Page 4 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 31 to 40 of 57

Thread: Đôi Ḍng Nh́n Lại Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Ngô Đ́nh Diệm

  1. #31
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Phần đọc thêm 1

    Bài viết dưới đây của ông Nguyễn Hội và bà Kim Hoa.

    Thời nào dân Việt sướng nhất (1)

    Nguyễn Hội

    Lúc c̣n bé tôi thường được nghe các vị tiền bối nói rằng:... „ thời Đệ Nhất Cộng Hoà ai cũng được sung túc, ngủ không phải đóng cửa…“. Câu nói trên tôi hiểu được khi trưởng thành, khi đă biết nghĩ đến hưng thịnh của quốc gia, hạnh phúc của người dân.

    Hôm nay ngày cuối tuần, đi lang thang ngoài phố chợt nhớ đến những ngày này trước đây 46 năm nhóm tướng lănh đă bạo động giết chết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cùng người em là Ngô Đ́nh Nhu, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Câu nói trên của các vị tiền bối lại trở về xâm chiếm tâm tư tôi… tôi quyết định ghé vào thư viện trường đại học kiếm sách đọc cho rơ vấn đề.

    Là người thực tế nên tôi kiếm sách viết về nền kính tế và đời sống của người dân thời bấy giờ. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ lục lọi tôi chỉ kiếm được 1 quyển sách về phát triển kinh tế tại Miền Nam Việt Nam từ 1955 đến 1975 do Douglas C. Dacy của đại học Austin (Texas) viết vào năm 1986.

    Ở Việt Nam công nhân và người dân lao động là thành phần chiếm đa số trong xă hội nên mức sống của họ có thể là cán cân đo lường sự chăm lo cho dân của chính phủ đang cai trị quốc gia. Với mục đích đó tôi kính cùng Quí Vị quan sát những điểm sau đây:

    - Lương công nhân từ 1956 đến 1974 và lương công nhân năm 2006

    - Giá gạo của các năm 1956 đến 1974, cùng giá gạo của năm 2006

    - chỉ số giá tiêu thụ của công nhân từ 1956-1974

    - so sánh lương công nhân và chỉ số giá tiêu thụ từ 1956-1974

    - Lương công nhân tính ra kg gạo

    Năm 2006 được chọn để so sánh v́ năm 2006 là một trong những năm phát triển mạnh nhất của Việt Nam cộng sản.

    Lương Công nhân lao động

    Lương của người lao động được phân biệt có nghề hay không có nghề chuyên môn. Sự chêch lệch giữa lương của người có nghề và không có nghề rơ ràng nhất vào năm 1956 với 76%:


    Lương của người lao động vào năm 2006 được tính dựa vào dữ kiện của trang báo Tuổi trẻ

    Qua bài này lương tháng công nhân là 800.000đ và lương của nhân viên bảo dưỡng sửa chữa trung b́nh 1.350.000đ (từ 1.200.000đ - 1.500.000đ). Công nhân làm việc 6 ngày một tuần, mỗi tháng làm việc ít nhất 25 ngày, v́ thế lương ngày của công nhân là 32000 = 800.000/25 và cho công nhân có tay nghề là 54000. Giá gạo cho năm 2006 được tính theo giá trung b́nh từ cách tỉnh miền Tây Cần Thơ, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long lấy từ bài của Vietbao.vn.

    Chỉ số giá tiêu thụ của người lao động được tính dựa trên phát triển giá cả những sản phẩm mà giới này thường dùng và dựa trên căn bản giá của năm 1962. Chỉ số giá tiêu thụ cho năm 2006 dựa trên căn bản giá năm 1962 cần nhiều dữ kiện nên rất tiếc không thể thực hiện được trong phạm vi bài viết ngắn này.

    Lương của người lao động không có nghề tăng 50% trong ṿng 6 năm từ 1956 đến năm 1962 trong khi đó vật giá chỉ tăng tổng cộng 3,6% trong thời gian này. Nghĩa là đời sống của người dân tăng rất cao, ít nhất 46% trong ṿng 6 năm trời. Đặc biệt vật giá giảm hơn 4,4% vào năm 1957 và giảm gần 2% trong năm 1958 trong khi lương thợ tăng hơn 23% trong năm này.


    Biểu thị trên đây so sánh chỉ số lương người lao động không có nghề và chỉ số giá tiêu thụ trên tiêu chuẩn của năm 1962. Đường xanh biểu thị cho chỉ số lương thợ, đường đen cho chỉ số giá tiêu thụ. Nếu đường xanh nằm bên dưới đường đen có nghĩa là đời sống của người thợ thấp hơn năm 1962. Năm 1963 đường xanh nằm dưới đường đen, vật gía tăng cao hơn lương, đời sống nguời lao động thấp hơn năm 1962. Điều này có thể giải thích rằng, sự biến loạn trong năm 1963 đă làm vật giá tăng nhảy vọt.

    Mỗi ngày người lao động làm được bao nhiêu kí gạo?

    Phương pháp so sánh lương người lao động giữa các thời đại tại Việt Nam hữu hiệu nhất là so sánh đồng lương tính ra bằng sản phẩm tiêu dùng hàng ngày như phần trên chúng ta đă so sánh với những năm từ 1956 đến 1974. Để có thể so sánh với năm 2006 cụ thể và đon giản nhất chúng ta là tính ra bằng gạo. Sự so sánh này có tính cách tương đối, bởi v́ người lao động và gia đ́nh của họ tiêu thụ những sản phẩm khác ngoài gạo hàng ngày, đồng thời giá cả sản phẩm nông nghiệp giảm mạnh do cải tiến kỹ thuật trong ngành nông nghiệp :


    Mặc dù báo chí trong nước cũng như một số các báo chí Tây phương khen ngợi sự phát triển kinh tế gần đây của Việt Nam và mặc dù bỏ qua sự kiện giảm giá của sản phẩm nông nghiệp, nhưng theo bảng tính trên, người lao động Việt Nam có lương cao nhất trong những năm thời Đệ Nhất Cộng Hoà, trước đây nửa thế kỷ, và thấp nhất trong năm 2006 trong thời XHCN.

    Lương của người lao động trong năm 2006 tính ra được 5,1 kg gạo một ngày trong khi năm 1960 họ làm được 18,1 kg.

    Thế giới mỗi ngày mỗi phát triển, đời sống con người măi cải thiện, thăng tiến. Tại sao đời sống người dân Việt Nam măi đi thoái lui?

    Nguyễn Hội

    01.11.2009

    để tưởng niệm cố TT Ngô Đ́nh Diệm

    C̣n tiếp ...

  2. #32
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Những câu nói cuối đời của ông Diệm đáng cho mọi người suy ngẫm.

    « Tôi là Tổng Tư Lệnh quân đội. Tôi lại ra lệnh cho quân đội đánh quân đội à ? Tôi c̣n mặt mũi thấy quân đội nữa không ? Có chi th́ ngồi giải quyết, chứ quân đội là để chống Cộng, sao lại đem đánh nhau ? »

    TT Ngô Đ́nh Diệm mắng ông Cao Xuân Vỹ lúc 16 :30 ngày 1/11/1963

    « Bảo Duệ đừng nóng, Lữ đoàn chỉ cần bảo vệ thành Cộng Hoà và Dinh Gia Long, cố gắng tránh đừng để anh em binh sĩ phải đổ máu. Đánh vào Bộ Tổng Tham Mưu sẽ đổ vỡ sự thống nhất quân đội, mất tiềm năng chống cộng. Để Tổng Thống thu xếp với các Tướng lănh. »

    TT Ngô Đ́nh Diệm chỉ thị cho TT Duệ qua Đại Úy Đỗ Thọ ngày 1/11/1963

    Chú thích 1-

    Xin phép thêm với ông Nguyễn Hội:

    Thời Để nhất cộng ḥa, lương thấp nhất là công nhân vệ sinh đường phố, làm 6 ngày 1 tuần, một tháng lănh 1.200 đồng.

    Lương công chức công nhật thấp nhất 2.100 đồng một tháng. Làm việc 5 ngày rưỡi. ( thứ bẩy làm nửa ngày)

    Lương Công nhân vệ sinh thời Đệ Nhất Cộng Hoà mua được 4 tạ gạo

    Luơng công chức thấtp nhất thời Đệ Nhất Cộng Hoà mua được 7 tạ gạo

    Giá gạo thời Đệ nhất cộng ḥa 300 đồng 1 tạ. Giá vàng 280 đồng 1 chỉ.

    Hiện nay năm 2009 tại Việt Nam cộng sản, lương giáo viên Cấp 2( trung học đệ nhất cấp xưa), 2 triệu 2 một tháng. Gạo loại thường 1 triệu đồng 1 tạ. Gạo ngon 1 triệu 8 một tạ. Vàng có ngày lên 2 triệu 4 một chỉ.

    Lương giáo viên cấp 2 thời cộng sản hiện nay 2009 mua đuợc 2 tạ gạo loại thường.

    Bài viết của bà Kim Hoa :

    Tôi viếng mộ cố Tổng thống Ngô đ́nh Diệm


    Tác giả Kim Hoa

    Đọc trên X Café VN bài “Một nén hương cho Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm”. Tôi biết được mộ Ông TT hiện đang nằm trong Nghĩa Trang Lái Thiêu, thuộc Tỉnh B́nh Dương.

    Ngay ngày Giỗ 45 năm của Ông tôi đă lên kế hoạch phải đến thắp nhang cho Ông trong ngày Giỗ, nhưng rồi tôi không thực hiện được, măi đến tối hôm qua nghe ông xă nói:

    - Mai rảnh không ? Đi Lái Thiêu …

    Tôi gật đầu ngay, ông xă biết chắc là không nói ra, nhưng tôi nôn nao có ngày này lắm, ngày anh ấy rănh rỗi để chở tôi đi viếng mộ Ông TT.

    Mười ngày chờ đợi để thực hiện tâm nguyện, sáng nay 12-11-2008, vợ chồng tôi đi honda đến viếng Mộ TT.

    Cũng chỉ là địa chỉ Nghĩa Trang Lái Thiêu, Hóa An, B́nh Dương, không rỏ ràng lắm, khi người đi đường lại nói Lái Thiêu có nhiều nghĩa trang. Chúng tôi cứ đi đại đến nghĩa trang lớn nhất của Lái Thiêu.

    Từ Sài G̣n đi Quốc lộ 13 đến ngă tư Cầu Ông Bố chúng tôi rẽ phải, vào khoảng gần 3km cũng bên tay phải, có một cổng nghĩa trang rất lớn, chúng tôi rẽ vào, có một quán cóc trong nghĩa trang, nhưng chúng tôi không dừng lại, v́ thấy bên trong có số người thợ đang xây mộ, bèn ghé hỏi thăm:
    - Anh ơi! Anh làm ơn cho biết mộ của Ông Diệm nằm ở đâu anh ?
    - Anh chị theo con đường này sẽ thấy cái quán, hỏi quán ấy họ chỉ cho, có người dẫn đến tận nơi luôn.

    Mừng thầm trong bụng “hỏi thăm dể quá”, chúng tôi đến quán người ta vừa chỉ. Ông xă ra dấu cho tôi im lặng, anh đến hàng nhang lựa gói nhang lớn nhất, mua thêm cái hộp quẹt, trong khi chờ cô bán hàng thối tiền anh hỏi:
    - Cô cho tôi hỏi thăm, mộ Ông Diệm nằm chổ nào cô có biết, chỉ giùm chúng tôi.

    Cô gái trả lời ngay.
    - Biết, con dẫn cô chú đi, cô chú có bà con ǵ không ?
    - Không, chúng tôi muốn thăm và thắp nhang cho Ông ấy thôi.
    - Cách đây vài ba ngày, có người báo cho chúng con là sẽ có người nước ngoài về thăm mộ Ông ấy, chúng con chờ hoài mà chưa thấy ai.

    Thế rồi cô ấy nhanh nhẩu lấy honda đi trước, đưa chúng tôi ra lại đường chính, đi thêm hơn 100m cô dừng lại nơi những ngôi mộ nằm sát bên đường, dựng xe trên thềm đường, cô dẫn vào qua 2 dảy mộ (khoảng 6,7m), cô chỉ “đây là mộ ông Cẩn, mộ Ông Diệm ở bên kia”. Cùng một dăy, cách nhau khoảng hơn 10m, chúng tôi dừng lại Mộ Ông TT bên phải, mộ bà Cố nằm chính giữa, bên trái là mộ ông Nhu.

    C̣n đang bồi hồi xúc động th́ thấy 5,6 người bao quanh chúng tôi. Nh́n họ, tôi nhớ lại những lần đi thăm mộ của ông bà Nội chồng chôn ở nghĩa trang G̣ Dưa…

    Chúng tôi đốt nhang, vái lạy bà Cố, Ông TT, ông Nhu, tôi dành một ít thắp cho ông Cẩn và bà Xơ tên Isave Trương thị Ba là nữ tu của Ḍng Vinh Sơn mà ở đó người ta nói: “Những năm trước chỉ có bà Xơ này đến thắp nhang cho những ngôi Mộ này thôi, giờ bà Xơ ấy đă mất rồi, được chôn ở gần đây”.

    Thấy họ vẫn ngồi tại đó như chờ chúng tôi điều ǵ, tôi nói:
    - Đây là mộ của Ông TT ngày xưa của ḿnh, tôi đọc báo thấy họ nói ở đây, nên t́m đến thăm Mộ Ông

    Họ nói:
    - Chúng tôi ở đây luôn chăm sóc cho phần Mộ của gia đ́nh Ông, cô có tiền đưa chúng tôi để chúng tôi lo cho mộ phần họ.
    - Chúng tôi chỉ là người biết tin rồi đi thăm thôi, chúng tôi không là người nhà. Tôi cũng chẳng có tiền, gửi các anh tiền uống cà phê cho vui nhe.

    Họ cầm 100 ngàn như không vừa ư, bảo tôi đưa thêm 100 nữa. Họ kể là họ đă chà rửa sạch sẽ những ngôi mộ này như thế nào, có người đặt họ ghi rỏ tên Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu trên bia mộ, nhưng họ bị công an B́nh Dương gọi lên, bắt xóa hết, chỉ ghi chữ Huynh, chữ Đệ thôi …mộ Ông TT lại bị sứt bể họ phải tô sửa lại …

    Tôi lắc đầu, mĩm cười: “Tôi không có tiền, thế nào cũng có người nước ngoài họ về, họ sẽ gởi lại tiền cho các anh”.

    Hai chúng tôi đọc kinh, cầu nguyện. Xin Ông TT thương phù hộ, giúp Đất Nước Việt Nam sớm thoát cảnh lầm than, khổ cực …

    Tôi th́ thầm với Ông TT nhiều điều, thấy họ từ từ bỏ đi hết 4,5 người ǵ đó. Số c̣n lại họ than thở:
    - Tụi tui mới dọn dẹp chứ tụi nó có làm ǵ? cô đưa tiền cho tụi nó cũng như không.

    Chính tui lau chùi, dọn sạch cỏ hai hôm nay, cô mà lên trước ba ngày cũng không thấy đường đi đâu, cỏ bao phủ hết. Giờ cô cho tụi tui tiền đi, chính tui đắp lại chổ bể ấy, rồi sơn lại chữ mới rơ ràng đó chứ phải tụi nó đâu! Công an kêu tui lên chứ phải nó lên đâu, tụi nó nói dốc không hà. Nh́n người đang ông đang ngồi càm ràm bên cạnh, tôi hiểu ra câu chuyện. Việt Nam ḿnh bây giờ là thế, làm ở đâu cũng có ban bệ, vào trong nghĩa trang cũng thế, có trên, có dưới, có cũ, có mới.

    Như trong nhà chồng tôi, anh em đều là công nhân, thầu xây dựng, nhưng không làm sao xây được mộ phần Ông Bà Nội của ḿnh, phải giao toàn bộ cho những người quản lư ở nghĩa trang làm. Nếu ḿnh không làm theo quy định (trong im lặng) đó, th́ ngày hôm nay ḿnh xây, sáng mai sẽ thấy thành b́nh địa tất cả, ngoan cố thêm một hai ngày nữa, cũng trở về con số không (0) thế thôi. Trước khi chúng tôi chưa giao mộ phần cho ông chủ lớn ở đó trông coi, th́ mỗi lần đến mộ đều có người hầu chuyện, kể công lao chăm sóc hằng ngày …cho đến khi chúng tôi chi tiền trà nước mới để yên. Từ ngày trả công mỗi năm 300.000$ cho 2 ngôi mộ Ông Bà, chúng tôi không c̣n bị kèo nài mỗi khi lên thăm mộ nữa.

    Phía bên mộ Ông Cẩn, chồng tôi cũng đang lắng nghe những người dọn dẹp, và cô bé dẫn đường phàn nàn, (có anh thanh niên bị câm) họ không dám nói ǵ khi có mặt nhóm người trước, có lẽ họ được những người kia thuê làm, nh́n chung th́ họ cũng chịu khó chăm sóc mộ của Tổng Thống ḿnh, những ngôi mộ mà ít khi có thân nhân lui tới, tiếc rằng ḿnh không khá giả chứ tư quà cho họ cũng là phải đạo.

    Gởi cho họ và cô bé dẫn dường thêm 100 ngàn nữa chúng tôi cám ơn và mọi người vui vẻ chia tay ra về.

    Tôi quay lại, cúi chào Ông TT, “Từ nay con sẽ thường quay lại thăm Ông”.

    Kể lại cho mọi người biết. Nếu muốn viếng mộ TT, th́ đến ngă tư cầu Ông Bố quẹo phải vào khoảng 3km thấy cổng nghĩa trang đầu tiên (đừng vào cổng), đi quá khoảng gần 300m nữa sẽ thấy quán cóc bên đường, cạnh nghĩa trang. Dừng xe, có đường ṃn, đi qua vài nấm mộ là thấy mộ TT ngay, nếu đi honda dắt vào lối này gần mộ TT, dể trông chừng xe hơn.

    Nh́n Mộ một Vị Tổng Thống tài ba, nổi tiếng, khắp thế giới mọi người đều ngưỡng mộ Tài, Đức của ông, mà nằm đơn sơ như thế, tên tuổi cũng không được phép ghi chép rơ ràng, tôi không sao cầm được nước mắt. Ḷng tự hỏi biết đến ngày nào, người dân Việt nghĩ lại công lao của Ông, mà đặt mộ phần Ông vào một nơi xứng đáng hơn, gần gủi hơn, để mọi người yêu mến Ông được thường xuyên thăm viếng Mộ phần Ông ???

    C̣n tiếp ...

  3. #33
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Phần đọc thêm 2

    Quan Điểm của Ông Ngô Đ́nh Nhu về Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung Cộng

    Bài viết của Tiến sĩ Phạm văn Lưu

    Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị ám sát,...Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đă nhận xét: Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong việc ám sát xấu xa này.

    Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ư hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lănh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới t́m được một lănh tụ cao quí như vậy.[1].

    Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đ́nh Nhu[2], tôi nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới t́m được một nhà lănh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu..

    Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu châu.. người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về Việt Nam đă dành cho một chút cảm t́nh và nễ trọng về kiến thức chuyên môn và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đă có dịp đọc trong hơn 30 năm qua v́ sở thích hay v́ nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đ̣i buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chinh Đề Việt Nam.

    V́ tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch giả đă rất xuất sắc trong khi chuyễn ngữ, v́ ấn bản Việt ngữ đă diễn tả một cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn đề. Tuy nhiên, những người đă quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn văn mà Ông đă soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa,[3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể hiện được.

    Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận, một phần nào, với cách luận giải và tŕnh bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đă quyết định trích nguyên văn những phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan đến chủ đề của bài viết này.. Và người viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của ḿnh.

    Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đă nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm ḥa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lại với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đă không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đă đưa ra những phán đoán của ḿnh, sau khi đă phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính v́ vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mănh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lănh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lư nhất.

    V́ tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.. và cả trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn đề Trung Cộng xâm chiếm lănh thổ, lănh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử t́m xem, gần 50 năm trước đây, ông Nhu đă tiên đoán hiểm họa này ra sao, đă kiểm điểm lại chinh sách ngoại giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta.

    Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội.

    Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lănh đạo Hà Nội v́ thiển cận và v́ quyền lợi hẹp ḥi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể v́ quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lănh đạo, đă không ư thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đă xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đă liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc…như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đă đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lư, và đă đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng c̣n tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đă là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.

    C̣n tiếp ...

  4. #34
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đă nh́n thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau:

    Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lư đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đă nh́n nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đă mất một phần lănh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của ḿnh. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.

    Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đă nh́n nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, v́ Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thủy và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.

    Ư cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa măn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, th́ các nhà lănh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, t́m cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt ḿnh vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.

    Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xă hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xă hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đă bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lănh thổ Việt Nam . Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đă như vậy th́, ngay bây giờ, ư định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, th́ ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ v́ lư do này mà, năm 1883, Lư Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đă, thay v́ gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay v́ cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lư ra có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho ḿnh các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc[4], cũng v́ lư do trên.

    Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. (tr. 166)

    Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.

    Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng

    Trong khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của đất nước họ, th́ Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân lư để cải tạo xă hội và xây dựng đất nước. Chính v́ sự thiếu sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đă khiến Việt Nam phải bị chia cắt làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm.

    Ông Nhu đă luận giải nan đề đó như sau:

    Nhưng chúng ta cũng c̣n nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi v́ Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của lư tưởng cách mạng xă hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đă đạt. Sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đă thấy trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin v́ những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đă đạt, th́ cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không c̣n hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không c̣n hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc.

    Nhiều nhà lănh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đă bị Đế quốc thống trị, đă đủ sáng suốt để nh́n thấu thâm ư chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản v́ lư do trên.(tr. 201)

    Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lănh đạo miền Bắc hiện nay đă nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc c̣n đang ca tụng như là những chân lư những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đă bỏ. Như thế th́ có lẽ dân tộc chúng ta c̣n phải bất hạnh mục kích các nhà lănh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lư, một lư thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đă đạt.

    Như thế th́, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, th́ các nhà lănh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đă đưa chúng ta ra được ngoài ṿng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc.

    Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lănh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lănh thổ cũng không tránh được..

    Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lănh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lănh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối.

    Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lănh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lănh đạo miền Bắc.

    Trong thực tế, sự phân chia đă nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nh́n nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đă được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đă bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ th́ thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết qảu nhất.

    Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nh́n nhận Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ.

    Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lư ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đă biến thành những khí cụ của một tai họa.

    Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đă biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đ́nh chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đă bắt đầu hoạt động trở lại dưới các h́nh thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam.

    Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lănh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lănh đạo Nga. (tr. 202 -204).

    Nhưng Hà Nội c̣n phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết định dụng vơ lưc để thôn tính miền Nam, đă dẫn tới việc trực tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đă khánh tận và kệt quệ trong cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm 1996, ai c̣n chút lương tri b́nh thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là hoàn toàn vô lư và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, v́ Mỹ đă không c̣n hiện diện ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng.

    Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam, hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đă được báo động cách đây gần 50 năm:

    Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lănh thổ đă tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mănh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Kư ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta c̣n ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.

    Các nhà lănh đạo miến Bắc, khi tự đặt ḿnh vào sự chi phối của Trung Cộng, đă đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại c̣n đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

    Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành h́nh, là v́ hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, th́ sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

    Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ư thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ư định xâm chiếm miền Nam th́ họ vẫn c̣n chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay v́ chính sách sống chung ḥa b́nh của Nga Sô.

    V́ vậy cho nên, sự mất c̣n của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất c̣n trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy tŕ lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212)

    Chính Sách Ngoại Giao

    Có lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đă không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đă kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những ḍng dưới đây:

    Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lư thuộc quốc.

    Hai lần Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ t́m cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lănh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.

    Tâm lư thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại c̣n lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, th́ đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lư đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đă đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công tŕnh mà dân tộc đă thực hiện được. Nhưng chúng ta c̣n thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn th́, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đă sớm phát ra nhiều ngơ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đă rộng răi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn.

    Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cơi về phía Nam.

    Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lănh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng răi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là v́ các nhà lănh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lư thuộc quốc đă đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đă biết Trung Hoa đă hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đă lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam .
    Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đ́nh, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đ́nh, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho ḿnh.

    V́ thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đă tŕnh bày, th́ cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đă mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, th́ có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.

    Sự bành trướng của chúng ta đă thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lư ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.

    Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, th́ ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lănh thổ.

    Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đă bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lănh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.

    V́ vậy cho nên, chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng răi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa th́ lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay v́ mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đă đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lănh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.

    (C̣n tiếp bài của Tiến sĩ Phạm văn Lưu)

    C̣n tiếp ...

  5. #35
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Bài của Tiến sĩ Phạm văn Lưu

    Chính sách chống ngoại xâm.

    Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy....V́ sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lănh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?

    Trước hết, các biện pháp cổ truyền đă đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam . So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam , và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, th́ chúng ta đă thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoăn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. V́ thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đă không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.

    Lư do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nh́n nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, th́ nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.

    Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.

    Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

    Nếu ư thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm năo của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, th́ các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ư chí quật cường của cả một dân tộc.

    Nhưng ư chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lănh đạo th́ cũng không làm ǵ được đối với kẻ xâm lăng. V́ vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lănh đạo, và, điều này c̣n chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lănh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi v́, có như thế, những người lănh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lănh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.

    Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lư luận đă dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.

    Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.

    Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ư thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

    Sự thể đă như vậy, th́ đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi v́ bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm năo của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ư chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.

    Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lănh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.

    Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ư thức của mọi người, th́, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi v́, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lănh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.

    Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mănh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay v́ lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đă nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.

    Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Măn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lănh đạo đă khêu gợi được ư chí tự do và độc lập của toàn dân.

    Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đă nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam . V́ những lư do tŕnh bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lư thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lư, mà sẽ được qui định một cách rơ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với tŕnh độ phát triển của dân tộc.

    Nếu bây giờ chúng ta chưa có ư thức rơ rệt chính thể ấy phải như thế nào, th́ ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rơ rệt.

    Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây:

    Biện pháp ngoại giao.

    Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…v́ ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, th́ ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sống c̣n đối với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây.

    Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không c̣n gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái B́nh Dương mà c̣n là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đă đề cập đến vấn đề này,

    Không phải t́nh cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đă long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (Tr. 157)

    Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đă cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để kư Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Pḥng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lănh thổ, phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải:

    C̣n tiếp ...

  6. #36
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Sau khi Trung Hoa bị tấn công, th́ lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vă gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rơ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lư thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181).

    Lẽ ra, các nhà lănh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, th́ ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rơ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Duong9 và Mă Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Ṭa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là t́m kiếm một phán quyết của ṭa án này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới

    Chúng ta c̣n nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đ́nh Diệm, Nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đă vận dộng các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài G̣n, để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đă phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, th́ Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đă xen vào nội bộ của Việt Nam và đă tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc tŕnh này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đă đồng ư làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), v́ trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông.[7]

    Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để t́m hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ?

    Nhưng thực tế, chúng ta rất đau ḷng, khi thấy, các nhà lănh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đă đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, v́ quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đă trở nên tự tôn và thiển cận, th́ ngày nay các nhà lănh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lư luận giai cấp đấu tranh, đă trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, c̣n về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xăo quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rơ rệt khi nh́n về lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, kư hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đă vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam . Đến năm 1973, một lần nữa, họ đă lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Ḥa Hợp và Ḥa Giải Dân tộc. C̣n đối với quốc tế, khi kư hiệp định Paris , họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của ḿnh. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, th́ họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài G̣n…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai c̣n có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lănh đạo miền Bắc bị đuôi mù bởi lư thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. C̣n về phương diên quốc tế, v́ thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đă liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân loại. Thực vậy, lâu dài nhất v́ cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất, v́ số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đă thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam.

    Đối với những nhà lănh đạo có một năo trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính trị sâu sắc, một chính sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm t́m nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mănh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng

    Biện Pháp Quân Sự

    Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ c̣n có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xă hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lănh tụ của họ t́m mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đ́nh và phe nhóm, c̣n tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đ́nh bộ đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là c̣n cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lănh đạo Hà Nội có c̣n ư chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời b́nh luận của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, tại Học Viện Quốc Pḥng Hoàng Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lănh đạo Hà Nội đă trở nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đ́nh của họ hơn.. cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít lănh thổ và lănh hải ở phía Bắc không c̣n là vấn đề quan trọng với họ nữa !

    Biện Pháp Chính Trị

    Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ư thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đă biện giải vấn đề này như sau:

    Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

    Và sau cùng ông Nhu đă đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được.

    Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lănh vực tin học và khoa học kỹ thuật, c̣n trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và ḥa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, ḥa b́nh và thịnh vượng cho toàn thế giới, th́ các nhà lănh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lănh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không c̣n ai có thể chống đối lại họ được.

    Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không c̣n cơ may để thay đổi thành phần lănh đạo tại Bắc Bộ Phủ, th́ vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ c̣n là vấn đề thời gian.

    Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
    Melbourne, 1. 11. 2009

    [1] Linh Muc De Jaegher, Cố vấn thân cận của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thach, đàm luận với tác giả tại Sàig̣n vào 6. 1966.

    [2] . Sách được xuất bản mang tên Tùng Phong, Chính Đê Việt Nam , Saigon-Việt Nam , 2009

    [3] Xin xem các diễn văn này trong La Voix de la Juste Cause, Recueils Des Principaux Discours et Meassages du President Ngo Dinh Diem, June 1954 – Juillet 1963, Saigon, Service de la Press de la Presidence de la Republique du Vietnam, 1963. Các diễn văn này thường được ông Phạm Đ́nh Khiêm dịch ra Việt ngữ và Gs. Tôn Thất Thiện ra Anh ngữ.

    [4] Có lẽ v́ đánh máy sai, nên trong ấn bản in là vĩ tuyến 17, thực tế lá vĩ tuyến 16, chú thich của người viết.

    [5] Nước Úc trong bản ngân sách 2009-2010, đă gia tăng hơn 6.6.tỉ bạc (từ 19.8 tỉ lên 26.4 tỉ), để gia tăng khả năng không lực và hải quân nhằm bảo vệ lănh thổ. Điều này khiến chính quyền Nam Dương phải quan ngại, sau đó chính phủ Úc đă phải lên tiếng trấn an.

    C̣n Thái Lan trong bản ngân sách 2008, ngân sách dành cho Bộ Quốc Pḥng đă tăng lên tới 4.5 tỉ US dollars, đă quan mặt cà Nam Dương và Mă Lai về chi phí quốc pḥng.

    Tân Gia Ba trong bản ngân sách 2009, họ cũng đă dành đến 34% cho ngân sách quốc pḥng. Nhưng từ lâu Tân Gia Ba, có lẽ, đă thấy trước được hiểm họa xăm lăng của Trung Quốc, nên họ đă có những thỏa hiệp liên kết quân sự với Hoa Kỳ từ năm 1990 với thỏa hiệp MOU và đến 2005 họ đă kư hiêp ước Hợp Tác Quân Sự với Hoa Kỳ. Nam Dương đă để chi phí quốc pḥng vào hàng ưu tiên thứ 3 trong bản ngân sách 2008 với ngân khoản là 3.3 tỉ US dollars.

    C̣n Mă Lai, muc tiêu của ngân sách 2008, dành ưu tiên cho phúc lợi toàn dân, nên chi phí quốc pḥng phải bị cắt giảm tối đa, nhưng riêng chi phí dành cho Không Lực Mă Lai, không bị cắt giảm mà lại c̣n được gia tăng từ 1,482 tỉ Mă kim lên đến 1,613 tỉ Mă kim để gia tăng khả năng pḥng thủ quốc gia.

    [6] Giáo sư Bửu Hội là một phật tử và thân mẫu của giáo sư là Sư Cô Diệu Huệ, lúc đó Giáo sư được Tổng Thống Diệm cử làm trưởng phái đoàn đặc biệt tại Liên Hiệp Quốc từ tháng 9. 1963, đặc trách về cuộc Khủng Hoảng Phật Giáo.

    [7] Theo sự tiết lộ cùa Bà Swarna L. Ganawardene, con gái cùa Sir Senerat, trong thư gởi cho Bà Anne Blair, (một đồng nghiệp của người viết tại Đại Học Monash trước đây), vào tháng 11. 1989. Và cũng có thể xem thêm Điện văn số 2444 từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi cho Ṭa Đại Sứ Mỹ Saigon, ngày 11. 12. 1963 dưới tiêu đề Gunawardene’s killing the debate. xem Anne Blair, Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad, New Haven, Yale university Press, 1995, tr. 78.

    C̣n tiếp ...

  7. #37
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Ngô Đ́nh Diệm

    NGƯỜI LĂNH ĐẠO XỨNG DANH

    Long Điền

    (Hội luận chính trị trên hệ thống Paltalk Diễn Đàn Người Dân Việt Nam với Hiện T́nh Đất Nước ngày thứ sáu 6.11.2009 với các diển giả : G/S Chu Chi Nam, Nhà Văn Mặc Giao, Kỹ sư Đỗ Như Điện và Long Điền )...

    I-Dựa vào nhận định nào hai ông cố TT Ngô Đinh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu đưa ra đề nghị hiệp thương với CSBV. Muốn xét quan điểm của ông Ngô Đ́nh Diệm đối với cuộc chiến Việt Nam th́ chúng ta phải xét các lời phát biểu do chính ông và ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă nói v́ về chiến trường Việt Nam 1954-1963:

    1- Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm trong thời gian 9 năm điều hành đất nước (1954-1963)với chủ trương “ Đả Thực, Bài Phong, Tiểu Trừ Cộng Phỉ “ tức là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi nước ta, bảo vệ Độc Lập nước nhà, bài trừ Phong Kién triều Nguyễn đem Tự Do Dân Chủ cho toàn dân, dẹp tan lũ giặc cướp Cộng sản để mọi người no ấm, thương yêu lẩn nhau

    Ông Ngô Đ́nh Diệm luôn luôn giử vững lập trường Quốc Gia chân chính: Bảo vệ chủ quyền, bảo vệ lănh thổ, không chấp nhận sự can thiệp của ngoại bang vào VN dù CSVN lúc đó t́m mọi cách xâm nhập bộ đội chính quy từ Bắc vào Nam ngày càng nhiều hơn. Bởi v́ ông hiểu rơ : chấp nhận sự có mặt của Hoa Kỳ vào Miền Nam sẽ làm mất đi chính nghĩa cuộc chiến đấu tự vệ chống CS xâm lược và tạo cớ cho CSBV chống Mỹ cứu nước.

    2- Cuộc chiến Việt Nam 1954-1963 là Cuộc Chiến Tự Vệ v́ hoàn toàn không có hành động quân sự nào của Miền Nam tấn công ra Bắc, ngược lại Miền Bắc đă vượt vĩ tuyến 17, xâm nhập và tấn công Miền Nam theo lệnh của CSQT. Dù vậy với tấm ḷng nhân ái, không muốn một cuộc chiến Huynh Đệ Tương tàn, Ông Ngô Đ́nh Diệm một mặt lo chống đở đồng thời tiến hành những cuộc thương thảo với Miền Bắc để đi đến Hiệp Thương tránh đổ máu giữa người Việt với nhau.

    Trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu có trích dẫn bức thư của ông Vơ Như Nguyện: Cuối thư có đoạn thuật lại lời ông Diệm tâm sự với ông Nguyện:

    “… Vả tôi với chú Nhu có ư dù hai miền Quốc Cộng tranh chấp nhưng đều là máu mủ ruột thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh, đỡ tốn hao sinh mạng, tài sản. Rồi bên nào kéo dài, chung quy sẽ bị lệ thuộc vào một cường quốc và đất nước chia rẽ, v́ các cường quốc có ư định chia rẽ cả….” người ta sẽ thấy ông Diệm muốn tránh đổ máu chừng nào tốt chừng đó và không muốn để các cường quốc đắc lợi trong cuộc tranh chấp nội bộ, một cuộc Nội Chiến tại Việt Nam do CS chủ xướng.

    3-Trong Nguyên Sa Hồi Kư (ấn hành năm 1998), giáo sư Trần Bích Lan, đă thuật lại chuyện ông và hai giáo sư Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Xuân Nghiên đă có dịp nghe Tổng Thống Diệm trả lời một trong 3 câu hỏi của các ông. Câu hỏi là tại sao ta không dồn lực lượng đánh một vài trận lớn để giải quyết chiến tranh mau chóng mà cứ đánh cầm chừng nh́ nhằng như thế này.

    Ông Diệm đă nói : “Bản chất cái chiến tranh này nó như thế. Mở rộng chỉ chết thêm lính và dân, mà cũng chẳng giải quyết được ǵ.” Ba mươi lăm năm sau, nh́n lại, nhà giáo và nhà thơ của chúng ta đă thấy câu trả lời của ông Diệm không phải ngụy biện như các ông nghĩ lúc trước, mà là những lời tiên đoán thời cuộc rất chính xác.

    4-Những ǵ ông Ngô Đ́nh Nhu nói trong một lễ bế mạc lớp học tập về Ấp Chiến Lươc khóa XII, ngày 22/6/1963… cũng tương tự như thế:

    “Chúng ta là một nước nhỏ bé đứng giữa hai khối. Nếu bên thế giới tự do tăng cường viện trợ cho ta th́ thế giới cộng sản cũng sẽ tăng viện trợ cho phía họ. Hai bên cứ tăng cường như vậy sẽ đưa cái mức chiến tranh càng ngày càng lên cao. Và số phận chúng ta rồi mai đây sẽ ra sao?”

    5- Ngô Đ́nh Diệm là người theo chủ nghĩa Dân Tộc và chống Cộng kiên quyết, chống lại sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam, lập trường của ông rất dứt khoát.

    Trong cuộc viếng thăm chính thức Việt Nam ngày 9 tháng 5 năm 1961, Phó Tổng Thống Mỹ Johnson đă đề nghị việc gửi Quân Đội Mỹ sang tham chiến tại Việt Nam. Tổng Thống Diệm đă bày tỏ quan điểm chính phủ Việt Nam rất biết ơn sự viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ. Nhưng với việc gửi Quân Đội Mỹ đến Việt Nam ông đă cương quyết từ chối và nói:

    "Nếu quư vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, h́nh ảnh hăi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp c̣n hằn sâu trong tâm trí họ. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam. "

    6- Sự vĩnh viễn ra đi của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă gây xúc động sâu xa và niềm thương cảm lớn lao nơi các lănh tụ Á Châu thời đó. Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đă than thở: "Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ư hợp. Tôi khâm phục ông Diệm. Ông xứng đáng là một lănh tụ lớn của Á Châu. Việt Nam có lẽ phải mất 100 năm nữa mới t́m được một nhà lănh tụ cao qúy như vậy. "

    7- Hơn nữa, cái chết của Cố Tổng Thống Diệm cũng đă làm cho các lănh tụ Á Châu, đồng minh của Mỹ phải giật ḿnh và đặt vấn đề. Chính Tổng Thống Hồi Quốc, Ayub Khan, đă nói thẳng với Tổng Thống Nixon: "Cuộc thảm sát Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă khiến các lănh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Đồng Minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa khi là kẻ thù của Hoa Kỳ "

    Lập trường của ông Ngô Đ́nh Diệm rơ ràng là v́ Quốc Gia, Dân Tộc không muốn làm “tiền đồn” cho ai cả v́ sẽ phải lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ, và sẽ làm cớ cho Liên Xô và Trung Cộng nhảy vào xâu xé Việt Nam mà thôi.

    Trong quyển "Chính Đề Việt Nam" Ông Ngô Đ́nh Nhu đă nhận định hiểm họa Trung Cộng là to tát và là một mối họa truyền kiếp cần phải đề pḥng và muốn chống họa xâm lược đó chỉ có một chính thể tự do mới có đủ khả năng chống lại hoạ mất nước. (tác giả mong sẽ có dịp b́nh luận toàn bộ quyển luận án chính trị nổi tiếng nầy vào dịp thuận tiện)

    Trang Blog cua Long Điền trọn bộ "Chính Đề Việt Nam" của ông Ngô Đ́nh Nhu 198 trang.

    Nhận định về cuộc chiến VN từ 1945-1963 Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Nhận định cuộc chiến của ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu.

    "Chúng ta đă biết chính sách xâm lăng của Trung Hoa đối với Việt Nam là một chính sách liên tục và bất biến của tất cả các chế độ của Trung Hoa v́ nó phát sinh từ một nhu cầu đất đai cần thiết cho sự phát triển của Trung Hoa. Mang phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản, cũng như phương pháp độc tài nào khác để lănh đạo quần chúng, th́ theo một cơ thức mà chúng ta đă biết, quần chúng sẽ phản ứng bằng cách hướng về bất cứ cá nhân hay tập thể nào phất cờ giải phóng để che đậy thâm ư xâm lăng của ḿnh. Trong điều kiện đó, các nhà lănh đạo Cộng Sản áp dụng phương pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam, sẽ đương nhiên tạo hoàn cảnh thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam lúc thời cơ đưa đến.

    Nói một cách khác, phương pháp lănh đạo độc tài Đảng trị sẽ suy nhược hóa sức đề kháng của dân tộc đối với kẻ xâm lăng." trang 142 ấn bản điện tử.

    Nhận định của ông Ngô Đ́nh Nhu về sự lệ thuộc của đảng CSVN v ới Nga và Tàu như sau :

    "Nhưng, họ chỉ có thể thoát ra ngoài ṿng ảnh hưởng của hai khối để lănh đạo công cuộc phát triển của dân tộc, như chúng ta nêu lên trong câu hỏi đầu mục này, nếu các điều kiện sau đây được họ nhận thức rơ rệt:

    C̣n tiếp ...

  8. #38
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    1.- Bản chất thực tế của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương.
    2.- Thâm ư chiến lược của Nga Sô
    3.- Cuộc đồng minh với Nga Sô, đă hết hiệu lực đối với Nga Sô, khi mục đích phát triển của Nga Sô đă đạt.
    4.- Lư thuyết Các-mác Lê-nin là một phương tiện tranh đấu và phát triển của Nga trước đây, cũng như là một phương tiện tranh đấu và phát triển của Trung Cộng ngày nay.
    5.- Sự đồng minh với Cộng Sản phải được chấm dứt kịp thời khi nó không c̣n hiệu lực đối với dân tộc.
    6.- Đối với dân tộc Việt Nam, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp."(trang 109 ấn bản điện tử)

    Nhưng khốn nổi phe CSVN thời đó không suy nghĩ ra vấn đề mà họ chỉ tuân hành các chỉ thị của Cộng Sản Quốc Tế mà thôi.

    "Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lănh đạo miền Bắc hiện nay đă nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thơ loại chính trị của miền Bắc c̣n đang ca tụng như là những chân lư những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đă bỏ. Như thế th́ có lẽ dân tộc chúng ta c̣n phải bất hạnh mục kích các nhà lănh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lư, một lư thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đă đạt."

    Sự phân chia đất nước theo Hiệp định Genève 1954 là do các nhà lănh đạo Miền Bắc chạy theo chủ nghĩa CS. Muốn chấm dứt chiến tranh th́ giới lănh đạo Miền Bắc phải độc lập, phải thấu đáo nguyện vọng của cộng đồng dân Việt và sau cùng là phải thấu đạt các ư đồ của các cường quốc tham chiến(trang 109)

    "Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lănh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lănh thổ cũng không tránh được.

    Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lănh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lănh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối."

    II -Dự án hiệp thương có phải là phản bội đồng minh(Mỹ) hay đâm sau lưng chiến sĩ như lập luận của một số người có ác cảm với gia đ́nh họ Ngô.

    Đây là một sự kiện lịch sử cần được xem xét cẩn thận, không nên vội lên gân và kết tội một cách vội vă là anh em ông Diêm muốn hiệp thương (thoả hiệp) với cộng sản hay là đâm sau lưng chiến sỹ. Bởi v́ xét cho cùng th́ 1972 tại sao Hoa Kỳ thương lượng với Trung Cộng th́ được, c̣n hai miền của Việt Nam gánh chịu bao đau thương do chiến tranh th́ không được thương lượng với nhau trong t́nh Dân Tộc. (Khác với t́nh thế hiện nay, 2009 CSVN quyết tâm cai trị dân VN bằng đường lối độc tài sắt máu, không chấp nhận đối thoại và đối lập th́ lại có một số người định chạy theo đường lối Hoà Hợp Hoà Giải bịp bợm của chúng!)

    Nhận định về ông Ngô Đ́nh Diệm của Minh Vơ nhà khảo cứu lịch sử đă viết như sau:

    “Dưới ánh sáng của những sự kiện lịch sử vừa nêu, nh́n lại dĩ văng, chúng tôi thấy sách lược đấu tranh mà hai anh em ông Diệm toan tính áp dụng tại Việt Nam trước khi các ông bị giết rất có cơ sở, và đáng lư nó đă phải thành công. Và nếu nó thành công th́ miền Nam Việt Nam với danh xưng Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tồn tại trong một thời gian khá lâu: hoặc có thể thống nhất một cách vinh quang như nước Đức. Bằng không th́ tối thiểu cũng tồn tại trong phú cường giống như Nam Hàn hay Đài Loan.”

    “C̣n thời 1962–1963 thanh thế của ông Diệm hơn hẳn ông Hồ. Nếu ông Diệm chịu liên hiệp là liên hiệp trong thế mạnh. Hăy tạm lấy một ví dụ đơn giản là ḥa tan dung dịch có hai màu đối chọi; xanh đậm (Diệm) với hồng lạt (Hồ). Màu nào đậm hơn sẽ lấn át và thắng màu lợt. Dĩ nhiên thực tế chính trị phức tạp hơn, v́ c̣n mưu sâu của con cáo nổi danh hơn người. Nhưng về điểm này ông Diệm đă có kinh nghiệm từ những bài học lịch sử nói trên với cộng sản. Hơn nữa ông Diệm không phải là một chính khách non nớt, không biết rơ đối phương như người ta tưởng.”

    “V́ những lư do trên, theo ư kiến chủ quan của tôi, nếu, vâng, nếu, một chữ nếu không có trong lịch sử! nếu anh em ông Diệm không bị chết, và việc hiệp thương giữa hai miền Nam Bắc được thể hiện vào thập niên 60 thế kỷ trước, th́ chẳng những Hoa Kỳ đă không phải đổ 2 triệu quân vào Việt Nam khiến hơn 58 ngàn lính Mỹ chết mà Việt Nam cũng tránh được một cuộc chiến tương tàn làm trên 3 triệu tử vong.”

    Có nhiều ư kiến của người Việt Quốc Gia chưa đồng ư với nhận định của Minh Vơ một cách hoàn toàn :

    a- Họ chưa đồng ư là khi đưa ra đề nghị “Hiệp Thương” chưa chắc là ông Diệm ở vào thế mạnh hơn so với CSBV v́ CSQT th́ yểm trợ cho miền Bắc hết ḿnh ,c̣n Hoa Kỳ vừa viện trợ vừa o ép miền Nam đi theo ư họ, đề nghị Hiệp Thương đưa ra quá sớm,dể gây cú sốc cho đồng minh Hoa Kỳ vốn rất cứng ngắc , độc đoán không bao giờ nghe lời đề nghị của bất cứ ai mà họ chỉ làm theo quyền lợi Mỹ theo từng giai đoạn thời cuộc.

    b- Nên nhớ cuộc thương lượng về 1 giải pháp Hiệp Thương thời điểm đó chĩ mới bắt đầu, hiện không c̣n tài liệu nào được công bố nên chưa hiểu rỏ nội dung, ư muốn của mỗi bên ra sao, nên cũng không thể nói “Mèo nào cắn mĩu nào” v́ cả hai bên đều có kinh nghiệm già dặn không dể ǵ ông Diệm chịu Hiệp Thương mà chịu phần thua thiệt đâu.Vả lại thái độ cứng rắn, uy dũng của ông Diệm ngay cả khi bị CS bắt năm 1945 mà cũng không chịu khuất phục th́ làm sao với thế ngang ngửa ông Diệm lại chịu thua thiệt.

    Không nên đem thành bại mà luận anh hùng,dù sao th́ sự can đảm cuả ông Diệm dám xem xét vấn đề Hiệp Thương dù không có sự đồng ư của Mỹ quả là 1 hành động đáng khâm phục hơn là chê trách. Vả lại trong thời điểm 1972 khi Hoa Kỳ thương lượng với Trung Cộng để mưu t́m hoà b́nh cho cuộc chiến th́ không thể nào nói TT Nixon là phản quốc (Hoa Kỳ) vậy tại sao ta lại vội vả lên án ông Ngô Đ́nh Diệm có ư phản bội quốc gia.

    c- Có người cả nghi th́ cho rằng Hồ là con cáo già trong khi hai bên thảo luận mà tung tin ra ngoài ,lập mưu nầy để mượn tay Mỹ hăm hại ông Diệm v́ vậy mà Mỹ bật đèn xanh cho các tướng lănh giết ông Diệm v́ không theo đúng đường lối của Mỹ. Xin thưa đó là lập luận cuả CS, muốn đánh bóng Hồ và hạ uy tín của ông Diệm mà thôi. Ông Diệm đă nhờ trưởng đoàn Ba Lan trong ủy hội Kiểm Soát Đ́nh Chiến là Mieczyslaw Maneli và c̣n có đại sứ Ư Giovanni d’Orlandi và đại diện của Vatican tại Việt Nam là Đức Cha Salvatore D’Asta cùng nhiều người khác nửa để làm trung gian thương lượng, đồng thời Ông Diệm, ông Nhu cũng đă công bố 1 cách bán chính thức, bán công khai cuộc Hiệp Thương nầy th́ rỏ ràng hai ông đă lượng định kỷ càng và không quá ấu trỉ về chính trị như một số người lầm tưởng.

    Hoa Kỳ th́ có nhiều kinh nghiệm trận địa chiến, nhưng với chiến tranh du kích th́ họ hoàn toàn mới mẻ, v́ thế các tướng lănh HK thoạt đầu khi vào VN, họ nghĩ rằng có thể dể dàng thắng cuộc chiến tại VN, nhưng sau đó th́ họ đă nghĩ khác sau khi tổn hao 58.000 binh sĩ th́ họ mới đi t́m 1 giải pháp thương lượng. C̣n ông Diệm và ông Nhu th́ biết rất rỏ thực chất cuộc chiến là Cộng sản Bắc Việt chỉ là kẻ thừa hành cho Cộng sản Quốc Tế cần phải lôi kéo họ về với Dân Tộc. Chỉ tiếc là đề nghị Hiệp Thương nầy có lẻ quá sớm v́ sau đó năm 1968-1972 th́ Hoa Kỳ mới cố công t́m kiếm sự thương lượng giửa HK và Trung Cộng để mưu t́m 1 giải pháp ổn định Đông Nam Á mà không tổn hao sinh mạng đôi bên.

    d- Ngày nay (2009)vị thế Quốc Cộng khác hẳn 1961 ,CSVN đang cầm quyền trên toàn cỏi Việt Nam bằng biện pháp ngoan cố,vá víu Xả Hội Chủ Nghĩa th́ dỉ nhiên áp dụng hoà hợp hoà giải với CSVN là đầu hàng,là trở cờ th́ đáng bị lên án. Chừng nào CSVN chịu từ bỏ CNXH,bải bỏ toàn bộ Hiến Pháp ,chấp nhận “Trưng cầu Dân ư”một cách thành khẩn th́ ngày đó mới hết đấu tranh đ̣i hỏi Dân Chủ cho VN.

    Những ai vẫn c̣n quan niệm rằng thời kỳ thập kỷ 1960 ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu không nên thương lượng chấm dứt chiến tranh với Miền Bắc xin trả lời các câu hỏi sau đây th́ sẽ làm sáng tỏ vấn đề:

    1- Phía đồng minh Hoa Kỳ có viện trợ liên tục và vô thời hạn cho chính thể VNCH (Ngô Đ́nh Diệm và sau ông Diệm) để chống CS Quốc Tế măi măi hay không? Hay Hoa Kỳ sẽ chấm dứt cuộc chiến khi họ đạt được ư định chiến lược là làm suy yếu tiềm lực CSQT (tức là gây chia rẻ khối CSQT gồm 2 cường quốc Liên Xô và Trung Cộng) không c̣n khả năng đe doạ Hoa Kỳ mà thôi.

    2- Nếu cả hai miền Nam, Bắc đều nhận được viện trợ dồi dào của cả hai khối siêu cường th́ chiến tranh sẽ kéo dài đến đâu và kết quả dân tộc Việt Nam được ǵ, mất ǵ.(Xin hảy nhớ cuộc chiến lịch sử đẩm máu ở Triều Tiên, sau đó đất nước Triều Tiên ra sao?)

    3- Hoa Kỳ viện trợ cuộc chiến VN vậy chỉ có Hoa Kỳ và Nga Tàu có quyền chấm dứt cuộc chiến VN, c̣n Miền Bắc và Miền Nam hoàn toàn không có quyền bàn đến ? ( Đông Đức và Tây Đức đă liên lạc,thảo luận và thống nhất đất nước bằng biện pháp hoà b́nh mà không cần quyết định nào của Mỹ và Liên Xô)

    4- Hoà b́nh đạt được giửa thập niên 1960 và 1975 có ǵ khác nhau. Sau khi cuộc chiến chấm dứt toàn dân VN được ǵ và mất mát nhửng ǵ? (Nếu cuộc chiến chấm dứt trước thập niên 1960 th́ không phải hy sinh 2 triệu binh sĩ và 3 triệu thường dân hai bên Nam, Bắc Việt Nam và 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ).

    5- Nếu nói ư đồ của CSQT là phải thôn tính Miền Nam VN bằng mọi giá và Hồ cũng như đảng CSVN phải bắt buộc thi hành,vậy thương lượng với CSVN là vô ích. (Vậy giả dụ Hồ và đảng CSVN quyết tâm đ́nh chỉ cuộc chiến v́ hao tổn quá mức chịu đựng vậy chẳng lẻ Liên Xô và Trung Cộng sẽ tự đem quân qua Việt Nam để giải quyết chiến trường hay chăng? Hay một giả thuyết thứ hai là tiềm năng của Liên Xô và Trung Cộng là trường cữu và vô tận hay sao? Hay là một ngày nào đó sẽ kiệt quệ và không c̣n khả năng giúp CS Bắc Việt nửa.)

    Cho đến hiện thời chưa có tài liệu nào cụ thể đưa ra về các điểm thảo luận và mục tiêu thảo luận giữa đôi bên, có vài sử gia tên tuổi lập luận lên án cuộc thảo luận chấm dứt chiến tranh của cố tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là ve vản kẻ thù ,là đâm sau lưng chiến sĩ nhưng bản thân th́ vận động chạy chọt để khỏi ra tác chiến và ngày nay cứ măi cường điệu lên án những người có ḷng nhân ái muốn chấm dứt cuộc chiến bĩ ổi nầy th́ có hợp lư chăng?

    Kéo dài cuộc chiến theo tôi chỉ có lợi cho các cường quốc ngoại nhân và một nhóm nhỏ chính trị hoạt đầu nội địa nhằm cũng cố địa vị và cắt xén viện trợ bỏ túi mà thôi. Tại sao cứ măi tôn thờ quyết định của ngoại bang mà bỏ quên quyền quyết định của Dân Tộc Việt Nam. Theo họ th́ Miền Nam Việt Nam phải măi măi là tiền đồn chống cộng (Họ mau quên một khi Mỹ đạt được ư đồ chiến lược th́ Mỹ không cần tiền đồn và sẳng sàng bỏ rơi đồng minh).

    Lối lập luận nô lệ ngoại bang, xem thường ư nguyện sống thanh b́nh của 86 triệu đồng bào Việt Nam ngày nay đă lổi thời và không c̣n mua chuộc được ai nghe theo! Dù họ đứng bên nầy chiến tuyến nhưng cách suy nghĩ của họ y hệt những cái đầu ở Bắc Bộ Phủ chỉ biết quỳ mọp trước Trung Cộng mà bỏ quên nguyện vọng Độc Lập Tự Chủ của toàn dân Việt.

    Suy tư trước vận mệnh đất nước lâm nguy qua kẻ thù truyền kiếp Bắc phương, tức giận trước cung cách hèn hạ của kẻ cầm quyền Hà Nội hiện nay, duyệt xét lại lịch sử cận đại thấy rằng người lănh đạo xứng danh Ngô Đ́nh Diệm luôn lắng nghe nguyện vọng của toàn dân muốn no cơm ấm áo, muốn an b́nh tái thiết quê hương sau mấy chục năm khói lửa chiến tranh(1930-1954) ông Diệm độc lập với đồng minh, luôn t́m mọi cách chấm dứt chiến tranh dù trái với ư đồ của cường quốc, khác xa với Hồ Chí Minh người luôn mang ư định chủ chiến, luôn cúc cung tuân thủ theo lệnh quan thầy Liên Xô và Tàu Cộng.

    Những nổ lực mưu t́m một nền Hoà B́nh cho Việt Nam giai đoạn 1960 tuy chưa thành công v́ ông Diệm và Nhu đă hy sinh cho đại nghĩa quá sớm, nếu vận nước không suy vi th́ với khả năng lănh đạo sáng suốt của ông biết đâu Việt Nam sẽ được giải quyết như Đông và Tây Đức hiện thời.

    Đừng đem thành bại mà luận anh hùng. Tấm ḷng nhân ái thương dân với những đức tính cần thiết của người lănh đạo bao gồm : Nhân, Dũng, Lược, Trí sẳn sàng hy sinh thân ḿnh để băo vệ chủ quyền Quốc Gia Dân Tộc như ông Ngô Đ́nh Diệm xét trong lịch sử Việt Nam thử hỏi có được mấy người!

    Long Điền

    C̣n tiếp ...

  9. #39
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Phần đọc thêm 5


    Sự Thật Lịch Sử: Ông Ngô Đ́nh Diệm có "soán ngôi" vua Bảo Đại? Ai giết tướng Trinh Minh Thế?

    ĐỆ NHỨT CỘNG H̉A của Miền Nam (1955-1963) ....

    Huỳnh Văn Lang

    (Bài nói chuyện ở Hội Tác giả VN Hải ngoại, ngày 08-11-2009)

    Nội dung của bài nói chuyện hôm nay là những sự kiện hay những biến cố quan trọng nhứt đă đưa đến sự h́nh thành ra Đệ nhứt Cộng ḥa của miền Nam VN (1956-1963), mà cái ID của nó là Hiến Pháp năm 1956, cũng là phần kết của bài nầy.

    Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tuớng Ngô đ́nh Diệm (NĐD) về giúp nước, từ Chicago, Illinois, tôi về đến Sài g̣n ngày 24 tháng 8, 1954 và liền sau đó v́ thời cuộc đưa đẩy, thủ tướng NĐD đă đặt để tôi vào những địa vị, nếu gọi được là địa vị hay đúng hơn là cương vị, để tôi thành ra chứng nhân cho những sự kiện tôi muốn ghi lại ra đây. Những sự kiện tôi tŕnh bày sau đây có ba giá trị khác nhau: là chứng nhân, không chứng nhân nhưng biết thật chắc chắn và một ít chuyện không biết chắc, quí vị sẽ phân biệt được 3 giá trị khác nhau đó.

    1.- Cương vị thứ nhứt. (Phụ tá Bí thư của thủ tướng NĐD)

    Đầu tiên tôi tạm thời thay thế anh Vơ văn Hải là bí thư của Thủ tướng, để anh tạm thời giữ chức Chánh văn pḥng, th́nh ĺnh bỏ trống. Ba ngày đầu tôi ăn ngủ trong dinh Gia long, sau được đưa ra ngủ nghỉ ở khách sạn Kinh hoa, Chợ lớn, nhưng luôn luôn về dinh Thủ tướng ăn cơm trưa và tối cho đến khi Thủ tướng cho lệnh bộ Tài chánh cấp cho villa số 140, đường Hai bà Trưng, SG. Cho nên tôi may mắn làm việc bên Thủ tướng cho đến ngày 10 hay 11 tháng 10, 1954. Chính trong thời gian ngắn ngủi 45 ngày nầy đă xảy ra biến cố Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu quân đội Quốc gia VN muốn đảo chánh.

    Để dễ hiểu rơ biến cố nầy thiết nghĩ cũng nên nhắc lại, trước đó, ngày 16, tháng 6, ông Ngô đ́nh Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng, lập nội các VN thay thế chánh phủ hoàng thân Bửu Lộc. Thiết nghĩ khi bổ nhiệm NĐD, Quốc trưởng Bảo Đại (BĐ) có hội kiến với bộ Ngoại giao Mỹ và cũng có thể với chánh phủ Pháp nữa, v́ Pháp dù có thua trận ở Điện biên phủ trong tháng 5 rồi, nhưng vẫn c̣n nắm quyền Ngoại giao và Quốc pḥng ở VN với một đạo quân viễn chinh dù đă thua trận nhưng vẫn c̣n hùng hổ, đang khi anh em NĐD lại có tiếng là chống Pháp.

    Cũng chắc chắn là chánh phủ Hoa kỳ không có liên quan trực tiếp ǵ đến chuyện bổ nhiệm nầy, v́ dù ông Diệm có bôn ba ở Hoa kỳ gấn 3 năm đi nữa, ông có quen thân với nhiều nhân vật có tiếng nói trong chánh trường Hoa kỳ, nhưng thật ra Hoa kỳ chưa nghĩ đến chuyện thay thế Pháp ở Đông dương, cho đến khi chạm mặt với Nga/Tàu ở hội nghị Genève trong tháng 7, 1954.

    Sau khi được bổ nhiệm, bất chấp lời can gián của ông Ngô đ́nh Luyện ở Pháp và ông Ngô đ́nh Nhu ở VN, Thủ tướng NĐD về Sài g̣n ngày 26, cùng tháng 6, 1954. Tổng liên đoàn Lao công VN cổ động đón tiếp, nhưng số người đến phi trường TSN chưa đến 500. Bốn ngày sau Thù tướng bay ra Hà nội để xem xét t́nh h́nh và tiếp xúc chánh khách ngoài Bắc, để rồi trở về Sài g̣n thành lập Nội các, ra mắt ngày 7 tháng 7, 1954: Thủ tướng kiêm bộ Quốc pḥng và Nội vụ. Chánh phủ chưa kịp làm ǵ th́ ngày 20 cùng tháng Hiệp định Genève kư kết giữa Pháp và Việt minh (VM) thoạt đến, toàn dân dở khóc dở cười, có ḥa b́nh hay đúng hơn ch́ là đ́nh chiến giữa hai phe, nhưng đất nuớc lại bị chia đôi. (1)

    (1) Ngày 21-07-54, đang khi Tồng thống Eisenhower họp báo để giải thích hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, th́ ngoài đường có một nhóm sinh viên VN biểu t́nh lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ. Hôm sau ở trước trụ sở Liên hiệp quốc (UN), New-york, cũng có một nhóm sinh viên VN biểu t́nh, đông hơn. Cả hai cuộc biểu t́nh đều do ĐVL, ĐTC & HVL tổ chức, h́nh HVL có lên báo, lên T. 55 năm sau nh́n lại...

    Bao nhiêu vấn đề chánh trị xă hội cả văn hóa…đổ dồn về miền Nam với 36,000 quân viễn chinh Pháp và trào lưu Bắc kỳ di cư chạy giặc CS bắt đầu, người Pháp dự đóan là khoảng 60,000 người, Thủ tướng NĐD hy vọng 100, 000… không dè trào lưu chạy giặc CS bộc phát như thác lũ, quá sự tuởng tượng của mọi người, nghĩa là trong ṿng 300 ngày do Hiệp định Genève qui định số người Bắc kỳ di cư lên trên 860,000. Thủ tướng vui bao nhiêu th́ càng lo nhiều hơn nữa…

    Khi về đến VN, tôi cảm thấy rơ ràng t́nh trạng quá yếu kém của chánh phủ NĐD cũng như uy tín của tân Thủ tướng quá thấp. Không thấy chánh phủ Bửu Lộc bàn giao lại cái ǵ, ngoài cái dinh Gia long và sở Nội dịch với năm bảy chiếc xe cũ kỹ, không có một tiểu đội canh gác. Thủ tướng kiêm bộ Quốc pḥng, mà không có quân đội, bộ Nội vụ không có Công an Cảnh sát, trong lúc đô thành Sài g̣n - Chợ lớn là B́nh xuyên, miền Tây Nam kỳ lục tỉnh là Ḥa hảo, miền Đông là Cao đài, quần chúng người Nam nghe nói đến NĐD, nhưng không biết NĐD là ai. Ngoài ra sau lưng tướng Ely, Cao ủy Pháp là cả một tập đoàn thực dân đang hôi quyền thế, hôi cả tài sản như buổi chợ chiều. Trong lúc người Mỹ mới nhảy vào chánh trường VN chưa có một chủ trương rơ ràng... Tắt một lời, xă hội miền Nam đang ở trong một t́nh trạng vô cùng hỗn mang gần như tuyệt vọng, vô phương cứu văn. Dư luận Quốc tế cho chánh phủ NĐD không thọ quá 6 tháng.

    Ưu tư số 1 của Thủ tuớng NĐD là phải nắm lấy quyền hành, là thủ tướng kiêm Quốc pḥng, cho nên đầu tiên ông phải nắm quân đội. Tham mưu trưởng Nguyễn văn Hinh (vợ đầm tức nhiên là dân Pháp), cần phải thay thế. Và chính tướng Hinh lại khai chiến trước, ngày 09-09-54 chỉ trích Thủ tướng trên đài phát thanh Pháp Á do anh Phan cao Phái (anh của chị Minh Châu bạn của người viết) quản lư và đ̣i cải tổ chánh phủ. Thủ tướng Diệm phản pháo ngay, ngày 11-09-54 chỉ thị tướng Hinh phải đi Pháp trong ṿng 24 tiếng, gọi là để khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong ṿng 6 tuần. Tướng Hinh từ chối và vận dụng quân đội trong tay ḿnh để làm loạn, muốn đảo chánh, cho 1 tiểu đội thiết giáp chạy chung quanh dinh Độc lập (mới được Cao ủy Ely giao trả tuần trước) vửa hăm dọa, vừa chửi bới, cùng một lúc cho đài phát thanh quân đội ra rả tố cáo chánh phủ nào là độc tài, nào là tham nhũng v,.v. (Những đêm đó tôi ngủ trong dinh Thủ tướng, sẵn sàng để Thủ tướng xử dụng như một thông dịch viên và đi đêm với CIA Mỹ, khi đại tá Landsdale từ Manila qua VN, đóng đô ở hộp đêm Ma Cabane, trước cửa vườn Tao đàn, cách dinh Thủ tướng một con đường. Đại tá Lansdale có nhiệm vụ giúp chánh phủ NĐD ổn định tính h́nh). Nội các NĐD sắp sụp đổ đến nơi, v́ ngày 20-09-54, 9 trên 18 bộ trưởng yếu bóng vía đệ đơn từ chức. Nên lưu ư là cuộc khủng hoảng nầy xảy ra đúng lúc cuộc Bắc kỳ di cư bộc phát như lũ lụt sông Hồng, CS Hà nội chận đường, đe dọa, bắt cóc, thủ tiêu…vẫn không be nổi.

    Nhưng với sự hợp tác chặt chẽ giữa CIA và ṭa Đại sứ Mỹ, Thủ tuớng NĐD giải quyết được cuộc khủng hoảng do tướng Nguyễn văn Hinh gây ra, nhưng không phải là không đổ mồ hôi hột: đại sứ Heath cho tướng Hinh biết là nếu có đảo chánh trong t́nh thế nầy th́ Mỹ sẽ cúp viện trợ quân sự ngay, đang khi đại tá Lansdale t́m cách tách tuớng Hinh ra khỏi tham mưu của ông ta là 2 nhơn viên pḥng nh́ của Pháp, Lansdale biếu hai sĩ quan nầy hai vé máy bay đi Manila du hí năm ngày.

    Qua tháng sau, 1954 thủ tướng NĐD cất chức tướng Hinh và bổ nhiệm tướng Lê văn Tỵ lên thay. (Cũng là lúc thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh có công tác khác, nên những chuyện sau đây tôi không phải là chứng nhân, nhưng biết được rơ ràng.)

    Đại sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, lại yêu cầu thủ tướng Diệm nên giữ tướng Hinh lại trong quân đội. Ông Diệm từ chối. Trước sự cứng rắn của Thủ tướng, đại sứ Heath thay đổi thái độ, từ bạn ra thù ngay và gửi điện tín về Washington, tố cáo thủ tướng là bất tài, không có khả năng dung hợp…cần phải thay đổi.

    C̣n tiếp ...

  10. #40
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Nhưng lúc bấy giờ tổng thống Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia, cả đa số Lưỡng viện Quốc hội lại nhận thấy Thủ tướng Diệm có thể lănh đạo mặt trân chống Cộng ở Đông nam Á châu, nên hoàn toàn bác bỏ đề nghị của đại sứ Heath và Tổng thống Eisenhower gửi đặc sứ qua thay thế là tướng Collins, bạn thân tin của ông. Đặc sứ Collins đến Sài G̣n mang theo bức thơ của Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ một ḿnh Thủ tướng NĐD và muốn thảo luận với Thủ tướng một chương tŕnh viện trợ kinh tế quân sự qui mô hơn.

    Nhưng lại không dè tướng Collins và tướng Ely là huynh đệ chi binh từ Đệ nhị Thế chiến. Tai hại là đặc sứ Mỹ bị Cao ủy Pháp chi phối hoàn toàn, ngày một ngày hai tuớng Collins thay đổi thái độ đối với Thủ tướng NĐD, có nghĩa là ủng hộ mưu đồ “Diệm must go’’ mà thực dân Pháp đă dàn dựng từ 4, 5 tháng nay.

    Ngày 08-12-1954, hai tướng Collins và Ely vào dinh Độc lập chính thức đề nghị với Thủ tướng NĐD nên bổ nhiệm Phan huy Quát làm bộ trưởng Quốc pḥng và Bảy Viễn làm bộ trưởng Nội vụ. Tất nhiên Thủ tướng NĐD từ chối và phải từ chối, v́ nếu ông chấp nhận th́ chẳng hóa ra ông chịu thua và mất gần hết quyền hành - Quốc pḥng và Nội vụ là hai bộ quan trọng nhứt của chánh phủ nên ông đă kiêm nhiệm - để cho người Mỹ, qua ông Quát, Đại việt và người Pháp, qua Bảy Viễn, tướng cướp tha hồ giựt dây.

    Thế là lại khủng hoảng! Collins c̣n cực đoan hơn nữa. Là đề nghị với Washington: Nên đưa Bảo Đại về, đem Phan huy Quát lên làm thủ tướng thay thế NĐD và ban hành t́nh trạng khẩn trương, tập hợp các lực lượng quốc gia để thống nhứt hành động. Nếu không thực hiện giải pháp nầy được, th́ tốt hơn Mỹ nên rút ra khỏi VN.

    Không dè tướng Collins lại dứt khoát đến thế. Trong quan hệ giữa Collins và Ely, làm như có bóng một người đàn bà, tôi không rơ lắm nên không nói ra đây. Tuy nhiên trong khủng hoảng nầy tôi biết rơ một việc, ai là người đă giúp chánh phủ Mỹ khỏi sai lầm trầm trọng, đó là Thương nghị sĩ Mansfield. Nhận được phúc tŕnh và đề nghị dứt khoát, nếu không nói là cực đoan hay ngu xuẩn của đặc sứ Collins, TT Eisenhower, Hội đồng An ninh Quôc gia và Foster Dulles, bộ ngoại giao, hội nhau lại, hết sức hoang mang, như bị một búa bổ vào đầu, tóa hỏa tam tinh, nên phải kêu gọi đến ư kiến của bên Dân chủ đối lập, mà người có thớ nhứt là Thương nghị sĩ Mansfield: TNS Mansfield đến ṭa Bạch ốc góp ư: Ông Diệm là một tích sản ḿnh vừa thu nhận, dù có nhỏ bé cách mấy đi nữa th́ cũng là một tích sản, tại sao ḿnh phải phiêu lưu đi đổi với những giá trị khác, mà ḿnh mù tịt không hiểu biết hay chưa hiểu biết mảy may ǵ hết.

    Thế là Thủ tướng NĐD lại thắng, tất cả chánh phủ Mỹ đều chấp nhận ư kiến của TNS Mansfield v́ là khôn ngoan nhứt và ngày 14-12-54 chánh phủ Hoa kỳ chỉ thị cho tướng Collins: Trong t́nh thế hiện nay, không có một chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục viện trợ cho VN và ủng hộ Thủ tướng Diệm.

    Nhưng chưa hết, tướng Collins với thực dân Pháp c̣n quậy nữa, mà năng nổ quyết liệt nhứt là bảy Viễn, B́nh Xuyên.

    2.- Cương vị thứ hai. ( Công cán ủy viên bộ Tài chánh)

    (a) Tiền.

    Cuộc khủng hoảng Nguyễn văn Hinh giải quyết chưa xong hay gần xong (10-10-54) th́ thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh để giúp bộ trưởng Trần hữu Phuơng, cũng là bạn thân của tôi từ khi c̣n ở Paris, làm Công cán ủy viên, để hằng ngày theo dơi diễn tiến Hiệp định Paris, mới hợp lại để thay thế Hiệp ước Pau, cũng có nghĩa là phủ định tất cả những kư kết của Hiệp ước nầy. Nhờ đường lối dứt khoát của thủ tướng Mendès-France như ở Hội nghị Genève (20-07-1954), trong một thời gian kỷ lục hôi nghị Paris kết thúc, kư kết giữa 4 nước đêm 30 tháng 12, 1954: Pháp nh́n nhận toàn vẹn chủ quyền tài chánh và tiền tệ (hối đoái) của 3 nước Việt-Miên-Lào và cho thi hành việc bàn giao ngay trong ṿng 3 ngày, tức là ngày 02-01-1955.

    Từ rày viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo của Mỹ và các nước sẽ đi thẳng vào tay VN, không phải qua tay Pháp nữa. Nhờ theo dơi diễn tiến của hội nghị Paris rất sát– ngày 23 hay 24 tháng 12-54, bộ Tài chánh nhận được điện tín của phái đoàn VN do ông Duơng tấn Tài cầm đầu, đại khái “hoàn toàn thắng lợi và sẽ kết thúc trong ṿng 7 ngày’’, và ông bộ trưởng Tài chánh dành cho tôi cái danh dự được mang điện tín nầy vào tŕnh Thủ tướng, cùng giải thích cho Thủ tướng biết rơ những kết quả tốt đẹp của Hiệp định Tài chánh & Tiền tệ ở Paris) - nên trước đó năm bảy ngày bộ Tài chánh, do đề nghị của tôi đă giữ lại đuợc một ngân phiếu 15 triệu đô của bộ Ngoại giao Mỹ viện trợ chuơng tŕnh di cư Bắc kỳ, chờ qua mươi ngày sau bỏ vào trương mục VN ở một ngân hàng Mỹ bộ Tài chánh tự do chọn lấy, hơn là phải bỏ vào trương mục VN ở Pháp quốc Ngân hàng (Banque de France) như trước kia. Độc lập tài chánh và nhứt là tiền tệ (hối đoái) là từ đây. Từ đây chánh phủ VN được toàn quyền tổ chức cũng như quản lư tài chánh và tiền tệ của ḿnh.

    Trước đây Pháp đă viện trợ cho các giáo phái xây dựng lực lượng quân sự tất cả trên dưới 20 ngàn quân, không phải chỉ có khí giới thôi mà c̣n có một số tiền mặt khá quan trọng khác nữa. Từ đầu năm 1955, Pháp sẽ ngưng viện trợ và các giáo phái cần viện trợ phải đến với chánh phủ NĐD. Chính yếu tố tiền ở đây, dù không phải là yếu tố duy nhứt, nhưng là yếu tố quan trọng nhứt đă định đoạt lấy thái độ các giáo phái đối với chánh phủ NĐD và giúp chánh phủ NĐD thống nhứt quân đội quốc gia VN, chấm dứt t́nh trạng sứ quân do thực dân Pháp cấu tạo từ 9 năm qua.(2)

    (2) Ngày 14-01, đại tá Ng văn Huệ, tham mưu truởng của tuớng Trần văn Soái, Ḥa hảo đem 3,500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13-02-55 tuớng Trinh minh Thế, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia Cao đài dẫn 5,000 quân về với thủ tướng NĐD. Ngày 10-03-55 Thiếu tá Nguyễn văn Đầy, Lực lượng Ḥa hảo Quốc gia đem 5,000 quân và ngày 31 cùng tháng tướng Nguyễn thành Phuơng, Tổng tư lệnh Quân đội Cao đài đem toàn quân lực của ḿnh về theo thủ tướng NĐD. Tướng Nguyễn giác Ngộ, Lưc lượng Dân xă Ḥa hảo, từ 23 tháng 2 đă hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua tháng 5, khi thủ tướng NĐD dẹp xong lực lượng BX mới chịu thi hành lời hứa.

    (b) Tiền

    Trên đây là hậu quả tích cực xây dựng uy tín và củng cố quyền hành của Thủ tướng. Thủ tưởng NĐD khởi sự được các giáo phái ủng hộ, mà sau lưng các Giáo phái là cả một khối dân chúng miền Nam. Để rồi qua ngày 01-01-55, Thủ tướng kư nghị định chấm dứt đặc quyền Đại thế giới (cờ bạc) và B́nh khang (đĩ điếm) của B́nh xuyên, tức là trực tiếp phá vỡ ngay nguồn tài chánh khổng lồ, nếu không nói là duy nhứt của lực lượng B́nh xuyên. Gián tiếp nguồn tài chánh của Quốc trưởng BĐ ngày một ngày hai phải cạn kiệt: trước đây mỗi ngày BX phải đóng hụi chết cho Quốc trưởng BĐ đúng 1 triệu đồng, theo hối xuất thời đó là trên 28,500 Mỹ kim. (Từ lâu Quốc trưởng BĐ đă có một đời sống vuơng giả kiêm Playboy tại lâu đài Thorenc ở Cannes; Nam phương Hoàng hậu có tàu (Yatch), BĐ có mấy xe Sport hiệu Ư.)

    Có phải đây là một yếu tố trong nhiều yếu tố tiêu cực bắt buộc Quốc trưởng BĐ nghĩ đến chuyện cất chức NĐD, để cho bảy Viễn lên thay, thử hỏi?

    (Nói về tiền, tôi muốn nhắc đến một trường hợp ghê gớm hơn. Sau tuần lễ vàng (1945), HCM dùng một số vàng lớn, dưới mọi h́nh thức, để mua chuộc hai tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn - do Thống chế Tưởng giới Thạch sai qua VN để giải giới quân Nhựt cùng một lúc hậu thuẩn các lực lượng quốc gia như VNQD đảng, Đại việt Cách mạng…- để hoàn toàn bỏ rơi các đảng phái quốc gia, cho Việt minh lấy thế thượng phong và sát hại các đảng phái quốc gia, cướp lấy chính nghĩa giải phóng dân tộc, độc quyền yêu nước, độc quyền kháng Pháp).

    3.- Cương vị thứ ba. (Bí thư Liên kỳ bộ Cần lao Nhân vị CM đảng)

    Sau khi giải quyết khủng hoảng tướng Hinh xong và được tin tranh thủ thắng lợi giành được Chủ quyền tài chánh và tiền tệ, Thủ tướng NĐD mừng lễ Giáng sinh rất vui vẻ và lạc quan hơn. Tôi được Thủ tướng gọi đến tham dự lễ Giáng sinh, nửa đêm ngày 24 tháng 12, năm 1954, được tổ chức ngoài sân sau dinh Độc lập. Và nhứt là vinh dự được Thủ tướng đich thân chỉ định tôi ngồi hàng ghế đầu, ngay sau lưng của ông. Sau đó c̣n cho riêng tôi một món quà Giáng sinh đáng giá nữa. Biết đâu ông đă nghĩ đến chuyện giao cho tôi quyền điều hành Viện hối đoái Quốc gia (VHĐ) từ giữa đêm hôm đó ?

    Trong 4 tháng đầu năm 1955, ngoài VHĐ, phần lớn tôi để th́ giờ và tâm trí vào công tŕnh văn hóa của anh em chúng tôi, là trường Bách khoa B́nh dân, khai giảng ngày 15, tháng 11,1954. Vửa điều hành một trường sở có trên 1,200 học sinh, vừa giảng dạy 2 lớp tối, từ 6 giờ 30 đến 9,00 giờ, tôi không trực tiếp liên hệ với những biến cố hay sự kiện lịch sử xảy ra cho VN lúc đó nữa. Tuy nhiên, dù không chứng kiến, tôi vẫn theo dơi luôn và đuợc biết rơ những chuyện sau đây.

    - Ngày 12-01-55 thuơng cảng Sài G̣n được giao trả cho chánh phủ NĐD.

    - Cùng ngày 12-01-55, tướng Agostini Pháp bàn giao toàn quyền quản lư quân đội VN cho tướng Lê văn Tỵ.

    Đến đây th́ Thủ tướng NĐD xuất hiện rơ ràng như là một nhận vật có đủ khả năng tranh thủ độc lập toàn vẹn cho Quốc gia. Nhưng thực dân Pháp và tay sai chưa chịu bỏ cuộc. Bất hạnh là chính Quốc trưởng BĐ lại để cho chúng lợi dụng, nếu không nói là đồng lơa với chúng.

    Nên BĐ và Pháp thúc đẩy Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia ra đời, là ngày 03-03-1955: ngoài Cao đài, Ḥa hảo, B́nh xuyên c̣n có Bs Nguyên tôn Hoàn, Đại việt miền Nam, Phan quang Đán, đảng Dân chủ, Hồ hữu Tường… Hộ pháp Phạm công Tắc được BĐ mời lănh đạo Mặt trận..

    Phản ứng của Hoa thịnh đốn: Không thể Mỹ chi tiền mà để Pháp thao túng chánh truờng VN, nên ngày 08-03-55 TT Eisenhower tái xác nhận ủng hộ NĐD và bản sao gửi BĐ, gián tiếp khuyến cáo đừng thọt gậy bánh xe, gây khó khăn cho NĐD nữa và khuyên Thủ tướng NĐD chống lại đ̣i hỏi của Mặt trận và bảo các các giáo phái nên rút khỏi Mặt trân. Nhưng bị áp lực của B́nh xuyên và BĐ các giáo phái không nghe theo liền.

    Ngày 21-03-55 Mặt trận gửi tối hậu thơ cho Thủ tướng NĐD: trong ṿng 5 ngày, phải cải tổ nội các theo mô h́nh nhân sự của Mặt trận. Thủ tướng NĐD mời vào hội với ông, nhưng ông dứt khoát từ chối.

    Mà sáu ngày sau (27-03-55) ông c̣n cho lệnh đại tá Đỗ cao Trí đánh chiếm bộ chỉ huy Công an Cảnh sát do BX nắm giữ.

    Thế là chiến tranh giữa thủ tuớng NĐD có quân lực Quốc gia ủng hộ và BX có Pháp hậu thuẫn đă khởi sự và hai bên có cả một tháng để chuẩn bị đánh lớn, cũng gọi là hưu chiến.

    Cũng là lúc, ngoài cái nợ văn hóa (trường Bách khoa B́nh dân) và cái nợ chuyên môn (Viện Hối đoái Quôc gia) tôi mang thêm cái nợ chánh trị nữa. Đầu tháng 04, 1955, ông Ngô đ́nh Nhu, Tổng bí thư Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng (CLNVCM) đă giao hay là nhờ tôi đứng ra phát triển đảng CL (Cần lao) trong Nam và tôi đă nhận lănh, một cách tự nguyện, nhưng hết ḷng theo truyền thống của gia đ́nh “là làm cái ǵ phải làm đến nơi đến chốn, không làm th́ thôi’’ và tôi đă khởi sự ngay, là thành lập Liên kỳ bộ Nam Bắc việt, bí thư là Chí nguyện,

    Đến lúc cuộc khủng hoảng B́nh xuyên đến hồi gây cấn nhứt, nghĩa là có đánh nhau, có đổ máu… là cơ hội thử lửa (Baptême du Feu) cho Liên kỳ bộ Nam Bắc việt vừa mới thành lập với một tiểu tổ cơ bản và đầu năo, gổm 8 thành viên. Nhưng với bao nhiêu đó Liên kỳ đă tích cực ủng hộ chiến dịch đánh B́nh xuyên, bất chấp thiết quân luật Liên kỳ đă đi rải khắp các nẻo đừơng Sài G̣n/ Chợ lớn và Gia định cả ngàn tờ ‘’hịch’’ tố cáo tội ác của B́nh xuyên trong 8 năm qua. (Toàn là sự thật, không một chút tuyên truyền láo).

    Và như chúng ta biết, biến cố B́nh Xuyên lại kéo theo sau sự kiện Truất phế Quốc truởng Bảo Đại. Lại thêm một cơ hội nữa cho Liên kỳ tập sự nhún tay vào chánh trị, là giúp củng cố chánh quyền NĐD và giúp công xây dựng nền móng cho ṭa nhà Đệ nhứt Công ḥa của miền Nam VN, luôn luôn không quên những cán bộ CS để lại miền Nam. (V́ thế mà Liên kỳ vội bỏ đô thành Sài G̣n/Cholon để trọng tâm vào các tỉnh miền Tây).

    Trên đây là hai biến cố hết sức quan trọng mà với sự hạn hẹp của một con người, cá nhân tôi ở cương vị bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, dù muốn dù không cũng đă trở thành chứng nhân như nhiều nhân chứng khác, nếu không nói là trực tiếp tham gia vào những biến cố lịch sử VN trong khoảng thời gian đó.

    Tiếp tục chủ trương triệt hạ quyền lực B́nh xuyên, sau khi cải tổ Nội các (24-04-1955) có sự tham gia của Ḥa hảo (Trung tướng Trấn văn Soái và ông Lương trọng Tường) và Cao đài (Thiếu tướng Nguyền thành Phương), ngày 25 tháng 4, 1955 Thủ tướng NĐD ra sắc lệnh cách chức Lai văn Sang, Tổng giam đốc CS Quốc gia. Như thế tức là tấn B́nh xuyên vào vách tường. Cũng là lúc đặc sứ Collins v́ quá bất măn với Thủ tuớng NĐD nên đi về Washington để ráo riết vận động cho cả Chánh phủ Mỹ chuyển hướng 180 độ, tức là ‘’Diệm must go’’ cho kỳ được, và lần nầy ông thành công. Rơ ràng ṭa Đại sứ Mỹ ở Sài G̣n đứng về phe Thực dân Pháp là tướng Ely, Bảy Viễn…hơn là phe Quốc gia của Thủ tướng NĐD.

    Ba ngày sau là ngày 28-04-55, BX a) khai chiến, pháo kích vào dinh Đôc lập. Cùng một lúc, BĐ gửi điện tín b) triệu ông Diệm và tướng Tỵ qua Pháp để tường tŕnh về t́nh h́nh trong nuớc và c) bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân Đalat làm Tổng tư lệnh quân đội Quốc gia VN thay thế tướng Nguyễn văn Hinh, được toàn quyền sử dụng mọi phuơng tiện cần thiết để giải quyết cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Diệm và các giáo phái. Lưu ư: Ba sự kiên a,b, c ghi trên hoàn toàn ăn khớp với nhau. Cùng ăn khớp với vận động thành công của tướng Collins ở Wahington, ‘’Diệm must go’’.

    Đặc biệt lưu ư đến chi tiết nầy: Thay thế tướng Hinh, tức là hoàn toàn phủ nhận quyền hành của Thủ tướng, coi chuyện Thủ tướng NĐD bổ nhiệm tướng Tỵ như ‘’ne pas’’. Như thế chẳng hóa ra là cất chức Thủ tướng rồi c̣n ǵ nữa? Chuyện triệu Thủ tướng qua Pháp, không với ai khác mà là với tướng Tỵ, vừa được thủ tướng bổ nhiệm Tổng tham mưu Quân đội Quôc gia VN. Đúng là một tiểu xảo chánh trị bất xứng.

    Được lệnh của Quốc trưởng BĐ, Thủ tưởng Diệm đă khôn ngoan, t́m được một lực lượng vô song để đương đầu với Quốc trưởng, không c̣n là Quốc truởng của một nuớc, của Quôc dân nữa mà là đại diện cho một tập đoàn Thưc dân rất hùng hậu. Lực lượng vô song nói ở đây là Quốc dân.

    Một điều cần nói ở đây là khi Thủ tướng đi t́m một lực lượng vô song đó không phải là không có cố vấn của CLNVCM đảng, lúc đó là ai? Là Ngô đ́nh Nhu, là Trần quốc Bữu, Trần trung Dung, Trần chánh Thành, có cả BS Bùi kiện Tín và ai ai nữa…cả nhóm Tinh thần, trong đó có Bs Huỳnh kim Hữu. Biết rằng tất cả những nhân vật nầy không một ai gia nhập Cần lao, nhưng đều chấp nhận chủ trương của ông Ngô đ́nh Nhu và do ông Nhu chi phối theo đường hướng Cần lao của ông..

    V́ đó mà Thủ tường NĐD cấp tốc triệu tập các Chánh đảng và Nhân sĩ Quốc gia, ngày hôm sau là ngày 29-04-1955, để xin ư kiến: Nên tuân lệnh Quốc trưởng BĐ triệu qua Pháp hay không? Như thế tức là muốn đặt Hội nghị trước một sự chọn lựa dứt khoát: Bảo Đại hay là Ngô đ́nh Diệm ?

    Ở đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của Hội nghị, chưa bao giờ miền Nam có một Hội nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu không nói là chính đảng và có những 34 nhân sĩ tên tuổi. (3)

    (3) 18 chánh đảng là: - Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc hội – Thanh niên Quôc dân Xă VN –VN Dân chủ Xă hội – Phong trào tranh thủ Độc lập VN –Phụ nữ Quốc dân xă VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng – Tịnh độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân chúng Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân – Nhóm Tinh thần – Xă hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN –Cựu Chiến sĩ Kháng chiến VN – Nghiệp đoàn Kư giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ Tỉnh /B́nh. Rất tiếc là không c̣n đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số những nhân sĩ nầy tôi quen thân với BS Huỳnh kim Hữu và ông Huỳnh minh Y, bố vợ anh Huỳnh sanh Thông và anh Dư phước Long và năm ba nhân sĩ nữa, toàn là người Nam kỳ.

    (c̣n tiếp Phần Sự thật lịch sử)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Nh́n lại cuộc chiến Việt Nam
    By alamit in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 45
    Last Post: 22-08-2012, 04:59 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 28-07-2012, 04:08 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 19-08-2011, 12:59 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •