Nguyễn Gia Thưởng

Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định tiến lên chủ nghĩa xă hội. Họ vẫn u mê tin rằng đảng cộng sản sẽ dẫn đưa dân tộc Việt Nam vào thiên đường cộng sản và tin rằng đây là một chân lư bất biến. Thật sự ban lănh đạo đảng cộng sản tin tưởng mănh liệt vào chân lư này, nếu không họ đă không hân hoan ăn mừng thắng lợi của Đại Hội XI vừa qua. Họ không thấy con đường họ đang đi càng lúc càng đưa họ vào bế tắc, đưa cả nước vào tụt hậu.


Đảng cộng sản Việt Nam đă sai lầm ngay từ căn bản về những phạm trù của xă hội. Karl Marx, cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản muốn áp đặt phạm trù đạo đức lên phạm trù kinh tế. Và từ việc áp đặt này, những đệ tử ngu muội của ông đă sáng tạo ra một cụm từ quái thai mang tên "kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa". H́nh ảnh của ông Tây râu xồm Karl Marx vẫn ngự trị trong những dịp hội lớn của đảng cộng sản Việt Nam.




"Kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa"



Phân biệt phạm trù


Sinh hoạt của loài người luôn nằm trong giới hạn của bốn phạm trù. Những phạm trù này chi phối tất cả sinh hoạt con người.


Phạm trù thứ nhất: Khoa học - Kỹ thuật



Khoa học kỹ thuật ngày nay cho phép con người thực hiện nhiều kỳ công. Ví dụ như chiết tạo (clone) tế bào, chiết tạo sinh vật và thay đổi di truyền tính v.v. Đâu là giới hạn cho việc tạo nên con người ḍng vô tính? Khoa học kỹ thuật không thể trả lời và măi măi không trả lời được câu hỏi này. Sinh vật học chỉ cho chúng ta biết cách thực hiện nhưng không chỉ bảo cho chúng ta có nên làm hay không.



Trong lănh vực kinh tế cũng vậy. Đâu là giới hạn của kinh tế thị trương, của tư bản chủ nghĩa ? Đă có một kinh tế gia trong một buổi họp hội đồng quản trị nói rằng : "Từ lâu lắm tỉ giá cacao (nguyên liệu để chế biến chocolate) được duy tŕ quá thấp so với mức độ mà ḷng tử tế có thể chấp nhận được". Câu này nghe rất hữu lư. Tuy nhiên ḷng tử tế không phải là một ư niệm kinh tế.



Giới hạn của tỉ số chứng khoán của mặt hàng cà phê hoặc cacao là bao nhiêu ? Kinh tế không có câu trả lời cho câu hỏi này v́ kinh tế không thể nào ấn định trước trị giá tối thiểu của những món hàng này. Biên giới nội tại giữa những ǵ thực hiện được và những ǵ không thực hiện được luôn luôn thay đổi. Những việc cách đây 10 năm không làm được, nay kỹ thuật đă cho phép con người làm được. Nhưng tiến bộ kỹ thuật không đủ bảo đảm hạnh phúc con người. Chúng ta có thể liên tưởng đến những quả bom nguyên tử nổ ở Nagasaki và Hiroshima.



Mỗi khi trên thị trường chứng khoán cacao mất hai mươi xu (20 cents) một tấn, ở Luân Đôn hoặc Nữu Ước, có khoảng một chục ngàn người buộc phải sống dưới mức nghèo khó tại các nước sản xuất. V́ ḷng thương người, chúng ta có thể khó chịu về những việc buôn bán đầu cơ này. Nhưng chúng ta không thể nào làm thay đổi con số này với ḷng thương người được.



Phạm trù thứ hai: pháp lư - chính trị



V́ phạm trù kinh tế - kỹ thuật - khao học không thể tự nó giới hạn, nên con người cần đến phạm trù pháp lư - chính trị để vạch rơ những ǵ luật pháp cho phép và không cho phép. Tuy nhiên phạm trù pháp lư cũng không thể nào ấn định hết những giới hạn. Ví dụ, không có luật nào cấm chúng ta nói dối trong phạm vi giao tiếp. Không có điều khoản luật pháp nào cấm chúng ta ích kỷ, cấm chúng ta khinh khi, cấm chúng ta hận thù, cấm chúng ta hung dữ. Một người đểu cáng có thể là một người tuân thủ luật pháp một cách triệt để.



Người ta thường nói trong một nền dân chủ, nhân dân có mọi quyền v́ nhân dân là chủ tuyệt đối. Nhân dân có quyền đàn áp các dân tộc thiểu số, chẳng hạn ra luật đàn áp người Hồi. Như vậy nhân dân có quyền giết người hợp pháp, có quyền mở trại cải tạo để bỏ tù những thành phần bất măn hoặc tuyên chiến với những nước láng giềng. Nhân dân có quyền làm đủ mọi thứ chăng ? Một thể chế dân chủ tự bản chất không có giới hạn v́ vậy dân chủ chưa hẳn đă đem lại thái ḥa cho xă hội. V́ dân chủ không có khả năng tự kiềm chế nên con người đă ấn định một phạm trù thứ ba. Đó là phạm trù luân lư.


Phạm trù thứ ba: luân lư



Có những điều mà pháp lư không thể can thiệp được. Đó là những luật lệ thiên nhiên. Đảng cộng sản Việt Nam không thể nào ban hành một quyết định pháp lư buộc mặt trời phải xoay quanh trái đất năm lần trong ngày. Con người không thể bỏ phiếu chọn lựa những ǵ thật và giả, những ǵ về thuộc lănh vực thiện và ác. Người ta không thể ra lệnh cho sự thật, bắt sự thật phải tuân thủ luật pháp. Lương tâm chỉ nghe lệnh của cá nhân và chỉ áp dụng cho cá nhân. V́ vậy cá nhân có nhiều bổn phận hơn là một công dân.



Ước vọng tự do không lệ thuộc vào thể chế dân chủ. Đa số áp đảo chuyên chế không thể nào ngăn cản được khát vọng tự do. Do đó, phạm trù thứ ba xuất hiện : phạm trù luân lư.



Theo triết gia Kant, luân lư là tổng hợp những bổn phận của chúng ta, tổng hợp những ép buộc hoặc cấm kị mà chúng ta tự đặt để cho chính ḿnh, nhưng lại độc lập với mọi khen thưởng hoặc chế tài. Luân lư là toàn bộ những quy luật mà nhân loại tự áp đặt để chống trả lại tính chất dă man, tàn ác của chính con người.



Chúng ta cần phân biệt ở đây con người luân lư và con người giảng dạy luân lư. Con người luân lư là con người biết thi hành bổn phận của ḿnh. C̣n người giảng luân lư là người chỉ vẽ bổn phận của người khác, một người chỉ biết chăm giữ bổn phận của bản thân mà không đếm xỉa ǵ tới người khác. Người này thiếu tinh thần liên đới với đồng loại. Tinh thần liên đới này phát xuát từ t́nh thương (compassion). V́ vậy chúng ta có thêm một phạm trù thứ tư : phạm trù đạo đức hoặc là phạm trù của t́nh thương.


Phạm trù thứ tư: đạo đức



Không có một giá trị nào cao cả hơn là t́nh thương. T́nh thường vô giới hạn không đe dọa một ai. V́ t́nh thương là giá trị tối thượng. Con người luôn yêu sự thật, con người luôn yêu tự do, con người yêu nhân loại hoặc yêu tha nhân. T́nh thương xen lấn vào tất cả ba pham trù trên nhưng không hủy hoại phạm trù nào. Chúng ta cần tất cả bốn phạm trù này, nhưng không phạm trù nào tự bản thân có đủ điều kiện để thỏa măn cho tham vọng con người.


Tư bản chủ nghĩa có đạo đức không?



Luân lư tự bản chất không thể ấn định giá cả của thị trường. Chính luật cung cầu của kinh tế cho phép con người ấn định giá cả của một món hàng. Đức hạnh của con người tự nó cũng không tạo nên giá trị của một món hàng, ngược lại chính công sức con người đă tạo ra giá trị và món hàng đó. Không phải bổn phận chi phối kinh tế mà chính luật thị trường chi phối kinh tế. Tư bản chủ nghĩa cũng không ra khỏi ngoại lệ đó. Ép buộc tư bản chủ nghĩa phải có luân lư là một việc không thể làm được, v́ tư bản chủ nghĩa không có luân lư, nhưng nó không vô luân v́ nó phi luân lư.



Người ta thường lẫn lộn hai cụm từ "luân lư" và "đạo đức" và cho rằng hai cụm từ này có cùng một nghĩa. Thật ra hai cụm từ này chỉ định hai thực thể khác nhau. Giản dị hơn, hăy mượn định nghĩa của ông André Comte-Sponville để giải thích : luân lư là tất cả những ǵ chúng ta phải tuân thủ v́ bổn phận ; đạo đức là tất cả những ǵ chúng ta làm v́ t́nh thương.



Sai lầm của Karl Marx



Karl Marx cho rằng kinh tế tư bản là phi luân lư do đó phải luân lư hóa kinh tế. Ông muốn phạm trù khoa học kỹ thuật phải tuân thủ phạm trù luân lư. Ông lập luận xoay quanh những ư niệm tha hóa và bóc lột. Hai ư niệm này nằm lưng chừng ở giữa khoa học kỹ thuật và luân lư. Marx muốn chấm dứt sự bất công không phải bằng cách đơn thuần áp dụng chính sách tái phấn phối, v́ ông biết rơ những giới hạn của nó. Ông không trông cậy vào lương tâm luân lư của những cá nhân. Ông đă sáng chế ra một hệ thống kinh tế mới, trong đó tất cả mọi người đều b́nh đẳng với nhau trong sinh hoạt kinh tế. Trên phương diện luân lư, Karl Marx không sai. Nhưng về mặt kinh tế, sự b́nh đẳng này có thể thực hiện được không đó là chuyện khác.



Marx cho rằng con người chỉ hành động v́ lợi ích riêng tư: "Những cá nhân chỉ theo đuổi những lợi ích riêng tư, và lợi ích riêng tư này không đi đôi với lợi ích chung". Ở ngay điểm này người ta thấy ngay sự hoang tưởng của chủ nghĩa cộng sản do Marx đề ra. Để chủ nghĩa cộng sản có thể thành công, con người phải không được ích kỷ và đặt quyền lợi chung lên trên quyền lợi riêng tư. Nếu thực hiện được điều này chủ nghĩa cộng sản có nhiều cơ may thành công, bằng không nó sẽ dẫn đến thất bại. Trong thực tế, sau vài chục năm áp dụng, tất cả các chế độ cộng sản đều đă thất bại, v́ con người luôn luôn ích kỷ và chỉ đặt quyền lơi riêng tư của ḿnh lên trên lợi ích chung.



Như thế, chủ nghĩa cộng sản không thể nào ôn ḥa v́ không thuyết phục được ai, do đó phải chuyên chính. Sinh hoạt kinh tế trong các nước cộng sản buộc phải chuyên chế để ép buộc con người đi vào khuôn phép v́ luân lư không có khả năng làm việc này. Từ đó chủ thuyết cộng sản hoang tưởng của Marx của thế kỷ thứ 19 chuyển sang hệ thống chuyên chính kinh hoàng mà loài người đă chứng kiến trong thế kỷ thứ 20.



V́ không muốn vứt bỏ giấc mơ đẹp nhưng hăo huyền này, người cộng sản muốn biến cải con người và họ không từ bất cứ một phương tiện nào để chứng tỏ đường lối của họ là đúng: tuyên truyền, nhồi sọ, trại cải tạo, bệnh viên tâm thần… Cho đến nay chưa thấy chế độ cộng sản nào thành công, tất cả các chế độ cộng sản đều đă thất bại. Sự lạm dụng danh xưng xă hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa xă hội chỉ để che mắt thiên hạ, v́ các chế độ cộng sản Trung Quốc và Việt Nam chỉ là những chế độ chà đạp nhân phẩm con người và bóc lột đến tận xương tủy của những thành phần cùng khổ nhất trong xă hội.



Sai lầm nguy hiểm của Marx là muốn lấy luân lư và đạo đức áp đặt lên trên kinh tế. Marx muốn chấm dứt t́nh trạng người bốc lột người, chấm dứt sự tha hóa, xóa bỏ nghèo đói, san bằng giai cấp xă hội, và ngay cả dẹp bỏ chính phủ để có thể thỏa măn nhu cầu cho mọi cá nhân không phân biệt khả năng hoặc nghề nghiệp. Nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa cộng sản là làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, nghĩa là làm thế nào để tài sản ưu tiên đến tay người lao động chứ không đến tay những kẻ đă sở hữu, đến tay những người thiếu thốn mọi sự chứ không đến tay những kẻ đă giàu có để thực hiện công lư và b́nh đẳng cho mọi người. Quá lư tưởng để những người có đầu óc sáng suốt một chút có thể tin tưởng vào nó. Trong thực tế những đệ tử của nó đă làm ngược lại tất cả.



Khoa học và kỹ thuật không có luân lư. Kinh tế cũng vậy, v́ kinh tế vừa là một khoa học vừa là một kỹ thuật. Nếu theo dơi tin khí tượng ở trên đài truyền h́nh và người đọc tin khí tượng bỗng dưng nói : "Thưa quư vị, ngày mai thời tiết sẽ tốt trở lại, v́ trời đă mưa suốt sáu tuần lễ vừa rồi. Nếu ngày mai trời tiếp tục mưa nữa th́ thật quả là ông trời không có luân lư!". Các bạn chắc chắn cho rằng anh này đă đứt dây thần kinh rồi, bởi v́ các bạn biết rằng trong bộ môn khí tượng học không có luân lư.



Mọi người ai cũng muốn có tăng trưởng kinh tế, nhưng điều này không đủ sức ngăn cấm sự suy thoái. Ai cũng muốn có thịnh vượng, nhưng điều này cũng không ngặn chặn được sự đói kém. Kinh tế nó có những quy luật vận hành riêng của nó. Đem luân lư và đạo đức vào kinh tế để giải quyết suy thoái và lạm phát là một điều không tưởng.



Hậu quả của việc đạo đức hóa kinh tế



Để có thể "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", những người lănh đạo phải có đạo đức cao. Chính v́ điều kiện bắt buộc phải có này để có thể áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên toàn xă hội, các lănh tụ cộng sản luôn đề cao "đạo đức cách mạng", nghĩa là cần kiệm liêm chính, chí công, vô tư. Những cán bộ trung kiên phải hội đủ những đức tính này mới có thể lănh đạo đất nước và thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Họ lặp đi lặp lại khẩu hiệu đến độ những chữ này đă mất hẳn ư nghĩa nguyên thủy của chúng để rồi đạo đức trở thành phi đạo đức.



Đă có rất nhiều lănh tụ cộng sản ngồi xổm lên đạo đức và vỗ ngực xưng to: "Đạo đức là ta". Cần kiềm liêm chính đă trở thành nhũng lạm tham ô. Họ thi nhau làm tiền trên mồ hôi nước mắt của người dân. Bản chất con người vốn vị kỷ nên chủ nghĩa cộng sản mong muốn con người vứt bỏ ḷng vị kỷ này đi. Đảng viên cộng sản đă từng đấu tranh cho ḷng vị tha nay bỗng nhiên khi có quyền lực trong tay thấy được sự thú vị của ḷng vị kỷ, nên họ phải sống hai mặt đôi ḷng, miệng hô chí công vô tư, nhưng tay lại ḅn rút công lao của nhân dân để trở thành những tay nhất kỷ nh́ công. Thuế má, đất đai của nhân dân là của chung nên cán bộ đảng viên tha hồ rút tỉa từ kho dự trữ khổng lồ này. Thứ nhứt lấy cho ta, sau cùng mới tới dân. Ông chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyên Văn An đă thấy rơ điểu này và đă phải lên tiếng kêu gọi "sửa lỗi hệ thống".



Chính v́ vậy tại các nước theo chủ nghĩa để tiến lên thể chế cộng sản, sự phân biệt giai cấp mỗi lúc một rơ rệt hơn. Giai cấp cai trị trở nên giàu có hơn giai cấp bị trị. V́ phải theo định luật của kinh tế nên các đảng viên cộng sản đă trở nên phi đạo đức. Họ phi đạo đức nên họ trở nên toàn trị. V́ ch́ c̣n có một ḿnh bản thân đảng viên cộng sản là giá trị cao nhất nên họ tự nhận họ là đỉnh cao trí tuệ.



Những tượng đài của những đỉnh cao trí tuệ này đang thi nhau rơi rớt trên khắp năm Châu. Không lẽ chỉ có một ḿnh ông Nguyễn Văn An nhận chân ra sự thật phũ phàng này? Nước Việt Nam cần có nhiều vị như ông Nguyễn Văn An để đưa đất nước ra khỏi bế tắc. Mong lắm thay!