Results 1 to 8 of 8

Thread: Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964





    (Bài 1/6)- Trần Đỗ Cẩm biên khảo

    (Austin Texas, mùa Thu 1998)

    Vụ đụng độ giữa các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ và những ngư lôi đĩnh Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Vịnh Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964 mang một ư nghĩa hết sức đặc biệt và hậu quả vô cùng quan trọng. Đây không phải là một trận hải chiến lớn liên quan tới nhiều chiến hạm hay thương vong đôi bên lên tới một con số cao, nhưng có hậu quả vô cùng quan trọng. Các sử gia đều cho rằng biến cố này đă khơi ng̣i cho việc quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, tương tự như trận tấn công bất ngờ tại Trân Châu Cảng đă mở màn cho cuộc chiến tranh Mỹ - Nhật tại Thái B́nh Dương thời Đệ Nhị Thế Chiến.

    Nhưng cho tới nay, dù cuộc đụng độ xảy ra đă trên 30 năm và đă làm tốn hao nhiều giấy mực, nhiều chi tiết vẫn chưa được sáng tỏ. Có thể nói "Biến Cố Vịnh Bắc Việt" tuy là đề tài được đề cập nhiều nhất cũng như bàn căi sôi nổi nhất tại Hoa Kỳ mỗi khi nhắc tới chiến tranh Việt Nam, nhưng vẫn c̣n chứa đựng nhiều bí ẩn nhất. Những "nghi vấn" này không những đă làm nhiều sử gia thắc mắc, ngay cả những người liên quan chủ chốt cũng muốn t́m câu trả lời. Mới đây nhất, khi cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ là Robert McNamara - người được mệnh danh là "kiến trúc sư" của cuộc chiến tranh - sang thăm Việt Nam vào năm 1995, ông cũng đă hỏi đối thủ Vơ Nguyên Giáp:" Cho tới bây giờ tôi vẫn không biết chuyện ǵ đă xảy ra tại vịnh Bắc Việt vào hai ngày 2 và 4 tháng 8 năm 1964. Tôi nghĩ rất có thể chúng tôi đă phạm phải hai suy đoán sai lầm quan trọng ... Vậy điều chúng tôi gọi vụ đụng độ vào ngày 4 tháng 8 năm 1964, thường được gọi là cuộc tấn công thứ nh́, có thật sự xảy ra không?"

    Một vị cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng khi đặt câu hỏi như vậy đă chứng tỏ không nắm vững t́nh h́nh, không biết ḿnh biết người, nhưng vẫn đưa ra nhiều quyết định quan trọng sinh tử trong quá khứ! Thật là điều không tưởng tượng nổi! V́ vậy, nhiều người đă chê bai câu hỏi "ngớ ngẩn" và làm bẽ mặt Hoa Kỳ này. Vơ Nguyên Giáp đă trả lời câu hỏi "ngây thơ" của người đă từng quyết định sự thắng bại của cuộc chiến tại Việt Nam thế nào? Biến cố vịnh Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964 đă diễn tiến ra sao? Những nghi vấn ǵ vẫn c̣n chưa được sáng tỏ? Chúng tôi sẽ tuần tự mô tả lại những sự kiện liên quan trực tiếp hay gián tiếp để độc giả dễ bề theo dơi và tự t́m câu trả lời.


    I. Những Hoạt Động Biệt Kích Nhắm Vào Bắc Việt

    Ngay từ sau hiệp định Genève năm 1954 chia đôi đất nước, cả hai phe Quốc - Cộng đă để lại trong "ḷng địch" một số gián điệp với mục đích thu thập tin tức t́nh báo và quấy rối đối phương. Tuy nhiên, lúc ban dầu, những hoạt động này thường chỉ có tính cách "nằm vùng" chờ thời cơ hơn là tích cực xâm nhập hoặc phá hoại.

    Dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, cơ quan t́nh báo được đặt dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến. Trung tá Lê Quang Tung, chánh Sở Liên Lạc đảm nhiệm những công tác đặc biệt dưới quyền bác sĩ Tuyến. Đại Úy Ngô Thế Linh, Trưởng Pḥng 45 - coi như "Sở Bắc" - đặc trách về những công tác đặc biệt ngoại biên gồm Bắc Việt, Lào và Cam Bốt. Người em của Trung Tá Tung là Đại Úy Lê Quang Triệu, nghe nói là một Đại Đội Trưởng thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống, lo về vấn đề quản trị hành chánh. Đa số những nhân viên phục vụ được tuyển mộ trong số những người gốc Công giáo hoặc trong đảng Cần Lao. Các ông Ngô Đ́nh Cẩn và Ngô Đ́nh Nhu cũng dính dáng đến các hoạt động t́nh báo với sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Vào năm 1955, một toán biệt kích 6 người gốc Quảng B́nh dùng ghe buồm giống như ghe miền Bắc xâm nhập Bắc Việt. V́ có thể trà trộn với những ghe đánh cá địa phương nên những chuyến công tác ban đầu kéo dài chừng vài ba ngày này không bị Cộng Sản phát hiện.

    Tới năm 1958, Tổng Thống Diệm lại yêu cầu cơ quan Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ trợ giúp để đảy mạnh hoạt động biệt kích. Do đó những hoạt động xâm nhập miền Bắc được gia tăng vào khoảng năm 1960 bằng phương tiện ghe buồm. Vùng duyên hải Bắc Việt có rất nhiều ghe đánh cá nên các ghe xâm nhập có thể trà trộn dễ dàng không bị khám phá. Qua năm 1961, với sự trợ giúp tích cực của Trung Ương T́nh Báo (CIA) Hoa Kỳ, miền Nam bắt đầu tổ chức những vụ xâm nhập qui mô hơn bằng đường hàng không. Các toán biệt kích do Hoa Kỳ huấn luyện tinh thục và vơ trang tối tân được thả bằng máy bay vào vùng thượng du Bắc Việt. Phi công dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Cao Kỳ bay những phi vụ đầu tiên. Sau đó, những phi công người Đài Loan đảm nhiện những phi vụ kế tiếp.

    Về mặt huấn luyện các biệt kích quân miền Nam, ngoài Hoa Kỳ, Đài Loan cũng góp phần tham dự. Vào năm 1960, một toán ngưới nhái Việt Nam được gửi sang Đài Loan để thụ huấn. Đến năm 1961, có 20 huấn luyện viên người nhái của Đài Loan đến Việt Nam để mở các khóa huấn luyện tại Vũng Tàu và Đà Nẵng. Sở dĩ Đài Loan hợp tác với các hoạt động biệt kích của miền Nam v́ họ cũng muốn nhân dịp thăm ḍ sự cộng tác của CSBV và Trung Cộng. Nhiều tài liệu cho biết vào cuối thập niên 50, đă có một số các cuộc hành quân Biệt Hải giữa biệt kích Nam Việt Nam và Đài Loan xuất phát từ Đài Loan nhắm vào vùng biển Hải Pḥng - Móng Cáy giáp ranh giới Hoa Việt.
    II. Chiến Dịch Oplan 34-A
    Tới năm 1963, Hoa Kỳ quyết định đẩy mạnh các hoạt động biệt kích nhắm vào các cơ sở quân sự của Bắc Việt. Bộ Tham Mưu quân đội Hoa Kỳ chỉ thị Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, soạn thảo một kế hoạch đặc biệt gọi là Oplan 34-63 (Operation Plan) do lực lượng miền Nam đảm nhiệm với sự trợ giúp phương tiện của Hoa Kỳ. Sau nhiều cuộc thảo luận giữa CIA và Quân Đội Hoa Kỳ, kế hoạch Oplan 34-63 được biến cải trở thành Oplan 34A vào tháng 12 năm 1964. Theo kế hoạch này, Hoa Kỳ sẽ huấn luyện những quân nhân Việt Nam, đa số gốc người Bắc để xâm nhập miền Bắc với mục tiêu tuyên truyền móc nối, thả truyền đơn, phá hoại và ngăn chặn các tầu bè Việt Cộng chuyên chở vũ khí vào miền Nam. Nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của các toán biệt kích là điều nghiên hệ thống pḥng thủ của Bắc Việt và thu thập tin tức t́nh báo cần thiết để có thể hoàn thành kế hoạch oanh tạc cũng như đổ bộ Bắc Việt khi cần.

    Về phía CSBV được Nga Sô cho biết về các hoạt động t́nh báo của miền Nam nên cũng ráo riết chuẩn bị đề pḥng. Nga Sô c̣n viện trợ cho Bắc Việt nhiều khinh tốc đĩnh tuần duyên trang bị ngư lôi, hỏa tiễn, đại bác pḥng không và pḥng duyên cùng những giàn radar pḥng thủ duyên hải. Bờ biển miền Bắc từ vĩ tuyến 17 tới vùng Hải Pḥng, Móng Cáy gần biên giới Hoa Việt gồm nhiều đảo nhỏ và những mỏm núi cao thuộc giải Hoành Sơn (núi đâm ngang ra biển). Ngang vĩ tuyến 17 gần Đồng Hới có đảo Ḥn Cọp. Vùng Vinh, Bến Thủy có đảo Ḥn Mật. Xa hơn về phía Bắc có các đảo Ḥn Mê, Ḥn Niếu gần Thanh Hóa, Sầm Sơn rồi tới Vịnh Hạ Long với các đảo Cát Bà, Cái Bầu, Cái Bàn v.v... Các mũi biển quan trọng gồm mũi Ron, mũi Vinh Sơn, mũi Sót v.v... Trên các hải đảo và các mũi đá cao dọc duyên hải, Việt Cộng đặt các đài radar và hải pháo pḥng duyên để theo dơi và ngăn chận các hoạt động xâm nhập của biệt kích cũng như của chiến hạm Hoa Kỳ hoạt động trong vùng Vịnh Bắc Việt.

    Tới ngày 24 tháng giêng năm 1964, Hoa Kỳ thành lập Toán Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Group - SOG) và đặt dưới quyền của Phái Bộ Viện Trợ Quân Sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) nên thường được gọi tắt là MAC/SOG. Sau này để đánh lạc hướng địch và cũng để giảm bớt ấn tượng nặng về quân sự, Toán Hành Quân Đặc Biệt được đổi tên là Toán Nghiên Cứu và Quan Sát (Studies and Observations Group), vẫn gọi tắt là MAC/SOG.

    Về phía Việt Nam, một cơ quan tương đương gọi tên là Sở Kỹ Thuật (Strategic Technical Service) được thành lập vào ngày 12 tháng giêng năm 1964 để làm việc hàng ngang với MAC/SOG. Đây là hậu thân của Sở Khai Thác Địa H́nh (Topographic Exploitation Service) và Sở Liên Lạc do Đại Tá Lê Quang Tung điều động dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Sau này, Sở Kỹ Thuật được đổi thành Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical Directorate). Như vậy, về phía Việt Nam, Nha Kỹ Thuật là cơ quan chịu trách nhiệm tổng quát về các hoạt động biệt kích trên thủy, bộ cũng như đường hàng không.
    III. Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
    Dưới cơ quan MAC/SOG, Hải Quân Hoa Kỳ có Nhóm Cố Vấn Hải Quân (Navy Advisory Detachment - NAD) để hoạt động với Sở Pḥng Vệ Duyên Hải (Coastal Security Service - CSS) c̣n được gọi là Lực Lượng Hải Tuần (LLHT) của Hải Quân Việt Nam, trực thuộc Nha Kỹ Thuật. Nhóm NAD/CSS này đặt căn cứ tại ṭa nhà "Bạch Tượng" đôi khi c̣n gọi là "Nhà Trắng" ở vùng bán đảo Sơn Chà, Đà Nẵng. Các doanh trại của Sở Pḥng Vệ Duyên Hải nằm ngay dưới chân Núi Khỉ (Monkey Mountain) gần căn cứ Hải Quân Tiên Sha thuộc BTL/V1 Duyên Hải. Các chiến đĩnh của LLHT đậu tại cầu tầu riêng biệt trong khu cảng Deep Water Pier gần bán đảo Tiên Sha. Khu cảng này rất gần băi ủi của các tầu chuyển vận (LST - Landing Ship Tank) của Hải Quân Hoa Kỳ.

    Các chiến đĩnh LLHT xử dụng trong những chuyến công tác gồm hai loại: PTF (Patrol Torpedo Fast) và PCF (Patrol Craft Fast), c̣n được gọi là Swift . Có 3 loại PTF:

    - Loại cũ nhất là các PT thời đệ nhị thế chiến của Hoa Kỳ nhưng ống phóng ngư lôi đă được gỡ bỏ. Loại tầu này vỏ sắt, máy chạy bằng xăng nên thường được gọi là "tầu xăng". Một trong những PT nổi tiếng của Hoa Kỳ là chiếc PT 109 do Trung Úy Kennedy - sau này là Tổng Thống Hoa Kỳ - làm hạm trưởng. Loại tầu xăng có nhiều khuyết điểm về kỹ thuật như dễ bị cháy, bộ tục kết hay bị trục trặc, nhất là khi vào số lùi hay bị tắt máy. Máy khó khởi động sau khi bị tắt v́ những hơi thừa con lại khóa cứng piston.

    - Loại vỏ bằng gỗ Balsa rất nhẹ do Na Uy đóng thường được gọi là " Nasty ". Đây là loại tốt nhất, dễ vận chuyển và chạy nhanh nhất. Về sau này, LLHT dùng toàn chiến đĩnh Nasty.

    - Loại tầu vỏ sắt do Hoa Kỳ đóng phỏng theo kiểu "Nasty" nhưng có tên là "Osprey". Loại này tuy khá hơn tầu xăng nhưng nặng nề, khả năng vận chuyển và bền bỉ thua Nasty xa.

    Việc thám sát mục tiêu cho các chuyến công tác của LLHT phần lớn do phi cơ gián điệp U-2 đảm trách. Căn cứ U-2 chính đặt tại Phi Luật Tân nhưng vào khoảng giữa năm 1964, tại phi trường Biên Ḥa lúc nào cũng có hai phi cơ U-2 túc trực. Vào ngày có chuyến công tác, phi cơ U-2 bay từ lúc sáng sớm ra Bắc để thám sát mục tiêu mục tiêu lần chót, đến trưa MACSOG tại Sài G̣n đă có không ảnh. Trước khi xuống tầu đi công tác, các Hạm Trưởng PTF đều tham dự một buổi thuyết tŕnh về chuyến công tác và nghiên cứu những tấm không ảnh mục tiêu này. Tuy nhiên v́ U-2 phải bay rất cao ngoài tầm hỏa tiễn pḥng không nên thường h́nh nhỏ không được rơ ràng. V́ vậy sau này Hoa Kỳ dùng những phi cơ nhỏ không người lái (drone) bay thấp hơn để chụp h́nh mục tiêu trước mỗi chuyến công tác. Ngoài ra, cũng có kế hoạch chụp h́nh ban đêm bằng radar.

    V́ LLHT là một đơn vị đặc biệt của Hải Quân nên ít người biết tới, ngay cả đối với đa số HQVN. Mới đây, một số hồ sơ Hoa Kỳ được giải mật nên có vài quyển sách do ngưới Mỹ viết nói qua về LLHT. Nhưng rất tiếc, cũng giống như những tài liệu khác của người Mỹ nói về chiến tranh Việt Nam, nhiều sự thực đă vô t́nh hay cố ư bị xuyên tạc gây ngộ nhận không hay. Đây có thể là "thói quen" của người Hoa Kỳ - kể cả "sử gia" - thường xuưt xoa tâng bốc người thắng trận (winner) và coi rẻ kẻ bại trận (loser). Chúng tôi là người đă phục vụ tại LLHT liên tiếp 5 năm với nhiều chuyến công tác từ năm 1965 đến 1970, tiện đây thấy cần phải nói lên những sự thật.

    Trước hết là quyển sách "Tonkin Gulf and the Escalation of VietNam war" của tác giả Edwin E. Moise. Ông này là giáo sư sử học chuyên về chiến tranh Việt Nam tại trường Đại Học Clemson, tiểu bang North Carolina. Theo dư luận, giáo sư Moise được coi là người có nhiều tài liệu nhất và có thẩm quyền nhất về phương diện sử học khi nói về chiến tranh Việt Nam. Tóm lại, ông Moise được coi như là "sử gia" chuyên về chiến thanh Việt Nam. Trước khi xuất bản sách này, ông Moise có tới gặp chúng tôi tại nhà riêng để hỏi một số chi tiết về LLHT cũng như các loại và đặc tính của các chiến đĩnh PT. Sách của ông Moise có đoạn nói về nghi vấn nhân viên hải quân Hoa Kỳ "bí mật" có đi theo nhân viên HQVN trong các chuyến công tác ra Bắc không (trang 15)? Ông Moise trích lời của Đại Tá Phil Bucklew là cấp chỉ huy của toán nhân viên Hoa Kỳ này cho rằng "ông không biết bất cứ trường hợp nào những chiến đĩnh PTF đi công tác từ Đà Nẵng mà KHÔNG có nhân viên Hoa Kỳ trên đó"(he did not aware of any cases in which the PTF's from Danang went on combat operations without American personnel aboard. His recollection is that the American were running the boats, with Vietnamese along in what was essentially an apprenticeship role). Đại Tá Bucklew c̣n "nhớ" lại rằng những nhân viên Hải Quân Hoa Kỳ trực tiếp điều khiển chiến đĩnh, c̣n thủ thủ đoàn Việt Nam chỉ đóng vai tṛ "phụ việc". Đại Tá Bucklew cũng nói tuy có đề nghị để nhân viên VN điều khiển chiến đĩnh trong khi công tác, nhưng đề nghị này bị từ chối vi nhân viên VN không đủ khả năng (the Vietnamese did not have the skills). C̣n ông Đô Đốc Roy Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất hạm Đội thời đó cũng nói :"Thủy thủ đoàn Việt Nam không tin tưởng được (unreliable)" nên "phải dùng thủy thủ đoàn Hoa Kỳ để thay thế". Ông Đô Đốc "khá chắc chắn" rằng thủy thủ đoàn Hoa Kỳ đă được dùng trong các công tác đánh phá ngoài Bắc từ tháng 8 năm 1964 hay chỉ ít lâu sau đó."

    Về việc có người Mỹ đi theo trong những chuyến công tác hay không, trước năm 1965 chúng tôi không không giám nói chắc v́ lúc đó chưa có mặt tại LLHT, nhưng theo những bạn bè đi trước nói lại và suy đoán, chúng tôi tin rằng chỉ có thủy thủ đoàn Việt Nam trong những chuyến công tác. Nhưng trong khoảng thời gian từ năm 1965 tới 1970 là thời gian chúng tôi phục vụ tại LLHT với nhiệm vụ Hạm Phó rồi Hạm Trưởng PTF trong hàng trăm "combat missions", chắc chắn, quả quyết không hề có người Hoa Kỳ nào đi theo tầu chúng tôi hay tầu khác trong những chuyên công tác vượt vĩ tuyến 17. Nhân viên Hoa Kỳ chỉ đi theo trong những chuyến huấn luyện dưới vĩ tuyến 17. C̣n về vấn đề khả năng và kinh nghiệm thật rất khó nói. Nếu không có khả năng hay không tin tưởng được, chắc chắn chúng tôi đă khó có thể an toàn trở về sau 5 năm công tác liên tiếp tại vùng biển Bắc Việt. Nhưng dù một Đô Đốc Hoa Kỳ thường khoe khoang là thủy thủ đoàn Việt Nam chỉ đóng vai phụ việc đi nữa, nếu phục vụ tại lực lượng PTF trong một "tour" chỉ có 6 tháng, lại thường nằm trong pḥng lạnh ăn hút, không đi một chuyến công tác rồi đổi đi nơi khác, cũng khó có "khả năng" hơn một thủy thủ HQVN phục vụ đă lâu năm năm!

    Chuyện thứ hai trong sách của sử gia Moise là việc bận đồng phục (uniform) hay quân phục trong lúc công tác. Trang 15, ông Moise viết:"Có nhiều bằng cớ chứng tỏ thủy thủ đoàn các chiến đĩnh Nasty là người của HQVN và mặc quân phục hải quân trong lúc công tác". Tác giả đă nói đúng về việc thủy thủ đoàn thuộc HQVN, nhưng việc "mặc quân phục hải quân trong khi công tác" là điều không đúng. Một nhân viên khi t́nh nguyện gia nhập LLHT, tuy quân số vẫn thuộc Hải Quân và vẫn lănh lương hải quân hàng tháng, nhưng không trực thuộc quyền điều động của hải quân. Mỗi người kư một giao kèo phục vụ trong ṿng 6 tháng, sau đó nếu muốn có thể kư tiếp hay thuyên chuyển về hải quân. Có thể nói lúc đó nhân viên LLHT coi như vừa là hải quân, vừa là dân sự. Ngay cả tên cũng thay đổi, ngoại trừ tên thật vẫn giữ trong thẻ quân nhân. Khi đi công tác, không ai được phép mặc quân phục hải quân, thông thường mặc thường phục không ai mang lon đội mũ. Riêng chúng tôi chỉ mặc bộ bà ba đen. Những lúc ở trong doanh trại không đi công tác, chúng tôi chỉ mặc quân phục hải quân khi có thượng cấp hải quân viếng thăm và mặc tiểu lễ chào cờ vào sáng thứ hai và nghe "câu chuyện dưới cờ" của Đô Đốc Tư Lệnh Trần Văn Chơn. Vả lại, trong nhiều công tác Tâm Lư Chiến ra Bắc, chúng tôi có nhiệm vụ đóng vai nhân viên của mặt trận "Gươm Thiêng Ái Quốc" - coi như một phong trào nổi dậy tại miền Bắc - để phát radio (dân miền Bắc gọi là "đài"), truyền đơn và quà cho ngư phủ miền Bắc, nếu bận quân phục hải quân VNCH th́ đâu c̣n là "Đồng chí miền bắc" nữa. Tóm lại, tuyệt đối không có việc mặc quân phục hải quân trong những chuyến công tác, ngoại trừ trong sách của sử gia Moise hay "nhớ lại" của các giới chức cố vấn Mỹ! Hiện nay, các anh em cựu LLHT c̣n có mặt tại Hoa Kỳ rất nhiều, v́ tuy tham dự nhiều chuyến công tác vượt vĩ tuyến nguy hiểm nhưng luôn luôn nắm thế "thượng phong" nên rất ít khi bị thiệt hại. Bạn đọc có thể dễ dàng tiếp xúc với các cựu chiến sĩ Hải Tuần để phối kiểm những chi tiết nêu trên.

    Vào khoảng giữa năm 1964, cường độ hoạt động của LLHT gia tăng. Nhiều chuyến công tác thành công phá hủy một số đài radar, cơ sở pḥng duyên và căn cứ hải quân của Bắc Việt. Nhiều ngư phủ Bắc Việt cũng bị bắt đem về Cù Lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng để khai thác tin tức, sau đó lại được trả về nguyên quán ngoài Bắc. Dĩ nhiên, để chống lại các hoạt động biệt kích bằng đường biển này, CSBV cũng ráo riết gia tăng hệ thống pḥng thủ duyên hải. Các chuyến công tác do đó trở nên nguy hiểm và hồi hộp hơn nhiều.

    Vào mùa hè năm 1964, trong lúc các chiến đĩnh thuộc LLHT thường xuyên thực hiện những chuyến công tác biệt kích bí mật trong khuôn khổ OPLAN - 34A th́ Hải Quân Hoa Kỳ cũng có kế hoạch riêng nhằm công khai thám sát bờ biển Bắc Việt. Kế hoạch của Hải Quân Hoa Kỳ mang bí danh DeSoto.
    IV. Kế hoạch tuần tiễu DeSoto
    Hải quân Hoa Kỳ thường tổ chức những cuộc tuần tiễu mang bí danh DeSoto dọc theo bờ biển các quốc gia vùng Á Châu Thái B́nh Dương để thám sát và thu thập tin tức t́nh báo bằng những dụng cụ "nghe lén" và "nh́n lén" đặc biệt.

    Vào tháng 4/1964, Khu Trục Hạm (KTH) DeHaven thực hiện chuyến công tác DeSoto đầu tiên dọc theo bờ biển Trung Cộng, sau đó công tác tiếp tục mỗi tháng một lần, liên tiếp trong ṿng 5 tháng. Trung Cộng chỉ phản ứng chiếu lệ. Trong các chuyến công tác vào tháng 10/62 do KTH Hollister (DD-788) và tháng 11/62 với KTH Shelton, lần đầu tiên chiến hạm Hoa Kỳ thám sát cả bờ biển Bắc Hàn. Cũng như những lần trước, phía Cộng Sản không có phản ứng mạnh. Vào khoảng cuối năm 1962, KTH Agerholm (DD-826) xuất phát từ Keelung - Đài Loan lần đầu tiên thám sát vịnh Bắc Việt và vùng đảo Hải Nam nhưng không vào cách bờ dưới 20 hải lư. Trong năm 1963, có tổng cộng 6 công tác DeSoto dọc bờ biển Trung Cộng, Nga Sô, Bắc Hàn và Bắc Việt nhưng vẫn giữ khoảng cách 20 hải lư. Trong chuyến công tác vào tháng 4/63, khi KTH Richard Edwards (DD-950) tuần tiễu khu vực giữa đảo Hải Nam và bờ biển Bắc Việt, có 6 tầu tuần duyên Bắc Việt và một số phi cơ Trung Cộng theo dơi, nhưng Trung Cộng cũng chỉ phản kháng chiếu lệ. CSBV không lên tiếng.

    Sang đầu năm 1964, Bộ Tư Lệnh Liên Quân Hoa Kỳ ra lệnh thực hiện thêm nhiều chuyến tuần tiễu DeSoto trong vùng vịnh Bắc Việt để thâu thập những tin tức t́nh báo sau đây:

    - Hệ thống pḥng thủ mặt biển gồm phối trí và khả năng của các chiến hạm pḥng duyên, kể cả tiềm thủy đĩnh.

    - Hệ thống pḥng không gồm phối trí và khả năng đối phó với các mục tiêu trên không và trên biển.

    - Hoạt động của các thương thuyền.

    - Khả năng điện tử duyên pḥng.

    - Chụp h́nh và xác định hệ thống pḥng thủ.

    - Thâu thập tin tức t́nh báo và thủy đạo.

    Mỗi chuyến công tác DeSoto thường do một khu trục hạm mang những dụng cụ kiểm thám điện tử đặc biệt, xuất phát từ căn cứ Keelung (Đài Loan) đảm nhiệm.

    Ngày 25/2/64, KTH John Craig có Đại Tá Edward Williams, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn KTH 12 tháp tùng, xuất phát từ Đài Loan để thi hành công tác tuần tiễu vịnh Bắc Việt với KTH Ingersoll (DD-652) bên ngoài vịnh để yểm trợ khi cần. Tuy Trung Cộng cho một chiến hạm loại Kronstadt và phi cơ theo dơi nhưng không xảy ra biến cố nào quan trọng. KTH Craig hoàn tất nhiệm vụ vào ngày 9/3/64.

    Đến đầu tháng 7/1964, MACV tại Sài G̣n yêu cầu Hải Quân cung cấp thêm tin tức t́nh báo dọc theo bờ biển Bắc Việt, nhất là tại những nơi các chiến đĩnh OPLAN-34A thường hoạt động. V́ vậy Đô Đốc Ulysses G. Sharp, người vừa thay thế Đô Đốc Felt trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, ra lệnh tiếp tục các cuộc tuần tiễu thám sát DeSoto. Các Đô Đốc Moorer, Tư Lệnh Hạm Đội Thái B́nh Dương và Đô Đốc Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội chỉ định KTH Picking (DD-685) đảm nhận công tác. Chiến hạm dự trù khởi hành từ Keelung vào ngày 28/7 với Đại Tá John Herrick, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn KTH 192 tháp tùng. Phân Đoàn KTH 192 thuộc Lực Lượng Hoa Kỳ tại Đài Loan do Đô Đốc Robert A. MacPherson chỉ huy. Theo kế hoạch, chiến hạm tuần tiễu không được vào gần bờ dưới 8 hải lư (hải phận Bắc Việt) và cách các hải đảo dưới 4 hải lư và c̣n phải tới đúng các chuẩn điểm (check points) theo lộ tŕnh và thời điểm vạch sẵn (xem bản đồ trục tuần tiễu ấn định).



    Đô Đốc Johnson cũng ra lệnh cho KTH Maddox đặc biệt ghi nhận vị trí và tầm hoạt động của những đài radar, hải đăng, các dấu mốc quan trọng cũng như chi tiết về thủy đạo, nhất là tại vùng các cửa sông. Chiến hạm cũng chụp h́nh những vị trí quan trọng dọc theo duyên hải Bắc Việt. Có lẽ Hoa Kỳ muốn thâu thập trước các chi tiết cần thiết để chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ sau này.

    V́ các chiến đĩnh thuộc LLHT và chiến hạm DeSoto tuy đảm nhiệm công tác riêng biệt nhưng sẽ hoạt động chung một vùng nên nhiều biện pháp cần thiết được hoạch định để tránh làm trở ngại hoặc ngộ nhận. Chiến hạm DeSoto sẽ theo đúng lộ tŕnh và giờ giấc đă vạch sẵn, c̣n chiến đĩnh LLHT sẽ hoạt động tại vùng riêng biệt cách xa. Về không trợ, mẫu hạm Ticonderoga lúc đó đang hoạt động tại điểm Yankee ngang vĩ tuyến 17 ngoài khơi Đà Nẵng sẽ yểm trợ chiến hạm DeSoto khi cần.

    Tất cả mọi chuẩn bị và huấn thị cho chuyến công tác DeSoto tại vịnh Bắc Việt vào mùa hè năm 1964 đă đầy đủ, nhưng tới gần ngày công tác, KTH Maddox (DD-731) được chỉ định thay thế KTH Picking. Trong lúc đó, hoạt động của các chiến đĩnh LLHT cũng gia tăng trong vịnh Bắc Việt.



    Ngày 22/7, các chiến đĩnh PTF-3 , 4, 5 và 6 thám sát vùng Đồng Hới và bắt về một số ngư phủ để khai thác tin tức.

    Ngày 30/7, các chiến đĩnh PTF-2, 3, 5 và 6 rời Đà Nẵng đi đánh phá các đảo Ḥn Mê và Ḥn Niếu. Hồi 2315H, bốn chiến đĩnh đến mục tiêu tại vị trí vĩ độ 19 Bắc, kinh độ 106.16 Đông phía Đông Nam Ḥn Mê. Tại đây, các chiến đĩnh chia làm hai toán. Các PTF-3 và 6 đảm nhận mục tiêu Ḥn Mê, trong lúc PTF-5 và 2 hướng về Ḥn Niếu.

    Hai chiến đĩnh dự trù đổ toán Biệt Hải lên Ḥn Mê bị địch phát hiện và nổ súng khiến 4 người trên PTF-6 bị thương. Toán Ḥn Niếu cũng không đổ được quân. Khoảng sau nửa đêm, các chiến đĩnh bắn phá mục tiêu được chỉ định bằng đại bác 57 ly, 40 ly và 20 ly gây nhiều tiếng nổ phụ. Khoảng 1 giờ sáng ngày 31/7, hai toán chiến đĩnh rời mục tiêu trở về tới Đà Nẵng vào khoảng 11 giờ trưa ngày 31/7.

    (C̣n tiếp)
    Last edited by alamit; 05-10-2012 at 03:37 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964




    (Bài 2/6)- Trần Đỗ Cẩm biên khảo


    1. Khu Trục Hạm Maddox vào vịnh Bắc Việt


    Hạm Trưởng KHT Maddox là HQ Trung Tá Herbert Ogier nhưng HQ Đại Tá John Herrick, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn KTH 192 là Chỉ Huy Trưởng công tác DeSoto . Tuy trọng tâm của cuộc tuần tiễu là thám sát bờ biển Việt Nam, nhưng HQ Hoa Kỳ cũng muốn tiện dịp thăm ḍ thêm khả năng pḥng duyên của Trung Cộng nhưng tương đối dè dặt hơn. Chiến hạm Maddox chỉ được chạy cách bờ biển TC không dưới 15 hải lư và cách các đảo không dưới 12 hải lư. Sau khi đi hết trục tuần tiễu ấn định dọc bờ biển VN từ vĩ tuyến 17 đến biên giớ Hoa Việt vùng Móng Cáy, Hải Pḥng, KTH Maddox sẽ tạt xa hơn về phía Đông để tiến gần về phía đảo Hải Nam của Trung Cộng. Mục đích là để thăm ḍ sự liên hệ duyên pḥng hỗ tương giữa Việt Cộng và Trung Cộng xem đôi bên có trao đổi hay "bàn giao" nhau những tin tức t́nh báo hay không.
    2. Trung Tâm kiểm thính lưu động
    Một trong những nhiệm vụ chính của chiến hạm Maddox là "nghe lén" những công điện truyền tin của Bắc Việt, nhất là những liên lạc dính dáng tới việc điều động duyên pḥng. Nếu định được vị trí của những trung tâm truyền tin và nội dung của các công điện trao đổi giữa Bộ Chỉ Huy và các tầu tuần tiễu, Hoa Kỳ có thể biết rơ khả năng duyên pḥng của Bắc Việt.

    Tuy nhiên, không hẳn chỉ có các chiến hạm DeSoto mới có khả năng kiểm thính. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ có nhiều căn cứ chuyên xâm nhập hệ thống truyền tin của Bắc Việt để "nghe lén". Một trong những căn cứ này là Trung Tâm Truyền Tin Hải Quân đặt tại San Miguel bên Phi Luật Tân. Một căn cứ phụ nhỏ hơn đặt tại Phú Bài, gần Huế. Ngoài ra, c̣n có những đơn vị kiểm thính lưu động dùng phi cơ C-130 cất cánh từ Thái Lan bay dọc theo bờ biển Bắc Việt.

    Phương tiện kiểm thính lưu động dùng trong các cuộc tuần tiễu DeSoto của Hải Quân được gọi là "communications van" hay "com van". Đây là một pḥng kín lớn bằng sắt, tương tự như những thùng "connex" chở hàng, trong đó có trang bị nhiều dụng cụ truyền tin điện tử đặc biệt.

    Trước khi khởi hành sang Việt Nam, một "com van" được chuyển từ KTH MacKenzie sang KTH Maddox tại Keelung. KTH MacKenzie lúc đó vừa hoàn tất một chuyến công tác DeSoto tại vùng biển Nhật Bản vào giữa tháng 7/64. Nhân viên truyền tin lo việc kiểm thính trên KTH Maddox được qui tụ từ San Miguel, Nhật và Hawai, tổng cộng chừng 15 người, do Đại Úy Gerrel Moore, phụ tá Sĩ Quan Truyền Tin tại căn cứ Hải Không Quân Shu Lin Kou ở Đài Loan chỉ huy. Nhóm kiểm thính này được chia làm 2 toán, mỗi toán thay phiên nhau làm việc mỗi 12 giờ. Trong pḥng làm việc có 3 máy thâu thanh để kiểm thính. Một máy thâu thanh VHF (Very High Frequency) có gắn máy thâu băng để nghe những liên lạc âm thoại ngắn tầm, thường là giữa các tầu bè. Lúc đó, các chiến đĩnh hải quân Bắc Việt xử dụng máy truyền tin loại P-609 của Nga Sô trên tần số từ 100 đến 150 megahezts với tầm hoạt động chỉ chừng vài ba hải lư, sau này mới dùng máy truyền tin tương đối khá hơn là loại P-108. Nhân viên kiểm thính Hoa Kỳ biết ít nhiều tiếng Việt nhưng không rành rẽ lắm. Ngoài ra, c̣n có 2 máy thâu thanh loại HF (High Frequency) dùng để kiểm thính các liên lạc tầm xa dùng kư hiệu Morse. Những máy HF không có máy ghi âm. Ngoài toán kiểm thính, trên chiến hạm Maddox chỉ có 4 người được quyền coi những công điện bắt được: đó là Đại Tá Herrick và sĩ quan phụ tá, Trung Tá Ogier và Hạm Phó KTH Maddox.

    Điều đáng để ư là khả năng "nghe lén" của pḥng kiểm thính lưu động này rất giới hạn so với các trung tâm San Miguel và Phú Bài. V́ với 3 máy thâu, KTH Maddox chỉ túc trực được trên 3 tần số khác nhau trong khi các trung tâm kia có nhiều máy nên bắt được hầu hết các công điện của hải quân Bắc Việt. Có lẽ lợi điểm duy nhất của KTH Maddox là có thể nghe được những liên lạc âm thoại ngắn tầm trên tần số VHF.

    Trong buổi thuyết tŕnh sau cùng vào ngày 27 tháng 7 tại Đài Loan trước khi khởi hành cuộc tuần tiễu, các sĩ quan của KTH Maddox được thông báo có lẽ chiến hạm sẽ không gặp sự chống đối nào trong lúc thi hành nhiệm vụ tại vịnh Bắc Việt. Để khỏi bị mang tiếng là "gây hấn", Đại Tá Herrick cẩn thận ra lệnh cho các ổ súng trên chiến hạm đều giữ vị thế nằm ngang, không nhắm vào bất cứ mục tiêu nào trên biển cũng như trên không nếu chưa được lệnh. Trong trường hợp chiến hạm bị tấn công, phi cơ từ mẫu hạm Ticonderoga nằm tại vị trí Yankee ngoài khơi Đà Nẵng sẽ tới yểm trợ.
    3. Vấn đề giờ giấc xử dụng trong Hải Quân
    Chiến hạm Maddox hoạt động trong vịnh Bắc Việt nhưng các cơ quan báo cáo liên hệ lại ở tại Sài G̣n, Subic, Hawai và Washington v.v... đều nằm trên những múi giờ khác nhau nên việc qui định giờ giấc chính xác khi các biến cố xảy ra trở nên rắc rối và khó phân biệt. V́ vậy, cần nói rơ sự khác biệt về vấn đề giờ giấc để việc theo dơi các hoạt động của chiến hạm Maddox tại vịnh Bắc Việt được dễ dàng, hợp lư và thứ tự.

    Lănh thổ Việt Nam nằm trong khoảng từ kinh độ 104 đến 110 độ Đông nên thuộc cả hai múi giờ G (Golfe - kinh độ 90 đến 105 Đông) và H (Hotel - kinh độ 105 đến 120 Đông). Trước đây vào thời Pháp thuộc, Việt Nam chọn giờ G, tức là trước giờ Quốc Tế (c̣n gọi là giờ GMT - Greenwich Mean Time - hay giờ Zulu) 7 tiếng đồng hồ, nhưng dưới trào Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm lại đổi sang giờ Hotel, tức là trước giờ Zulu 8 tiếng đồng hồ. Bắc Việt vẫn dùng giờ G nên miền chỉ riêng giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam giờ giấc đă khác biệt nhau 1 tiếng đồng hồ

    Giờ dùng trong bài viết này là giờ quân sự, mỗi ngày 24 giờ, kèm theo "múi giờ" theo đúng qui ước giờ giấc hải quân quốc tế. Thí dụ 1430H có nghĩa là 2 giờ 30 chiều, múi giờ Hotel tức là giờ miền Nam Việt Nam. Giờ Hotel c̣n được gọi là giờ -8 v́ muốn đổi sang giờ Quốc Tế, ta phải - 8 tiếng đồng hồ. Việc xác định múi giờ rất quan trọng nhất là đối với các chiến hạm hoạt động trên khắp thế giới. Các chiến hạm Hoa Kỳ khi hoạt động tại Việt Nam đều đổi đồng hồ sang giờ Hotel, tức là giờ của miền Nam Việt Nam. Giờ Hoa Thịnh Đốn EDT (Eastern Daylight Time) cách giờ Hotel -12 tiếng đồng hồ. Như vậy, 1430H (giờ Việt Nam) tức là 1430 - 12 = 2:30 AM EDT (giờ Hoa Thịnh Đốn) và 1430 - 8 = 0630Z (giờ quốc tế).

    Trong biến cố vịnh Bắc Việt, có nhiều chiến hạm liên quan nhưng lại đến từ các vị trí khác nhau trên thế giới nên dùng giờ giấc khác nhau. Hơn nữa, các cơ quan báo cáo như từ các chiến hạm, từ Bộ Tư Lệnh Hạm Đội Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương ở Hawai, từ Hoa Thịnh Đốn v.v... cũng nằm trên những múi giờ khác nhau nên nếu không phân biệt rơ ràng, chúng ta sẽ thấy có khi nói về cùng một sự kiện nhưng giờ giấc lại sai biệt cả mấy tiếng đồng hồ!

    Để ư thức được những rắc rối về vấn đề giờ giấc, hăy đơn cử trường hợp của vài ba chiến hạm Hoa Kỳ hoạt động trong vùng vịnh Bắc Việt lúc đó.

    - Khi rời hải cảng Keelung, Đài Loan lên đường công tác tại vịnh Bắc Việt, KTH Maddock dùng giờ India tức là giờ địa phương ờ Đài Loan. Nên nhớ đây là múi giờ India (I) hay - 9 tức là giờ Đài Loan chứ không phải giờ của nước ... Ấn Độ! (Ấn Độ nằm trong múi giờ Foxtrot nên dùng giờ F hay - 6).

    - Sau đó, ngày 2 tháng 8 trước khi vào vịnh Bắc Việt, chiến hạm vặn đồng hồ chậm lại một tiếng cho đúng với giờ H (Hotel hay -8) là giờ miền Nam Việt Nam mà các chiến hạm Hoa Kỳ tại vị trí Yankee đang dùng.

    - Tới sáng ngày 3 tháng 8, khi vào vịnh Bắc Việt chiến hạm lại vặn đồng hồ chậm lại một tiếng nữa để dùng giờ G (Golf hay - 7) là giờ Bắc Việt.

    - Mẫu hạm Ticonderoga v́ phối trí tại vị trí Yankee ngay cửa vào vịnh Bắc Việt nên vẫn dùng giờ Golf, măi tới nửa đêm 4 rạng ngày 5 tháng 8 mới thêm một tiếng đồng hồ để đổi sang giờ Hotel (từ 0001G sang 0101H) tức là giờ miền Nam VIệt Nam.

    - Riêng mẫu hạm Constellation tới từ Hồng Kông nên dùng giờ India cho tới chiều ngày 4 tháng 8, sau đó mới vặn đồng hồ chậm lại một tiếng để đổi sang giờ Hotel (từ 1900I sang 1800H).
    4. Cuộc tuần tiễu bắt đầu
    Khu Trục Hạm Maddox rời hải cảng Keelung, Đài Loan vào ngày 27 tháng 7. Đến sáng ngày 31, chiến hạm tới vị trí 17 độ 15 Bắc, 108 độ 29 Đông, khoảng ngang vĩ tuyến 17 ngoài khơi Việt Nam để nhận tiếp tế nhiên liệu từ chiếc tầu dầu Astabula (AO - 51). Lúc đó, 4 PTF của Lực Lượng Hải Tuần cũng trên đường về từ chuyến công tác Ḥn Mê và chạy ngang KTH Maddox lúc 0841H, cách chừng 4 hải lư. Điều này khiến một số người cho rằng chiến hạm Maddock đă cố ư chặn ngang vĩ tuyến 17 để đề pḥng tiểu đĩnh Bắc Việt có thể đuổi theo các PTF! Nhưng trong thực tế, với vận tốc lên tới 55 knots, các PFT có thể bỏ các tiểu đĩnh Bắc Việt vận tốc chừng 35 knots lại đàng sau dễ dàng. Trong suốt 5 năm phục vụ tại LLHT với hàng trăm chuyến công tác, chúng tôi chỉ thấy tầu Bắc Việt chạy trốn vào các cửa sông hay các hải đảo, chưa từng thấy chiếc nào giám đuổi theo những PFT vừa có vận tốc cao hơn, vừa có hỏa lực mạnh hơn.

    Từ buổi sáng tới xế trưa ngày 31/7, KTH Maddox tuần tiễu quanh vùng Ḥn Cọp, một hải đảo thuộc Bắc Việt nằm xế về phía Bắc vĩ tuyến 17, cách bờ chừng 13 hải lư. Tới 1000H, chiến hạm rời vùng Ḥn Cọp đi về phía Bắc, cách bờ từ 8 đến 20 hải lư và bắt đầu bị hệ thống pḥng duyên Bắc Việt theo dơi.

    Sáng ngày 1/8, KTH Maddox tới vùng Ḥn Mật, một hải đảo nằm ngoài khơi thành phố Vinh. Đến chiều tối, trung tâm kiểm thám bắt được nhiều công điện của Bắc Việt ghi rơ hải tŕnh và vị trí của chiến hạm. Từ những chi tiết này, KTH Maddox tính ngược lại để xác định vị trí của các đài quan sát trên bờ. Tuy nhiên, đây chỉ là những công điện báo cáo theo dơi vị trí thông thường. Nhưng khi đến gần Ḥn Mê ngoài cửa biển Sầm Sơn xa hơn về phía Bắc, chiến hạm bắt được một công điện ngắn khác của Bắc Việt ra lệnh cho các tiểu đĩnh duyên pḥng tấn công, nhưng không nói rơ mục tiêu. Nên nhớ, lúc đó có cả các PTF và chiến hạm Maddox hoạt động trong vịng Bắc Việt, nên "mục tiêu" rất có thể là các PTF. Nhưng sau đó, một công điện khác dài hơn cho biết vị trí của mục tiêu trùng hợp với vùng KTH Maddox đang hoạt động.

    Sau khi đọc nhưng công điện bắt được của Bắc Việt, Hải Đội Trưởng Herrick biết rằng chiến hạm đang ở trong t́nh trạng nguy hiểm, có thể bị các tiểu đĩnh CSBV tấn công bất cứ lúc nào. Vào lúc 0336H ngày 2/8, ông ra lệnh nhiệm sở tác chiến, tăng tốc độ và đổi đường về hướng Đông quay mũi xa hơn ra ngoài biển để tránh xa vùng nguy hiểm.

    Về phía Bắc Việt, khi thấy KTH Maddock tới gần Ḥn Mê là mục tiêu đă bị các chiến đĩnh của LLHT bắn phá mấy đêm trước, nên lại càng tin rằng chiến hạm này và các PFT cùng chung một toán hoạt động phối hợp và hỗ trợ nhau.

    Vào thời gian này, Hải Quân Bắc Việt rất yếu kém, không có chiến hạm lớn, chỉ có một số pháo đĩnh " Swatow " cũ kỹ do Trung Cộng đóng, dài chừng chừng 25 thước, trang bị đại bác 37 ly, vận tốc tối đa 35 knots. Ngoài ra c̣n có một số ngư lôi đĩnh loại P-4 do Nga Sô chế tạo, dài chừng 20 thước trang bị thượng liên 14.5 ly, 2 ngư lôi đầu nổ nặng 550 pound TNT, vận tốc lên tới 50 knots, có thể tấn công chiến hạm lớn. Muốn phóng hiệu quả các như lôi này, tiểu đĩnh phải vào cách mục tiêu không quá 1000 yards. Những tiểu đĩnh P-4 này tuy nhanh nhưng vẫn chậm hơn các PTF lại trang bị vũ khí nhẹ hơn nên không phải là đối thủ của các chiến đĩnh LLHT. Đối với chiến hạm lớn như KTH Maddox, tuy vận tốc của ngư lôi đĩnh P-4 có lợi thế hơn, nhưng muốn phóng được ngư lôi phải tới gần mục tiêu chừng 1000 yards, lúc đó có lẽ đă bị các đại bác 127 ly, 76 ly ... với tầm bắn xa 18,000 yards trên chiến hạm bắn tan.

    Hồi 2220H tối 1/8, Bắc Việt ra lệnh cho 3 ngư lôi đĩnh mang số T-333, T-336 và T-339 thuộc Phân Đội 3, Hải Đội 135 cùng 2 chiếc Swatow mang số T-142 và T-146 rời căn cừ gần Ḥn Gay sát biên giới Hoa - Việt lên đường đến pḥng thủ Ḥn Mê. Căn cứ này có tên là Văn Hoa (Hoa Kỳ gọi là Port Wallut) cách Ḥn Mê chừng 145 hải lư về hướng Bắc.

    Qua đêm 1/8 ngoài biển, sáng sớm ngày 2/8, KTH Maddox quay trở lại vùng cách ḥn Ḥn Mê chừng 10 hải lư. Trung tâm kiểm thám trên chiến hạm bắt được thêm nhiều báo cáo theo dơi của Bắc Việt. Tới xế trưa, chiến hạm phát hiện 5 tiểu đĩnh nói trên của Bắc Việt ở hướng Tây Nam, đang di chuyển sát bờ về phía Nam và tới Ḥn Mê lúc 1322H.

    (C̣n tiếp)
    Last edited by alamit; 05-10-2012 at 03:39 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964




    (Bài 3/6)- Trần Đỗ Cẩm biên khảo
    (Austin Texas, mùa Thu 1998)
    Email: camtran11@yahoo.com

    V. Cuộc đụng độ lần thứ nhất (ngày 2 tháng 8)
    1. Bắc Việt ra lệnh tấn công
    Theo hải tŕnh dự trù trong lệnh hành quân, trong khoảng thời gian từ 1100H tới 1900H, KTH Maddox sẽ tuần tiễu quanh vùng điểm D, nằm về phía Đông Bắc Ḥn Mê, tọa độ 19 độ 47 Bắc, 106 độ 08 Đông. Nhưng khi phát hiện các tiểu đĩnh Bắc Việt tới pḥng thủ Ḥn Mê, Đại Tá Herrick cẩn thận ra lệnh cho chiến hạm đổi đường về hướng Đông Bắc tránh xa Ḥn Mê để đề pḥng bị phục kích. Theo tài liệu của Bắc Việt, lệnh tấn công được ban hành lúc 1450H. Khoảng 1530H, radar trên KTH Maddox phát hiện 3 ngư lôi đĩnh xuất phát từ Ḥn Mê đi hướng Đông Bắc đuổi theo chiến hạm với vận tốc chừng 30 knots. Nửa tiếng đồng hồ sau, chiến hạm vào nhiệm sở tác chiến và đổi đường về hướng Đông Nam để tránh xa bờ biển Bắc Việt và tới gần hơn các chiến hạm Hoa Kỳ phối trí tại điểm Yankee.



    Theo chiến thuật phóng ngư lôi, các tiểu đĩnh cần tận dụng vận tốc cao và chọn đường đi gần như chận đầu mục tiêu để có thể tới gần trong thời gian nhanh nhất hầu tránh thiệt hại v́ hải pháo. Đúng ra các tiểu đĩnh Bắc Việt phải tấn công KTH Maddox từ hướng Đông Nam tới (hướng về phía Tây Bắc) để chận đường và gh́m mục tiêu vào sát bờ để tấn công. Nhưng khi các tiểu đĩnh Bắc Việt đi hướng Đông Bắc tiến về KTH Maddock, chiến hạm đă đổi đường Đông Nam đi nơi khác, v́ vậy khi tới nơi, các tiểu đĩnh bị bỏ lại đàng sau và nằm về phía tây của chiến hạm nên chỉ c̣n cách đuối theo về hướng Đông Nam, tức là chạy song song thay v́ chận đường chiến hạm. Sau này, Hạm Trưởng Ogier cho biết:"Các tiểu đĩnh Bắc Việt bị bỏ lại phía sau v́ khi bắt được công điện tấn công chiến hạm đă đổi đường. Do đó chúng chỉ c̣n cách đuổi theo".

    Việc các tiểu đĩnh Bắc Việt thay v́ "chận đầu" lại "theo đuôi" này cho thấy các tiểu đĩnh không có radar hoặc có mà không xử dụng được nên mới không biết KTH Maddox đă đổi đường. Trên giấy tờ, các ngư lôi đĩnh Bắc Việt được trang bị radar loại 253 của Nga, c̣n có tên là "Skinhead", trong điều kiện lư tưởng, có thể nh́n thấy mục tiêu lớn các xa chừng 15 hải lư, nghĩa là tầm xa không hơn ǵ mắt thường. Cột radar được chế tạo có thể hạ xuống để tránh bị phát hiện và cũng đỡ bị cản gió để tiểu đĩnh có thể đạt vận tốc tối đa khi phóng ngư lôi. Tuy tài liệu trong báo Hải Quân Việt Cộng trang 25 nhan đề "Thiếu Úy Nguyễn Văn Giản" của tác giả Hồng Thủy khoe rằng thuyền trưởng chiếc T-339 nói radar phát hiện chiến hạm Maddox trước khi nh́n thấy bằng mắt thường, nhưng đây nhiều phần chỉ là để tuyên truyền. Nếu có radar theo dơi, các tiểu đĩnh đă kịp thời đổi hướng tương ứng để chận đường mục tiêu thay v́ chạy theo sau.

    Khi radar phát hiện các tiểu đĩnh Bắc Việt từ Ḥn Mê đuổi theo, KTH Maddox đă cách xa bờ biển chừng 16 hải lư. Chiến hạm lập tức gửi công điện cho Đệ Thất Hạm Đội thông báo sắp bị tấn công. Khoảng 1605H, khi các ngư lôi đĩnh c̣n cách chừng 10,000 yards, Hạm Trưởng Ogier ra lệnh tác xạ ba, bốn trái hải pháo chận đầu. Sau này, HĐT Herrick cho biết ông chỉ cho phép bắn cảnh cáo, không nhắm thẳng vào các tiểu đĩnh Bắc Việt và ông nhớ các quả đạn này rơi xuống phía trước và đàng sau các tiểu đĩnh. Phần Hạm Trưởng Ogier và Đại Úy Raymod Connell cho biết họ đă nhắm thẳng vào mục tiêu. Tuy bị bắn cảnh cáo, các ngư lôi đĩnh vẫn xông tới. Tới khoảng 1610H, khi khoảng cách c̣n chừng 9,000 yards, hải pháo trên chiến hạm bắt đầu bắn tiêu diệt, tổng cộng 283 quả đạn vừa 76 ly và 127 ly. Lúc đó, chiến hạm Maddox đă ra cách bờ biển Bắc Việt chừng 28 hải lư.
    2. Phân Đội 3 Ngư Lôi Đĩnh Bắc Việt tấn công
    Theo tài liệu của Bắc Việt, mỗi phân đội gồm 3 ngư lôi đĩnh. Ba tiểu đĩnh thuộc Phân Đội 3 Hải Quân Bắc Việt do 3 anh em ruột chỉ huy. Chỉ Huy Trưởng Phân Đội 3 tên Nguyễn Văn Bột cũng là Thuyền Trưởng chiếc T-333. Hai người em, Nguyễn Văn Tú chỉ huy chiếc T-336 và Nguyễn Văn Giản chỉ huy chiếc T-339. Ngoài ra, c̣n một số sĩ quan khác không thuộc Phân Đội 3 cũng được gửi tới tăng cường như Lê Duy Khoát, Chỉ Huy Trưởng Phân Đội 135.

    Ba ngư lôi đĩnh hướng về KTH Maddox theo đội h́nh hàng dọc, chiếc T-333 dẫn đầu, theo sau là T-336 và T-339. Theo tài liệu kỹ thuật, mỗi tiểu đĩnh có 2 ống phóng ngư lôi nằm hai bên hông. Các ống phóng này không hướng thẳng về phía trước mà nằm xiên ra phía ngoài chừng 1 độ rưỡi so với trục chiến đĩnh để 2 ngư lôi khi phóng ra sẽ tỏa rộng khiến mục tiêu khó vận chuyển lẩn tránh. Theo chiến thuật, cả ba tiểu đĩnh đều phóng ngư lôi - tổng cộng 6 quả - cùng một lúc khi chỉ c̣n cách mục tiêu từ 600 - 1000 yards để hy vọng ít nhất một trái trong chùm ngư lôi sẽ trúng đích.

    Nhưng lúc tiến gần mục tiêu nhưng chưa đến tầm ngư lôi, các tiểu đĩnh Bắc Việt đă bị tán loạn hàng ngũ v́ hải pháo từ KHT Maddox bắn quá dữ dội . Khi chiếc T-333 dẫn đầu vào vị trí song song với KTH Maddox, hai chiếc T-336 và T-339 lại chạy quá xa phía sau mục tiêu để tránh đạn. Tiểu đĩnh T-336 hoảng hốt phóng ngư lôi trước, chiếc T-339 phóng sau khi cả 2 c̣n cách mục tiêu rất xa. KTH Maddox vận chuyển tránh các ngư lôi này dễ dàng vào hồi 1718 H và 1721 H. Sau khi hai chiếc T-336 và T-339 đă phóng hết ngư lôi, chiếc T-333 mới quẹo vào mục tiêu. Tên Trần Bảo, Chỉ Huy Phó Phân Đội 135 sau này cho biết chiếc T-333 có phóng ngư lôi vào mục tiêu, nhưng thật sự, chiếc T-333 bị trúng đạn của chiến hạm Maddox khiến ít nhất một trái như lôi bị bật tung khỏi ống phóng và rơi xuống biển.
    3. Hải pháo trên Khu Trục Hạm Maddox

    Hỏa lực chính trên KTH Maddox gồm 3 giàn đại bác 127 ly đôi. Hai giàn trước mũi mang số 51và 52; giàn phía sau lái mang số 53. Trung sĩ Trọng Pháo Ronald Stalsberg, trưởng khẩu 51 cho biết chiếc T-333 bị ụ súng của anh bắn bất khiển dụng v́ một quả đạn nổ rất gần khiến tiểu đĩnh này bị nhấc bổng rồi rơi xuống mặt nước khiến ít nhất một trái ngư lôi bị bật tung khỏi ống phóng. Sau đó ụ súng 51 chuyển xạ sang các ngư lôi đĩnh khác. Về phần KTH Maddox chỉ bị trúng một viên đạn đại liên 14.5 ly do từ ngư lôi đĩnh T-333.

    Sau khi phóng ngư lôi, các tiểu đĩnh Bắc Việt bỏ chạy tan tác mỗi chiếc một ngả, một phần v́ hỏa lực từ chiến hạm Maddox quá dữ dội, phần v́ đă hết ngư lôi. Hai chiếc T-333 và T-336 chạy trước, trong lúc chiếc T-339 v́ bị mất liên lạc với đồng bọn nên c̣n bám theo mục tiêu ít lâu mới chạy sau. Chiến hạm Maddox lập tức quay mũi vừa bắn vừa đuổi theo.

    Hệ thống tác xạ chính gồm 3 giàn hải pháo 127 ly đôi trên KHT Maddox được chia làm 3 thành phần chính: đài kiểm xạ viễn khiển, ụ súng và pḥng tiếp đạn.

    Đài kiểm xạ chịu trách nhiệm việc gióng súng với cao độ và chiều hướng thích hợp nhắm vào mục tiêu rồi chuyển lệnh cho ụ súng xử dụng loại đạn và thuốc bồi thích hợp. Với nhiều nhiệm quan trọng như vậy, một nhân viên kiểm xạ rành nghề cần thường xuyên báo trước cho toán hải pháo trong ụ súng mọi di chuyển sắp tới cũng như ngưng của ụ súng để họ đề pḥng, không bị xô đẩy bất ngờ trong ụ súng đóng kín.

    Toán hải pháo trong ụ súng có nhiệm vụ nạp đạn, thuốc bồi và khai hỏa.

    Toán tiếp đạn chịu trách nhiệm chuyển đạn từ những hầm dưới boong chính lên ụ súng.

    Nếu ba toán này phối hợp trơn tru nhịp nhàng, nhịp bắn của mỗi ụ súng có thể lên tới chừng 40 viên một phút trong thới gian đầu. Sau đó, v́ số đạn chứa sẵn trong ụ súng đă tiêu thụ hết, cần phải chuyển đạn từ dưới hầm lên nên nhịp bắn chậm lại c̣n chừng 30 viên mỗi phút.

    Hôm đó, các giàn hải pháo của KTH Maddox hoạt động không được hiệu quả đúng mức trong khi tác chiến v́ nhiều lư do.

    Thứ nhất, nhân viên đài kiểm xạ thiếu kinh nghiệm nên những ụ súng nhiều khi được quay hoặc ngừng quá bất chợt khiến nhân viên hải pháo không kịp đề pḥng, bị té nhào trong ụ súng. Nhiều lúc, đài kiểm xạ không ngưng súng kịp thời khiến ṇng súng đụng mạnh vào các rào cản nhằm chận súng không hướng về các thượng tầng kiến trúc của chiến hạm. Ngoài ra, đạn không được chuyển đến kịp thời khiến nhịp bắn bị chậm lại. Đôi khi toán tiếp đạn cung cấp loại không thích hợp, thí dụ như cả đạn chiếu sáng và đạn mă tử cũng được chuyển đến nạp vào ṇng súng. V́ những trục trặc này mà nhịp bắn của KTH Maddox chậm hơn b́nh thường rất nhiều. Trong khoảng 10 phút giao chiến, các ụ súng 127 ly chỉ bắn được tổng cộng 151 viên, trung b́nh chừng 5 viên một phút cho mỗi ụ súng hai ṇng. Sau này, những cuộc điều tra cho biết lư do chính của việc tác xạ kém hiệu quả này v́ KTH Maddox không đủ nhân viên theo bảng cấp số, thủy thủ đoàn lúc đó chỉ c̣n 212 người so với quân số lư thuyết 296 người. V́ vậy, đă có lúc nhân viên của ụ súng 52 phải bỏ nhiệm sở xuống tăng cường cho toán tiếp đạn của các ụ súng khác. Đây là t́nh trạng thiếu hụt quân số chung của chung của Hải Quân Hoa Kỳ lúc đó.
    4. Phi cơ Hoa Kỳ tấn công
    Ngay khi các ngư lôi đĩnh BV bỏ chạy, 4 phi cơ F-8 Crusader thuộc mẫu hạm Ticonderoga do Trung Tá James Stockdale chỉ huy nhập trận. Để tránh trở ngại và ngộ nhận, KTH Maddox rời khỏi chiến trường, đổi đường xả hết tốc lực đi về hướng Nam, nhường mục tiêu lại cho các phi cơ thanh toán. Lúc đó 3 tiểu đĩnh BV chia làm 2 toán: hai chiếc T-333 và T-336 chạy trước, c̣n T-339 tụt lại phía sau. Phi cơ Hoa Kỳ do dó cũng chia làm hai toán. Hai phi cơ của Trung Tá Stockdale và Trung Úy Richard Hastings tấn công 2 tiểu đĩnh đi đầu; hai chiếc c̣n lại do Trung Tá R. F. Mohrhardt và Thiếu Tá C. E. Southwick tấn công chiếc T-339 chạy sau.

    Các phi cơ bắn hỏa tiễn Zuni trước nhưng đều không trúng mục tiêu. Zuni loại hỏa tiễn khá lớn, đường kính chừng 4 inches, nặng khoảng 50 kư. Ngay trong đợt tấn công đầu tiên, phi công Trung Úy phi công Hastings, người kém thâm niên nhất thấy súng pḥng không từ tiểu đĩnh bắn lên và cánh trái của ḿnh bị bay mất một mảng, anh báo cáo phi cơ ḿnh bị trúng hỏa lực pḥng không của các tiểu đĩnh Bắc Việt. Nhưng thật ra, phi cơ của phi công Hastings không bị hư hại v́ đạn pḥng không mà v́ sau khi nhào xuống để bắn rocket, anh đă hoảng hốt bay lên quá mau khiến cánh phi cơ không chịu nổi sức cản của không khí nên bị bể mất một miếng. Đây là nhược điểm thường thấy của loại phi cơ Crusader. Trung Tá Stockdale phải hộ tống phi công Hastings tới gần chiến hạm Maddox để được cấp cứu nếu cần rồi bay trở lại mục tiêu. Tưởng lầm đây là một phi cơ mới tới nên sau này phía BV cho rằng có 5 phi cơ tấn công các tiểu đĩnh, đợt đầu 4 chiếc trong số này có 2 chiếc bị hư hại bỏ chạy; đợt sau chỉ có 1 chiếc.

    au khi bắn hết hỏa tiễn Zuni nhưng tất cả đều không trúng đích, các phi cơ bắt đầu nă đạn đại bác 20 ly Oerlikon. Lần này, cả 3 tiểu đĩnh đều bị trúng đạn. Chiếc T-339 bị hư hại nặng nhất không c̣n chạy được và bị bốc khói. Phía BV nói là chiếc tiểu cố t́nh đĩnh thả khói để che dấu và cũng để đánh lừa các phi công Hoa Kỳ lầm tưởng rằng mục tiêu đă bị hư hại nên không bắn nữa. Thật ra, b́nh khói của chiếc T-339 bị trúng đạn nên phun khói ra. Phần lớn các ổ pḥng không chính 14.5 ly trên các tiểu đĩnh cũng bị trở ngại tác xạ. Súng trên chiếc T-339 bị kẹt đạn. Súng trên chiếc T-333 không quay được nên không thể nhắm vào mục tiêu.
    5. Kết quả của trận đánh


    Phía Bắc Việt khoe rằng bắn rơi 2 trong 5 phi cơ Hoa Kỳ. Thật ra, khi phi cơ của Trung Tá Stockdale hộ tống phi cơ bị hư hại của Trung Úy Hastings rời trận chiến, khói từ ống phản lực phun ra khiến thủy thủ đoàn BV cho rằng 2 phi cơ này bi hư hại và bị rơi. Phía BV, cả 3 tiểu đĩnh đều bị hư hại . Chiếc T-339 không c̣n chạy được, đúng ra đă bị bắn ch́m nếu không có sự hiểu lầm trong nội bộ lực lượng Hoa Kỳ. Lúc đó, Đô Đốc Robert Moore, Chỉ Huy Trưởng Hải Đội Ticonderoga đă ra lệnh cho một phi đội thứ nh́ cất cánh để đánh ch́m các ngư lôi đĩnh BV. Đây là chính điều Đô Đốc Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội mong muốn. Nhưng khi nghe thấy Đô Đốc Johnson ra lệnh cho KTH Maddox không được đuổi theo, ư muốn để các tiểu đĩnh cho phi cơ thanh toán, Đô Đốc Moore lại lầm tưởng rằng toàn lực lượng không được phép đuổi theo. V́ vậy, khi phi đội thứ nh́ tới vùng mục tiêu, Đô Đốc Moore ra lệnh không được tác xạ.

    Sau trận đánh, 2 tiểu đĩnh T-333 và T-336 không c̣n nh́n thấy chiếc T-339 và cũng không liên lạc được nên báo cáo về Bộ Chỉ Huy chiếc T-339 đă bị ch́m rồi d́u nhau về cửa Lạch Chao (cửa sông Mă) và ủi vào băi Sầm Sơn để khỏi bị ch́m. Riêng chiếc T-339 chỉ bị hư hại nặng, sau này sửa được máy và chạy về được tới đảo Ḥn Nê ngoài khơi gần cửa sông Mă.

    Về phía Hoa Kỳ, việc báo cáo chiếc T-339 đă bị ch́m cũng có nhiều sai lạc. V́ các phi cơ tấn công thấy rơ chiếc T-339 bi bốc khói và hư hại nặng. Vả lại, các liên lạc truyền tin bắt được từ các tiểu đĩnh T-333 và T-336 cũng báo cáo chiếc T-339 đă bị ch́m. Hơn nữa, không ảnh chụp mấy ngày sau tại vùng Sầm Sơn cũng chỉ thấy 2 chiếc T-333 và T-336. Thật ra lúc này chiếc T-339 không nằm tại Sầm Sơn mà tại băi Ḥn Nê. Nguồn tin khác lại cho rằng có tới 2 tiểu đĩnh bị ch́m. Thật ra, tin này căn cứ vào báo cáo của phi cơ thám sát 1 giờ sau trận đánh, chỉ c̣n thấy chiếc T-339 ngoài biển (hai chiếc kia đă chạy vào Sầm Sơn).

    Nhưng những ngư lôi đĩnh này cũng không sống sót được bao lâu. Vào tháng 7 năm 1966, một toán 3 ngư lôi đĩnh của BV mạo hiểm lần ṃ ra vịnh Bắc Việt. Lần này cả 3 chiếc bị đánh ch́m thật sự. Chiến hạm Hoa Kỳ vớt được 19 người sống sót. Theo lời khai, 3 ngư lôi đĩnh này là các chiếc mang số T-333, T-336 và T-339 trước đây đă đụng độ với chiến hạm Maddox! Trong số các sĩ quan HQBV bị bắt sống, có 2 người biết rất rơ về biến cố ngày 2 tháng 8 năm 1964. Đó là Đại Úy Trần Bảo, Chỉ Huy Phó Phân Đội 135, người viết báo cáo về biến cố ngày 2 tháng 8. Người kia là Thượng Úy Nguyễn Văn Giản. Lúc đó vẫn c̣n là thuyền trưởng chiếc T-339. Cả hai tên Trần Bảo và Nguyễn Văn Giản cung khai rơ ràng vị trí và t́nh trạng của từng tiểu đĩnh BV sau trận đánh ngày 2 tháng 8. Trần Bảo khai rằng trong trận tấn công chiến hạm Maddox, không có ngư lôi đĩnh nào bị ch́m và mô tả từng trường hợp mỗi ngư lôi đĩnh vào được tới bờ. Theo khẩu cung của cả 19 tù binh cũng xác nhận không có ngư lôi đĩnh nào bị ch́m. Sau này, một tù binh khác bị bắt vào tháng 7 năm 1967 cung khai về trường hợp 3 ngư lôi đĩnh khác bị đánh ch́m vào năm 1966. Do đó có một số người ngộ nhận 3 tiểu đĩnh bị đánh ch́m sau này với 3 tiểu đĩnh tham chiến ngày 2 tháng 8 năm 1964.
    6. Phía Bắc Việt kể lại trận đánh
    Trong lúc Hoa Kỳ dường như cố ư làm lớn chuyện về cuộc đụng độ th́ phía Bắc Việt lại như muốn che dấu. Việc cho các tiểu đĩnh cố ư tấn công chiến hạm Maddox ngoài hải phận quốc tế đă khiến BV khó ăn khó nói.

    Các báo chí chuyên môn tuyên truyền của BV như tờ Nhân Dân nhật báo cũng không đả động ǵ nhiều tới biến cố vịnh Bắc Việt. Măi tới sau khi Hoa Kỳ oanh tạc trả đủa vào ngày 5 tháng 8, Bắc Việt mới bắt đầu la ó và tuyên truyền về hành động "anh hùng" của các tiểu đĩnh. Với mục đích tuyên truyền cố hữu, Bắc Việt đă trắng trợn xuyên tạc sự thật. Trong "Văn Thư về hành động chiến tranh của Hoa Kỳ nhằm vào Cộng Ḥa Nhân Dân Việt Nam", Bắc Việt cho biết trận chiến xảy ra khi KTH Maddox chỉ cách bờ biển dưới 8 hải lư trong khi thật sự xảy ra ngoài khơi xa hơn nhiều, khoảng trên 20 hải lư tức là thuộc hải phận quốc tế. Nên nhớ, lúc đó Bắc Việt cũng đă bắt chước Trung Cộng, đ̣i hải phận quốc gia 12 hải lư. Trên tờ báo "Quân Đội Nhân Dân" số ra ngày 11 tháng 8 năm 1964, trong bài "Thiếu Úy Nguyễn Văn Giản", tác giả Hồng Thủy c̣n tuyên truyền bịa đặt rằng các tiểu đĩnh CS đă dùng hỏa lực "trội hơn" để đánh bại KHT Maddox. Chẳng lẽ tác giả Hồng Thủy muốn nói đại liên 14.5 ly của Cộng Sản có hỏa lực "trôi hơn" hải pháo 127 ly của đế quốc Mỹ? Ngoài ra, các cơ quan tuyên truyền CS cũng khoe khoang HQ Bắc Việt chỉ với mấy chiếc tầu nhỏ cũng đă gây thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như vật chất cho chiến hạm Maddox. Thật sự chỉ có một viên đạn đại liên bắn trúng chân của đài kiểm xạ không gây thiệt hại quan trọng.

    Phía BV có 3 chết trong số đó có thuyền trưởng chiếc T-336 là Nguyễn Văn Tú và 6 bị thương.

    (C̣n tiếp)
    Last edited by alamit; 05-10-2012 at 03:34 AM.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964



    (Bài 4/6)- Trần Đỗ Cẩm biên khảo
    (Austin Texas, mùa Thu 1998)
    Email: camtran11@yahoo.com

    VI. Cuộc tuần tiễu DeSoto tiếp tục

    Sau biến cố ngày 2 tháng 8, Đại Tá Herrick tỏ ra rất do dự v́ lo ngại rằng nếu c̣n tiếp tục hoạt động gần bờ, có thể Bắc Việt sẽ lại tấn công. Do đó, ông đề nghị hủy bỏ công tác nhưng thượng cấp không đồng ư. Đô Đốc Johnson cho rằng nếu làm như vậy có nghĩa là chiến hạm Hoa Kỳ đă Bắc Việt bị tống ra khỏi vùng dù hải hành trong hải phận quốc tế. Tuy nhiên trong công điện ngày 3 tháng 8 hồi 1712Z, ông cũng đồng ư rằng chỉ nên tiếp tục trong thời hạn ngắn với thêm chiến hạm tăng cường.

    Ngay ngày hôm sau 3 tháng 8, KTH Maddox tiếp tục công tác, dự trù 5 kéo dài ngày với sự tăng cường của KTH Turney Joy thuộc Hải Đội KTH 19 lúc đó đang đảm trách nhiệm vụ tiền sát cho mẫu hạm Ticonderoga ngoài cửa vịnh Bắc Việt. Hai chiến hạm được lệnh không được tới gần bờ biển Bắc Việt dưới 11 hải lư thay v́ 8 hải lư như trước. Khoảng cách với các hải đảo vẫn giữ nguyên 4 hải lư.

    Theo nhận xét của Đại Tá Herrick, thế nào Bắc Việt cũng phản ứng. V́ vậy, trong hai ngày 3 và 4 tháng 8, các chiến hạm Hoa Kỳ rất dè dặt, lúc nào cũng hải hành cách bờ không dưới 16 hải lư và cách các đảo chừng 10 hải lư, v́ vậy không thu thập được nhiều tin tức t́nh báo hữu ích.

    Về phần Trung Tá Robert C. Barnhart, Jr., Hạm Trưởng KHT Turney Joy, ông đă rất bất ngờ khi được chỉ định tham dự công tác. Trước đây, chiến hạm đảm trách nhiệm vụ tiền sát, tuần tiễu trong vùng giữa Hải Đội Ticonderoga và Bắc Việt để báo động sớm những hành động thù nghịch như máy bay địch có thể bất thần tấn công mẫu hạm của hải đội. Do dó, Hạm Trưởng Barnhart, Jr. không hoàn toàn nắm vững t́nh h́nh địch trong vịnh Bắc Việt và chiến hạm cũng không có máy móc kiểm thính để biết trước những hoạt động của địch như KTH Maddox. Về mặt nhân sự, thủy thủ đoàn trên chiến hạm cũng thiếu hụt khá trầm trọng, nhưng nh́n chung, tinh thần vẫn khá cao. Trong ngày 3 tháng 8, các chiến hạm Hoa Kỳ hải hành rất thận trọng trong khu vực ấn định và quan sát thấy có nhiều ghe đánh cá trong vùng tuần tiễu, nhưng không có biến cố quan trọng nào xảy ra.
    VII. Cuộc tấn công của các chiến đĩnh LLHT
    Trong lúc đó, vào trưa ngày 3 tháng 8, các PTF 1, 2, 5 và 6 thuộc LLHT rời Đà Nẵng với nhiệm vụ đánh phá các mục tiêu tại Mũi Vinh Sơn và Cửa Ron nằm về phía Bắc vùng phi quân sự chừng 70 hải lư, khoảng vĩ tuyến 18 Bắc. Trên đường công tác, PFT 2 v́ bị trục trặc máy móc nên phải quay về Đà Nẵng. Ba chiến đĩnh c̣n lại tiếp tục công tác. Tới khoảng 11 giờ đêm, các PTF 2 và 5 tới mục tiêu, bắn phá đài radar Vinh Sơn trong ṿng 45 phút. PTF 6 c̣n lại hoạt động một ḿnh, bắn phá đài quan sát và cầu tầu tại Cửa Ron. Theo báo cáo, một chiếc Swatow của Bắc Việt rời bến nghênh chiến nhưng v́ vận tốc chậm hơn nên không theo kịp PTF 6.

    V́ có các chiến đĩnh của LLHT cùng hoạt động trong vùng, hai KTH Hoa Kỳ được lệnh tuần tiễu xa hơn về phía Bắc, phía trên vĩ tuyến 19 độ 20 Bắc cho tới ngày 6 để tránh gây trở ngại hoặc ngộ nhật đối với các PTF. Phía với Bắc Việt la cho rằng đây là kế "dương đông kích tây", các chiến hạm Hoa Kỳ cố t́nh "cầm chân" lực lượng pḥng duyên ở mặt Bắc để trợ giúp các PTF hoạt động xa hơn về phía Nam.

    Trong suốt ngày 3 tháng 8, Bắc Việt không theo dơi được các hoạt động của các chiến hạm Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chiếm hạm Maddox ghi nhận vào lúc 2030H, có một tiểu đĩnh di chuyển về hướng Đông Nam dùng radar loại "skinhead" theo dơi. Tiểu đĩnh này sau đó mất hút về hướng đảo Hải Nam. Căn cứ vào các dữ kiện thâu thập được như vị trí, hướng đi, nơi đến, đây có thể là một tiểu đĩnh của Trung Cộng. Với liên hệ chặt chẽ giữa Trung Cộng và Việt Cộng lúc đó, rất có thể Trung Cộng đă thông báo cho Việt Cộng biết những hoạt động của chiến hạm Hoa Kỳ trong vịnh Bắc Việt.

    Sau khi các PTF bắn phá đài radar Vinh Sơn và Cửa Ron vào đêm 3 rạng ngày 4 tháng 8, Bắc Việt la hoảng là đă bị pháo kích bằng hải pháo cỡ lớn v́ t́m thấy mảnh đạn cỡ 125 ly. Các PTF xử dụng hải pháo cỡ 40 ly, súng cối 80 ly và đại bác không giật 57 ly, chỉ có các KTH Hoa Kỳ trang bị súng 127 ly. Trước đây, Bắc Việt cho rằng KTH Maddox không dính dáng tới vụ LLHT đánh phá vùng Ḥn Mê vào đêm 30 rạng ngày 31 tháng 7, nhưng nay họ cho rằng lực lượng hải quân bắn phá Vinh Sơn và Cửa Ron gồm 4 PTF xuất phát từ Đà Nẵng và cả 2 KTH Hoa Kỳ.
    VIII. Các KHT Hoa Kỳ được dùng làm mồi nhử?
    Phía Bắc Việt cho rằng Hoa Kỳ đă dùng các KTH trong công tác DeSoto để cố ư khiêu khích cũng như t́m lư do chính đáng để gây hấn. Khi chiến tranh VN đă kết thúc, lúc gặp cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ McNamara, Vơ Nguyên Giáp cũng vẫn giữ lập luận này. Một số chính khách Hoa Kỳ cũng tỏ ư nghi ngờ. Sau này, ngay thủy thủ đoàn KTH Maddox cũng cho rằng cấp chỉ huy muốn dùng họ làm "mồi", t́m cách cho chiến hạm bị hư hại nặng hoặc bắn ch́m để Hoa Kỳ có cớ tấn công Bắc Việt. Bằng cớ là có một tầu ḍng chuyên dùng để tiếp cứu các chiến hạm lâm nạn đă túc trực sẵn sàng ngoài khơi vịnh Bắc Việt.
    IX. Vụ đụng độ lần thứ nh́ vào ngày 4 tháng 8
    Qua sáng ngày 4 tháng 8, các ghe đánh cá ngày hôm trước không c̣n nữa nhưng có một tầu dầu nhỏ xuất hiện gần Ḥn Mê. Khi thấy bóng các chiến hạm Hoa Kỳ, chiếc tầu này vội lẩn trốn vào sau hải đảo.

    Hai KTH tiếp tục tuần tiễu dọc bờ biển Bắc Việt như ngày hôm trước, giữ khoảng cách trên 16 hải lư và thường trong nhiệm sở tác chiến. Vào khoảng 10 giờ sáng, một tiểu đĩnh gần bờ bắt đầu theo dơi 2 chiến hạm bằng radar "skinhead".
    1. Thời tiết
    Tới chiều, 2 chiến hạm hướng ra ngoài biển khơi. Tin khí tượng cho biết thời tiết xấu, trời không trăng sao và rất tối với tầm nh́n xa chừng 300 thước, sóng 5-6 feet, gió chừng 17 knots. Theo kinh nghiệm, trong điều kiện thời tiết như vậy, nhiều hồi ba giả thường xuất hiện trên màn ảnh radar. Các hồi ba này lúc ẩn lúc hiện, khi rơ khi mờ hoặc đột nhiên biến mất.
    2. Radar trên các chiến hạm Hoa Kỳ
    Trên các KTH, thường có 3 loại radar: radar pḥng không, radar hải hành hay kiểm thám trên biển và radar hải pháo.

    Radar pḥng không dùng để phát hiện các phi cơ bạn cũng như địch. Hải Quân Hoa Kỳ dùng tiếng lóng "Bogey" để chỉ các phi cơ lạ rất có thể là phi cơ địch, không phải là "Friendlies" là những phi cơ đă được nhận dạng là phi cơ bạn. Radar hải hành phát hiện các đối vật và tầu bè trên mặt biển. Để phân biệt, hồi ba của các tầu bè bạn cũng được gọi là được gọi là "Friendly" c̣n tầu bè địch gọi là "Skunk". Radar hải pháo dùng để hướng dẫn các ụ súng tự động nhắm vào mục tiêu. Khi thời tiết xấu, các hồi ba giả xuất hiện trên màn ảnh khi tỏ khi mờ chỉ những chuyên viên có kinh nghiệm mới có thể phân biệt được. Đối với radar hải pháo, v́ phải liên tục theo dơi và dóng súng nên hồi ba cần phải được phân biệt rơ ràng để radar lúc nào cũng có thể nh́n thấy hầu "khóa" được mục tiêu. Bộ phận điều khiển radar hải pháo loại MK-5 trông như một cái bàn nhỏ (console) trong đó có một màn ảnh radar và bốn cần điều khiển ở bốn góc. Nhân viên phụ trách dùng cần điểu khiển điều chỉnh cho ṿng tṛn "hồng tâm" của máy nhắm nằm chồng lên h́nh của mục tiêu trên màn ảnh radar; kể từ lúc đó máy nhắm sẽ tự động theo dơi và dóng súng theo mọi di chuyển của mục tiêu.

    Sau khi đổi hướng ra biển, cảm thấy không c̣n bị đe dọa, các KTH cho giải tán nhiệm sở tác chiến đă được ban hành liên tục trên 6 tiếng đồng hồ khi tuần tiễu gần bờ biển. Tuy nhiên, để đề pḥng mọi bất trắc, các hạm trưởng đă bàn tính trước đội h́nh cũng như kế hoạch tác chiến khi hữu sự.
    3. Kế hoạch tác chiến


    Theo kế hoạch, hai chiến hạm di chuyển theo đội h́nh hàng dọc với KTH Turney Joy có nhiệm vụ quan sát để hai chiến hạm không đụng nhau, giữ vị trí phía sau, cách KTH Maddox chừng 1,000 yards. Như vậy, radar hải hành của Turney Joy thường phải để ở tầm ngắn để ban đêm dễ dàng quan sát vị trí cả hai chiến hạm. KTH Maddox v́ radar mạnh hơn nên được dùng để phát hiện các hồi ba tầm xa.

    Về hải pháo, Maddock sẽ bắn đạn chiếu sáng để soi sáng mục tiêu, c̣n Turner Joy có súng bắn nhanh hơn sẽ bắn tiêu diệt. Nếu cả hai chiến hạm đồng loạt bị phi cơ và tiểu đĩnh tấn công, Maddox sẽ tập trung hỏa lực vào các mục tiêu trên biển, c̣n Turner Joy với súng bắn nhanh sẽ đảm nhận trách nhiệm pḥng không. KTH Turney Joy tuy cũng có 3 ụ súng 127 ly, nhưng đây là những ụ súng đơn không giống Maddox gồm những ụ súng đôi. Như vậy, kể về hỏa lực hải pháo 127 ly, Maddox có 6 khẩu, Turney Joy chỉ có 3 khẩu trong khi, nhưng lại bắn nhanh hơn nhiều. Theo đúng thông lệ, các ụ súng 127 ly của Turney Joy cũng được đánh số 51 (đàng mũi) và 52, 53 sau lái. Ngoài ra, KTH Turner Joy cũng có 2 đài kiểm xạ: 51 trước mũi và 52 sau lái. Về t́nh trạng khiển dụng, ụ súng 51 bị hư hỏng hoàn toàn không xử dụng được nên phía trước chỉ có hải pháo 76 ly do đài kiểm xạ 51 điều khiển. Đài kiểm xạ này cũng bị trục trặc v́ radar hải pháo tuy khiển dụng nhưng không chính xác. Trong đêm 4 tháng 8, ụ súng 52 nạp đạn nổ mạnh và ụ 53 nạp đạn thời chỉnh nổ cách mục tiêu 50 feet để bắn phi cơ cũng như ngư lôi đĩnh.
    4. Bắc Việt tấn công?


    Theo tài liệu của Hải Quân Hoa Kỳ, ngay từ lúc 5 giờ chiều, BTL/HQ Bắc Việt tại Hải Pḥng đă gửi công điện cho Swatow T-142 để thông báo vị trí của các chiến hạm Hoa Kỳ lúc 1445H. Một công điện thứ nh́ vào khoảng 2000H ra lệnh cho các tiểu đĩnh T-142, T-333 và có thể cả T-333 nếu được sửa chữa kịp thời, "sẵn sàng hành động" nhưng không xác định mục tiêu. Tuy Hoa Kỳ đoán rằng mục tiêu là các chiến hạm Hoa Kỳ, nhưng cũng rất có thể là các PTF của LLHT.

    Tới khoảng 8 giờ 30 tối, các KTH Hoa Kỳ tăng tốc độ từ 12 knots lên 20 knots. Đồng thời HĐT Herrick thông báo mẫu hạm Ticonderoga ông đă nhận được nguồn tin các tiểu đĩnh BV sắp sửa tấn công nên đổi đường về hướng Đông Nam với vận tốc tối đa để rời xa vùng bờ biển Bắc Việt.



    Theo nhật kư Trung Tâm Chiến Báo (CIC - Combat Information Center) của KTH Maddox và báo cáo hậu hành quân của KTH Turney Joy, hồi 8 giờ 46 tối, radar của KTH Maddox phát hiện một tiểu đĩnh cách xa 36.4 miles, vận tốc 33 knots, hướng đi 170 độ (Nam Tây Nam). Tiểu đĩnh này được đặt tên là Skunk N (November - Skunk phát hiện đầu tiên trong ngày được đặt tên là Alpha, sau đó là Bravo v.v...). Sau đó, radar phát hiện thêm 2 tiểu đĩnh nữa. Hồi 8 giờ 48 tối, phát hiện Skunk O (Oscar) cách xa 34 miles, ở hướng 044 độ, vận tốc 28 knots. Hồi 8 giờ 50 tối phát hiện Skunk P (Papa) cách xa 36.6 miles ở hướng 060 độ, vận tốc 40 knots.



    Chiến hạm Maddox vào nhiệm sở tác chiến lúc 8 giờ 58 tối. Hồi 9 giờ 04 tối, HĐT Herrick thông báo KTH Turner Joy vị trí của các "Skunks" và ra lệnh vào nhiệm sở tác chiến. Radar trên chiến hạm Tuner Joy tạm thời đổi qua tầm xa trong một thời gian ngắn để theo dơi và cũng phát hiện các Skunks này. Tiếp theo đó, chiến hạm Maddox c̣n phát hiện thêm các Skunks R (Roméo) và S (Sierra) nhưng sau khi theo dơi một thời gian mới biết là các hồi ba giả do thời tiết xấu gây ra.

    Hồi 9 giờ 15 tối, radar phát hiện 3 phi cơ lạ (bogeys), hướng 287 độ, khoảng cách 28 hải lư. HĐT Herrick báo cho mẫu hạm Ticonderoga biết ông đang bị các tiểu đĩnh và phi cơ lạ theo dơi. Mẫu hạm Ticonderoga lập tức phản ứng bằng cách cho 6 phi cơ cất cánh gồm 2 chiếc loại Skyraiders, 2 F-8 Crudaders và 2 AD-4 Skyhawks để yểm trợ. Trong lúc này, vị trí của các Skunks N, O và P vẫn c̣n ở bắc và di chuyển về hướng Tây trong khi các chiến hạm Hoa Kỳ di chuyển hết tốc độ về hướng Nam nên khoảng cách đôi bên ngày càng xa. Tới khoảng 9 giờ 45, radar mất hồi ba của các Skunks.

    Hồi 10 giờ 08 tối, radar trên chiến hạm Maddox phát hiện thêm một Skunk mới, đặt tên là U (Uniform) ở hướng 90 độ (3 giờ), khoảng cách 15 miles, đường đi 214 độ. Sau một thời gian theo dơi kỹ càng, cả 2 chiến hạm Maddox và Turner Joy đều phát giác đây không phải là một mà là một nhóm gồm 3 hay 4 tiểu đĩnh chạy rất gần nhau. Lúc này, các phi cơ của mẫu hạm Ticonderoga đă đến bao vùng. Trung Tá phi công James Stockđale nh́n thấy các lượn sóng sau chiến hạm Hoa Kỳ vào lúc 10 giờ 08 tối. Trong ṿng một tiếng rưỡi đồng hồ, phi cơ của ông bay thấp dưới 1,000 feet và lúc nào cũng nh́n thấy rơ các KTH v́ nước biển có nhiều lân tinh nên các lượng sóng sau chiến hạm rất sáng.

    Hồi 10 giờ 17 tối, ngay sau khi phát hiện Skunk U, các chiến hạm hướng dẫn phi cơ tới để t́m kiếm. Tuy phi công không nh́n thấy bằng mằt thường, nhưng Skunk U vẫn hiện rơ trên màn ảnh radar của các chiến hạm. Tới khoảng 10 giờ 33 tối, Skunk U chỉ c̣n cách chừng 11.5 miles rồi đột nhiên biến mất.

    Hồi 10 giờ 31 tối, hai chiến hạm phát hiện nhiều hồi ba mới ngay trước mũi, khoảng cách trên 30 hải lư nhưng khám phá ra đây chỉ là những hồi ba giả do thới tiết xấu.

    Hồi 10 giờ 34 tối, radar trên KTH Maddox phát hiện thêm một hồi ba mới ở hướng 93 độ (3 giờ), khoảng cách 9,800 yards, vận tốc từ 35 đến 40 knots, đặt tên là Skunk V (Victor). Radar hải pháo lập tức khóa vào mục tiêu nhưng chỉ một lát sau chưa kịp bắn th́ mục tiêu đă biến mất. Skunk V, sau khi hướng về KTH Maddox, hồi 10 giờ 37 tối, đột ngột quẹo trái khi c̣n cách chiến hạm 6,200 yards giống như khi vừa phóng xong ngư lôi. Giàn hải pháo 76 ly trên KTH Maddox lập tức khai hỏa.

    Cùng lúc đó vào lúc 10 giờ tối, radar trên chiến hạm Turney Joy phát hiện một hồi ba khác ở hướng 86 độ (khoảng 3 giờ), khoảng cách 8,000 yards, đường đi 210 độ, đặt tên là Skunk V-1. Hồi 10 giờ 39 tối, ụ súng phía sau lái khai hỏa và nhưng bắn sau 2 phút v́ radar hải pháo không c̣n phát hiện mục tiêu. Nhân viên phụ trách radar cho biết họ quan sát thấy 3 quả đạn 127 nổ ngay trên mục tiêu và sau đó Skunk V-1 biến mất trên màn ảnh.

    Bên chiến hạm Maddox, ngay khi Skunk V quẹo gắt, chuyên viên Sonar báo cáo nghe thấy tiếng động của chân vịt khả nghi. HĐT Herrick cho rằng đây là tiếng chân vịt của ngư lôi do Skunk V vừa phóng ra ở hướng 051 độ nên cả hai chiến hạm cùng quẹo gắt qua phải để tránh. Ba thủy thủ trên chiến hạm Turner Joy xác nhận trông thấy sóng của ngư lôi lướt qua bên tả hạm từ sau lái đến trước mũi. Vi nhân viên radar trên chiến hạm Maddox phát hiện nhiều tiếng động khả nghi giống tiếng chân vịt của ngư lôi nên hai chiến hạm phải quẹo gắt nhiều lần để tránh. Theo báo cáo, KTH Maddox vận chuyển tránh ngư lôi tổng cộng 26 lần. Dần dần, v́ có quá nhiều báo cáo về tiếng ngư lôi, Hạm Trưởng Ogier cho rằng đây chỉ là những tiếng động giả v́ may ra chỉ có vài ba tiểu đĩnh Bắc Việt với vài quả ngư lôi, làm ǵ có nhiều tiếng ngư lôi như vậy. Do đó, ông không vận chuyển lẩn tránh nữa. Có điều khá lạ là trong khi Sonar của KTH Maddox phát hiện rất nhiều tiếng động ngư lôi th́ Turner Joy lại không nghe thấy ǵ. Ngược lại, radar của Turner Joy phát hiện nhiều hồi ba trên mặt biển nhưng Maddox lại không thấy. Sau này Hạm Trưởng Ogier ước đoán có thể v́ tần số cũng như sự khác biệt về đặc tính của máy móc điện tử trên hai chiến hạm nên các hồi ba giả hiện ra hay không.

    Trong khi đó, các phi cơ được hướng dẫn đến các vị trí của Skunks do radar phát hiện nhưng vẫn không t́m thấy một tiểu đĩnh Bắc Việt nào. Các phi cơ không thám và bao vùng cũng không nh́n thấy đạn nổ trên mục tiêu.

    Hồi 10 giờ 42 tối, HĐT Herrick báo cáo ông bắt đầu khai hỏa và hồi 10 giờ 52, các chiến hạm bị tấn công bằng ngư lôi. Tổng cộng, hai chiến hạn bắn chừng 300 quả đạn, đa số là đạn 127 từ KTH Turner Joy. Turner Joy cũng thả nhiều thủy lựu đạn (depth charge) điều chỉnh ở tầm nông để phá các ngư lôi.

    Căn cứ vào các tin tức trái ngược, số Skunks và mục tiêu phát hiện và nhất là việc phi cơ không t́m thấy một tiểu đĩnh nào, HĐT Herrick là người đầu tiên nghi ngờ các chiến hạm Hoa Kỳ đă chỉ bắn vào các mục tiêu tưởng tượng. Khoảng 1 giờ 27 sáng, ông báo cáo rất có thể v́ thời tiết xấu đă khiến cho các chiến hạm phát hiện nhiều mục tiêu cũng như ngư lôi giả.

    Sáng ngày hôm sau, 5 tháng 8, hai KTH và nhiều phi cơ Hoa Kỳ trở lại vùng hoạt động đêm trước nhưng không t́m thấy vết dầu loang hay bất cứ dấu vết nào của tiểu đĩnh Bắc Việt bị bắn ch́m. Sau này, khi cả ba ngư lôi đĩnh T-333, T-336 và T339 bị phi cơ Hoa Kỳ đánh ch́m vào ngày 1 tháng 7 năm 1966, có 19 thủy thủ BV bị bắt sống. Các tù binh này đều khai rằng BV chỉ có 12 ngư lôi đĩnh do Nga viện trợ và không có chiếc nào tham chiến vào đêm 4 tháng 8. Trong báo cáo của tướng Việt Cộng Hoàng Văn Thái cũng cho biết trong đêm 4 tháng 8 khi các chiến hạm Hoa Kỳ bắn trái sáng và đạn nổ ngoài khơi vịnh Bắc Việt, phía Việt Cộng gửi công điện thượng khẩn hỏi các đồng chí Trung Cộng xem có phải họ đang đánh nhau với đế quốc Mỹ không. Phía Trung Cộng cũng gửi cho Việt Công một công điện tương tự. Cả đôi bên đều trả lời "không".

    (C̣n tiếp)
    Last edited by alamit; 05-10-2012 at 03:08 AM.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964



    (Bài 5/6)- Trần Đỗ Cẩm biên khảo
    (Austin Texas, mùa Thu 1998)
    Email: camtran11@yahoo.com

    X. Phản ứng của Hoa Kỳ

    1. Xác nhận đă bị tấn công
    Các công điện không rơ ràng của Đại Tá Herrick và những tin tức trái ngược từ vùng hành quân làm cho các giới chức thẩm quyền ở Bộ Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương (Hạ Uy Di) và Ṭa Bạch ốc rất phân vân. Công điện từ các nơi gửi đi tới tấp để hỏi thêm chi tiết và yêu cầu Đại Tá Herrick xác nhận các chiến hạm Hoa Kỳ đă thực sự bị tấn công. Tổng Trưởng Quốc Pḥng McNamara ra chỉ thị trực tiếp cho Đại Tá Herrick:"Hăy kiểm chứng và báo cáo rơ ràng". Lúc đầu, Đại Tá Herrick tỏ ư hoài nghi đă bị tấn công v́ không có một bằng cớ nào rơ rêt, nhưng về sau, dưới áp lực của thượng cấp, ông đành phải thay đổi ư kiến, từ "nghi ngờ bị tiểu đĩnh địch tấn cống" thành "chắc chắn bị địch tấn công".

    Tuy Đại Tá Herrick, sĩ quan thâm niên hiện diện tại chiến trường đă nhiều lần nhấn mạnh "có nhiều điểm đáng nghi ngờ" nhưng Đô Đốc Ulysses S. Grant Sharp, Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương đă xác nhận với Tổng Trưởng Quốc Pḥng McNamara rằng các chiến hạm Hoa Kỳ đă thực sự bị ngư lôi đĩnh Bắc Việt tấn công vào đêm 4 tháng 8. Đối với McNamara, việc có nh́n thấy các tiểu đĩnh Bắc Việt hay không chẳng c̣n là điều cần thiết v́ các công điện bắt được của Bắc Việt cộng với sự hư hại tuy nhẹ về phía chiến hạm Hoa Kỳ mấy ngày trước cũng đă đủ để làm bằng chứng.

    Sau khi tham khảo ư kiến các chuyên viên tại Ṭa Bạch -c, McNamara điện thoại cho Đô Đốc Sharp để thảo luận về các biện pháp trả đũa quân sự thích ứng. Cuộc điện đàm chấm dứt lúc 6 giờ chiều ngày 4 tháng 8 (Lưu ư: v́ giờ Hoa Thịnh Đốn chậm hơn giờ Việt Nam 12 tiếng đồng hồ, lúc đó đă là 6 giờ sáng ngày 5 tháng 8 tại Việt Nam). Liền sau đó, lệnh báo động cho các mẫu hạm ngoài khơi Việt Nam được ban hành. Vào khoảng 7 giờ tối giờ Hoa Thịnh Đốn (tức 7 giờ sáng ngày 5 tháng 8 giờ Việt Nam), Tổng Thống Johnson thông báo cùng các lănh tụ quốc hội việc chiến hạm Hoa Kỳ bị ngư lôi đĩnh Bắc Việt tấn công lần thứ nh́ và cho biết Hoa Kỳ sẽ oanh tạc trả đủa. Sau đó, Tổng Thống Johnson chuẩn bị viết bài diễn văn để đọc trên đài truyền h́nh vào buổi tối.
    2. Tổng Thống Johnson gấp rút hành động
    Một trong những lư do khiến Tổng Thống Johnson muốn hành động gấp rút mặc dù tin tức từ vịnh Bắc Việt chưa được phối kiểm chính xác v́ lúc đó đă gần tới ngày bầu cử. Tổng Thống Johnson cần chứng tỏ uy tín trước quốc dân rằng ông là người biết đưa ra những quyết định đúng mức và đúng lúc. Đây cũng là một dịp tốt để ông Johnson gián tiếp trả lời những thách thức của đối thủ là Thượng Nghị Sĩ diều hâu Barry Goldwater và phe cực hữu của đảng Cộng Ḥa. Trước đây, vào sáng ngày 4 tháng 8, giới chức ngoại giao Hoa Kỳ đă thông báo cùng các đại sứ ngoại quốc về các biến chuyển tại vịnh Bắc Việt và yêu cầu họ chuẩn bị để tiếp nhận thêm những tin tức mới.

    Đúng 10 giờ 43 tối (giờ Hoa Thịnh Đốn tức 10 giờ 43 sáng ngày 5 tháng 8 tại vịnh Bắc Việt), các phản lực cơ đầu tiên được phóng đi từ mẫu hạm Ticonderoga lên đường oanh tạc Bắc Việt. Mẫu hạm Constellation lúc đó đang trên đường từ Hồng Kông tới vị trí Yankee sẽ cho phi cơ cất cánh phi sau. Vào lúc 11 giờ 37 tối, Tổng Thống Johnson lên đài truyền h́nh toàn quốc để thông báo cùng dân chúng Hoa Kỳ việc "Các chiến hạm Hoa Kỳ đă vô cớ bị ngư lôi đĩnh Bắc Việt tấn công" và "Lực lượng Hoa Kỳ không những sẽ tự bảo vệ chống lại các cuộc tấn công mà c̣n trả đủa đích đáng. Cuộc trả đủa này đă bắt đầu, v́ vậy tôi cần thông báo với toàn thể quốc dân đồng bào đêm nay".
    3. Cuộc oanh tạc trả đủa Pierce Arrow
    Tuy Tổng Thống Johnson tuyên bố chỉ trả đũa giới hạn, nhưng cuộc oanh tạc được mệnh danh là Pierce Arrow đă bắt đầu bằng một đợt 64 phi xuất nhắm vào các căn cứ tiểu đĩnh và cơ sở tiếp vận của Bắc Việt. Dưới bầu trời u ám và trần mây thấp, 6 phản lực cơ F-8 Crusader từ mẫu hạm Ticonderoga đă oanh tạc căn cứ hải quân Quảng Khê là mục tiêu xa nhất về phía Nam - ngay phía trên vùng phi quân sự - vào lúc 1 giờ 15 chiều ngày 5 tháng 8 giờ Việt Nam (lúc đó là 1 giờ 15 sáng giờ Hoa Thịnh Đốn). Mười phút sau, một toán phi cơ khác cũng thuộc mẫu hạm Ticonderoga tấn công căn cứ hải quân Phúc Lợi xa hơn về phía Bắc. Toán phi cơ này cũng bắn phá kho nhiên liệu tại thành phố Vinh, phá hủy 8 bồn dầu và gây nhiều đám cháy với khói đen bốc cao nhiều ngàn bộ. Ba tiếng đồng hồ sau, 14 phi cơ trở lại oanh tạc cùng mục tiêu, phá hủy thêm 2 bồn dầu nữa.

    Trong khi đó, các phi cơ từ mẫu hạm Constellation cũng bắt đầu tham chiến. Vào hồi 3 giờ 45 chiều, 10 phi cơ A-4 Skyhawk, 2 phi cơ F-4 Phantom và 4 phi cơ A-1 Skyraider thả bom, bắn phá cầu tầu và các tiểu đĩnh Bắc Việt tại căn cứ Ḥn Gay nằm về phía Bắc Hải Pḥng. Toán phi cơ này gặp phải hỏa lực pḥng không dữ dội. Các ổ đại bác 37 ly và 57 ly đặt bố trí trên một ngọn đồi trông xuống cảng Ḥn Gay. Xa hơn về phía Nam, một đợt phi cơ nữa cũng thuộc mẫu hạm Constellation tấn công căn cứ tiểu đĩnh tại vùng cửa Lạch Chao (Sầm Sơn).
    4. Alvarez, phi công đầu tiên của Hoa Kỳ bị CSBV bắt giữ

    Tổng cộng, các phi cơ trong cuộc oanh tạc Pierce Arrow đă dánh ch́m hơn phân nửa (25 chiếc) số tiểu đĩnh và tiêu hủy khoảng 10% số nhiên liệu dự trữ của Bắc Việt. Về phía Hoa Kỳ, có 2 phi cơ bị bắn hạ và 2 chiếc khác bị hư hại. Chiếc phi cơ Skyraider của Đại Úy Richard Sathr (Pamona, CA) trúng đạn pḥng không tại vùng Lạch Chao, phi công bị chết khi rơi xuống biển. Một phi cơ khác loại Skyhawk bị bắn hạ tại Ḥn Gay, phi công là Trung Úy Everett Alvarez (San Jose, CA) nhẩy dù thoát hiểm nhưng bị CSBV bắt làm tù binh. Như vậy, Trung Úy Alvarez là phi công Hoa Kỳ đầu tiên bị CSBV cầm giữ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Sau đây là lời tường thuật của Trung Úy Alvarez về chuyến công tác của ḿnh:

    "Tôi là một trong những phi công đầu tiên được phóng đi từ mẫu hạm Constellation. Mục tiêu của tôi đă được chỉ định sẵn: đó là căn cứ tiểu đĩnh thuộc vùng mỏ than Ḥn Gay nằm về hướng đông bắc của Hà Nội và bắc của cảng Hải Pḥng. Phi đội chúng tôi gồm 10 phi cơ hướng về mục tiêu cách xa chừng 400 dậm. Chúng tôi hiện đang thực sự tham chiến! Đây là điều khó tin nhưng có thật. Mọi chuyện xảy ra quá đột ngột như một giấc mơ (Ghi chú: lúc đó mẫu hạm Constellation đang nghỉ bến ở Hồng Kông để thủy thủ đoàn tiêu khiển th́ đột ngột có lệnh lập tức tơi vịnh Bắc Việt). Tôi cảm thấy hơi run. Khi tới mục tiêu, phi cơ của chúng tôi bay qua để nhận dạng mục tiêu trước (identification pass), sau đó ṿng trở lại để bắt đầu oanh kích. Tôi bay rất thấp là là ngọn cây với vận tốc chừng 500 knots. Đột nhiên, tôi cảm thấy phi cơ không c̣n điều khiển được nữa: phi cơ đă bị trúng đạn pḥng không, bắt đầu bị cháy và rơi xuống đất. Biết chắc rằng nếu c̣n ở lại trên phi cơ sẽ không thể nào sống được nên tôi bấm dù đào thoát. May mắn thay, dù mở và tôi không bị vướng vào những mỏm đá lởm chởm phía dưới."

    Dù của Trung Úy Alvarett rơi xuống vùng biển tương đối cạn. Sau đó, anh bị bắt giữ và đưa tới gặp Phạm Văn Đồng lúc đó đang kinh lư vùng này. Trung Úy Alvarez bất đắc dĩ trở thành nổi tiếng v́ là người đầu tiên trong số gần 600 phi công Hoa Kỳ bị CSBV cầm tù. Trung Úy Alvarez sau đó bị giam tại Hỏa Ḷ Hà Nội, nơi các tù binh Mỹ gọi là Hanoi Hilton. Măi tới khi thỏa ước ngưng bắn Paris được kư kết hơn 8 năm sau đó, anh Alvarez mới được phóng thích.
    5. Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận kế hoạch Johnson
    Sau khi ra lệnh oanh tạc trả đũa, Tổng Thống Johnson lập tức yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận kế hoạch "Đông Nam Á". Thượng Nghị Sĩ Williams Fullbright là người bảo trợ cho kế hoạch. Mặc dầu kế hoạch này cho phép Tổng Thống Johnson hầu như toàn quyền quyết định việc Hoa Kỳ tham chiến tại Đông Nam Á, nhưng đại đa số Dân Biểu và Nghị Sĩ Hoa Kỳ vẫn tán đồng. Chỉ có Nghị Sĩ Wayne Morse của tiểu bang Oregon, người đă từng thuộc đảng Dân Chủ cũng như Cộng Ḥa, yêu cầu được biết thêm chi tiết. Trước đây, khi nghe phong phanh về các cuộc hành quân biệt hải trong kế hoạch OPLAN 34-A, Nghị Sĩ Morse đă chất vấn ngoại Trưởng Dean Rusk và Tổng Trưởng Quốc Pḥng McNamara về sự liên hệ giữa các chiến hạm Hoa Kỳ và các cuộc hành quân Biệt Hải này. Ông McNamara trả lời rơ ràng:"Nếu thực sự đă có những cuộc hành quân biệt hải của Nam Việt Nam th́ Hải Quân Hoa Kỳ hoàn toàn không tham dự, dính líu hoặc hay biết ǵ về các hoạt động đó. Và đây là sự thực."

    Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện tranh luận khoảng 1 giờ 40 phút tranh luận rồi bỏ phiếu với kết quả hầu như mọi người đều chấp thuận, chỉ có Nghị Sĩ Morse phản đối. Tuy kế hoạch "Đông Nam Á" đă được Ủy Ban Ngoại Giao thông qua, nhưng sáng hôm sau, cuộc tranh luận c̣n tiếp tục. Nghị Sĩ Morse vẫn muốn biết sự thật về kế hoạch OPLAN-34A và Nghị Sĩ Daniel Brewster của tiểu bang Maryland chất vấn Nghị Sĩ Fullbright xem Tổng Thống Johnson có được quyền "đổ bộ một số lớn quân Mỹ lên Việt Nam và Trung Hoa" hay không. Nghị Sĩ Fullbright trả lới:"Tôi không thấy điều này được ghi rơ nhưng bản kế hoạch không ngăn cấm chuyện đó".

    Khi cuộc tranh luận kết thúc, Nghị Sĩ Ernest Gruening của tiểu bang Alaska phản đối bản kế hoạch, cho rằng:"Đây là một bản tuyên chiến được kư sẵn". C̣n Nghị Sĩ Morse tuyên bố:"Tôi tin rằng lịch sử sẽ phê phán chúng ta đang phạm một lỗi lầm trọng đại, v́ chúng ta đă vi hiến khi cho phép Tổng Thống Johnson được quyền tham chiến tại Đông Nam Á mà không cần tuyên chiến. Đây là một sai lầm lịch sử". Vào ngày 7 tháng 8 năm 1965, chỉ có Nghị Sĩ Morse và Gruening phản đối, Thượng Viện Hoa Kỳ bỏ phiếu với tỉ số 88-2 chấp thuận cho "Tổng Thống, với quyền lực của Tổng Tư Lệnh quân đội, được toàn quyền quyết định để bẻ gẫy mọi cuộc tấn công vào quân lực Hoa Kỳ và ngăn chận những hành động thù nghịch trong tương lai". Sau đó không lâu, Hạ Viện Hoa Kỳ cũng chấp thuận kế hoạch của Tổng Thống Johnson với tỉ số 416-0.
    XI. Nhận xét và B́nh Luận
    1. Khả năng tác chiến của Hải Quân Hoa Kỳ
    Trong trận đánh "thật" vào ngày 2 tháng 8, lực lượng Hoa Kỳ gồm KTH Maddox và 6 phi cơ thuộc mẫu hạm Ticonderoga. Phía Bắc Việt gồm 3 ngư lôi đĩnh loại P-4 thuộc Phân Đội 3.

    Kể riêng về hỏa lực chiến hạm, KTH Maddox có 6 đại bác 127 ly với tầm xa khoảng 20 cây số, do radar điều khiển, đó là chưa kể một số hải pháo cỡ nhỏ hơn như 76 ly, 40 ly và 20 ly đa số được dùng trong việc pḥng không nhưng cũng rất hữu hiệu đối với những mục tiêu ngắn tầm trên mặt biển. Các ngư lôi đĩnh Bắc Việt chỉ được trang bị đại liên 14.5 ly tầm xa không quá 2 cây số và ngư lôi. Sau khi các ngư lôi đă được phóng đi, hỏa lực của tiểu đĩnh Bắc Việt không thấm thía ǵ so với các khẩu hải pháo trên chiến hạm Maddox.

    Ngoài ra, với ưu thế tuyệt đối về radar, KTH Maddox có thể "nh́n thấy" các tiểu đĩnh Bắc Việt từ lâu trước khi vào tầm hải pháo. Hơn nữa, các radar hải pháo của KTH Maddox với khả năng tự động "khóa" vào mục tiêu nên có thể tác xạ rất chính xác. V́ vậy, nếu khả năng tác chiến của KTH Maddox chỉ ở mức trung b́nh, cả 3 ngư lôi đĩnh của Bắc Việt đă bị bắn ch́m từ lâu trước khi chúng tới gần để phóng ngư lôi hay bắn trúng một viên đại liên vào chiến hạm Maddox.

    Trong trận hải chiến, chiến hạm Maddox không bắn ch́m được mục tiêu v́ không có một viên đạn 127 ly nào bắn trúng đích. Cả 3 tiểu đĩnh Bắc Việt đều bị hư hại v́ miểng của những viên đạn nổ gần dưới nước. Trận đánh xảy ra giữa ban ngày, có lúc trong tầm ngắn, đôi bên chỉ cách nhau chừng một vài cây số. Do đó, chúng ta có thể nói khả năng tác chiến của KTH Maddox dưới mức trung b́nh. Hải quân Hoa Kỳ viện lư do thủy thủ đoàn thiếu hụt, nhưng với trang cụ và vũ khí tối tân, đúng ra 3 tiểu đĩnh Bắc Việt phải bị bắn ch́m.

    Kể về phi cơ, Hoa Kỳ có ưu thế tuyệt đối. Bốn phi cơ tự do oanh tạc 3 tiểu đĩnh đă bị hư hại vận chuyển khó khăn, hỏa lực lại coi như không c̣n ǵ. Lẽ ra, các tiểu đĩnh Bắc Việt không thể sống sót. Nhưng trong đợt oanh tạc đầu tiên, một phi cơ Hoa Kỳ v́ hoảng hốt bốc lên quá mau tự làm hư hại cánh trái. Tất cả các hỏa tiễn Zuni của 3 phi cơ c̣n lại đều bắn trật mục tiêu. Chỉ cần một hỏa tiễn Zuni bắn trúng đích cũng đủ làm ch́m tiểu đĩnh Bắc Việt. Tuy đạn đại bác 20 ly có làm hư hại nhưng vẫn không làm ch́n được mục tiêu.

    Ngoài sự yếu kém về khả năng tác chiến, lực lượng Hoa Kỳ c̣n phạm phải lầm lẫn quan trọng trong vấn đề liên lạc truyền tin khiến các tiểu đĩnh địch có cơ hội thoát thân. Đô Đốc Robert Moore, Tư Lệnh Hải Đội Ticonderoga đă gửi thên một phi đội thứ nh́ đuổi theo để đánh ch́m các tiểu đĩnh các tiểu đĩnh Bắc Việt đang chạy trốn vào bờ. Nhưng trong lúc đó, Đô Đốc Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội, ra lệnh cho chiến Hạm Maddox không được đuổi theo, để mục tiêu cho phi cơ thanh toán. Nghe được tin này, Đô Đốc Moore lầm tưởng Đô Đốc Johnson ra lệnh không được đánh ch́m các tiểu đĩnh Bắc Việt, v́ vậy, các phi cơ được lệnh quay về! Một lần nữa, việc "hiểu lầm" giữa hai vị Đô Đốc khiến các tiểu đĩnh Bắc Việt có cơ hội thoát thân.

    Tới đây, người viết không thể không liên tưởng tới trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa và Hải Quân Trung Cộng. Trong trận đánh này, lực lượng tham chiến của đôi bên tương đương, một chọi một, nhưng Trung Cộng chiếm ưu thế tuyệt đối về chiến hạm trừ bị và phi cơ không yểm. Tuy vậy, Hải Quân VNCH cũng đă bắn ch́m và gây thiệt hại cho cả bốn chiến hạm Trung Cộng, trong khi chỉ có 1 chiến hạm VNCH bị ch́m. Tuy dè dặt khó có thể nói khả năng và tinh thần chiến đấu của Hải quân VNCH tại Hoàng Sa trội vượt so với Hải Quân Hoa Kỳ trong trận đánh tại vịnh Bắc Việt, nhưng có điều chắc chắn nếu Hạm Trưởng Vũ Hữu San của chiến hạm Trần Khánh Dư HQ - 4 là Hạm Trưởng của KTH Maddox có hỏa lực mạnh và tối tân, chắc chắn các tiểu đĩnh Việt Cộng đă không có cơ hội sống sót.

    Nói tóm lại, trong trận hải chiến ngày 2 tháng 8, lực lượng Hoa Kỳ tham chiến, v́ lư do này hay lư do khác, đă chiến đấu tầm thường, dưới mức trung b́nh. Rất có thể đây là phần đầu của "chiến thuật" đánh không cần thắng của Hoa Kỳ, nhưng phần nhiều v́ lúc đó Hải Quân Hoa Kỳ lần đầu tham chiến tại Việt Nam nên c̣n nhiều "trục trặc". Sau này, khi đă hoạt động thường xuyên hơn tại vịnh Bắc Việt, các phi cơ và chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ đă đánh ch́m hầu hết các tiểu đĩnh của Hải Quân Việt Cộng, kể cả 3 tiểu đĩnh đă tấn công chiến hạm Maddox.
    2. Trận hải chiến tưởng tượng
    Tới trận hải chiến "tưởng tượng" vào ngày 4 tháng 8, có rất nhiều điều khó hiểu. Các chiến hạm Hoa Kỳ đă hoảng hốt báo cáo nhiều "Bogeys" và "Skunks" không có thật. Nhiều "contacts" lúc ẩn, lúc đột nhiên hiện ngay sát các chiến hạm như ma. Rồi các chiến hạm vận chuyển hết tốc độ để tránh trên 20 trái ngư lôi không biết từ đâu phóng ra. Các báo cáo "ngư lôi" nhiều không thể tưởng tượng nổi, đến nỗi Hạm Trưởng Ogier cuối cùng phát giận không vận chuyển chiến hạm lẩn tránh nữa! Ngoài ra, c̣n có những tin tức trái ngược, người nói trông thấy tầu địch, người nói thấy đạn nổ khiến mục tiêu bị ch́m, kẻ nói thấy tầu địch rọi đèn ... Nhưng những cuộc điều tra sau này đều cho thấy đây chỉ là những điều tưởng tượng.

    Sau này vào năm 1965, khi nói về trận đánh ma ngày 4 tháng 8, chính Tổng Thống Johnson xác nhận:"Theo tôi biết, Hải Quân của chúng ta đă bắn vào ... cá voi tại Biển Đông!" C̣n Trung Tá James Stockdale, người phi công đă bay yểm trợ cho chiến hạm Maddox trong cả hai ngày 2 tháng 8 và 4 tháng 8, sau này là ứng cử viên Phó Tổng Thống trong liên danh Ross Perot, tuyên bố: "Tôi là người nh́n thấy rơ nhất những điều đă xảy ra. Vào đêm 4 tháng 8, các KTH của ta đă bắn vào các mục tiêu ma! Không có ngư lôi đĩnh Bắc Việt ... chẳng có ǵ hết ngoài nước đen và hỏa lực của Hoa Kỳ."

    V́ vậy, khi Bộ Trưởng McNamara c̣n ngây thơ hỏi Vơ Nguyên Giáp về trận hải chiến dêm 4 tháng 8 có thật sự xảy ra hay không, họ Vơ ung dung trả lời: "Không có, hoàn toàn không có" làm McNamara Bộ Trưởng ngượng ngùng muốn biến khỏi trái đất!
    3. Ư đồ của Hoa Kỳ
    Cho tới nay, mặc dù đă trên 30 năm trôi qua kể từ khi có những cuộc "đụng độ" giữa các chiến hạm Maddoxvà Turner Joy và các tiểu đĩnh pḥng duyên CSBV tại vịnh Bắc Việt, nhiều nghi vấn vẫn c̣n được đặt ra. Chúng ta không c̣n nghi ngờ ǵ về cuộc đụng độ ngày 2 tháng 8 năm 1964 v́ có đầy đủ bằng cớ về thiệt hại đôi bên và cả hai phía đề xác nhận. Riêng cuộc đụng độ vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng 8 vẫn c̣n đưa đến nhiều tranh luận. Giới chức thẩm quyền, kể cả Hải Quân Hoa Kỳ cho rằng các ngư lôi đĩnh CSBV đă thật sự tấn công các KTH Maddox và Turner Joy trong khi các chuyên gia nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam tỏ vẻ hoài nghi. Vậy thật ra Hoa Kỳ đă oanh tạc Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964 để trả đũa các hành động thù nghịch hay cố t́nh gây hấn? Hoa Kỳ có gây hấn không? V́ lư do ǵ? Để t́m hiểu sự thực, chúng ta cần duyệt lại bối cảnh lịch sử tại Việt Nam cũng như Hoa Kỳ lúc bấy giờ.

    (C̣n tiếp)

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964



    (Bài 6/6)- Trần Đỗ Cẩm biên khảo
    (Austin Texas, mùa Thu 1998)
    Email: camtran11@yahoo.com

    4. Bối cảnh lịch sử


    Tại Việt Nam Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă bị ám sát với sự tiếp tay gián tiếp của Hoa Kỳ. Lư do v́ Tổng Thống Diệm đă không đồng ư để Hoa Kỳ can thiệp quá sâu vào nội t́nh Việt Nam. Lúc đó tướng Nguyễn Khánh đang cầm quyền sau cuộc chỉnh lư ngày 29 tháng 1 năm 1964. Tuy tướng Big Minh vẫn ngồi ghế Quốc Trưởng nhưng đây chỉ là chức vụ bù nh́n v́ quyền hành đếu nằm trong tay tướng Khánh, tướng Khiêm và Đỗ Mậu. Các tướng đă từng tham gia cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm như tướng Kim, tướng Đôn, tướng Xuân v.v... đều bị quản thúc tại gia v́ tội muốn bắt tay với chính phủ De Gaule của Pháp để trung lập hóa miền Nam.

    Vào tháng 6-1964, bốn "tướng Đà Lạt" là Kim, Đôn, Xuân, Đính đều bị ra ṭa án quân sự. T́nh h́nh quân sự tại miền Nam càng thêm suy thoái v́ sau mỗi lần đảo chánh, chỉnh lư, biểu dương lực lượng ... Cộng quân lại có thêm cơ hội dành dân, lấn đất. Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Henry Cabot Lodge, Tổng Thống Hoa Kỳ Johnson và giới chức quân sự Hoa Kỳ tin rằng muốn dẹp hẳn Cộng Sản tại miền Nam, cần phải đập tan đầu năo của chúng tại miền Bắc. Ngoài ra, nếu giải pháp trung lập do chính phủ Pháp khởi xướng được thành tựu, có lẽ ảnh hưởng của ngưới Pháp sẽ dần dần thay thế quyền lực của Hoa Kỳ tại Việt Nam. V́ vậy, Hoa Kỳ không c̣n cách nào hơn phải ủng hộ tướng Khánh lúc đó cũng đang hô hào "Bắc Tiến". Muốn đánh vào Bắc Việt, Hoa Kỳ cần t́m lư do "chính đáng" để thuyết phục Quốc Hội, dễ ăn nói với dân chúng cũng như dư luận quốc tế. Và lư do đó là biến cố vịnh Bắc Việt.

    Tại Hoa Kỳ trước đó không lâu cũng đă xảy ra một biến cố chính trị lớn, đó là vụ Tổng Thống Kennedy bị ám sát tại Dallas đưa đến việc Phó Tổng Thống Johnson kế vị chức Tổng Thống. Tân Tổng Thống Johnson muốn chứng tỏ là vị nguyên thủ xứng đáng nên có ư định "làm mạnh" tại Việt Nam để lấy uy tín. Tổng Thống Johnson cho rằng việc lật đổ Tổng Thống Diệm là một điều thất sách, nhưng đây là chuyện đă rồi, chỉ c̣n cách gia tăng áp lực với Bắc Việt để đạt được các mục tiêu quân sự và chính trị tại miền Nam. Việc "gia tăng áp lực" này cũng cần có một lư do để giải thích với quan thầy của Việt Cộng là Nga Sô và Trung Cộng.
    5. Các nghi vấn

    Trở lại các cuộc "đụng độ" ngoài khơi vịnh Bắc Việt, chúng ta c̣n nhớ, theo báo cáo của Hải Quân Hoa Kỳ, các ngư lôi đĩnh CSBV lần đầu tiên tấn công KTH Maddox ngoài khơi Thanh Hóa vào ngày 2/8/64. Sau đó, vào ngày 4 tháng 8, hai chiến hạm Maddox và Turner Joy lại bị tấn công xa hơn về phía Nam, ngoài khơi thành phố Vinh. Các cuộc tấn công này cũng trùng hợp với những cuộc hành quân biệt hải mang bí danh OPLAN 34-A của Hải Quân VNCH vào các hải đảo và vùng duyên hải Bắc Việt. Vậy hoạt động của chiến hạm Hoa Kỳ có liên quan tới các cuộc hành quân biệt hải không?

    Bộ Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ McNamara từng tuyên bố:"Các chiến hạm Hoa Kỳ không hề dính lứu ǵ đến các cuộc hành quân biệt hải cũng như hoạt động mật của Hải Quân VNCH". Đây chỉ là một xảo thuật chính trị nếu không muốn gọi là "nói dối". Thật ra OPLAN 34-A là con đẻ của CIA và Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ nên chắc chắn McNamara không những biết rơ mà c̣n là một trong những nhân vật quyết định. Tuy thủy thủ đoàn được tuyển lựa từ Hải Quân Việt Nam nhưng các chiến đĩnh PTF thuộc Lực Lượng Hải Tuần đều do Hoa Kỳ cung cấp và hệ thống yểm trợ, tiếp vận cũng do Hoa Kỳ đảm trách. Về phương diện hành quân, mỗi chuyến công tác vượt vĩ tuyến 17 đều hoàn toàn do thủy thủ đoàn Việt Nam đảm trách, không hề có nhân viên Hoa Kỳ đi theo. Việc hoạt động phối hợp với các chiến hạm Hoa Kỳ ngoài khơi vịnh Bắc Việt tuy không trực tiếp nhưng đôi bên đều biết các hoạt động của nhau để tránh ngộ nhận và hỗ tương yểm trợ khi cần. Tác giả đă phục vụ trên các PTF trong thới gian 5 năm nên biết rất rơ điều này.

    Theo kế hoạch OPLAN 34-A được soạn thảo từ năm 1964 Lực Lượng Hải Tuần được thành lập tại Đà Nẵng để đảm nhiệm những công tác biệt hải trong vùng vịnh Bắc Việt. Các chiến đĩnh và chiến cụ đều do Hoa Kỳ cung cấp nhưng thủy thủ đoàn hoàn toàn là Việt Nam được tuyển lựa trong số những nhân viên ưu tú thuộc Hải Quân VNCH với tư cách t́nh nguyện và phải kư giao kèo mỗi sáu tháng. Các chiến đĩnh thuộc LLHT đều là những loại đặc biệt như PTF đóng tại Na Uy có vận tốc tối đa trên 50 knots hay Swift với vận tốc chừng 30 knots. LLHT thường xâm nhập hải phận miền Bắc vào ban đêm để thả các toán Biệt Hải xâm nhập, phá hoại, bắn phá các cơ sở pḥng thủ duyên hải, bắt cóc các công an duyên pḥng, thả truyền đơn hoặc tiếp xúc với dân chúng để thu thập tin tức t́nh bào. Chúng tôi sẽ có bài viết riêng về Lực Lượng Hải Tuần và các toán Biệt Hải khi hoàn cảnh cho phép.

    Như trên đă nói, các hoạt động của LLHT đều nằm trong kế hoạch OPLAN 34-A của Hoa Kỳ nên dĩ nhiên các chiến đĩnh Biệt Hải phối hợp chặt chẽ với các chiến hạm Hoa Kỳ có mặt trong vùng. Nhiều cuộc thực tập vận chuyển ban đêm thường được tổ chức để làm quen và nhận dạng. Trong nhiều chuyến công tác, các chiến đĩnh LLHT đóng vai chim mồi, giả bộ tiến gần vào bờ biển Bắc Việt khiến các giàn radar và hải pháo pḥng duyên địch bắt buộc phải lộ diện để phi cơ Hoa Kỳ oanh kích. Cũng có lúc các chiến đĩnh LLHT chạy thật chậm trước các căn cứ hải quân Bắc Việt để dụ các tiểu đĩnh CS rời nơi ẩn núp đuổi theo. Lúc đó, các chiến đĩnh của ta tăng tốc độ giữ một khoảng cách an toàn ngoài tầm hải pháo địch. Khi các tiểu đĩnh CS bị dụ xa ra ngoài khơi, ngoài tầm hoạt động của những ổ súng pḥng không, các phi cơ Hải Quân Hoa Kỳ phục sẵn trên mây sẽ bất thần nhào xuống làm thịt các con mồi.

    Nhưng ngoại trừ trong các cuộc hành quân phối hợp đặc biệt, các chiến đĩnh LLHT thường hoạt động biệt lập, không trực tiếp liên quan với các chiến hạm Hoa Kỳ. Tuy nhiên, v́ cùng hoạt động trong vùng Vịnh Bắc Việt, đôi bên đều có thể nhận dạng nhau bằng radar hải thám và liên lạc âm thoại để yểm trợ nhau khi cần. Thí dụ như đôi khi LLHT đảm nhiệm thêm công tác t́m kiếm phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi hay mất tích ngoài biển, trong khi các chiến hạm Hoa Kỳ trợ giúp các PTF hay Swift bị hỏng máy hay bị hư hại.

    V́ những liên hệ trực tiếp hay gián tiếp nêu trên, sự có mặt của KTH Maddox ngoài khơi Thanh Hóa vào ngày 2 tháng 8 năm 1964 không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên như Hoa Kỳ đă công bố. Trước đó 2 ngày, vào rạng sáng 31 tháng 7, các chiến đĩnh của LLHT đă bắn phá hải đảo Ḥn Mê chỉ cách bờ biển Thanh Hóa chừng 30 hải lư về phía Đông Nam. Sau khi bị tấn công, đương nhiên CSBV phải gia tăng pḥng thủ bằng cách phái các tiểu đĩnh tuần tiễu vùng ven biển và các hải đảo. Các công điện điều động tiểu đĩnh pḥng quyên của địch do toán kiểm thính trên chiến hạm Maddox bắt được chứng tỏ điều này. Đến chiều ngày 2 tháng 8, khi KTH Maddox bị các tiểu đĩnh CS tấn công gần bờ biển Thanh Hóa, điều này cũng dễ hiểu v́ lực lượng duyên pḥng lầm tưởng chiến hạm này là một thành phần của lực lượng tấn công cùng với LLHT đă bắn phá Ḥn Mê mấy đêm về trước.

    Cuộc tấn công này thực sự đă xảy ra bị đôi bên tham chiến giữa ban ngày và chiến hạm Maddox bị trúng một viên đạn dưới chân đài kiểm xạ . Hơn nữa, các phi cơ từ mẫu hạm Ticonderoga tới trợ chiến cũng đă t́m thấy mục tiêu và dùng hỏa tiễn Zuni cùng với đại bác 20 ly bắn hư hại nhiều tiểu đĩnh CS. Mới đây nhất, chính CSBV cũng xác nhận chúng đă tấn công. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy phía CSBV cũng đă lầm lẫn v́ họ tưởng mục tiêu chỉ là những chiến đĩnh của LLHT với hỏa lực tương đương.

    Vào năm 1964, hệ thống radar pḥng duyên của Bắc Việt hăy c̣n thô sơ và không đủ vị trí để có thể theo dơi bao trùm vùng duyên hải. Đa số các phát hiện đều do sự quan sát bằng mắt thường. Bằng cớ là lúc đó, các chiến đĩnh LLHT hoạt động ban đêm như vào chỗ không người, chỉ khi nào vào sát bờ bắn phá hay hoạt động giữa ban ngày mới bị phát hiện. V́ vậy, nếu biết chắc mục tiêu là một Khu Trục Hạm Hoa Kỳ với phi cơ yểm trợ, chắc chắn mấy tiểu đĩnh lỗi thời thuộc loại phế thải của Bắc Việt đă không giám mở cuộc tấn công, nhất là giữa thanh thiên bạch nhật, không có hải pháo pḥng duyên và phi cơ yểm trợ. Khi đă ra tới biển, chạm trán với đối thủ có hỏa lực mạnh hơn th́ chuyện đă rồi, không thể bỏ chạy. Tuy các tiểu đĩnh CS có lợi thế hơn về tốc độ, nhưng tầm hải pháo lớn nhất 37 ly (trên tiểu đĩnh loại Swatow) và 14.5 ly của họ chỉ bằng 1 phần 5 so với tầm đại bác 127 ly trên chiến hạm Maddox. Hơn nữa, giàn radar của chiến hạm Hoa Kỳ cũng nh́n được xa hơn rất nhiều nên trước khi các tiểu đĩnh CS vào được tầm phóng ngư lôi hoặc đại bác 37 ly, chúng đă bị 6 khẩu hải pháo có radar điều khiển trên chiến hạm Maddox bắn hư hại từ lâu rồi. Ngoài ra, phía Hoa Kỳ c̣n có phi cơ yểm trợ, phần bất lợi lại càng nghiêng về phía CSBV. Hơn nữa, chiến thuật của các tầu phóng ngư lôi thường dùng là "bất ngờ đánh trộm" nên chỉ có lợi thế khi phục kích và tấn công vào ban đêm. Thông thường, các như lôi đĩnh ẩn trốn gần các đảo nhỏ khiến radar của chiến hạm không ḍ thấy. Khi con mồi tới gần, các tiểu đĩnh mở hết tốc độ lao thẳng vào mục tiêu và phóng ngư lôi từ nhiều hướng rồi bỏ chạy. Chúng ta có thể đoan quyết rằng, nếu cần phải đụng độ với chiến hạm Hoa Kỳ, chắc chắn các tiểu đĩnh CS sẽ tấn công vào ban đêm thay v́ lúc ban ngày.
    6. Trận đánh ma

    Nhưng nếu càng chắc chắn bao nhiêu về trận đánh ngày 2 tháng 8 th́ mọi người lại càng hoài nghi về cuộc đụng độ hai hôm sau đó, vào ngày 4 tháng 8. Lúc đó, chiến hạm Maddox đă được Khu Trục Hạm Turner Joy tăng cường, nghĩa là lực lượng Hoa Kỳ mạnh gấp đôi và dĩ nhiên đề pḥng cẩn thận hơn. Trận hải chiến "ma" này được phía Hoa Kỳ mô tả như một cuộc "dạ chiến" dưới bầu trời đen kịt đày mưa giông và gió lớn. Đại Tá Herrick, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn Đặc Nhiệm 72.1 (Phân đội 1 "Maddock và Turner Joy" thuộc Hải Đội 2 "mẫu hạm Ticonderoga" nằm trong Hạm Đội 7) sau này cho biết về t́nh trạng thời tiết đêm đó như sau:"Trời tối đen không trăng sao, thỉnh thoảng có vài tia chớp". V́ thời tiết xấu và trần mây thấp, radar thường phát hiện những hồi ba giả (false echo) v́ luồng sóng điện từ phát ra dội vào lớp mây trở về máy thu. Ngoài ra, v́ biển động, các chiến hạm lại vận chuyển với vận tốc cao nên những luồng siêu âm do máy sonar (dùng để ḍ tầu ngầm hay nghe tiếng động của tầu ngầm hoặc thủy lôi) phát ra cũng dễ bị nhiễu loạn.

    Sau đây là tóm tắt các nghi vấn chính ghi nhận được trong trận "dạ chiến":

    a. Các hồi ba trên màn ảnh radar lúc ẩn lúc hiện, không rơ ràng. Có lúc đột nhiên "hiện" ra sát chiến hạm rồi lại biến mất. Radar hải pháo cũng không "khóa" được mục tiêu v́ hồi ba không rơ.

    b. Chuyên viên sonar của chiến hạm Maddox báo cáo phát hiện tiếng chân vịt xoáy nước của tổng cộng 26 quả ngư lôi, trong lúc KTH Turner Joy không phát hiện được ǵ. Chúng ta cũng nên nhớ, mỗi tiểu đĩnh CS chỉ mang được 2 quả thủy lôi. Như vậy nếu báo cáo của KTH Maddox là chính xác, lực lượng tấn công của Bắc Việt phải có ít nhất 11 tiểu đĩnh và tất cả đă phóng hết ngư lôi.

    c. Không có người nào trên các chiến hạm Hoa Kỳ đă thực sự nh́n thấy các tiểu đĩnh BV bằng mắt thường hay ống nḥm. Nên nhớ, khi phóng ngư lôi, các tiểu đĩnh phải vào rất gần mục tiêu.

    d. Phi cơ bao vùng từ mẫu hạm Ticonderoga bay cách mặt biển chừng 1000 feet cũng không t́m ra các tiểu đĩnh, mặc dù khi vận chuyển với vận tốc cao, các tiểu đĩnh này để lại những luồng sóng rất lớn và sáng như lân tinh phía sau lái, rất dễ nhận từ trên cao.

    Chúng ta không lấy làm lạ nếu thủy thủ đoàn chiến hạm Maddox luôn luôn ở trong trạng thái lo âu và hồi hộp v́ đă thật sự bị tấn công mấy ngày truớc. Chính Hải Đội Trưởng Herrick lúc nào cũng "yên trí" sẽ bị tấn công lần nữa. V́ vậy, khi nghe trung tâm chiến báo (CIC - Combat Information Center) loan tin radar ghi nhận nhiều hồi ba lạ cách 36 hải lư, tinh thần mọi người đều căng thẳng nên đưa đến ngộ nhận. Qua các sự kiện nêu trên, nhất là việc nghe thấy tiếng chân vịt của trên 20 quả ngư lôi, chắc chắn đây chỉ là một trận đánh ma, không có địch thủ.
    7. Kết luận
    Tóm lại, trận đánh ngày 4 tháng 8 đă không xảy ra hay chỉ xảy ra trong "kế hoạch" hay trí tưởng tượng của các giới chức quân sự Hoa Kỳ. Rất có thể, đây là một sự sắp đặt để Hoa Kỳ có thêm lư do tấn công "trả đũa" Bắc Việt, v́ tuy là một trận đánh ma nhưng Bắc Việt đă bị oanh tạc thật. Tổng Thống Hoa Kỳ Johnson đă ra lệnh cho Hải Không Quân Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt qua chiến dịch Pierce Arrow.

    Daniel Ellsberg, một nhân viên cao cấp trong chính phủ Johnson sau này khi được hỏi về việc chính phủ có dụng tâm lừa dối Quốc Hội hay không, cũng tuyên bố:" McNamara có nói dối trước Quốc Hội vào năm 1964 không? Tôi có thể trả lời câu hỏi này. Có, tôi biết ông ta đă nói dối. Lúc đó tôi làm việc cho John McNaughton là Thứ Trưởng Quốc Pḥng đặc tráng An Ninh Nội Vụ. McNaughton biết McNamara đă nói dối. McNamara biết ông ta đă nói dối và tới bây giờ vẫn tiếp tục nói dối. Ngoại Trưởng Dean Rusk và McNamara tường tŕnh trước Quốc Hội trước khi biểu quyết. Họ đă lừa dối trước Quốc Hội. Tôi biết rơ như vậy. Bây giờ nh́n lại những sự kiện đó, tôi không hănh diện chút nào". Phụ tá Ngoại Trưởng George Ball cũng trả lời trong cuộc phỏng vấn của đài BBC vào năm 1977 như sau:" Nhiều người liên quan tới cuộc chiến lúc đó t́m lư do để oanh tạc. Mục đích của cuộc tuần tiễu DeSoto là để khiêu khích Bắc Việt. Mọi người tin rằng nếu bị tấn công, chiến hạm Hoa Kỳ đă hoàn thành nhiệm vụ khiêu khích." Riêng Daniel Ellsberg trong cuộc hội thảo do Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam tổ chức vào tháng 11 năm 1995 cũng chỉ trích thêm:" Vào mùa hè năm 1964 đă có kế hoạch sắp sẵn để hướng dư luận quần chúng ủng hộ chiến tranh và giúp Tổng Thống Johnson đắc cử bằng thủ đoạn lừa bịp ... Vào năm 1971, Nghị Sĩ Morse, một trong 2 người phản đối Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt bảo tôi: Nếu tôi cung cấp cho ông ta đầy đủ tin tức, chắc chắn không có nghị quyết này, và nếu có cũng không được Quốc Hội chấp thuận".

    Do dó, nếu nói rằng biến cố vịnh Bắc Việt là đàu mối đưa đến việc quân đội Hoa Kỳ phải tham chiến tại Việt Nam cũng chưa hẳn đúng. V́ nếu không có biến cố này, sớm muộn Hoa Kỳ cũng sẽ t́m một lư do khác - rất có thể là biến cố vịnh Thái Lan chẳng hạn - để đạt được mục đích. Nhiều nhân viên chính phủ cho biết "Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt" là một bản văn đă soạn sẵn từ mấy năm trước!

    Nhưng không hẳn chỉ v́ sự sống c̣n của miền Nam Việt Nam mà Hoa Kỳ đă gây hấn với Bắc Việt. Ngoài những lư do liên quan tới sách lược toàn cầu và quyền lợi của siêu cường quốc tế, Tổng Thống Johnson mới nhậm chức của Hoa Kỳ cũng cần tạo thêm uy tín. Khi Tổng Thống Kennedy bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, Phó Tổng Thống Johnson kế nhiệm theo hiến pháp. Tuy đă làm Tổng Thống, nhưng Johnson c̣n nặng mang hai mặc cảm lớn: một là mới được "thừa kế" chứ chưa phải do dân bầu lên. Hai là dân chúng Hoa Kỳ, nhất là tại các tiểu bang "Yankee" miền Bắc thường coi nhẹ Johnson như một anh cowboy ít học, nóng nảy và không lịch lăm như Kennedy.

    Do đó, dù không thực ḷng muốn mở rộng chiến tranh tại Việt Nam v́ ngại đụng chạm với Trung Cộng, nhưng với quyết định nhanh chóng trả đủa Bắc Việt, Johnson đă chận đứng được những chỉ trích của hai đối thủ lợi hại đang lăm le tranh chức Tổng Thống nhiệm kỳ tới là George McGovern và con diều hâu mạnh miệng Barry Goldwater. Ngoài ra, Johnson cũng được tiếng là người cứng rắn nhưng sáng suốt biết đưa ra những quyết định đúng mức và đúng lúc. Kết quả là chỉ ít lâu sau khi ra lệnh oanh tạc Bắc Việt, uy tín của Tổng Thống Johnson vọt cao khi tuyệt đại đa số lưỡng viện Quốc Hội và 85% dân chúng Hoa Kỳ nồng nhiệt ủng hộ quyết định trả đủa của Tổng Thống. Chỉ ít lâu sau đó, đảng Dân Chủ đề cử Johnson làm ứng cử viên Tổng Thống và ông đă đắc cử với số phiếu rất cao.

    Một điểm đặc biệt đáng ghi là chỉ gần đây, Việt Cộng mới lên tiếng xác nhận đă tấn công chiến hạm Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 8, nhưng trận đánh trong đêm 4 rạng ngày 5 tháng 8 chỉ do Hoa Kỳ bịa đặt để lấy cớ oanh tạc Bắc Việt vào ngày 5 tháng 8. Nhưng trước đó, khi cuộc chiến tại Việt Nam c̣n tiếp diễn, chính Việt Cộng cũng lại gián tiếp "phụ giúp" Hoa Kỳ trong việc "nói dối". Lúc đó, bộ máy tuyên truyền lừa bịp của Việt Cộng không những đă xác nhận các tiểu đĩnh của chúng đă đánh đuổi chiến hạm Mỹ xâm lược vào các ngày 4 và 5 tháng 8, mà Hải Quân của chúng c̣n chọn ngày này là ngày kỷ niệm "Truyền Thống".

    Tưởng cũng cần nói thêm, Bắc Việt rêu rao Hải Quân của họ đă đánh ch́m 353 tầu bè Hoa Kỳ. Chúng ta biết rơ cả Hải Quân Việt Cộng chỉ có không quá 60 quả ngư lôi. Như vậy tất cả những ngư lôi này đều phóng trúng đích và mỗi quả đánh ch́m trung b́nh 6 tầu bè đế quốc Mỹ xâm lược! Thật đúng là "kẻ cắp nói dối" gặp "bà già nói láo"! V́ vậy, ta có thể nói: nếu cho rằng biến cố vịnh Bắc Việt là do Hoa Kỳ đạo diễn th́ Hải Quân Việt Cộng cũng đóng vai tṛ quan trọng trong đó.

    Biến cố vịnh Bắc Việt tuy xảy ra cách đây đă trên 30 năm, nhưng ảnh hưởng vẫn c̣n đè nặng trên vận mạng của người Việt Nam thuộc cả hai miền Nam, Bắc. Hàng triệu người đă trở thành các oan hồn thảm tử trên các chiến trường. Biết bao gia đ́nh ly tán. Việt Cộng thôn tính Miền Nam đă biến Việt Nam thành một trong những quốc gia nghèo đói, lạc hậu nhất thế giới. Chính sách cai trị ngu dân và sắt máu với các trại tù tập trung đă giết oan hàng trăm ngàn tinh hoa của dân tộc. Gần hai triệu người sống lưu vong nơi hải ngoại. Hàng trăm ngàn người khác bỏ mạng trên rừng, ngoài biển trên đường vượt biên v́ không thể sống với Cộng Sản. Việt Cộng trước đây rêu rao chiêu bài "Chống Mỹ cứu nước" th́ nay lại "đổi mới" hô hào "Lạy Mỹ cứu nước". Muốn dân giàu nước mạnh, chúng ta cần phải tự lập, không được ỷ lại vào người ngoài. Dù Cộng Sản hay Tư Bản, ngoại bang chỉ lo cho quyền lợi của họ và chỉ dùng các nước nhược tiểu như một con chốt thí.

    (Hết)

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964

    Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964
    Sự kiện Vịnh Bắc Bộ

    Wikipedia


    H́nh chụp từ tàu USS "Maddox" trong vụ việc, hiển thị ba tàu ngư lôi miền Bắc Việt Nam
    .
    Thời gian: 2 tháng 8, 1964
    Địa điểm: Vịnh Bắc Bộ
    Kết quả: Quốc Hội Mỹ thông qua Nghị quyết vịnh Bắc Bộ
    Chiến tranh leo thang
    Tham chiến: United States
    Chỉ huy
    US Naval: Jack.svg George Stephen Morrison
    North Vietnam: Lê Duy Khoai[1]

    Lực lượng
    Hải quân:
    1 tàu sân bay,
    1 tàu khu trục
    Không quân:
    4 máy bay chiến đấu F8[2] 3 tàu ngư lôi
    Tổn thất
    1 tàu khu trục bị hư nhẹ
    1 máy bay bị hư nhẹ[3] 1 tàu ngư lôi bị hư nặng,
    2 tàu ngư lôi bị hư hỏng,
    4 chết,
    6 bị thương[4]


    Sơ đồ của Hải quân Mỹ giải thích các biến cố của phần đầu sự kiện Vịnh Bắc Bộ

    Chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam

    Sự kiện Vịnh Bắc Bộ là sự kiện được cho là hai cuộc tấn công của Hải quân Nhân dân Việt Nam chống lại hai tàu khu trục USS Maddox và USS Turner Joy của Hải quân Mỹ. Hai cuộc tấn công được cho là đă xảy ra vào các ngày 2 tháng 8 và 4 tháng 8 năm 1964 ở vịnh Bắc Bộ.


    Sự kiện

    Ngày 2 tháng 8, năm 1964, tàu khu trục USS Maddox, trong khi thực hiện một cuộc tuần tra thông tin t́nh báo tín hiệu như là một phần của chiến dịch DeSoto, đă có đụng độ với ba tàu phóng ngư lôi của hải quân miền Bắc Việt Nam của phi đội Torpedo 135 [1]. Một trận hải chiến xảy ra, trong đó Maddox sử dụng hơn 280 đạn pháo 3-inch và 5-inch, và bốn máy bay tiềm kích USN F-8 Crusader oanh tạc các tàu phóng ngư lôi. Một máy bay Mỹ đă bị hư hỏng, tàu khu trục bị một vết đạn 14,5 mm, ba tàu thuyền ngư lôi Bắc Việt đă bị hư hỏng, và bốn thủy thủ Bắc Việt Nam đă thiệt mạng và sáu người bị thương, không có thương vong Mỹ [5]

    Sự kiện Vịnh Bắc Kỳ lần thứ hai đă được tuyên bố bởi Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đă xảy ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1964, như là một trận hải chiến, nhưng không có tàu ngư lôi Bắc Việt tấn công, thay v́ đó có thể là tàu Tonkin Ghosts [6] .

    Năm 1995 Đại tướng Vơ Nguyên Giáp đă thừa nhận sự kiện ngày 2 tháng 8 là có thật, nhưng ông phủ nhận sự tồn tại của vụ tấn công ngày 4 tháng 8. Ông tin rằng hôm đó tàu chiến Mỹ cố khiêu khích một cuộc tấn công để tổng thống Johnson có cớ để leo thang chiến tranh[7].

    Trong một cuốn băng thu âm được giải mật năm 2001, tổng thống Lyndon B. Johnson thừa nhận rằng vụ thứ hai trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ chưa hề xảy ra[8].


    Các nghiên cứu sau này, trong đó có một báo cáo năm 2005 của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ khẳng định cuộc tấn công thứ hai đă không xảy ra. Báo cáo này cũng đă cố gắng xua đi giả thuyết từ lâu rằng các thành viên của nội các tổng thống Lyndon B. Johnson đă cố t́nh nói dối về bản chất của sự kiện này[9].

    Đầu tháng 1 năm 2008, Hiệp hội các nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS) cho biết Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đă giải mật bản báo cáo Spartans in Darkness[10] trong đó khẳng định Hải quân Nhân dân Việt Nam không hề tấn công tàu chiến Hoa Kỳ trong đêm 4 tháng 8 năm 1964[11][12].

    Hậu quả

    Ngày 5 tháng 8 năm 1964, ngay sau sự kiện thứ 2, Hải quân Mỹ trả đũa bằng chiến dịch Mũi Tên Xuyên ném bom một số cửa biển quan trọng ở miền Bắc Việt Nam, chiến dịch này đă mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại 9 năm bằng không quân và hải quân quy mô lớn đối với miền Bắc Việt Nam.

    Ngày 7 tháng 8 năm 1964, 3 ngày sau sự kiện thứ 2, Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Đông Nam Á (được biết nhiều hơn với cái tên Nghị quyết vịnh Bắc Bộ) cho Johnson quyền hỗ trợ bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào mà chính phủ nước đó được xem là bị đe dọa bởi "sự hiếu chiến của cộng sản". Nghị quyết này đă trở thành sự biện minh hợp pháp cho việc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam.
    Nghị quyết vịnh Bắc Bộ

    Nghị quyết do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 7/8/1964 dựa trên lư do sự kiện vịnh Bắc Bộ. Cho phép tổng thống Hoa Kỳ Johnson lúc bấy giờ “được áp dụng mọi biện pháp cần thiết, đẩy lùi bất cứ một cuộc tiến công vũ trang nào chống lại lực lượng Hoa Kỳ và sẵn sàng tiến hành mọi bước cần thiết, kể cả dùng lực lượng vũ trang để giúp đỡ bất ḱ một nước đồng minh nào cần đến sự giúp đỡ để bảo vệ nền tự do của ḿnh”. Đây là cơ sở để Johnson mở đầu chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc Việt Nam một cách hợp pháp, tiến hành chiến tranh hạn chế ở Miền Nam Việt Nam.

    Ngày 12/1/1971, do sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Hoa Kỳ, dư luận quốc tế và cả Quốc hội Hoa Kỳ, tổng thống Nixon đă phải kí văn bản chính thức băi bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ.

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Bộ đội 'ém máy bay', xuất kích & tiêu diệt '2 hàng không mẫu hạm của Mỹ'
    Danlambao



    - Một bài phóng sự trên báo An Ninh Thế Giới nhân dịp kỷ niệm ngày sinh nhật ông Hồ Chí Minh và Ngày thành lập Binh đoàn Trường Sơn (19/5/1959 - 19/5/2005) đă bịa ra một 'chiến tích' có một không hai của bộ đội không quân Quảng B́nh.

    Bài báo 'Những tuyến đường ra trận trên đất Quảng B́nh' của tác giả Hồ Ngọc Diệp nhắc đến trận đánh năm 1971 tại sân bat Khe Cát có nội dung nguyên văn: "Bộ đội không quân đă ém máy bay MiG21 ở đây và xuất kích, tiêu diệt được 2 hàng không mẫu hạm của Mỹ tại biển Lư Ḥa và Đồng Hới".

    Chưa dừng lại ở đó, ông tác giả bài báo c̣n khẳng định một cách hùng hồn: "Đó là chiến công có một không hai trong lịch sử chiến tranh nhân dân ở Quảng B́nh."

    Xem ra, khả năng 'chém gió' của báo Đảng đă đạt tới đỉnh cao, bịa chuyện có một không hai trong lịch sử báo chí.

    An Ninh Thế Giới là chuyên đề của báo Công An Nhân Dân, tổng biên tập là ông tướng công an Hữu Ước.

    Dưới đây là đường link bài báo trên trang An Ninh Thế Giới điện tử: http://antg.cand.com.vn/vi-vn/phongsu/2009/4/69139.cand

    Danlambao
    danlambaovn.blogspot .com

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •