Results 1 to 4 of 4

Thread: Video & CSVN thừa nhận tuyên bố bán nước của Ung Văn Khiêm 'là có thật'

  1. #1
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,758

    Video & CSVN thừa nhận tuyên bố bán nước của Ung Văn Khiêm 'là có thật'



    Văn kiện của Bộ ngoại giao Trung Quốc năm 1980 nói rằng vào ngày 15/6/1956, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa là ông Ung Văn Khiêm từng tuyên bố với phía Trung Quốc: "theo tư liệu Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa về mặt lịch sử thuộc về lănh thổ Trung Quốc". Về vấn đề này, một nhà ngoại giao kỳ cựu của đảng cộng sản đă chính thức thừa nhận những 'câu nói' của ông Ung Văn Khiêm 'là có thật'

    Thông tin này luôn bị đảng cộng sản Việt Nam ém nhẹm để che dấu tội ác bán nước. Tuy vậy, trong quyển sách “Cuộc tranh chấp Việt – Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” do Nhà Xuất bản Công An Nhân Dân Hà Nội ấn hành năm 1995, tại trang 51 có đoạn ghi rơ:

    “...Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa tuyên bố năm 1965 về việc Mĩ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của thứ trưởng ngoại giao Ung Văn Khiêm về Tây Sa là có thật, nhưng đó không phải là lời tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, càng không phải là từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Trưởng Sa...”

    Tác giả quyển sách trên là ông Lưu Văn Lợi, một nhà ngoại giao tiếng tăm của đảng cộng sản, từng giữ vị trí chánh văn pḥng - Trợ lư Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng ban Biên giới chính phủ.

    Bỏ qua những đoạn ngụy biện của ông Lưu Văn Lợi, có thể thấy rằng chính nhân vật được xem là nhà ngoại giao kỳ cựu của đảng CS cũng đă phải thừa nhận: 'câu nói' bán nước của Ung Văn Khiêm dâng Hoàng Sa cho Trung Quốc 'là có thật'.

    Trong đoạn trích trên, ông Lợi cũng xác nhận về một tuyên bố khác cũng mang nội dung bán nước vào năm 1965 của lănh đạo cộng sản Bắc Việt 'là có thật'.

    Cho đến thời điểm này, giới lănh đạo CSVN cũng luôn giấu nhẹm về bản tuyên bố 1965. Trong bài dịch 'Hà Nội bội tín' của tác giả Trần Quốc Việt đă đăng trên Danlambao, văn kiện phía Trung Quốc nói rằng: Trong một tuyên bố phản đối Mĩ vào năm 1965, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa đă nói: "Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson coi toàn thể nước Việt Nam và vùng biển kế cận mà trải dài độ 100 dặm từ bờ biển Việt Nam và một phần hải phận của nước Cộng Ḥa Nhân dân Trung Hoa tại Quần đảo Tây Sa là "khu vực chiến đấu" của lực lượng vũ trang Mỹ."

    Như vậy, bằng chứng bán nước của lănh đạo cộng sản đă quá rơ ràng và ngày càng nghiêm trọng theo thời gian:

    1956 – Phát biểu bán nước của Thứ trưởng ngoại giao cộng sản Ung Văn Khiêm

    1958 – Công hàm bán nước của thủ tướng cộng sản Phạm Văn Đồng

    1965 – Tuyên bố bán nước của toàn bộ lănh đạo cộng sản trong chính phủ có tên 'Việt Nam dân chủ cộng ḥa'.

    Dưới đây là toàn văn quyển sách của ông Lưu Văn Lợi. Bản online do Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông ( www.seasfoundation.org )

    * Xin nhấn vào Link ▼ dưới đây xem thêm h́nh và chi tiết:
    http://danlambaovn.blogspot.com.au/2...-cua.html#more

  2. #2
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,758

    Video: Lễ Truy Điệu Tử Sĩ Hoàng Sa tại Trung Tâm Văn Hoá & Sinh Hoạt Cộng Đồng CĐNVTD/NSW Úc Châu

    Lễ Truy Điệu Tử Sĩ Hoàng Sa tại Trung Tâm Văn Hoá & Sinh Hoạt Cộng Đồng CĐNVTD/NSW Úc Châu do Gia Đ́nh Hải Quân Hàng Hải NSW tổ chức ngày 19/1/2014.


    * Video Link: http://www.lyhuong.net/uc/

  3. #3
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,758

    Hội Luận ngày 19/1/2014 từ 12 giờ trưa đến 3 giờ 15

    DIỄN ĐÀN “Tiếng nói tự do của người dân Việt Nam”

    PHẦN I.

    Linh Mục Phạm sơn Hà, ở Đức giới thiệu

    Kính chào Quí vị và các anh chị trên Diễn Đàn.

    Hiện nay ở trong nước, từ trí thức đến thường dân gồm cả truyền thông của Đảng đang nêu ra một cách sôi nổi là trận chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 của Hải quân VNCH chống trả lại hải quân Trung cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Trung cộng tung ra một hạm đội hùng hậu gồm 11 tàu chiến và khoảng 30 tầu, thuyền hỗ trợ trong cuộc xâm lăng quần đảo. Hải quân VNCH chỉ có 4 chiến hạm được điều động tới bảo vệ.

    Trong cuốn Hồ Sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyên Dân Tộc, in lần 3 , tháng 4 năm 2010, trang 69, Giáo sư Nguyễn văn Canh viết “ Ngay trong những phút giao chiến đầu tiên, lực lượng hải quân VNCH đă bắn ch́m soái hạm 274 của TC . Toàn thể Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch dưới quyền điều động của Đô Đốc Phương quang Kính, tư lện phó Hạm Đội Nam Hải, kiêm Tư Lệnh Mặt Trận, cùng với 4 Đại tá, 6 Trung tá trong số này có 4 hạm trưởng, 2 thiếu tá, 7 sỹ quan cấp uư và một số thuyền viên trên tàu tử trận.

    Hộ tống hạm 271 của TC, và 2 trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng về sau bị phế thải, 4 ngư thuyền bị đánh ch́m…” 74 anh hùng Hải quân VNCH bị tử thương trong đó có Hạm Trưởng, chiến hạm Nhật Tảo, HQ 10, Thiếu tá Nguỵ văn Thà và Hạm phó Đại uư Nguyễn thành Trí. 42 người bị bắt làm tù binh. Chiếc HQ 10 bị trúng đạn, rút ra ngoài ṿng chiến, rồi bị ch́m. Hạm trưởng Nguỵ văn Thà quyết định từ chối xuống thuyền bỏ chạy dù bị thương và đă chết theo tàu...

    Gương hi sinh anh dũng cũa chiến sĩ Hải quân Việt nam Cộng Hoà trong sứ mệnh bảo vệ sự vẹn toàn lănh thổ phải được đề cao và ghi nhận đời đời trong ḷng dân tộc. Liệu có ai không hănh diện về các hi sinh cao quí của các anh hùng Nguỵ văn Thà, Nguyễn thành Trí và 72 chiến sĩ hải quân VNCH ấy? Chỉ có lănh đạo Việt cộng từ đó đến nay hoặc ngấm ngầm ngăn cản làn sóng ghi ơn này của con dân nước Việt , hoặc giữ thái độ im lặng để được an toàn với quan Thày Trung Cộng. Ḷng can trường và quyết chí hi sinh mạng sống của các tử sĩ VNCH nói trên quả là tấm gương sáng cho mọi người.

    Điều này trái ngược hẳn với thái độ và hành vi ươn hèn, và c̣n nối giáo cho giặc ngoại xâm của các lănh đạo Đảng Cộng Sản Việt nam, và của cái gọi là Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân của ồ chí Minh. Ngay cả đến suốt thời gian TC xua quân xâm lăng, Cộng Sản Bắc Việt cũng giữ thái độ im lặng. Một điều nực cười là trong suốt thời giam cuộc chiến xảy ra, một quan thày khác của Đảng Cộng Sản Việt nam là Liên Bang Sô Viết đă cho Đài phát thanh Mạc Tư Khoa lên án cuộc xâm lăng ấy. Và tập đoàn lănh đạo đàn em của Hồ không nắm bắt lấy cơ hội nhờ lănh đạo Liên Bang Sô Viết giúp đỡ để bảo vệ lănh thổ.

    Hôm nay, 19 tháng 1 năm 2014 là ngày kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa mất vào tay Trung Cộng, sau một cuộc chiến đấu anh dũng ấy của Hải quân VNCH. Để vinh danh các chiến sỹ anh hùng, đă xả thân bảo vệ sự vẹn toàn lănh thổ mà ông cha chúng ta đă đổ bao xương máu bảo vệ và để lại giải sang sơn gấm vóc này cho đến ngày nay.

    V́ đă có nhiều đoàn thể nói lại về trận chiến oai hùng này, nên chúng tôi đề nghị sẽ nói tới một số vấn đề khác nhưng có liên hệ, góp phần cắt nghĩa tấm gương sáng của các chiến sĩ ấy để nói lên ư nghĩa đích thực của sự hi sinh này. Đó là

    Chủ đề I: Vài vấn đề liên quan đến Biển Đông trong đó có Hoàng Sa Trường Sa; Đó là Công Hàm Phạn văn Đồng với T́nh trạng Biển Đông hiện nay.

    Chủ đề II: Dự tính của Hoa Kỳ là ǵ giúp ngăn chặn các âm mưu bành trướng của Trung Cộng hiện nay.. Đó là Hoa Kỳ và An Ninh Á Châu.

    Hôm nay, Diễn Đàn một lẫn nữa hân hoan chào đón GS Nguyễn văn Canh trong buổi Hội Luận này.

    Chúng tôi có vài lời giới thiệu về GS Nguyễn văn Canh.

    Cho đến năm 1975, GS Canh là Giaó sư Ban Công Pháp, Đại Học Luật Khoa, Sàigon. Ông cũng là thuyết tŕnh viên các trường Cao Đẳng Quốc Pḥng, và trường Chỉ Huy và Tham Mưu Quân Lực Việt nam Cộng Hoà.

    Tại Hoa Kỳ, Giáo sư nguyên là Học giả Viện Nghiên Cứu Hoover về Chiến Tranh, Cách Mạng và Hoà B́nh, Đại Học Stanford, tiểu bang California và nay là Chủ Tịch Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ .

    Trước khi đi vào nội dung buổi thảo luận, xin Giáo sư nói qua về Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ mà Giáo sư là Chủ Tịch. Cách đây 3 năm, vào dịp tháng 1, Giáo sư phát động ngày Hoàng Sa Toàn Cầu để vinh danh các chiến sĩ Hải Quân Việt nam Cộng Hoà nhân dịp Hoàng Sa mất vào tay Trung Cộng . Tại Đức, chúng tôi hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo sư, và nhân dịp tôi có hân hạnh được biết Giáo sư. Tôi rất khâm phục về kiến thức của Giáo sư và thấy Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ có một vai tṛ rất lớn và đă có đóng góp quan trọng cho dân tộc.
    Trước khi đi vào đề tài, chúng tôi yêu cầu Giáo sư nói qua về Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thỏ.

    GS Nguyễn văn Canh: Vào khoảng tháng 4 năm 1994, Cố Giáo sư Nguyễn khắc Kham ở San Jose, CA điện thoại cho tôi, nói rằng “ tôi có một bài báo viết nằng tiến Tàu, nói về một Hội nghị tại Đài Loan, trong đó có 10 học giả từ Hoa Lục sang và khoảng 100 học giả địa phương. Họ họp 2 ngày và cuối cùng họ lên tiếng tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là của Hoa Lục. Họ kêu gọi Hoa Kiều trên khắp thế giới giúp đỡ họ t́m kiếm bằng chứng để chứng minh chủ quyền của người Tàu trên vùng này.” Giáo sư Kham nói thêm rằng “ lúc nào rảnh Giáo sư xuống gặp tôi về việc này”

    Cố Giáo sư Kham là thầy tôi. V́ vậy, tôi ghé thăm Giáo sư để xem Giáo sư nói ǵ. Giáo sư Kham nói “ Chính quyền Cộng sản Việt nam là kẻ bán đất, nên họ lặng yên. Trí thức trong nước phải có một thái độ về việc này. Họ cũng im luôn. Bọn Tàu, Quốc Cộng Trung Hoa chúng chống nhau, nhưng chúng lại hợp tác với nhau về vấn đề này. Ở hải ngoại. Ḿnh không thể ngồi yên.” Giáo sư nói rằng tôi phải lên tiếng về việc này. Tôi đề nghị Giáo sư Kham lănh đạo và tôi sẽ theo. Giáo sư Kham nói rằng người phải làm là tôi.

    Theo khuyến áo của GS Kham,, tôi triệu tập khoảng 30 trí thức đến họp vào ngày 22 tháng 6 năm 1994 tại một pḥng họp thuộc Viện Nghiên Cứu Hoover Về Chiến Tranh Cách Mạng và Hoà B́nh tại Đại Học Stanford, nơi tôi làm việc. Nhóm này được mệnh danh là Nhóm trí Thức Hải Ngoai lên tiếng phản bác Tuyên Cáo của các học giả người Tàu vê chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, xác nhận chủ quyền của Việt nam về phương diện lích sử và pháp lư.

    Ít lâu sau, thỉnh thoảng tôi được tin qua báo chí Tàu cho biết có một học giả nọ t́m thấy một mảnh bát ở trên một đảo của Trường Sa, rồi một học giả khác thấy một mảnh lọ vỡ năm trên một đảo khác. V́ thế tôi nghĩa tới có một tổ chức thường trực để đối phó với bấn đề này. Do đó một năm sau, Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ ra đời. Uỷ Ban này gốm GS Vũ quốc Thúc, GS Nguyễn cao Hách, LS Vũ ngoc Tuyên, LS Vơ văn Quan và tôi.

    Một cánh tay đắc lực của Uỷ Ban là Center For Vietnam Studies, được lập từ 1987 để tiếp sức cho tôi làm việc nghiên cứu, tồn trữ rài liệu, nay được giao thêm nhiệm vụ về Hoàng Sa- Trường Sa ( hay Biển Đông). Đến năm 2007, khi Trung cộng lập huyện Tam Sa để quản trị 2 quấn đảo này của Việt nam, Uỷ Ban Lănh Thổ lấp thêm Uỷ Ban Hoàng Sa.

    Mục đích của Uỷ Ban Lănh Thổ là sưu tầm, đánh giá, phân tích, tổng hợp, giải đoán các tài liệu liên hệ, phổ biến và lưu trữ tại nhiều nơi, nhất là một số Trung Tâm Nghiên Cứu để cho bất cứ ai cần có thể sử dụng trong hiện tại, kể cả trong tương lai xa, như 100 năm tới. Về phổ biến, Uỷ Ban cung cấp tài liệu cho các giới chức trong chính quyển Hoa Kỳ để họ biết ( thường viết bằng Anh Ngữ). Uỷ Ban có 8 đường giấy chuyển tin bằng các phương tiên khác nhau, kể cả điện tử vào trong nước. Uỷ Ban biết rằng nhiều nơi nhận được an toàn. Các giới trong nước cần được thông tin đầy đủ, được cung cấp các bản nghiên cứu đứng đắn, như thế việc đâu tranh hữu hiệu hơn.
    -Đă phổ biến 2 cuốn

    1) Hồ Sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc,

    2) Chủ Quyền Lănh Thổ và Bành Trướng Bắc Kinh. Có hơn 30 bản đồ, và phần lớn là cổ, vẽ từ thế kỷ thứ 16, chứng minh chủ quyền Việt nam trên vùng biển này, với hơn 100 bức h́nh chụp cơ sở quân sự , đồ sộ được xây cất trên quần đảo Hoàng Sa và độ 40 h́nh chụp các căn cứ quân sự kiên cố xây trên các băi đá ngầm, mọc sừng sững trên biển, trong số 16 đảo trong vùng quần đảo Trường Sa mà TC chiếm đoạt từ 1988.

    - Cũng đă phổ biến cuốn Bạch Thư về Âm Mưu Bành Trướng của Bắc Kinh với sự Đồng Loă của Đảng Cộng Sản VN. Một bản tài liệu nghiên cứu liên hệ khác như bản Phản Đối Chủ Nghĩa Bá Quyền Trung Cộng có sự tiếp tay của CSVN với các Bản Đồ về bành trướng bao coi tất cả Á Châu (ngoại trừ Nhật Bản) là lănh thổ của chúng , và bản đồ pḥng thủ trên Thái B́nh Dương. Các tài liệu này đă được gửi cho các nhà lănh đạo tối cao Liên Hiệp Quốc. ….

    - Từ 1994, khoảng 60 bản tiếng về các vấn đề liên hệ đến Chủ Quyền Việt Nam trên Biển Đông và trên đất liền cũng đă được công bố….

    LM Sơn Hà: Tiếp theo đây, Xin Gíao sư Canh đi vầ đề tài.

    GS Canh: CHỦ ĐỀ I: CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ HIỆN TRẠNG BIỂN ĐÔNG

    I. CÔNG HÀM CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG VỀ HOÀNG SA-TRƯỜNG SA:

    Bằng chứng quan trọng và duy nhất mà Trung Cộng (TC) dựa vào đó để biện minh rằng chúng có chủ quyền là văn thư của Phạm văn Đồng chuyển nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho TC. Nó chính là nguồn gốc của mọi vấn đề tại Biển Đông hiện nay. Biện minh này của TC được công khai nhắc đi nhắc lại để công chúng và quốc tế hiểu. Một thí dụ điển h́nh trong tuần lễ bắt đầu ngày 14 tháng 9 năm 2008, Toà Đại Sứ Trung Cộng tổ chức một buổi lễ long trọng ngay tại Hà nội để kỷ niệm 50 năm ngày kư công hàm ấy, nhắc nhở nhà cầm quyền Hà nội và dân chúng Việt nam nhớ lại sự việc này.

    NỘI DUNG CÔNG HÀM

    Chúng ta biết rằng, với tư cách Thủ Tướng của Chính Phủ Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng gửi một công hàm cho Chu ân Lai đề ngày 14 tháng 9 năm 1958 công nhận quyết định của Trung Cộng mà 10 ngày trước đó TC tuyên bố về chủ quyền của chúng trên các quần đảo này.
    Trước hết, tôi nhắc lại Công hàm của Phạm văn Đồng:

    Thủ Tuớng Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà

    Thưa Đồng chí Tổng lư,

    Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lư rơ:

    Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
    Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng ḥa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

    Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lư lời chào rất trân trọng./.
    Ngày 14 tháng 9 năm 1958.

    Văn thư này được Phạm văn Đồng tự nguyện viết để trả lời Bản Tuyên Bố đơn phương của Chu ân Lai.

    Bản tuyên bố của Chu ân Lai đề ngày 4 tháng 9 nói ǵ? Bản Tuyên bố này gồm 4 điều khoản và điều khoản I được viết như sau:

    Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc về Lănh Hải

    (1) Bề rộng lănh hải của nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lư. Điều khoản này áp dụng cho toàn lănh thổ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan…. và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
    ……………….

    Tóm lại, nhân dịp xác nhận giới hạn lănh hải mà mỗi quốc gia hải cận thường làm, Trung cộng qua Bản Tuyên cáo này lại đơn phương công khai tự nhận chúng có chủ quyền trên Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) của Viẽt nam. Đáp ứng lời tuyên bố đơn phương ấy, Thủ tướng của Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Phạm Văn Đồng gởi văn thư ấy đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.

    Như vậy, VC nh́n nhận Trung Cộng có chủ quyền trên 2 quần đảo ấy.

    NGUYÊN NHÂN NÀO ĐƯA TỚI SỰ CHUYỂN NHƯỢNG CHỦ QUYỀN CHO TRUNG CỘNG

    Đây rơ ràng là hành vi bán nước. Tại sao Lănh đạo VC có hành vi như vậy?

    Ngay từ 1979, theo Tạp Chí Kinh tế Viễn Đông số ra ngày 16/3/1979, v́ công luận ngạc nhiên về sự công nhận cho Trung cộng chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Phạm văn Đồng đă biện minh rằng “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đă phải nói như vậy”. Biện minh đó lại gây thêm thắc mắc, v́ lẽ trong khu vực này vào thời kỳ ấy, không có một cuộc chiến tranh nào xảy ra.

    Rồi phải tới năm 1992, trước sức ép của công luận về hành vi này, Nguyễn mạnh Cầm, với tư cách Bộ trưởng Ngọai Giao của Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà khai triển thêm lời phát biểu về ‘cuộc chiến tranh’của Đồng trong cuộc họp báo vào ngày 2 tháng 12 năm 1992, do hăng Thông Tấn VN tường thuật ngày 3 tháng 12, như sau:

    “ Bản Tuyên bố trước đây của lănh đạo chúng tôi được công bố trong hoàn cảnh sau đây: Với Hiệp Định Genève vào năm 1954, phần lănh thổ phía Nam Vĩ Tuyến 17, gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản trị của chính quyền Miền Nam. Hơn nữa, Việt nam phải tập trung mọi lực lương cho mục tiêu cao nhất để chống cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ngơ hầu bảo vệ độc lập quốc gia, cần có hậu thuẫn của các bạn bè khắp thế giới. Trong khi đó, các mối quan hệ Việt Trung rất thắm thiết và hai quốc gia tin cậy lẫn nhau. Trung Hoa đă thuận cung cấp cho Việtnam một yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá. Trong bối cảnh đó và bắt nguồn từ nhu cầu cấp bách kể trên, việc lănh đạo của chúng tôi công nhận chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Hoa đ̣i hỏi là điều cần thiết để ngăn ngừa đế quốc Mỹ dùng các hải đảo tấn công chúng tôi, v́ nó phục vụ trực tiếp cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập và tự do của tổ quốc.

    Sự công nhận ấy không có dính dáng ǵ đến nền tảng lịch sử và pháp lư trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”

    Như vậy, Nguyễn mạnh Cầm đă khai triển rơ hơn vềc cuộc “chiến tranh” mà Phạm văn Đồng nêu ra. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ. Nhằm vào cái mà gọi là bảo vệ độc lập quốc gia, Hồ đă phải nhượng bộ theo đ̣i hỏi của Mao là cho Phạm văn Đồng chuyển nhượng 2 quần đảo ấy cho Mao với danh nghĩa là ngăn ngừa đế quốc Mỹ dùng hai quần đảo ấy tấn công Việt nam.

    Tập San Kinh Tế Viễn Đông số ra ngày 16 tháng 3 năm 1979 kể trên nhận xét về vấn đề này: “Những ǵ xảy ra ngày nay có liên hệ đến 2 quần đảo chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ. Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lư do rất rơ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nh́n nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đă dùng một ‘tiểu xảo’ để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào thoát được khỏi bàn tay của Trung Quốc, trong khi họ lại phải theo cách ‘đổi mới’ của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xă hội.”

    “Do sự hồ hởi muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Bắc và Nam, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đă hứa, mà không có sự tự trọng, nhượng một phần đất “tương lai sẽ có” để cho Trung Quốc, dù biết không chắc ǵ có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam.

    “ Vậy th́ ai đă tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam Việt Nam, ngay cả việc bán đất? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đă chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh”.

    Frank Ching trong Tạp Chí này trong số ra ngày 10, 1994 kết luận:

    “Rơ ràng là Hồ chí Minh qua tay của Phạm văn Đồng đă dâng hiến cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa một cái “ bánh ngọt to lớn” (món quà quá hậu hĩ) v́ lúc đó Họ Hồ đang chuẩn bị xâm lăng Miền Nam. Hồ cần viện trợ to lớn và đă nhắm mắt chấp nhận mọi điều kiện Bắc Kinh đưa ra. Thật là rất dễ cho Hồ chỉ bán trên giấy hai quần đảo ấy v́ vào lúc đó thuộc Miền Nam.”

    Tóm lại, riêng về hai quần đảo này, th́ một tay đại gian hùng như Hồ chí Minh, dù rất khôn ngoan, thành thạo dùng tiểu xảo trong mọi trường hợp, nay gặp phải Trung cộng là bậc Thày thâm độc lừa lại v́ lẽ TC biết rằng Hồ đâu có làm chủ 2 quần đảo ấy vào lúc đó. Hơn nữa, Trung Cộng theo truyền thống bành trướng của của Hàn Tộc nên có thể “mai phục tường kỳ” dù mất 100 năm chờ cơ hội thuận tiện đánh chiếm “vật” ấy. V́ trí đoản, Hồ chỉ biết và quen dùng mưu thuật nhằm đạt chiến thắng nhất thời, như chỉ t́m kiếm ít lợi lộc trước mắt, nên đă bị mắc kẹt trong vụ này. Về sau, việc biện hộ rằng v́ bị chiến tranh, v́ cần phải bảo vệ tổ quốc chống đế quốc Mỹ xâm lăng, nên đă “tôn trọng quyết định” ấy của Mao là một sự chạy tội, phản ảnh trạng thái trí tuệ u mê của họ Hồ. Không có bóng ma chiến tranh nào, cũng chẳng có đế quốc Mỹ nào hiện diện, hay d́nh dập để thực hiện âm mưu xâm lăng vào lúc đó.

    Tuy nhiên, với “yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá” cho Hồ, Mao đă đạt được cả 2 mục tiêu:

    a) Thụ đắc được 2 quần đảo này một cách hoà b́nh. Mao không mất một giọt máu để được làm chủ. Ngược lại, Hồ và đồng bọn tỏ ra rất hồ hởi v́ hưởng được món viện trợ lớn, mà không thấy mất mát ǵ.

    b) Đánh chiếm Miền Nam, Việt nam. Thay v́ phải tự mang quân xuống đánh chiếm Nam Việt Nam, Mao không làm nổi và đă dùng Hồ và đồng bọ làm lính tiền phong cho công tác này.

    Thực vậy, những lời giải thích của Phạm văn Đồng và Nguyễn mạnh Cầm cho thấy điều đó. Sau khi chiếm được Miền Bắc vào năm 1954, Hồ đă lập một dự án bành trướng thế lực cộng sản trên bán đảo Đông Dương trước khi tiến xa hơn. Hồ chia vùng này làm 4 chiến trường : A, Bắc Việt; B, Nam Việt; C, Miên Lào; và D, Thái Lan và Hồ lănh nhiệm vụ tiền phong thực hiện cuộc chiến tranh này. Đây là một nghĩa vụ cao cả của người Cộng Sản quốc tế.

    Trong kế hoạch này, B là Nam Việt nam, là mục tiêu đâu tiên. Hồ cần Mao gấp rút “yểm trợ đồ sộ (cần hậu thuẫn của các bạn bè khắp thế giới) và viện trợ vô giá ( tiền bạc, súng ống và các quân dụng khác…) , v́ đó là “nhu cầu cấp bách.”

    Mao biết rằng Nam Việt Nam là bàn đạp để Mao diến xa hơn trong chủ nghĩa bá quyền. Các lực lượng dân tộc Việt, đối kháng với bá quyền Bắc Kinh c̣n lại nằm ở Nam Việt nam. Mao biết rằng kẻ ngoai xâm như Mao không làm nổi. Hơn 1000 Bắc thuộc đă là những bài học tủi nhục. Cách hay nhất là dùng người bản xứ làm công việc này. Mao đă quá khôn ngoan biến Hồ và các thế hệ tay em trở thành lính đánh thuê, mà các kẻ này không ư thức được vai tṛ của chúng.

    Chính những kẻ này gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp giúp Mao tận diệt các thế lực dân tộc Việt thù địch ấy. Trong cuộc chiến này, Hồ và đồng bọn đă không nương tay chém giết tàn bạo đồng bào của họ, tiêu huỷ các giá trị nền tảng của chủ nghĩa dân tộc và các sức mạnh khác chống lại Mao để bảo vệ độc lập và tự chủ của dân tộc. Nếu xét về mọi phương diện như văn hoá, xă hội, lănh thổ, kinh tế, chính trị…., những ǵ đă và đang xảy ra trên ṭan cơi Việt nam từ thập niên 1950 đến nay, ta có thể thấy âm mưu thực hiện mục tiêu này đă lộ rơ.

    Hồ và đàn em chiếm được Nam Việt nam vào tháng 4, 1975 và cho đến nay chúng vẫn c̣n đang nỗ lực làm tṛn sứ mạng hoặc đặt ách thống trị trên lănh thổ như xưa kia hay biến Việt nam thành một phần lănh thổ của Hoa Lục. Liệu nhưng kẻ nội thù nảy có đạt được mục tiêu này hay không?

    GIÁ TRỊ PHÁP LƯ CÔNG HÀM

    Liệu Công Hàm Phạm văn Đồng có giá trị pháp lư để giúp cho TC căn cứ vào đó nh́n nhận chủ quyền trên HS & TS một cách hợp pháp?

    A. Về nội dung, ‘chuyển nhượng’ trong Công Hàm phải dựa trên tinh thần tự do, trong sáng, minh bạch, b́nh đẳng, ngay thẳng, …., ngay cả đến động lực của sự công nhận này cũng phải có tính cách chính đáng. Nếu không, hành vi này sẽ bị coi là có hà t́ và sẽ trở thành vô giá trị.

    a) Không ai có thể chuyển nhượng cho một đệ tam nhân cái ǵ mà ḿnh không có. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa này lúc đó thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Ḥa. V́ không là chủ tài sản, VC không có quyền nhượng cho TC. Hành vi này có thể giải thích là một sự lừa đảo; Hồ có ư định đành lừa TC để được hưởng viện trợ. Ngược lại, Trung cộng biết sự lừa đảo này, nhưng đ̣i VC phải công khai công nhận sự chuyển nhượng. Mặt khác, đây có thể c̣n là một sự lạm quyền, một hành vi bất hợp pháp, v́ chủ nhân ông tài sản là Việt nam Cộng Hoà, không ban cấp cho Hồ và đồng bọn quyền ấy.

    b). Hồ và đồng bọn kư công nhận này trong trạng thái tinh thần u mê, không sáng suốt. Phạm văn Đồng viện cớ “v́ chiến tranh nên đă phải nói như vậy”. Rồi Bộ trưởng Ngoại giao VC Nguyễn mạnh Cầm c̣n thêm: “chúng tôi đang dồn nỗ lực vào chống đế quốc Mỹ xâm lược.” Chiến tranh ám ảnh quá mạnh đến trí óc nên chúng mất khả năng phán đoán, v́ lúc là thời kỳ toàn thịnh của VC, và không có đế quốc Mỹ nào d́nh dập để xâm lược, và cũng chẳng có con ma chiến tranh này đe doạ Bắc Việt. Cũng v́ u mê, nên chúng mất hết khả năng nhận biết về sự hành động và hậu quả việc làm của sự công nhận ấy.

    Một người b́nh thường có thể nh́n thấy hiện nay những ǵ đang xảy ra ở Biển Đông. Hơn nữa, chúng u mê và mờ mắt v́ TC đă chấp thuận viện trợ quá nhiều như Nguyễn mạnh Cầm nhấn mạnh “Trung Hoa đă thuận cung cấp cho chúng tôi một yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá….”, để đáp ứng “nhu cầu cấp bách” là “ chống đế quốc Mỹ xâm lược để bảo vệ tổ quốc”. Cũng v́ thế mà hồ hởi quá độ, say sưa và xung phong đóng vai tṛ của kẻ thừa sai trong âm mưu của Cộng Sản quốc tế ấy cho Mao mà không biết.

    c) Lầm lẫn v́ tin ở ḷng tốt của TC. Cầm ca ngợi mối liên hệ ấy là “ các mối quan hệ Việt Trung rất thắm thiết, và hai quốc gia tin cậy lẫn nhau”; Bọn Hồ c̣n bị lầm v́ tưởng “viện trợ đồ sộ và vô giá” là cho không ( bất hoàn trái) để giúp VC, đảng cộng sản anh em xây dựng xă hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, và đang chuẩn bị đánh chiếm Miền Nam, rồi từng bước tiến chiếm Đông Nam Á là nghĩa vụ quốc tế; mặt khác, Hồ c̣n có lầm lẫn khác và thiếu trí tuệ với hiểu biết nông cạn v́ tưởng rằng dù có công nhận cho TC có chủ quyền nhưng “vẫn c̣n chủ quyền lịch sử và pháp lư.”

    d) Tính chất bất b́nh đẳng trong hành vi này: “Yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá” của đàn anh vĩ đại mồi nhử to lớn cho VC là kẻ nghèo đói, tham lam, đang có “nhu cầu cấp bách” để xâm chiếm Miền Nam. Trong bối cảnh này, Hồ đă bị buộc chấp thuận “đ̣i hỏi” của Trung cộng phải công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng để đổi lấy viện trợ ấy.

    e) Động lực công nhận cũng bị dị nghị. Họ Hồ và đồng bọn đă đánh đổi đất đai của dân tộc lấy viện trợ để thực hiện một âm mưu không trong sáng của Đảng Cộng Sản Việt nam: theo đuổi mục tiêu của Cộng Sản quốc tế và dùng làm phương tiên để thực hiện một cuộc chiến tranh xâm lăng. Đó là cuốc chiến tranh huy đệ tương tàn. Và sự kiện này đă được chính Phạm văn Đồng, Nguyễn mạnh Cầm, thú nhận. Nói cho rơ hơn, như lời nhận xét của kư giả Frank Ching của Tạp Chi Kinh Tế Viễn Động đă noi ở trên rằng đây chỉ là ‘dàn xếp mờ ám’ của hai đảng Cộng Sản anh em….

    Tóm lại, hành vi công nhận của VC được biểu lộ trong Công hàm này bị coi là hà t́. Do vậy, hành vi công nhận ấy không có giá trị.
    Và chủ quyền của Việt nam trên hai quần đảo này không thể thay đổi.

    B. Giá trị pháp lư của công hàm của Phạm văn Đồng về phương diện h́nh thức.

    Công hàm chỉ là một văn thư hành chánh, trao đổi quan điểm giữa hai chính phủ (hành pháp) của hai quốc gia. Một văn thư hành chánh như vậy lại là văn thư ấy công nhận chủ quyền như trường hợp này không có giá trị trong việc chuyển nhượng chủ quyền lănh thổ hay lănh hải. Muốn chuyển nhượng một lănh thổ, luật pháp quốc tế đ̣i hỏi phải thục hiện bằng một hiệp ước. Để một hiệp ước có hiệu lực, trước hết, hai bên đối tác phải kư kết một văn kiện về chuyển nhương. Khi nói tới điều này, phải nói rơ trao đổi giữa hai bên như việc mua bán một vật ǵ đó. Dĩ nhiên, phải có tính cách chính đáng, công khai để cho công chúng hiểu biết và tham gia ư kiến.

    Kế đó, Quốc Hội mỗi bên phê chuẩn đúng cách văn kiện ấy. Và cuối cùng, nguyên thủ quốc gia phải ban hành đúng cách th́ việc chuyển nhượng ấy mới có giá trị. Có một số quốc gia đ̣i hỏi một điều kiện khó khăn hơn là phải có trưng cầu dân ư của toàn dân về Hiệp ước mua bán lănh thổ. Thủ tục như vậy biểu lộ ư chí thực sự của toàn dân về vấn đề này. Nếu không được thực hiện như vậy, hành vi ấy bị coi là hà t́ và trở thành vô hiệu và bị bác bỏ..

    C. Hành vi của Trung cộng là bất hợp pháp. Trong bản tuyên bố, họ Chu tự nhận TC đă là chủ 2 quần đảo ấy. Đơn phương tuyên bố làm chủ hai quân đảo như vậy là hành vi bất hợp pháp. TC không bao giờ thụ đắc hợp pháp quyền làm chủ hai quần đảo này. Việt nam đă là chủ từ cả ngàn năm nay và đang c̣n là chủ. TC là chủ bất hợp pháp một tài sản , th́ việc ‘tán thành’/’công nhận’ của Phạm văn Đồng chẳng có giá trị ǵ..

    D. Tuyên bố lănh hải là 12 hải lư theo luật biển và vùng lưỡi ḅ. Luật biển 1982 cho phép một hải đảo được nới rộng một phần biển là thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lư ngoài lănh hải 12 hải lư, nghĩa là nới rộng lănh thổ ra biển khơi. Để một hải đảo được quyền này, hải đảo ấy phải có đầy đủ điều kiện như tự sinh tồn (kinh tế) mới được hưởng qui chế ấy. Các đảo trong hai quần đảo này không hội đủ điều kiện của Luật biển 1982. Mặt khác, về phương diện địa lư, hai quần đảo này cách quá xa lục địa Trung Hoa , nhất là Trường Sa cách bờ biển Hoa Lục cả ngàn cây số không thể nào là lănh thổ Trung Hoa. Khi Chu ân Lai tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa với vùng biển 200 hải lư nới rộng như trên, Trung Cộng không thể dựa vào đó để biện minh bản đồ lưỡi ḅ được phổ biến hồi tháng 6 năm 2006, để rồi nhằm chiếm cả Biển Đông. Hành vi ấy là hành vi của bọn bá quyền, không bao giờ có thể biện minh được.
    ---------------
    Tóm lại, về phương diện pháp lư, Công hàm của Phạm văn Đồng là một hành vi không có giá trị. Do đó việc Trung cộng viện dẫn công hàm đó để chứng minh chủ quyền chỉ là một cái cớ không chính đáng của kẻ mạnh, theo chủ nghĩa bá quyền.

    Chính v́ Công hàm của Phạm văn Đồng được dùng làm cái cớ để TC chiếm trọn hai quần đảo này. Nay chúng đă có hàng không mẫu hạm, chúng đă xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên hai quần đảo để bảo vệ tài sản mà chúng đă đánh chiếm một cách bất hợp pháp trên đó, chúng đă thiết lập cơ quan hành chánh để quản trị và như vậy là chính thức sát nhập toàn bộ Biển Đông vào lănh thổ Trung Hoa. Vậy VC phải chịu trách nhiệm về vấn đề này và ở vị trí nhà cầm quyền chúng phải làm ǵ để đ̣i lại Hoàng Sa và Trường Sa?

    GIẢI PHÁP Đ̉I LẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

    Đảng Cộng Sản Việt nam phải có trách nhiệm lớn lao để mất Hoàng Sa và Trường Sa về tay Trung Cộng. Đây là một tội ác nghiêm trọng đối với dân tộc Việt, v́ chúng thực hiện âm mưu bán Hoàng Sa-Trường Sa cho kẻ thù của dân tộc, và không bao giờ có thể được tha thứ.
    Trước nguy cơ việc Trung Cộng chiếm hữu vĩnh viễn để làm tài sản của chúng như mọi người chứng kiến, để chuộc tội này, ít nhất, Đảng Cộng Sản Việt nam với Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt nam phải làm một vài việc sau đây, làm nền tảng pháp lư cho các thế hệ tương lai đ̣i lại, nếu không phải bây giờ, nghĩa là phải làm bằng chứng về duy tŕ tính cách liên tục của chủ quyền. Chỉ có Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mới có danh nghĩa làm việc này.

    a). Đảng phải ra lệnh cho Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt nam công khai tuyên bố huỷ bỏ Văn Thư của Phạm văn Đồng và coi văn thư ấy là vô giá trị. Cũng không cần phải gửi Bản Tuyên Bố như vậy cho Trung Cộng. Hành vi này có thể có hay không cần viện dẫn lư do và tôi nhấn mạnh rằng đơn phương tuyên bố là đủ.

    Nếu muốn viện dẫn lư do, VC có thể nói rằng bị TC dụ dỗ như đă được TC hứa cung cấp nhiều viện trợ để xâm lăng Miền Nam; bị mê hoặc v́ ư thức hệ, nên đă mù quáng công nhận; bị TC lừa dối nay mới biết rơ sự thật về mưu mô của TC; bị TC áp lực thực hiện Xă Hội Chủ Nghĩa tại Việt nam; bị quá say mê, quá hồ hởi, mất sáng suốt, v́ chiến thắng mới thu được vài năm trước đó, nên không đoán trước được những ǵ sẽ xảy ra hàng chục năm về sau; bị áp lực (đ̣i hỏi của TC) phải nhượng Hoàng Sa- Trường Sa cho TC, để lập ṿng đai pḥng vệ , bảo vệ tổ quốc; sự công nhận này rơ ràng là bất b́nh đẳng, v́ sức mạnh của Trung cộng; không có ư định thực sự chuyển giao chủ quyền v́ nghĩ rằng VC dù có công nhận quyết định của TC về chủ quyền, vẫn c̣n chủ quyền lịch sử và pháp lư….

    b). Phải làm hồ sơ đưa vấn đề ra Toà Án quốc tế về vụ Trung Cộng dùng vơ lực xâm lăng, đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1956, 1974, và chiếm 6 đảo đá ngầm thuộc vùng Nam quần đảo Trường Sa vào năm 1988, và 10 đảo đá khác từ năm 1992. Trung cộng hiện đă xây biết bao công sự quân sự kiên cố để bảo vệ sự chiếm đóng vĩnh viễn của chúng. Việc nộp hồ sơ này là khởi đầu của công tác đ̣i lại chủ quyền. Dù tiến tŕnh có kéo dài đi chăng nữa, ít nhất đó là bước căn bản. Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lănh Thổ đă có đủ tài liệu, bản đồ, h́nh ảnh làm bằng chứng .

    VC hăy ngưng hành vi tiếp tay cho Trung cộng củng cố và chiếm hữu vĩnh viễn Biển Đông của ông cha để lại. Đừng tiếp tục hèn nhát và che dấu sự hèn nhát ấy bằng các hoạt động bề ngoài như chỉ lên tiếng xuông như VN có chủ quyền pháp lư và lịch sử, hay loan báo mua vơ khí để cho mọi người giải thích là bảo vệ lănh thổ.

    Phi Luật Tân là bài học cần phải theo ngay.

    c). Dĩ nhiên hai việc này là giải pháp pháp lư cần phải có, và chỉ là bước đầu của công tác phải làm để bảo vệ lănh thổ. Kế đó phải chuẩn bị lâu dài nhiều giải pháp khác về mọi phương diện như ngoai giao, kinh tế, quân sự,…. nhất là củng cố nội lực cho công cuộc bảo vệ lănh thổ và đồng thời giành lại phần đất tổ mà Đảng CSVN đă để cho giặc ngoại xâm chiếm.

    Các điều này đă được UBBVSVTLT đ̣i hỏi VC phải làm nhiều lần từ trước đến nay.

    Âm mưu của Hồ dẫn đến t́nh trạng hiện nay ở Biển Đông. Vậy t́nh trạng Biển Đông như thế nào?

    Xem tiếp phần II.

    * Sydney sẽ đăng phần 2 khi Bác GS Nguyễn Văn Canh gởi đến cho Sydney
    Last edited by Sydney; 23-01-2014 at 07:26 AM.

  4. #4
    Member
    Join Date
    13-06-2011
    Posts
    4,171
    Chệt cộng đang cười ti toe dân tộc VN đang sống dưới một chế độ bán nước , vậy thôi..

    Dể hiểu có bao giờ thấy chế độ 1-SVPK đem chuyện HS & TS làm ồn ào lớn chuyện claim là của ḿnh ra trước ṭa án QT đâu ..Chỉ là cam phậm sống " ḥa b́nh" như scenario một con đĩ ngu khờ sống dưới blackmailed của thằng ma cô thôi .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 21-06-2013, 09:50 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 18-05-2012, 09:01 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 15-10-2011, 08:29 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 01-09-2010, 03:53 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •