉ cách pḥng tuyến chúng tôi 500 mét. Hai tiểu đoàn trưởng của địch bị giết tại chỗ. Mặc dù không có chỉ huy, địch quân đă không từ bỏ vị trí của chúng. Những lính bị thương cũng không rên rĩ. Họ di chuyển thương binh ra khỏi khu vực sau khi hỏa châu vừa tắt. Kỹ luật của quân địch thật không thể nào tin được.

    Lúc 5 giờ sáng, cả địa ngục rung rinh. Trận đánh bùng nỗ tại mọi phía. Chúng tôi bắt được tù binh đầu tiên và tại điểm này chúng tôi đă gây thương vong trầm trọng cho địch quân. Qua các tù binh, chúng tôi biết những ǵ đă xảy ra trước đó. Địch quân quả thật kỹ luật đến nỗi họ tung ra cuộc tấn công ngay cả khi chỉ huy trưởng của họ đă tử trận. Địch quân cũng rất giỏi dấu tung tích. Họ ngay cả không dùng một phương tiện truyền tin vô tuyến nào trước khi tấn công.

    Ngay khi địch quân tấn công, các đơn vị bộ binh chúng tôi gọi pháo yểm trợ. Tôi lo lắng sẽ bắn nhầm quân bạn. Bộ chỉ huy ra lịnh tôi khóa pḥng tuyến bằng cách bắn vào làn sóng tấn công thứ hai. Làn sóng tấn công thứ nhất thường là các đơn vị thám thính, nơi phía sau có thể có cả trung đoàn đang yểm trợ. Các giàn tên lửa của chúng tôi nhả 13 tràng liên tu.c. Ngoài ra các khẩu pháo 85 ly, 100 ly, 152 ly cũng tham gia phản kích.

    Chúng tôi bắn 200 mét về phía trước tại 6 điểm. Từ bên trái đến bên phải và từ phía sau đến bên trái lần nữa. Hỏa lực pháo chúng tôi dựng lên một bức tường lửa chung quanh các đơn vị của chúng tôi. Chúng tôi giết rất nhiều địch quân, và nhiều ống phóng tên lửa của chúng tôi nóng đỏ rực. Trong ngày đó, trung đoàn chúng tôi bắn trên 10 ngàn viên pháo.

    Đến trưa, chúng tôi hết đạn. Khi tin này này được báo lên tư lịnh trung đoàn Chang Yo-Hop, ông ta thật không vui. Không có hỏa lực pháo yểm trợ, thật không có cách ǵ ngăn chận được sức tấn công của 6 trung đoàn địch. Tôi đă gọi tăng viện đạn dược ngay khi viên pháo đầu tiên được bắn đi.

    Lúc 1 giờ chiều th́ 470 xe tải chở đạn cũng vừa tới. Quân đội Việt Nam đă chiếm lại được cao điểm 164. Một trong những tiểu đoàn của họ chỉ c̣n 6 người sống sót nhưng họ vẫn tiến. Lực lượng bộ binh của chúng tôi bắt đầu khai hỏa phản công ngay. Cuộc pháo kích nặng nề cày nát điểm cao đó. Trong ṿng 15 phút chúng tôi chiếm lại được cao điểm 164. Quân Việt Nam từ chối rút lui. Làn sóng này sang làn sóng người khác tiếp tục tiến lên giành lại ngọn đồi. Khi cuộc chiến tàn, chúng tôi đếm được 3700 địch quân địch bỏ thây trên mặt trận. Tư lịnh sư đoàn chúng tôi, cựu chiến binh từ thời nội chiến, cũng phải nói rằng ông ta chưa bao giờ thấy nhiều xác chết như thế. Chúng tôi tịch thu vũ khí và thắt lưng trên xác Việt Nam và phân phát cho lính trong trung đoàn chúng tôi. Đêm đó, bảy chúng tôi trong bộ chỉ huy trung đoàn với tư lịnh trung đoàn Chang Yo-Ho hút 4 bao thuốc. Chúng tôi không thể ăn, uống sạch cả bốn thùng rượu.

    Ngày 14 tháng 7, chúng tôi ra tín hiệu cho phép phía Việt Nam để thu hồi xác chết. Chúng tôi chỉ thị cho họ mang cờ Hồng Thập Tự, mỗi toán không được quá 50 người và không được mang theo vũ khí. Một toán khoảng 60 đến 70 lính Việt Nam đến không có cờ. Khi biết chúng không tuân theo chỉ thị v́ đeo theo đúng, chúng tôi khai hỏa.

    Chúng tôi không quan tâm ǵ sinh mạng của chúng. Không một người nào trong nhóm lính này sống sót. Việt Nam chẳng c̣n đến thu hồi xác chết nữa. Trời đang là mùa hè. Nắng rồi mưa. Không ai có thể chịu được mùi xác chết. Chúng tôi buộc phải gởi các đơn vị chống hóa chất đến để đốt tất cả xác chết bằng những ống phun lửa."

    Ngoài ra cũng c̣n có một số các hồi kư của cán binh Trung Cộng đă từng tham gia trận đánh "Núi Đất" - 1509 - Lăo Sơn - cũng đă kể lại những diễn tiến của trận chiến đó. Điển h́nh là bài viết dưới đây bằng tiếng Hoa của một cán binh Trung Cộng khi tham gia trận chiến Núi Đất, anh sẽ chỉ mới 17 tuổi, đăng trong mạng Quốc Pḥng Trung Quốc. Trong đoạn hồi kư này có nhắc đến việc 4 nữ cán binh CSVN bị lính Trung Cộng dùng súng phóng hoả thiêu chết sau khi cứ điểm 1509 - Núi Đất - Lăo Sơn thất thủ.

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    BÍ MẬT LỊCH SỬ: TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆT
    LẦN THỨ HAI TỪ 1984-1989.
    VIỆT NAM BỊ MẤT DẢI B̀NH ĿỘ 400 Ở CAO LỘC (LẠNG SƠN) VÀ "NÚI BẠC" (bài 3)



    Cán binh CSVN bị bắt trong trận đánh chiếm núi 1509 (Lăo Sơn) của TC

    H́nh trích từ mạng Quốc Pḥng Trung Quốc



    Khi nghiên cứu và t́m hiểu kỹ hơn chúng tôi được biết trận chiến tranh biên giới làn thứ hai có thể được tính ra là xăy ra vào năm 1981, chứ không phải bắt đầu vào năm 1984. Tuỳ theo cách nh́n mà chúng ta có thể đánh giá sự kiện này xăy ra vào thời điểm nào. Có lư do để đặt lại vấn đề này. Theo các tài liệu của mạng Quốc Pḥng Trung Quốc th́ họ đánh giá rằng cuộc chiến tranh biên giới lần hai giữa Hoa-Việt xăy ra vào năm 1984; nhưng theo tài liệu từ phiá Việt Nam th́ đă có những cuộc giao tranh xăy ra giữa Trung Cộng và Việt Nam vào năm 1981. Năm 1981, cuộc giao tranh không lớn so với năm 1984, nhưng sự kiện quan trọng nhất xăy ra năm 1981 là cộng sản VN mất giải b́nh độ 400 ở Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn.




    MẤT DẢI B̀NH B̀NH ĐỘ 400 Ở CAO LỘC TỈNH LẠNG SƠN?

    Mặc dù cuộc chiến tranh biên giới lần thứ nhất chấm dứt vào năm 1979 với sự rút quân của Trung Cộng, nhưng theo cuốn Sự thật về 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, NXB Đà Nẵng, 1996, th́ Trung Quốc vẫn duy tŕ 12 sư đoàn và hàng chục trung đoàn độc lập áp sát biên giới Việt Nam. Những sư đoàn này thường xuyên gây t́nh h́nh căng thẳng, tiếp tục lấn chiếm lănh thổ Việt Nam ở mọi quy mô, thực hiện kiểu "chiến tranh phá hoại nhiều mặt". Những cuộc tiến công, xâm nhập trái phép, những trận pháo kích dữ dội từ phía Trung Quốc sang đất Việt Nam tiếp tục tàn phá nhà cửa, ruộng vườn trên biên giới Việt Nam. Ngày 5 tháng 6 năm 1981, quân Trung Cộng bắn dồn dập hàng ngh́n quả đạn pháo và cối sang nhiều khu vực thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, sau đó dùng lực lượng lớn đánh chiếm khu vực b́nh độ 400 ở phía nam cột mốc 26 thuộc lănh thổ Việt Nam. Ngày 7 tháng 6 năm 1981, nhiều đơn vị lính Trung Quốc dưới sự yểm trợ của pháo binh, tiến công đánh chiếm một số điểm cao ở xă Lao Chải, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên…

    Trong trận tấn công năm 1981, quân Trung Cộng chiếm được dải b́nh độ 400 ở Cao Lộc - tỉnh Lạng Sơn. Ghi nhận từ phía Việt Nam về sự kiện này được bạn Chiangsang của mạng Trái Tim ghi lại như sau: "Trước khi bùng nổ trở lại năm 1984, trước đó năm 1981 c̣n diễn ra một số cuộc giao tranh, lực lượng TQ tham gia trận chiến ở Gao Lin Shan là trung đoàn biên pḥng 15 và sư đoàn bộ binh 42 quân đoàn 14, ở Fa Car Shan là sư đoàn 3 biên pḥng tỉnh Quảng Tây (theo http://www.orbat.com/). Phía VN cũng ghi nhận xung đột giai đoạn này ở Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn. Đặc biệt, trong đó có dải b́nh độ 400 ở Cao Lộc (Lạng Sơn) đă bị quân TQ chiếm đóng từ 1981-1997 (nguồn : Ngoại giao Việt Nam). Nhưng nói chung xung đột năm 1981 không lớn. Khi em nói dải b́nh độ 400 bị TQ chiếm từ 1981-1997 không có nghĩa là nó được trao trả năm 1997. Mà là đến thời điểm cuốn NGVN xuất bản năm 1997 th́ nó vẫn bị chiếm."

    Cho đến nay - năm 2006 - vẫn chưa có tài liệu nào nói một cách chắc chắn được rằng dải b́nh độ 400 ở Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn có được Trung Cộng trao trả lại cho phía bên Việt Nam hay không, nhưng tính đến thời điểm năm 1997 th́ giải b́nh bộ 400 vẫn c̣n bị Trung Cộng chiếm đóng như lời kể của Chiangsang ở trên. Kể lại sự kiện dải b́nh độ 400, một bộ đội Việt Nam đă kể trên mạng Trái Tim như sau: "Năm 1995, lớp bọn ḿnh đi huấn luyện quân sự, các giáo viên luôn lấy các chiến dịch pḥng ngự chống lấn chiếm và chiến dịch tái chiếm dăy b́nh độ 400 làm ví dụ của bài giảng. 10 năm rồi không c̣n nhớ rơ nữa, nhưng giáo viên (Trung tá) giảng là ta bắn vào đấy tổng cộng 20 vạn quả đạn pháo và cối các loại, hy sinh hàng ngh́n chiến sỹ. Nhưng khi sinh viên vặn hỏi có lấy lại được không th́ thầy giáo không trả lời. Trong một bài giảng có một trận đánh như sau:Ta bắn chuẩn cực kỳ dữ dội, sau đó bộ binh tràn lên không gặp sức chống cự. Bộ phận tấn công đă điện về Sư đoàn là hoàn thành nhiệm vụ, v́ bộ đội đă "bu" gần hết xung quanh đỉnh Thế nhưng đúng lúc ấy địch phản pháo đột ngột. Theo bản năng, bộ đội ta ào ạt nhảy vội xuống hào để tránh thương vong. Nhưng lúc này mới biết toàn bộ chiến hào đă bị gài ḿn. Bộ đội ta trúng ḿn liên tục, thương vong nặng. Số c̣n lại do dự c̣n trên mặt đất chưa dám xuống hào cũng bị pháo bắn hất tung, nên đành phải nhảy tiếp xuống dưới hào, nhưng cố chọn chỗ nào ḿn đă nổ (nơi thương binh tử sỹ vẫn đang vật vă).Sau hơn 1 phút pháo bắn, địch trú sẵn ở các địa đạo bố trí dưới chiến hào bật nắp nhô lên, dùng súng trung liên quét dọc theo đội h́nh ẩn nấp của ta làm toàn bộ các chiến sỹ hy sinh. Riêng trận này mất hơn 300 người. Pháo ta bắn phản pháo không có tác dụng. Chỉ có một số rất ít chiến sỹ chạy thoát về tuyến sau."

    Chúng tôi sẽ cố gắng t́m hiểu về sự kiện dải b́nh đô 400 tỉnh Lạng Sơn để xem đến nay nó thuộc về phía bên nào để cống hiến cùng bạn đọc.

    VIỆT NAM MẤT NÚI ĐẤT VÀ NÚI BẠC NĂM 1984.

    Khác với trận đánh năm 1981 tiến công vào Lạng Sơn chiếm dải b́nh độ 400, trận đánh năm 1984 quy mô và lớn hơn rất nhiều, và có thể cũng chính v́ như vậy mà mà mạng Quốc Pḥng Trung Quốc gọi đây là cuộc chiến tranh biên giới lần thứ hai. Theo tài liệu của Quốc Pḥng Trung Quốc th́ các đơn vị Trung Quốc tham chiến từ năm 1984 đến năm 1988 gồm có:

    Đại quân khu Côn Minh :

    - Sư đoàn bộ binh 31 (quân đoàn 11).
    - Sư đoàn bộ binh 32 (quân đoàn 11).
    - Sư đoàn bộ binh 40 (quân đoàn 14).
    - Sư đoàn bộ binh 41 (quân đoàn 14), gồm trung đoàn bộ binh 122, 123 và trung đoàn biên pḥng 15.
    - Sư đoàn pháo binh số 4, ĐQK Côn Minh.

    Thời gian tham chiến : tháng 4-1984 đến tháng 4-1985.

    Thiệt hại : 766 chết (gồm cả công nhân dân sự ?).
    Trong đó :
    - Cao điểm Lăo Sơn và Ba Li He Dong Shan : 651 chết.
    - Cao điểm Giải Âm Sơn : 115 chết.
    - Trận ngày 12-7 : trung đoàn 119 và 122 thiệt hại 61 chết.
    - Trung đoàn 118 : 198 chết.
    - Trung đoàn 96 : 41 chết, 298 bị thương.

    Đại quân khu Nam Kinh :

    - Sư đoàn bộ binh số 1 (quân đoàn 1).
    - Sư đoàn bộ binh 36 (quân đoàn 12).
    - Sư đoàn pháo binh số 3, ĐQK Phúc Châu.
    - Sư đoàn pháo binh số 9, ĐQK Nam Kinh.

    Thời gian tham chiến : tháng 12-1984 đến tháng 5-1985.

    Thiệt hại : 404 chết.
    Trong đó :
    - Sư đoàn bộ binh số 1 : 359 chết.
    - Sư đoàn bộ binh 36 : 38 chết.
    - Sư đoàn pháo binh số 9 : 7 chết.





    H́nh trích từ mạng Quốc Pḥng Trung Quốc


    Cuộc tiến công của Trung Cộng lần thứ hai năm 1984, trích theo tài liệu từ cuốn Sa Lực – Mân Lực, 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, NXB Văn nghệ Tứ Xuyên, 1992, th́ bắt đầu từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 4, 1984 sau khi dùng pháo binh bắn phá dữ dội, 2 tiểu đoàn quân Trung Cộng đánh chiếm điểm cao 820, 636 thuộc xă Quỗc Khánh, huyện Tràng Ŀịnh, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 18 tháng 4, 2 đại đội quân Trung Quốc đánh chiếm điểm cao 1250 thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên. Đặc biệt, từ ngày 28 tháng 4 đến ngày 1 tháng 5, Trung Quốc sử dụng quân đoàn 14 và một số sư đoàn độc lập thuộc Ŀại quân khu Côn Minh tiến công các điểm cao 1545, 1509, 772, 233, 1250 thuộc tỉnh Hà Tuyên, Việt Nam."

    Ngày 28 tháng 04, 1984, cứ điểm 1509 bị Trung Cộng chiếm, và sau đó Núi Bạc huyện Yên Minh cũng bị chiếm đóng. Tại cứ điểm 1509 (nay là Lăo Sơn) Trung Cộng chết 651 quân; cứ điểm Núi Bạc (nay là Giải Âm Sơn) Trung Cộng mất 115 quân; trong khi phiá bộ đội CSVN mất 550 quân, và 18 cán binh bị bắt làm tù binh.

    Hai nơi xăy ra giao tranh quyết liệt nhất là ở cứ điểm 1509 (Lăo Sơn) và Núi Bạc (Giải Âm Sơn).

    Tính đến bài viết thứ ba này, chúng ta biết rơ là Núi Ŀất (cứ điểm 1509), Núi Bạc (cứ điểm 1250) đă bị mất luôn vào tay của Trung Cộng, riêng dải b́nh độ 400 Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn th́ c̣n phải t́m hiểu.



    Cán binh cộng sản VN bị tử thương h́nh trích từ mạng Quốc Pḥng Trung Quốc




    Càng t́m hiểu xâu hơn chúng ta mới hiểu rơ lư do tại sao cộng sản VN cho đến nay vẫn giấu nhẹm cuộc chiến tranh biên giới lần thứ hai này v́ chúng ta mất quá nhiều đất về phía Trung Cộng! Nếu như không có các tài liệu từ phiá Quốc Pḥng Trung Quốc tung ra th́ khó ḷng mà chúng ta biết được các trận đánh này và biết được Việt Nam đă mất bao nhiêu đất. Sớm hay muộn ǵ cộng sản VN phải buộc ḷng lên tiếng về sự kiện này và không thể nuốt trôi đi việc mất đất đối với quốc dân Việt Nam.





    Núi Bạc (nay là núi Giải Âm Sơn) bị mất về tay Trung Cộng


    Tài liệu của Quốc Pḥng Trung Quốc về trận đánh tại Núi Bạc (Giải Âm Sơn).

    Ng̣ai ra bạn đọc c̣n thểt tham khảo trận đánh này tại website:

    http://burningblood.yournet.cn/zhanli

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung
    BÍ MẬT LỊCH SỬ: TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆT LẦN THỨ HAI
    1984-1989.
    GIAO TRANH TẠI CỨ ĿIỂM 211 (A6B) (bài 4)



    Quân Trung Quốc tiến chiếm Núi Đất 1509 (Lăo Sơn)H́nh trích từ mạng Zhangli
    http://burningblood.yournet.cn/zhanli



    Lính Trung Quốc tử thương tại Núi Đất 1509 (Lăo Sơn)
    H́nh trích từ mạng Zhangli
    http://burningblood.yournet.cn/zhanli


    Núi Faka (chưa biết tên tiếng Việt) nằm gọn trong bày tay Trung Quốc
    H́nh trích từ mạng zhangli
    http://burningblood.yournet.cn/zhanli


    Trong đợt tấn công đầu tiên vào những năm 1984, quân Trung Quốc đánh và chiếm được các cứ điểm 1509 (Lăo Sơn), 1030, 1800, 852, và 211 ở vùng suối Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên, cùng với Núi Bạc ở huyện Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên. Sau đó quân Trung Quốc, thừa thắng tràn xuống b́nh độ 1200, nhưng bị bộ đội cộng sản chặn lại được ở b́nh độ này.

    Vào ngày 31 tháng 05, 1985, bộ đội cộng sản VN quyết định tấn công để chiếm lại cứ điểm 211. Cuộc phản kích này kéo dài từ ngày 31 tháng 05, 1985 đến ngày 3 tháng 06, 1985 th́ chấm dứt. Qua việc đo chiếu tài liệu giữa Trung Quốc và Việt Nam, cứ điểm 211 chính là cứ điểm A6B được ghi chép trong các bản báo cáo hành quân của phía bộ đội Việt Nam. Cứ điểm 211 (A6B) là mơm núi cao 200m.


    Trên mơm núi, quân Trung Quốc chia ra làm ba khu vực. Theo bản báo cáo trận phản kích tái chiếm cứ điểm 211 (A6B) th́ phía bộ đội cộng sản VN tái chiếm được 2 khu vực, riêng khu vực thứ ba th́ không thấy nhắc đến Trong khi đó th́ theo tài liệu của Thiếu tướng cộng sản Nguyễn Đức Huy, nguyên quyền Tư lệnh Quân khu 2 - th́ đầu năm 1984, mặt trận tại đây gặp khó khăn, Nguyễn Ŀức Huy được điều lên làm Phó Tư lệnh, tham mưu trưởng Quân khu 2, trực tiếp là Tư lệnh mặt trận Vị Xuyên. Lúc đó đă là Thượng tướng nhưng Huy vẫn trực tiếp theo dơi chỉ đạo một trận nhỏ là trận giành lại A6b, trận này theo tài liệu của Nguyễn Ŀức Huy th́ cuộc phản kích thành công và cứ điểm A6b được giữ vững cho đến khi kết thúc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (1990).

    Riêng hồi kư của một bộ đội Trung Quốc tham dự trận đánh ở cứ điểm 211, kể lại rất chi tiết cuộc giao tranh đẫm máu của hai bên, nhưng bản hồi kư này không ghi lại diễn tiến sau ngày 1 tháng 06, 1985, nên đến nay không chắc chắn được là khu vực thứ ba của mơm núi 211 (A6B) vẫn c̣n nằm trong tay của Trung Quốc hay Việt Nam đă chiếm lại.

    Trong bốn ngày giao tranh, phía Trung Quốc có 21 lính tử thương, 81 bị thương, một bị bắt, và phía Việt Nam mất khoảng 300 quân.



    Chúng tôi xin trích ra hai tài liệu liên quan đến trận phản kích ở cứ điểm 211 (A6B) để bạn đọc theo dơi. Tài liệu Việt Nam được trích từ mạng Trái Tim, và bản nhật kư của một người lính Trung Quốc ghi lại trận 211 trích từ mạng Quốc Pḥng Trung Quốc. Những h́nh ảnh trong bài này được trích từ mạng Quốc Pḥng Trung Quốc.

    TRẬN PHẢN KÿCH Ở CỨ ĿIỂM 211 (A6B) NH̀N TỪ PHÍA VIỆT NAM

    TRẬN TIẾN CÔNG A6b (VỊ XUYÊN - HÀ TUYÊN)
    của đại đội 5, tiểu đoàn 5, trung đoàn 567, sư đoàn 322, quân đoàn 26 Quân khu 1.
    Ngày 31-5-1985.


    ĐỊA H̀NH

    Mỏm A6 thuộc sườn đông dăy núi đá 400 (cao khoảng 200m), cách biên giới Việt Trung (mốc 12-13) khoảng 1,5km về phía đông nam.
    Tiếp giáp về phía đông A6 có đồi đá Pháp; từ đông bắc sang tây bắc có đồi Đài, đồi Cô X, đồi chuối, đồi Cây Khô, mỏm A5, A23; phía tây mỏm A22 (A6 cách các mỏm trên khoảng 200-300m); phía nam có hang Gió (cách 200m), hang Dơi, hang Mán, hang Làng Ḷ (500-100m) thuận lợi cho giấu quân.
    Mỏm A6 là núi đá tai mèo không liền khối, rộng 70m, dài 130m, phía đông và tây dốc gần như thẳng đứng, phía nam và bắc dốc thoài. Từ sườn nam sang tây bắc dốc thẳng đứng h́nh thành 2 tầng, khó phát triển khi tấn công (phải đi ṿng sang đông nam). A6 gồm 2 mỏm, nối với nhau bằng một yên ngựa thấp, địch chiếm A6b, ta chiếm A6a cao hơn không đáng kể. Cây cối đă bị pháo 2 bên bắn trụi.



    T̀NH H̀NH ĐỊCH

    Từ tháng 4-1984 địch tiếp tục mở rộng phạm vi lấn chiếm sang đất ta nhưng bị chặn lại ở khu vực bắc suối Thanh Thuỷ.
    Pḥng ngự trực tiếp tiếp xúc với ta ở A6b-A5-đồi Chuối-Cây Khô là tiểu đoàn 2 và ở 400-233 là tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 595 sư 199, quân đoàn 67 Đại quân khu Tế Nam của TQ. Sư đoàn 199 vào thay phiên từ 18-5-1985 vẫn lấy phiên hiệu đơn vị pḥng ngự cũ là sư đoàn 40 quân đoàn 14 Đại quân khu Tế Nam.
    Địch bố trí pḥng ngự ở A6b như sau :
    Phía nam : ổ số 1 có 3-4 tên. Ổ số 2 có 4-6 tên. Ổ số 3 có 3-4 tên, có 1 trung liên.
    Phía bắc và đông bắc : ổ số 4 có 7-10 tên, trang bị 1 trung liên, 1 đại liên, 3 khẩu B41, 2 giá H12 ứng dụng mỗi giá 2 ống, 1 máy VTĐ, 1 ống nḥm hồng ngoại. Ổ số 5 có 4-5 tên, trang bị 1 trung liên, 1 khẩu B41, 1 giá H12 ứng dụng 2 ống. Ổ số 6 có 7-10 tên là sở chỉ huy đại đội, có 3 máy VTĐ, 1 ĐT.
    Phía bắc và phía tây : ổ số 7 có 3-4 tên, trang bị 1 cối 60mm. Ổ số 8 có 4-5 tên. Ổ số 10 có 2-3 tên.
    Trên đỉnh có ổ số 9, có 4-5 tên, trang bị 1 đại liên có tầm kiểm soát rộng, 1 B41. Ổ số 3 và 4 là ổ cảnh giới.
    Tổng cộng địch có 40-55 tên, trang bị 2 đại liên, 4 trung liên, 5 B41, 3 giá H12 ứng dụng 6 ống. Mỗi ổ ngoài trang bị AK c̣n có hàng trăm lựu đạn, ḿn, mặt nạ pḥng độc, thiết bị thông tin...
    Công sự của địch là bao cát hoặc xếp đá cao khoảng 0,4m, khoét lỗ bắn và thả lựu đạn. Bên ngoài công sự buộc lựu đạn giật nổ. Trước công sự 8-10m địch cài ḿn ĐH dưới đất, trên cây, trên nhũ đá... phía tiếp xúc với ta gài ḿn đè nổ và vướng nổ chống bộ binh cả loại chế sẵn và ứng dụng (nhét 6 thỏi TNT vào ống bơ và gắn bộ phận gây nổ).
    Ban ngày địch hạn chế đi lại (có lúc phải ḅ), ban đêm phái 3 tổ cảnh giới ra phía tiếp xúc với ta, tung thám báo, biệt kích, tiếp tế cho A6b.
    Trong quá tŕnh chiếm đóng địch bị ta bắn tỉa, tập kích nên tinh thần binh lính đă xuống thấp.


    T̀NH H̀NH TA

    Trung đoàn 567, sư đoàn 322 vào thay phiên từ 4-4-1985, lấy phiên hiệu trung đoàn 982, sư đoàn 313.
    Phía ta, pḥng ngự ở đồi Pháp, đồi Cô X, đồi Đài, A6a, 200, A21 tiếp xúc với địch là tiểu đoàn 4 và 6 của trung đoàn 567, sư đoàn 322, quân đoàn 26 Quân khu 1, tiểu đoàn 5 là lực lượng cơ động.
    Để thực hiện đánh chiếm A6b, ta đă huấn luyện đại đội 4 tiểu đoàn 5. Nhưng từ 4 đến 7-5-1985, địch tấn công lấn chiếm trận địa ta, đại đội 4 được đưa vào pḥng ngự. Nhiệm vụ được trao cho đại đội 6, trong quá tŕnh triển khai, đại đội 6 gặp nhiều khó khăn, quyết tâm không cao, một số chiến sĩ bỏ ngũ... v́ vậy cuối cùng nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ lại A6b được giao cho đại đội 5.
    Đại đội 5 tham gia chiến đấu 83 đồng chí (3 trung đội + 2 cối 60mm) trên tổng số 111 người, đại đội huấn luyện khá, quyết tâm cao, đoàn kết và kỉ luật tốt.
    Đại đội 5 được tăng cường 1 phân đội trinh sát, 1 tiểu đội công binh, 1 tổ hoá học (4 người với 32 quả đạn M72 cháy), 1 tiểu đội vô tuyến điện có nhiệm vụ đánh chiếm A6b và chốt lại.
    Nhiệm vụ :
    Trung đội 1 : 21 đồng chí, tăng cường 3 công binh, 3 trinh sát, 2 hoá học, 2 thông tin (cộng 31 người), trang bị 5 B41, 1 B40, 2 M72, 27 AK, 6 quả MĐH10, 6 ống bộc phá. Chia làm 6 tổ (1 tổ dự bị) đánh từ hướng đông nam diệt ổ số 4, 5, phát triển diệt ổ 6, 9, chiếm sườn đông bắc A6b, chặn quân phản kích từ đồi Cây Khô và A5.
    Trung đội 2 : 17 đồng chí, tăng cường 3 công binh, 3 trinh sát, 2 hoá học, 2 thông tin (cộng 27 người), trang bị 2 B41, 1 B40, 2 M72, 12 AK, 4 quả MĐH10. Chia làm 2 tổ đánh từ nam tây nam diệt ổ 1, 2, 3, phối hợp với trung đội 3 diệt ổ 7, 8, chiếm sườn tây nam A6b, chặn quân phản kích từ A22 (400).
    Trung đội 3 (thiếu tiểu đội 9) : 14 đồng chí, tăng cường 3 công binh, 3 trinh sát, 2 thông tin (cộng 22 người), trang bị 3 B41, 9AK, 4 quả MĐH10. Chia làm 2 tổ, đánh từ tây bắc diệt ổ 7, 8, chiếm sườn bắc và tây bắc A6b, chặn quân phản kích từ A5, A22, A23.
    Tiểu đội 9 : 13 đồng chí, tăng cường 2 thông tin (cộng 15 người), trang bị 1 B41, 1 B40, 8 AK bố trí ở phía đông A6a làm dự bị.
    Đạn dược : B41 7 viên/khẩu, M72 8 viên/khẩu, AK 150 viên/khẩu, mỗi chiến sĩ trang bị 6 thủ pháo và 20 lựu đạn.

    Hoả lực yểm trợ của tiểu đoàn 4 và 6 từ 5 điểm tựa xung quanh có nhiệm vụ kiềm chế đồi Chuối, Cây khô, A22, A23 gồm : 9 cối 60mm, 3 khẩu ĐKZ82, 17 B41, 4 khẩu 12,7mm, 3 khẩu MK19, 1 đại liên.
    Hoả lực của cấp trên có : 20 súng cối 82mm của trung đoàn 567, 6 khẩu pháo 76,2mm, 19 khẩu pháo 105mm và 122mm.
    Đại đội 6 tiểu đoàn 4 đảm nhiệm vận tải đạn, gạo, nước và thương binh tử sĩ.
    Đại đội 11 tiểu đoàn 6 đảm nhiệm chuyển gỗ, bao cát làm công sự..


    Cứ điểm 211


    DIỄN BIẾN

    Ngày 22-5-1985

    Ŀại đội 5 vào tập kết ở hang Làng Ḷ cách A6b 1km.

    Ngày 28 và 29/5/1985

    Ŀại đội 5 triển khai ở A6a, hang Gió, Cây si, A21 đúng kế hoạch, an toàn. Trong quá tŕnh trinh sát ta phát hiện thêm ổ số 10. Trong ngày hôm đó, tiểu đoàn 4 dùng DKZ bắn sang 400 diệt 6 công sự và 1 tổ cảnh giới của địch.

    Ngày 30/5/1985

    Ŀịch ở A6b bắn súng cối sang A6a làm ta hy sinh 1 và bị thương 2 đồng chí. Mũi chủ yếu trung đội 1 phải dồn lực lượng lại thành 5 tổ (1 tổ dự bị).

    24h00 : đại đội trưởng kiểm tra các bộ phận lần cuối và báo cáo với tiểu đoàn.

    Ngày 31/5/1985

    03h00 : đại đội 5 bắt đầu chiếm lĩnh trận địa.

    04h45 : ta hoàn tất việc chiếm lĩnh trận địa, chậm 30 phút so với kế hoạch do trung đội 3 vướng băi ḿn phải đi ṿng.
    Trung đội 1 cách băi MĿH của địch 10m, 2 tổ cách địch 40m.
    Trung đội 2 bố trí hàng dọc cách địch 20m.
    Trung đội 3 bố trí hàng dọc cách địch 70m.

    04h47 : trung đoàn phát lệnh bằng VTD, hoả lực của ta bắn xuống các điểm tựa của địch.
    Từ A21, ĿKZ của ta bắn vào ổ số 8 làm chuẩn cho trung đội 3. Cối 60mm từ đồi Cây Gạo bắn xuống 400, A6b, đồi Cây Khô, đồi Chuối. Cối 82mm tây 673 (trận địa Phong Lan) bắn vào đồi Cây Khô 1 quả đạn sáng làm hiệu lệnh
    Ŀịch bị bất ngờ không phán đoán được ư định của ta nên không phản ứng được ǵ.
    Trên các hướng ta dùng B40, B41, M72 bắn vào các mục tiêu mở đưỿng.


    04h55 : Ta xung phong.

    Hướng trung đội 1, MĐH không nổ. Ta dùng 5 ống bộc phá đánh để mở đường. Do sót ḿn, khi xung phong có 1 đồng chí bị thương.
    Hai toán địch cảnh giới bên ngoài không c̣n. Tổ 1 đi đầu đánh ổ số 4, địch ném lựu đạn ra, ta tung thủ pháo vào, sau 5 phút chiếm được tầng trên. 3 tên địch nằm chết ngoài công sự. Ta đánh tiếp xuống tầng dưới, diệt 3 tên và bắt sống 1 tên, thu 3 khẩu B41 và 1 máy VTD, 1 ống nḥm hồng ngoại. Tổ 3 đánh ổ số 5. Sau khi B41 bắn sập kè đá, trung đội trưởng chỉ huy đánh lướt qua dùng B41 yểm trợ cho tổ 2 đồng chí Tuyến và Quang theo hào đá dùng thủ pháo đánh tiếp ổ số 9. Ŀồng chí Quang chiếm được khẩu đại liên bắn truy theo bọn địch đang chạy về ổ số 6.
    Ŀịch ở đồi cây Khô bắn cối 60mm chặn ta. Lúc này ta chưa chiếm được ổ số 6 và 8, địch từ đó phản kích lên ổ số 9, tổ 2 người của ta phải rút vỿ ổ số 5.
    Sau khi chiếm lại ổ số 9, địch chia làm 2 mũi, mỗi mũi nửa tiểu đội tập trung phản kích 4 lần vào ổ số 4, 5 đều bị ta dùng lựu đạn đánh lui.

    Hướng trung đội 2, sau khi MĿH nổ, ta xung phong không ai bị thương vong. Ŀồng chí Thêm dùng B41 bắn vào ổ số 2. Ŀịch ở 400 dùng DKZ bắn tới, đồng chí này hy sinh. Tiểu đội trưởng Kha lên thay bắn tiếp cũng bị trúng đạn hy sinh.
    Sau khi diệt toán cảnh giới, đánh chiếm được ổ số 3. Ta dùng B41, B40 bắn tiếp vào ổ số 1, 2 chi viện cho bộ binh đánh vào. Khi sục vào không c̣n địch.
    Liên lạc với đại đội trưởng bị gián đoạn. Đồng chí Thu đại đội phó chính trị phán đoán trung đội 1 gặp khó khăn lệnh cho trung đội 2 để một bộ phận giữ khu đă chiếm, c̣n lại phát triển lên b́nh độ trên nhưng gặp vách đá và ḿn không đi được. Lực lượng trung đội 2 chuyển sang hỗ trợ trung đội 1 và 3.

    Hướng trung đội 3, MĿH không nổ. Ta dùng B41 bắn vào băi ḿn để mở đường. Khi xung phong ḿn nổ làm đồng chí Khánh trung đội phó 3 chiến sĩ bị thương (sau đó 2 đồng chí hy sinh).
    Lúc xung phong chia làm 2 mũi cùng đánh ổ số 8 và 10. Chiếm được ổ số 10 trước c̣n ổ số 8 v́ vách đá cao không lên được. Bị mất liên lạc với đại đội trưởng, đồng chí Khiêm đại đội phó ra lệnh cho trung đội 3 để lại một tổ giữ ổ số 10 số c̣n lại chuyển sang hướng ổ số 4 (trung đội 1 đă chiếm) để đánh tiếp sang ổ số 8.

    05h15 : đại đội 5 đă làm chủ ổ số 1, 2, 3, 4, 5, 10, địch c̣n cố thủ chống cự ở ổ số 6, 7, 8, 9.
    Ŀại đội trưởng quay về ổ số 4 báo cáo tiểu đoàn và điều lực lượng vào đánh tiếp. Chiến sĩ ta xuống báo trong ổ số 6 địch đang gọi điện.
    Sau khi B41 bắn, tổ 4 do đại đội phó Khiêm chỉ huy đánh ổ số 6, tổ 5 đánh ổ số 9 và 8. 5 phút sau ta chiếm được. Ŀịch nằm chết quanh các hốc đá. Ổ số 6 c̣n 2 xác chết và nhiều vũng máu, 3 máy VTĿ vẫn có tiếng nói. Bọn c̣n sống chạy về A5.
    Trong khi ta tấn công, địch ở ổ số 7 bỏ chạy ta không biết. Ŀến 5h35 ta vào chiếm nốt ổ số 7. Trận đánh chiếm A6b kết thúc. Ta nhanh chóng triển khai pḥng ngự.

    7h00 : pháo địch bắn trùm lên A6b, địch tổ chức tấn công Cô X, đồi Ŀài.

    07h30 - 21h00 : địch từ A5 và A23 theo 2 hướng 5 lần tấn công A6b. Mỗi hướng từng đại đội địch thay phiên nhau xung phong liên tục.
    Từ 1-6 đến 3-6-1985 địch tấn công tiếp 7 lần nữa.
    Các đợt xung phong đỿu bị đại đội 5 (ngày 31-5 và 1-6) và đại đội 7 (ngày 2 và 3-6) đẩy lui. Hoả lực ta phát hiện sớm đánh nhiỿu lần vào quân địch khi chúng đang tập kết hoặc cơ động. Các toán vào gần được bị bộ binh ta đánh lui.

    Đêm 1/6/1985 đại đội 5 bàn giao trận địa cho đại đội 7 tiểu đoàn 4.

    KẾT QUẢ CHIẾN ĿẤU

    - Trận tấn công A6b (31-5-1985):
    Địch bỏ lại 25 xác. Đài quan sát của ta c̣n phát hiện ở hướng đồi Cây Khô địch khiêng ra 28 cáng.
    Ta : hy sinh 4 và bị thương 15 đồng chí. Ta bắt 1 tù binh, thu 1 đại liên, 2 trung liên, 3 súng B41, 4 AK, 3000 lựu đạn, nhiỿu đạn AK, B41, 4 máy VTĿ, 1 điện thoại, 1 ống nḥm hồng ngoại.
    - Trận chống địch phản kích (31-5 đến 1-6-1985) : đại đội 5 hy sinh 13 đồng chí và bị thương 24 đồng chí. Không thống kê được số thiệt hại của địch.
    - Tiêu thụ đạn dược (trong cả 2 trận):
    M72 : 32 quả; B40, B41 : 280 quả.
    Bộc phá ống : 8 ống; MDH10 : 8 quả.
    Thủ pháo : 65 quả; lựu đạn : không thống kê được.
    Cối 60mm : 5000 viên, cối 82mm : 5200 viên.
    ĿKZ : 70 viên, đạn pháo : 5920 viên.
    12,7mm : 4000 viên; K56 : 9000 viên; Ŀại liên : 9000 viên.


    Lính Trung Quốc bị thương tại cứ điểm 211 (A6B)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Photos: Chiến tranh biên giới Việt-Tàu 1979
    By Cu Cường in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 15-10-2011, 01:20 AM
  2. 32 Năm Chiến Tranh Biên Giới Trung Việt
    By Tigon in forum Tin Việt Nam
    Replies: 27
    Last Post: 26-02-2011, 05:24 AM
  3. Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 1)
    By Phó thường dân in forum Tin Việt Nam
    Replies: 11
    Last Post: 18-02-2011, 11:49 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 08-02-2011, 09:13 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •