Page 5 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 41 to 50 of 57

Thread: Đôi Ḍng Nh́n Lại Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa Ngô Đ́nh Diệm

  1. #41
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Sự thật lịch sử

    Phần đọc thêm 6, bài của ông Huỳnh văn Lang
    Nguyên Giám đốc Vịên Hối Đoái Đệ Nhất Cộng Hoà


    Như thế có thể khẳng định tính cách đại diện bao quát của dân miền Nam. Dù biết rằng có những đảng chánh trị chỉ có vài ba chục đảng viên và không có một cây súng trong tay để đánh Pháp và chống CS Việt minh. Tuy nhiên cũng được cả năm bảy đoàn thể chánh trị có thực lực, nghĩa là có cả ngàn nếu không nói là mấy chục ngàn đảng viên và có năm bảy ngàn cây súng. Đó là VN Dân xă đảng Ḥa hảo do bí thư Nguyễn bảo Toàn (Nguyễn giác Ngộ) đại diện, VN Phục quốc hội Cao đài do đại tá Hồ hán Sơn (Nguyễn thành Phưong) đại diện và Mặt trân Quốc gia Kháng chiến VN do Nhị Lang (Tŕnh minh Thế) đại diện và Tịnh độ cư sĩ do Đoàn trung C̣n đại diện. Đặc biệt là có những đoàn thể thanh niên, phụ nữ và trí thức. Nói được là gần toàn dân miền Nam có đại diện chánh thức đến phó hội. Cũng có vài gương mặt Bắc kỳ di cư, nhưng thiết nghĩ không có đại diện cho di cư Bắc kỳ v́ khi đó Bắc kỳ di cư chưa định cư.

    Ngày 29-04-1955, đúng 10 giờ hội nghị gồm đúng 52 đại diện cho 18 đảng phái và 34 nhân sĩ khai mạc tại pḥng khánh tiết dinh Độc lập. Thủ tướng NĐD từ trên lầu đi xuống và có mấy lời: Cám ơn và nêu lư do mời đến hội, để rồi xin rút lui để tất cả hội viên tự do thảo luận. Nói xong vài câu Thủ tướng NĐD bỏ lên lầu, không muốn ở lại, e có thể gây ảnh hưởng thế nầy hay thế nọ.

    Hôi nghị bắt đầu làm việc ngay là bầu:

    Chủ tọa đoàn: ông Nguyễn bảo Toàn, bí thư Dân xă đảng, Ḥa hảo.

    Thư kư: ông Phạm việt Tuyền, nhà báo.

    Và họ đă nghiêm chỉnh làm việc.

    (Sáng ngày hôm đó c̣n có 3 trái pháo kích BX bắn vào dinh Đôc lập, có một trái nổ ngay đúng lúc Hội nghị bắt đầu làm việc)

    Nhưng đang khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương tŕnh nghị sự, th́ ông Nhi Lang đứng lên tuyên bố:

    “Thưa quí vị, tôi được chỉ thị đoàn thể chúng tôi là Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN đến đây gặp quí vị không phải đề nói chuyện về việc Thủ tuớng NĐD có bổn phận hay không bổn phận thi hành lệnh của Bảo Đại. Mà là trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề là đă đến lúc chúng ta cần trút bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng kia đi. Là v́ ông ta đang làm một việc trái với nguyên tắc lănh đạo quốc gia. Thử hỏi, thành phố Sài G̣n đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao ông BĐ lại chọn ngay lúc nầy để bắt buộc Thủ tướng phải bỏ nước sang bên Pháp xa xôi kia, để ‘’tham khảo ư kiến?’’ Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây là mưu kế để nhắm lật đổ Chánh phủ nầy? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quí vị bằng ḷng thảo luận việc truất phế Bảo đại ngay bây giờ, th́ tôi ở lại. Bằng không, tôi xin phép ra khỏi pḥng hội nầy ngay!’’.

    Lúc bấy giờ cả cử tọa sửng sốt hay bàng hoàng trước đề nghị quá táo bạo của Nhi Lang, cũng vừa lúc đại tá Hồ hán Sơn, đại diện tướng Cao đài Nguyễn thành Phương đứng lên và tuyên bố tiếp:

    “Nhân danh Việt Nam Phục Quốc hội, chúng tôi đồng ư với mặt trận Quốc gia kháng chiến, yêu cầu quí vị đừng bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lư của Bảo đại nữa, mà hăy đồng tâm làm một cuộc cách mạng, chấm dứt ngay vai tṛ của ông Quốc trưởng BĐ kia đi cho xong. Nếu ư kiến nầy không được hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!’’

    Đến đây th́ toàn thể cử tọa không c̣n rụt rè nữa, nhứt là khi chủ tọa đoàn Nguyễn bảo Toàn cũng đứng lên tuyên bố hoàn toàn ủng hộ sáng kiến của hai ông Nhị Lang và Hồ hán Sơn, nên đều hoan hô lên, trăm người như một, có người c̣n la lên đă đảo Bảo Đại và có người cởi giày ném vào mặt bức h́nh BĐ treo cao giữa pḥng. Ông Vũ văn Mẫu, một giáo sư Bắc kỳ, với một nhân sĩ nữa chạy lại cồng kền Nhị lang lên vai và bảo đứng lên gỡ bức ảnh đi. Ông Nhị lang cực khổ lắm mới hạ đuợc bức ảnh đồ sộ của Quốc trưởng và ném xuống đất.

    Sau mươi phút sôi nổi, ồn ào… hội nghị ngồi lại để bầu ra một Ủy ban Cách mạng Quốc gia, gồm 3 nhân vật đầu năo là Nguyễn bảo Toàn, Chủ tịch, Hồ hán Sơn, Phó chủ tich, Nhị lang làm Tổng thư kư.

    Với sự đóng góp của nhiều cố vấn, một giờ sau Ủy ban đă thảo xong một bản Kiến nghị.

    Và sau khi nghe Chủ tịch Nguyễn bảo Toàn đọc hai lần, tất cả hội viên là 52 người đều chấp nhận và kư tên.

    Xong rồi th́ các hội viên yêu cầu Chủ tịch đi lên lầu mời Thủ tướng NĐD xuống để nghe kết quả của nghị hội.

    Thủ tuớng NĐD xuống lầu, tất cả mọi người đều đứng lên, ông đứng trước cử tọa, mặt xẩm xuống, vẻ buồn buồn hơn là lo âu, bầu không khí bỗng chốc trở nên yên lặng lạ thường…

    Chủ tịch Ủy ban vừa cảm động vừa quả quyết đọc lớn cho mọi người đều nghe:

    Thay mặt cho toàn thể Hội nghị, tôi xin tŕnh Thủ tướng kết quả của Hội nghị là bản Kiến nghị gồm 3 điểm nầy:

    Kiến nghị:

    1.- Truất phế Quốc trưởng Bảo đại

    2.- Giải tán Chánh phủ Ngô đ́nh Diệm

    3.- Ủy nhiệm chí sĩ Ngô đ́nh Diệm thành lập chánh phủ mới để trừng trị bọn phiến loạn B́nh xuyên, thu hồi chủ quyền quốc gia, yêu cầu triệt thoái quân đội viễn chinh Pháp và tổ chức bầu cử quốc dân đại hội.

    Làm ngày 29, tháng 04, 1955

    Đại diện 18 chánh đảng và đoàn thể cùng 34 nhân sĩ kư tên:

    Vừa nghe Truất phế Quốc trưởng BĐ, mọi người đều thấy mặt Thủ tướng đỏ lên rồi lần lần biến sắc. Ông hoàn toàn bị cú sốc. Nghe xong thấy ông lặng người, tay nhận lấy bản kiến nghị và cố gắng lấy lại b́nh tỉnh, hết sức chẫm răi trả lời gần như từng chữ một: Xin quí ngài cho tôi… được có th́ giờ… suy nghĩ kỹ… về vấn đề trọng đại nầy! Xin cám ơn quí ngài!

    Sau đó các hội viên lần lượt êm lặng đến bắt tay từ giă Thủ tướng, thấy vẻ mặt ông âu lo rơ ràng…. lúc đó là 5 giờ chiều. Hội nghị đă kết thúc và giải tán.

    Đến đây th́ cuộc Cách mạng kể như là xong và Thủ tướng Diệm bị đặt trước một sự đă rồi. Vốn Thủ tuớng NĐD chỉ muốn dẫn vào nhà một con tuấn mă để nhờ giúp qua suối, không dè nh́n lại là một con bạch hổ, ông không cỡi th́ nó sẽ thịt ông, nhưng nếu ông dám leo lên lưng nó, th́ chỉ một cái nhảy vọt nó đưa ông lên tới đĩnh núi cao vời vợi. Thật ra khi đến giai đoạn nầy Thủ tướng NĐD vẫn c̣n nghĩ đến một chế độ Quân chủ lập hiến, chưa nghĩ đến một chế độ Công ḥa, cái đó là chắc. Thành ra khi biết chuyện Truất phế là sự đă rồi, ông không tái mặt làm sao được!

    C̣n tiếp ...

  2. #42
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Chiều tối lại, lúc 8 giờ đài phát thanh Sài G̣n đưa tin cho toàn quốc và Thế giới biết ở miền Nam VN đă xẩy ra cuộc cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại. Cùng một lúc Ủy ban Cách mạng Quốc gia kêu mời các nhân sĩ và đồng bào ngày hôm sau đến hội tại ṭa Đô chánh Sài G̣n để nghe Ủy ban thuyết tŕnh về biến cố lịch sử vừa xảy ra.

    Và ngày hôm sau, từ sớm các giới nhân sĩ, các đại diện các chánh đảng, thanh niên sinh viên phụ nữ, báo chí.. phấn khởi tụ tập đầy nghẹt pḥng khánh tiết ṭa Đô chánh Sài G̣n. Ông Nguyễn bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị lang thuyết tŕnh về Cuộc Cách mạng Truất phế BĐ ngày hôm trước, tất cả cử tọa đều nhiệt liệt hoan hô, triệt để ủng hộ.

    Và thêm một màn hạ bệ Bảo Đại một lần nữa, có người bắt thang leo lên gỡ bức ảnh to tướng h́nh Quốc trưởng BĐ treo trước cửa ṭa nhà và ném xuống đất, rồi có những thanh niên nhảy lên dậm đạp cho nát bét (Tôi đă chứng kiến màn hạ bệ do anh bạn ĐTC điều khiển). Đang khi đó ba tướng Nguyễn giác Ngộ (Ḥa hảo), Nguyển thành Phuơng (Cao đài) và Trịnh minh Thế (Mặt trận Quốc gia Kháng chiến) được Ủy ban Cách mạng giới thiệu, đứng ra tŕnh diện để công chúng hoan hô, như là những anh hùng đă tạo ra thời thế. Và chúng tôi đă nghĩ vậy, v́ sau lưng của Ủy ban Cách mạng đă có ba tướng nầy cho ư kiến, nếu không nói là cho chỉ thị, nên ba ông đại diện Nguyển bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị Lang đă hành động, đă lên tiếng hết sức đồng nhịp với nhau (synchronized) và nhờ vậy mà lôi kéo tất cả Hội nghị một cách dễ dàng, nhứt là khi các thành phần hôi nghị đă sẵn có tiềm thức phản hoàng rồi.(5)

    (5) Vốn cái ư phức phản hoàng nầy có trong Nam từ thời vua Tự Đức tức là gần cuối thế kỷ 19 khi vua Tự Đức nhượng cho Thực dân Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 t́nh miền Tây Nam kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng quá. Rồi đến khi phong trào Kháng Pháp trong Nam, như của Thủ khoa Huân, của Trương công Định, của Thiện hộ Dương, của Cố quản Trần văn Thành… lại bị triều đ́nh nhà Nguyễn bỏ rơi gần như hoàn toàn. Đề rồi qua đầu thế kỷ 20, phong trào Tây học, như các nhà cách mạng Đệ tứ Nguyễn an Ninh, Nguyễn văn Nguyễn, Tạ thu Thâu, Hồ hữu Tường và nhứt là Phan chu Trinh đă gieo rắc trong Nam nhứt là trong giới trí thức ư thức phản hoàng hay Cộng ḥa. Ngoài ra chế độ thuộc địa Pháp là chế độ thuộc địa có văn hóa cộng ḥa hơn là quân chủ, cho dù nó phát xuất từ thời Napoleon III.…

    Đến đây th́ cuộc Cách mạng đă được chánh thức hóa bằng một văn kiện có rất nhiều chữ kư rất nặng giá v́ đại diện cho nhiều đoàn thể chánh trị hay quần chúng và công khai hóa bằng đài phát thanh, bằng sự xác nhận trước công chúng của thủ đô Sài G̣n/ Chợ lớn. Như thế phải nh́n nhận là cuộc Cách mạng nầy đă thành tựu một cách tuyệt đối rồi. (Period, Point final).

    Và theo tôi cuộc Cách mạng nầy là biến cố lịch sử quan trọng nhứt từ ngày Việt Minh cướp chánh quyền trên tay Chánh phủ Bảo đại/ Trần trọng Kim tại Sài G̣n ngày 23-08-45 (ở Hà nội là ngày 19 tháng 8, 1945) 10 năm truớc, v́ nó có tính cách quyết định, dù chỉ là đập đổ, san bằng. Nhưng muốn xây dựng cái ǵ th́ phải đập đổ và san bằng trước cái đă. Đó là một lẽ tất nhiên. C̣n chuyện xây dựng là chuyện của hồi sau.

    Cuộc Cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại nầy là tác động của dân miền Nam nói chung, trong đó quần chúng Nam kỳ lục tỉnh qua các đại diện của họ đă đóng một vai tṛ chủ động, không ai có thể chối căi điều đó. Dù là tiêu cực hay là đập đổ và san bằng, nhưng tích cực là nó đă dọn đường cho sự h́nh thành ra Đệ nhứt Cộng ḥa, v́ ngay lúc đó chính Thủ tướng NĐD c̣n nghĩ tới chế độ Quân chủ lập hiến.. Nhưng tai hại vô cùng, chỉ năm năm sau cũng chính quần chúng Nam kỳ lục tỉnh (không quơ đũa cả nắm) qua Mặt trận Giải phóng Miền nam đă đóng một vai tṛ qua ư quan trọng, dù không phải là chủ động đă khởi sự tàn phá, không phải ch́ Đệ nhứt CH mà cả Đệ nhị CH nữa. Sau 15 năm dọn đường, đúng hơn là làm cổ sẵn cho CS Miền Bắc thôn tính hoàn toàn, đúng hơn là thuộc địa hóa miền Nam, cho đến bao giờ?

    Truất phế BĐ là một tác động Cách mạng sáng suốt hợp t́nh hợp lư bao nhiêu, th́ tác động gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, là một cái sai lầm ghê gớm, nếu không nói là ngu xuẫn tày đ́nh bấy nhiêu, như lịch sử 34 năm qua đă chứng minh quá hùng hồn, v́ hệ lụy tai hại vô cùng, cho quyền lợi, cho cả quyền làm người của dân miền Nam nói chung và dân Nam kỳ lục tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, tôi c̣n hy vọng, dù mong manh đi nữa, sẽ có ngày quần chúng miền Nam nói chung và Nam ky lục tỉnh nói riệng sẽ đứng lên làm một cuốc Cách mạng nữa. Và lần nầy là một cuộc Cách mạng vô cùng thiết yếu cho sự sống c̣n của cả một dân tộc VN, không riêng ǵ cho miền Nam hay Nam kỳ lục tỉnh. Đó là sứ mạng của lịch sử giao phó cho dân miền Nam, không riêng ǵ người trong nước hay ở hải ngoại.

    Ở đây cũng nên nhắc lại những biến cố rất quan trọng sau đây, nhưng tôi kể là bên lề v́ nó không có tính cách quyết định, nó như là mấy màn của một tấn bi hài kịch lịch sử mà các diễn viên, từ những tên lưu manh hạng nặng, những nhà ngoại giao ngu ngơ, cho đến những chánh trị gia lổi lạc phi thường, những anh hùng rất thông minh và can trường… mà vai nào cũng đặc sắc cả, đặc sắc ở đây không có nghĩa là vai tṛ nào cũng tốt đẹp đáng vỗ tay.

    Đầu tiên là chuyện của một ông tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân, Đà Lạt, được Quốc trưởng BĐ bổ nhiệm ngày 28, tháng 04 - cùng một lúc triệu Thủ tướng Diệm và Tổng Tham mưu Lê văn Tỵ qua Pháp – làm Tổng tham mưu quân đội Quôc gia VN thay thế tướng Hinh được toàn quyền hành động. Được bổ nhiệm xong, tướng Vỹ vội kéo Ngự lâm quân về ngay Tổng tham mưu bắt tướng Tỵ, kéo vào dinh Gia long toan lật đổ chánh phủ NĐD. Lúc đó là 6 giờ chiều. Nhưng ngẫu nhiên Ủy ban Cách mạng, sau khi tŕnh diện ở ṭa Đô chánh đă đổi tên là Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia kéo nhau vào dinh Độc lập và một lần nữa Nhị lang lại là người táo bạo nhứt dám dùng một khẩu súng tay (chưa chắc đă lên đạn), bắt tướng Vỹ phải đưa tay lên đầu hàng, nghĩa là cuộc phản đảo chánh cùa tướng Vỹ bỗng chốc hóa ra mây khói..

    Đến đây đúng là tṛ hề, v́ mới năm phút trước tướng Vỹ áp lực Thủ tuớng NĐD từ chức, bây giờ ông phải nhờ Thủ trướng che chở cho ông khỏi mất mạng. Để rồi đầu hàng Cách mạng, kư cả hai tay giấy cam kết trở lại hợp tác với Thủ tướng. Nhưng hai ba giờ sau lại phản phé, muốn lật ngược lại thế cờ. Song đến chừng đó th́ không c̣n một ma nào coi ông có chút ǵ nghiêm chỉnh cả, nên mọi người đều bỏ rơi ông, bắt buộc ông phải cuốn gói rút quân chạy về Đà lạt, lúc đó đă 3 giờ sáng.

    Chuyện thứ hai là chuyện của một ông đặc sứ Collins của TT Eisenhower. Sau khi không chinh phục được Thủ tuớng Diệm theo đề nghị ngu ngơ cải tổ chánh phủ của ḿnh, ông tự cho ḿnh bị khinh bạc, mất mặt với bạn bè chi binh, biết đâu lại không có miệng lưỡi của một mụ đàn bà xúi bậy vào…ông vội bỏ VN trở về Mỹ chính hai ngày trước khi BX khởi chiến. Ông về Mỹ ráo riết vận động với Quốc hội, với bộ Ngoại giao, với hội đồng An ninh Quồc gia và triệt để khai thác t́nh tự bạn chi binh với chính TT Eisewhower. Sau 5 ngày vận động không ngừng nghỉ, ông thành công: TT Eisenhower gửi tối hậu thư tuyên bố “Diệm must go’’ để ông Đặc sứ mang về Sài G̣n, phổ biến cho các đảng phái liên hệ, cũng có thể như là món quà đáng giá triệu đô cho bạn chi binh của ông là tướng Ely và nhứt là cho Bảy Viễn.

    Nhưng không ai dè, chính trong thời gian ông ở Mỹ thủ tướng NDD đă kư sắc lệnh mở chiến dịch Hoàng Diệu do đại tá Duơng văn Minh làm tư lệnh, để phản công B́nh Xuyên và ngày một ngày hai quân đội Quốc gia VN đă đánh bật hai trung đoàn BX ra khỏi địa bàn Sài G̣n/Chợ lớn, tàn quân BX rút chạy vào Rừng Sát, hoàn toàn tan ră và chiến dịch đă kết thúc trong ṿng mươi ngày và ngày mùng 8 tháng 5 đại tá Dương văn Minh kéo quân khải hoàn về. Quân đội Quốc gia tổn thất vài mươi sinh mạng. Chẳng may lại mất một tướng tài, cũng là một nhà chánh trị đầy hứa hẹn.

    Sáng ngày 02-05-1955 tướng Tŕnh minh Thế kéo quân qua cầu Tân thuận để truy kich quân binh BX, một người lính Pháp trong tàn quân BX bắn sẻ từ bên kia cầu, tướng Thế chết ngay trên “command car’’. (Sau nầy người Pháp có bắn tin là đă trả được thù cho tướng Chanson và Thái lập Thành, tay chơn của Pháp, v́ hai nhân vật nầy đă bị quân của tuớng Thế ám sát chết ở Sadec năm bảy năm trước.)

    Sau khi thành công xoay chuyển Wahington hơn 180 độ, tướng Collins hớn hở bay về VN. Trên con đường bay về Sài G̣n th́ Washington được tin thủ tướng NĐD với quân đội Quốc gia trung thành, như vũ như băo phản công BX mà chiến thắng ở trong tầm tay của Thủ tướng rơ ràng. Đánh BX để chứng minh Thủ tướng có đủ bản lănh và tài ba để ổn định t́nh thế, bất chấp những mưu mô lươn lẹo của thực dân Pháp và cố chấp ngu ngơ của tướng Collins. Cho nên Washington lập tức phải trở lại ủng hộ thủ tướng NĐD c̣n hơn trước (statu quo ante) và đă vội vả đánh một diện văn khác để thủ tiêu bức thơ của Collins đang cầm tay.

    Cho nên khi ông Đặc sứ vừa xuống phi trường TSN th́ cũng vừa lúc một nhân viên ṭa đại sứ chạy đến tŕnh cho ông một diện văn hỏa tốc. Ông phải mở ra xem liền, tôi không thấy gương mặt của ông đặc sứ Collins lúc bấy giờ, nhưng tôi chắc là ông phải đổ mồ hôi hột, dù trời Sài G̣n tháng 5 không nóng lắm, nhưng có thể ông cảm tưởng là đă tới tháng 8 rồi! Tội nghiệp cho ông Đặc sứ, quá nhiều ego (tự ái), làm mất sáng suốt!)

    Đến đây th́ phải nh́n nhận là trên thực tế chế độ quân chủ của nhà Nguyễn với 13 triều đại (1802-1954) đă thật sự cáo chung, sau một thời gian 9 năm (1945-1954) hấp hối. Vốn độc lập của VN do quân đội Nhựt ban cho (09-03-1045) , không do tranh đấu, do hi sinh mà được, tất nhiên không giá trị bao nhiêu, nên Nguyên thủ quốc gia phung phí một cách vô ư thức là phải.

    Tuy nhiên trong mấy tháng độc lập quốc gia (09-03 đến 24-08-1945), chánh phủ Trần trọng Kim cũng làm được một việc cho quốc dân là Cải tổ hệ thống giáo dục quốc gia theo định hướng dân tộc.

    Nhưng cùng một lúc làm một việc vô cùng tai hại cho quốc dân nhứt là ở miền Nam kỳ lục tỉnh. Vốn ngày 02-05-1945, Hoàng đế Bảo đại đă kư sắc luật phóng thích tất cả tù nhân chánh trị, mà trong đó 90% là cán bộ CS, bị Pháp giam giữ ở Côn đăo từ phong trào Soviết-Nghệ tỉnh (1929-30) và cuộc nổi dậy trong Nam (1939-1940) của Đệ tam Quôc tế, mà tổng số lên đến trên 10,000. Nhờ đó mà ngày một ngày hai (tháng 6, tháng 7, 1945) cả mấy ngàn cán bộ CS, (trong đó có Lê Duẫn, Tôn đức Thắng, Phạm Hùng, Lê văn Lương…toàn là cán bộ cao cấp), sau nhiều năm tôi luyện vừa lư thuyết vừa kỹ thuật hành động được đón tiếp nhiệt liệt trở về Cần thơ, Sóc trăng, Trà vinh…để rồi làm ung thúi chánh trường miến Nam, đưa VM nắm lấy thế thuợng phong, đàn áp các Giáo phái, giết hại các nhà ái quốc chân chính, cướp lấy chánh nghĩa quốc gia, thầu công cuộc kháng Pháp cho đến Điện biên phủ, tháng 5, 1954.

    4.- Cương vị thứ tư là một cương vị hỗn hợp.

    Khi tôi vừa điều khiển VHD, các trường BKBD và Hội Văn hóa B́nh dân, với chức vụ Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, tôi đă trở thành một cố vấn đa dạng (tiền tệ, văn hoá và an ninh) của Thủ tướng NĐD. Ở đây tôi không nói tôi đă làm những ǵ, tôi chỉ nói đến những ǵ tôi thấy tôi nghe, cũng là chứng nhân cho những biến cố lịch sử kể ra sau đây.

    Thật ra từ đây vai tṛ của CLNVCM đảng càng ngày càng trở nên quan trọng và rơ ràng hơn. Nói đến Cần lao trong giai đọan nầy, ngoài lư thuyết Nhân vị, không phải chỉ là những thành viên đầu năo của nó là Ngô đ́nh Nhu, Trần quôc Bửu, Trấn chánh Thành, Trần trung Dung, và trong chừng mực hạn hẹp của nó là Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, (thành lập từ đầu tháng 04, 1955 và giải tán đầu năm 1958), mà c̣n phải kể những đoàn thế do Cần lao lănh đạo, như Tập đ̣an Công dân, Phong trào Cách mạng Quốc giai… Tất cả đều nh́n nhận Thủ tướng sau là Tổng thống NĐD làm lănh tụ tối cao, biểu tượng cho chính nghĩa Quốc gia hay Dân tộc, chống lại HCM, biểu tượng cho chủ nghĩa Quốc tế Mac-lêninit (4)

    (4) (Cũng lạ là trong những cuộc khủng hoảng vừa kể trên những người cận kề bên ông Diệm nhứt toàn là người Trung hay người Bắc, chỉ có một ḿnh tôi là người Nam, mà cuộc Cách mạng Truất phế BĐ lại hoàn toàn là do tác động của người miền Nam. Có phải v́ thế mà thủ tướng Diệm phải suy nghĩ cả 2 tháng mới khởi sự hành động một cách dứt khoát với BĐ.)

    Và thành tích cụ thể và rực rỡ nhứt cùa CL, là cuộc Trưng cầu Dân ư, kéo theo là Quốc hội lập hiến với Hiến pháp 1956 của nó, cũng là cái ID (lai lịch) của Đệ nhứt Cộng ḥa của miến Nam (1956-1963).

    a.- Trưng cầu dân ư.

    Ngày 22 tháng 10, thủ tuớng NĐD qua hệ thống truyền thanh đă kêu gọi quốc dân ngày hôm sau nên dùng cái quyền tự do của ḿnh, cũng là nhiệm vụ của người công dân, phải đi đầu phiếu để chọn lưa giữa Quốc trưởng BĐ và ông, tức là chọn một thể chế Quân chủ hay Cộng ḥa.

    Và ngày 23 tháng 10, 1954 quốc dân miền Nam đă nhiệt liệt huởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng NĐD, náo nức kéo nhau đi đầu phiếu và kết quả hết sức tốt đẹp cho thủ tướngNĐD:

    5,838,907 cử tri đi bầu.

    5.721.735 lá phiếu Truất phế Quôc trưởng BĐ và bầu NĐD lên thay thế, như là Quốc trưởng VN.

    Như thế Thủ tướng NĐD thu về cho ḿnh gần 98% số phiếu đi bầu. Thật ra th́ Thủ tướng Diệm không cần đến một phân xuất cao đến thế. V́ ai ai cũng đinh ninh ông thắng và thắng lớn.

    (Ai nói ǵ th́ nói theo tôi kết quả hay những con số nầy hoàn toàn trung thực với ư người dân, nếu có một hai thùng phiếu không hợp lệ v́ nhân viên chánh quyền quá sốt sắng đến chỗ ngu xuẩn, th́ chỉ là một con số quá nhỏ, không đáng kể.)

    Như thế Quốc dân miền Nam muốn chấm dứt chế độ Quân chủ và ủy nhiệm cho ông NĐD nhiệm vụ thiết lập chế độ Cộng ḥa dân chủ. Cho nên cách nầy hay cách nọ Truất phế Quốc trưởng BĐ như là mẹ đẻ ra các Biến cố lịch sử kế tiếp, như là một quá tŕnh tiến hóa chánh trị bất di bất dịch của lịch sử.

    Ngày 26 tháng 10, 1955, Thủ tướng NĐD tuyến bố Hiến chương tạm thời, theo đó từ rày VN là một nước Cộng ḥa, người lănh đạo là Quốc trưởng kiêm luôn chức Thủ tướng, tức là Tổng thống nước Việt nam Cộng ḥa.

    Đến đây th́ uy tín của Thủ tướng lên đến tuyệt đỉnh, trong nước cũng như trên thế giới, v́ tuyệt đại đa số Quốc dân ủng hộ ông. Nhờ đó mà ộng giải quyết tất cả các vấn đề tồn kho với Pháp để hoàn thành độc lập Quốc gia trọn vẹn: a) Pháp phải giao trả lại cho VN hoàn toàn chủ quyền tiền tệ tài chánh (VN không c̣n phải ở trong khu vực đồng quan Pháp nữa), b) chủ quyền Ngoại giao (Cao ủy Pháp được giải tán, từ rày tướng Ely chi là một đại sứ, bộ Ngoai giao VN giao thiệp thẳng với bộ Ngoại giao Pháp) và c)chủ quyền Quốc pḥng, quân đội Pháp lục tục rút quân cho hết trong ṿng 6 tháng-

    b-Xây dựng chế độ Cộng ḥa.

    Ngày 23-01-56 Thủ tướng kư nghị định tổ chức bầu Quôc hội lập hiến.

    Ngày 04-03-56, Quốc dân miền Nam nhiệt liệt hứng khởi đi đầu phiếu, bầu 123 dân biểu cho Quốc hội Lập hiến.

    Ngày 26-10-56 tân Hiến pháp được công bố.

    Nước Việt nam Cộng ḥa ra đời, Thủ tướng NĐD được xác nhận là Nguyên thủ Quốc gia, dưới danh xưng là Tổng thống, kiêm chức vụ Thủ tướng, với 2 nhiệm kỳ là tối đa, mỗi nhiệm kỳ là năm năm.

    C̣n tiếp ...

  3. #43
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    (Tài liệu của Việt cộng trong việc móc nối Dương văn Minh)

    Phần đọc thêm 7


    Trong phần trên của Đôi ḍng nh́n lại, tôi đă đưa dẫn chứng trong cuốn hồi kư “Cuối đời nh́n lại”...của 1 cán bộ cao cấp trong Trung ương Cục miền Nam của Việt cộng tên Nguyễn thành Thơ, nói vế việc cho Dương văn Nhật em ruột Dương văn Minh vào Saigon gặp Dương văn Minh và tiến hành việc móc nối để đưa để sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng ḥa.

    Nay tôi nhận đuợc từ một người bạn ở miền Đông Hoa Kỳ cho đọc một tài liệu mật của Cộng sản VN, về Dương văn Minh.

    Tôi xin đưa vào Phần đọc thêm, để độc giả có thể hiểu thêm chi tiết tiến tŕnh móc nối tên Dương văn Minh của Việt cộng.

    * Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh - Tài liệu mật của CSVN
    18.2.10

    + Thân thế và gia đ́nh

    - Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Thọ Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).

    Ông Dương Văn Huề (gốc Hoa) và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân VN . Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.

    Gia đ́nh ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.

    - Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.

    Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đ́nh ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa t́m được đơn vị th́ bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp.

    Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường vơ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “VNCH”.

    Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn th́ ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1)là thiếu tá chế độ cũ bị t́nh nghi hoạt động cho “VC” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn d́ ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù...

    - Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30.4.1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dàỵ Có lúc lănh đạo Thành phố (đồng chí Vơ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ư khéo là đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lư do: “Các anh các chị sống được th́ tôi cũng sống được nếu chưa quen th́ phải tập lại cho quen”.

    Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lănh sự Pháp ở Saigon đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lư nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đă có Chính phủ VN lo rồi”.

    Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả ǵ Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xă hội Pháp.

    + Quá tŕnh binh địch vận đối với Tướng Dương Văn Minh

    Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, T́nh báo, An ninh T4 (Saigon - Gia Định), Trí vận...

    1. Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam

    Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Vơ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN đề nghị và được cấp trên đồng ư điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Tỵ

    Cuối tháng 12.1960, đồng chí Mười Ty lên đường.

    Tháng 8.1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đ́nh, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và t́m hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Saigon và em thứ tám là Dương Thu Vân.

    Thấy t́nh h́nh thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ư kiến của lănh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đ́nh Diệm độc tài, gia đ́nh trị, phủ nhận công lao của ḿnh (tảo thanh B́nh Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ t́m cách làm.

    Ngày 01.01.1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và lên làm Quốc trưởng VNCH lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ư định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục.

    Sau cuộc đảo chính Ngô Đ́nh Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngàỵ Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay th́ hết tranh căi về điều này, nhưng vẫn c̣n cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.

    Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:

    + Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh v́ sao làm thế? Ông trả lời, đại ư:

    Người VN có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đă gắn bó đời ḿnh và mồ mả ông chạ Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, v́ lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của ḿnh.

    + Bộ trưởng quốc pḥng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói... Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.

    + Tháng 1.1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.

    + Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ư muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt ḥa đàm, chống mọi xu hướng trung lập.

    - Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ư đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01.1964, chính quyền Mỹ đă đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Ḥa VN bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay CS”. Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Saigon phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ.

    Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ư chờ tin của Mười Tỵ Nhưng v́ bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.

    Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, th́ Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ư kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ư kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử th́ ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lư ǵ, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không c̣n lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn...

    C̣n tiếp ...

  4. #44
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Vơ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được...”

    Cuối năm 1970,... theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục t́m một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy tṛ có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh.

    Tháng 3 và 4.1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Ha.nh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ư ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống th́ t́m cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.

    Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28.4.1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Saigon gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đă góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Saigon “án binh bất động”, tan ră tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.

    2. Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”

    Tháng 9.1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Saigon - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”... (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư kư ṭa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc...).

    Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban Anninh T4, chỉ đạo A10 t́m cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minhđể tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.

    Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đ̣i Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống).

    Ngày 01.3 và cuối tháng 3.1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề...) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo:

    “...Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.

    3. Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh

    Cụm điệp báo VĐ2 thuộc pḥng t́nh báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Saigon. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28.4.1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở t́nh báo) hẻm đường Triệu Đà, Saigon, để báo ư kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn t́m gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng ḥa miền Nam để xin ư kiến xử trí t́nh h́nh Saigon. Đồng chí Sáu Trí phân tích t́nh h́nh và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ư kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh - Nguyễn Văn Huyền - Vũ Văn Mẫu.

    4. Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị

    Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7.1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng ḥa b́nh, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”.

    Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí QuốcHương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đă chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba. Trên thực tế th́ lực lượng ta đă h́nh thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6.1969 với mục tiêu là: đ̣i các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồngminh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ ḥa giảidân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luâ.tsư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02.1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đ̣i thi hành hiệp định Paris”, xác định ḿnh là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đ̣i thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.

    Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, kư giả, tướng lĩnh[1]. Hằng tuần, nhóm họp bàn về t́nh h́nh thời sự chính trị (lúc t́nh h́nh sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn pḥng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm DươngVăn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước.

    -Theo ông Lư Quư Chung (Hồi kư), tuần lễ đầu tháng 4.1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đă họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ư định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh.

    5. Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Saigon

    Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi hành hiệp định Paris, ḥa b́nh, chấm dứt chiến tranh, đ̣i dân chủ, cải thiện dân sinh... các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn ngườị Như cuộc xuống đường của 200 kư giả Saigon ngày 10.10.1974, ngày “kư giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đă có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20.4.1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đ̣i thi hành hiệp định Paris, đ̣i ḥa b́nh, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT..., là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.

    + Mỹ, Pháp với tướng Dương Văn Minh

    * Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng ḥa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lănh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chốị Đại sứ Mỹ Bunker c̣n trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa pḥng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ c̣n Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ - Thiệu.

    Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đă bị nhân dân và báo chí Saigon đấu tranh đ̣i Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương tŕ hoăn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, măi đến ngày 26.4.1975, lưỡng viện Saigon đă bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống VN Cộng ḥa với 147.151 phiếu.

    * Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28.4.1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam) gợi ư Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.

    Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lư Quư Chung, sáng ngày 30.4.1975, tướng t́nh báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ư ông Minh nên kêu gọi Tàu can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay CS Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đă từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đă quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Tàu”.

    + Tướng Dương Văn MInh với 3 ngày làm tổng thống

    15 giờ chiều ngày 28.4.1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.

    Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.

    Về Bộ quốc pḥng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ trưởng. (Theo ông Lư Quư Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc pḥng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh).

    17 giờ ngày 28.4.1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.

    Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi kư), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề pḥng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).

    Đêm 28.4, Tướng Dương Văn Minh và gia đ́nh dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).

    Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi kư), đêm 28.4.1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đ́nh bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời:

    “Hai em có thể yên ḷng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo th́ có thể ra đị Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Saigon, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.

    Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh Saigon trưa ngày 30.4.1975

    + Ngày 29.4.1975

    Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi VN trong ṿng 24 giờ để giải quyết ḥa b́nh ở VN.

    Đến 16 giờ chiều ngày 29.4, đă thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đă tan ră (trừ bộ phận biệt phái).

    Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29.4.1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đă ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.

    Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Vơ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đă thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, v́ đă thông báo cho bên trong biết “Saigon không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đă chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29.4.1975).

    Từ chiều và tối ngày 29.4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngỏ”, đầu hàng. Như ông Lư Quư Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “c̣n chờ ǵ nữa mà không đầu hàng”[2].

    Ngày 30.4.1975

    - 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đă chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ t́nh h́nh quân sự.. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn).

    Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này.

    - 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.

    Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ư có nhật lệnh cho quân độị Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh nàỵ Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh.

    9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Ḥa ngưng nổ súng, và ở đâu th́ ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Ḥa miền Nam VN để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong ṿng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”. Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giaochính quyền cho cách mạng.

    Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đă xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở th́ tùy”.

    11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

    Buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập tối ngày 2.5.1975

    + Kết luận

    1. Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu c̣n mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có ḥa b́nh, độc lập và ḥa hợp dân tộc.

    2. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lư Quư Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ư để thương thuyết với cách mạng v́ đă thấy không c̣n khả năng thương thuyết; cũng không có ư để tiếp tục chiến tranh v́ lâu nay ông Minh chủ trương hoà b́nh, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rơ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức th́ ngày 29.4.1975, đă ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..

    3. Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Saigon - Gia Định đă tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng t́nh, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đă quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30.4.1975 là hành động thức thời, làm giảm ư chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Saigon vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Saigon c̣n nguyên vẹn và không đổ máụ Nhiều thành phố và thị xă khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rơ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai tṛ quyết đi.nh. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đă góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Saigon và nhiều đô thị c̣n nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.

    Chú thích :

    (1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - xă hội - thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng ḥa Miền Nam .

    (2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản Saigon tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “VNCH”.

    (3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.

    (4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà.

    C̣n tiếp ...

  5. #45
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Phần đọc thêm 8


    Tôi nhận được bài viết này từ một người bạn chuyển cho đọc. Bài viết không kư tên tác giả, chỉ nói là trong Binh chủng Pháo Binh Việt Nam Cộng Hoà và là bạn của Pháo thủ Lê châu Lộc,...người đă từng là Tùy viên của Tổng thống Ngô đ́nh Diệm. Thấy bài viết liên quan đến đề tài “Đôi ḍng nh́n lại”, nên tôi đưa nguyên bài vào Phần Phụ để bạn đọc theo dơi, biết thêm về tài năng và đức độ của cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.

    Tôi không bíêt địa chỉ của 2 vị, mong được 2 vị miễn thứ khi chưa xin phép đă đưa bài của quí vị lên trang báo.

    Cảm tạ quí vị

    QH(nvn)

    Pháo thủ Lê Châu Lộc nói chuyện về cựu Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm

    Người viết bài này quen biết pháo thủ Lê Châu Lộc v́ vừa là đồng nghiệp pháo thủ vừa cùng chung đơn vị với nhau trong những năm 1956, 57, và 58 tại B́nh Thủy Cần Thơ, và Trảng Bàng Tây Ninh.

    Anh là một Sĩ quan Pháo binh Việt Nam Cộng Ḥa có quá tŕnh phục vụ và thăng tiến khá đặc biệt. Tốt nghiệp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Khóa 5 - V́ Dân. Học Pháo Binh Tại Trường Pháo Binh Phú Lợi, tu nghiệp pháo binh ở Châlons-sur-Marnes (Pháp) và Fort Sill (Hoa Kỳ), từng là huấn luyện viên ở nhiều Trường Pháo Binh trong nước (Phú Lợi, Dục Mỹ) và ngoài nước (Fort Sill USA). Đơn vị chiến đấu đầu tiên Anh phục vụ là Tiểu Đoàn 21 Pháo Binh. Rồi Trường Đại Học Quân Sự, rồi Lữ Đoàn Liên Binh Phủ Tổng Thống. Cuối năm 1959 Anh là Sĩ quan Tùy viên của Tổng Thống VNCH Ngô Đ́nh Diệm cho đến khi chấm dứt Đệ Nhất Cộng Ḥa Việt Nam, 1-11-1963. Rồi Pháo Binh Quân Đoàn III và Trường Pháo Binh.

    Anh giải ngũ theo đơn xin năm 1965, thi tuyển vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Tốt nghiệp Đốc sự khóa 13 và Cao học Hành chánh khóa 5. Nghiên cứu hậu đại học về Quản Trị Phát Triển Xứ Nghèo tại các trường Đại học London, Oslo, Dublin. Tham quan các hệ thống Phát triển và Pḥng vệ tại Do Thái và Ấn Độ. Là giảng viên Trường Quốc Gia Công Tác Xă Hội (Saigon). Cuối năm 1969 Anh tham gia Liên danh Bông Huệ của Luật sư Nguyễn Văn Huyền ứng cử vào Thượng Nghị Viện VNCH. Liên danh Bông Huệ đắc cử. Anh là Nghị sĩ cho đến 30 tháng Tư Đen, 1975.

    Ra nước ngoài, trong suốt 23 năm (1975-1998), cựu pháo thủ Lê Châu Lộc hoạt động ở khắp Á, Âu, Phi, Mỹ cho công việc cứu trợ những người chạy giặc Cộng sản, từ Đông Dương tỏa ra khắp thế giới. Anh về hưu năm 1998 và an dưỡng tuổi già tại Hoa Kỳ. Mặc dầu Anh đang hưu trí, người ta vẫn thấy Anh xuất hiện trong các hoạt động truyền thông, xă hội, chính trị khi cái lăo và cái bệnh không “hành hạ” Anh quá mức.

    Người viết cũng như những ai từng quen biết Anh trong Pháo binh, trong Thượng viện, hoặc ở các lănh vực hoạt động khác của Anh đều t́m thấy nơi Anh một người bạn, người cộng sự, người chỉ huy vui vẻ, từ tốn, năng động trong công việc, có tinh thần trách nhiệm, có đạo tâm, và đáng tin cậy.

    Người viết nghĩ rằng bạn đọc cũng muốn biết nhân vật sẽ “nói” – dù chỉ là một vài việc đơn sơ về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm – là người thế nào. Lại nghĩ Binh Chủng Pháo Binh VNCH trước kia, có một pháo thủ như thế trong hàng ngũ, hẳn cũng là hảo sự. V́ muốn “tốt đẹp khoe ra” nên đă hơi dài ḍng một chút về Anh Lê Châu Lộc.

    ***

    Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm là một con người lịch sử. Ông là Tổng Thống đầu tiên của nền đệ nhất Cộng Ḥa Việt Nam, sau chín năm cầm quyền đă bị thảm sát bởi chính kẻ đồng minh Ông tin cậy, bởi chính hàng khanh tướng Ông tạo ra. Khi Ông nằm xuống, những người mưu giết Ông và những kẻ thù ghét Ông đă bêu xấu Ông tàn tệ bằng những điều tiếng bịa đặt bỉ ổi, bằng những sự thật bị bóp méo để chạy tội, để lấp liếm những ư đồ xấu xa, những tâm địa phản phúc. Đến nay đă 45 năm qua, người đời vẫn c̣n nhắc tới Ông. Vẫn c̣n người không ưa, vẫn c̣n người thương tiếc. Vẫn cỏn lời bôi bác, vẫn c̣n lời bênh vực. Tuy nhiên những sự thật lịch sử liên quan tới Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đang dần được sáng tỏ nhờ những phát hiện từ nhiều tài liệu được giải mật, từ lời tuyên bố hoặc bài viết của những người phản tỉnh, và tiết lộ của nhiều nhân chứng đáng tin. Nhà biên khảo Minh Vơ đă công phu gom góp rất nhiều những ư kiến trái ngược đó vào một cuốn sách đặc biệt: “Ngô Đ́nh Diệm, lời khen tiếng chê” nhằm tŕnh bày vàng thau trước công luận và trả lại công đạo cho một vị Tổng Thống mà đức hạnh ngời ngời không ai bôi đen được, và mục tiêu chính trị suốt đời chỉ là mưu cầu độc lập, tự chủ cho đất nước, tiến bộ, tự do cho người dân, và an lạc, thịnh vượng cho đời sống.

    ***

    Đại úy Lê Châu Lộc được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chọn làm Sĩ quan Tùy viên vào khoảng cuối năm 1959. Trong thời gian ở gần Tổng Thống, chắc chắn Anh thường được chứng kiến sinh hoạt hàng ngày của vị lănh đạo quốc gia nhưng không thấy Anh viết ra hoặc kể lại. H́nh như Anh không muốn dây dưa vào cuộc đôi co về người đă khuất mà Anh rất mực kính trọng. Đă nhiều lần tôi (người viết bài này – LVT) ngỏ ư muốn được Anh kể cho nghe những mẩu chuyện nhỏ Anh cỏn nhớ được vể Tổng Thống Diệm. Măi gần đây Anh mới đồng ư.

    Trả lời câu hỏi do đâu Anh trở thành Sĩ quan Tùy viên của Tổng Thống Diệm, Anh Lộc kể:

    Chuyện bắt đầu từ khi Anh c̣n là trung úy, được đề cử tu nghiệp Pháo Binh tại Pháp quốc và Hoa Kỳ. Sau khi măn khóa Pháo binh và làm Huấn luyện viên Pháo Binh cho các sĩ quan hiện dịch khóa 13 tại Fort Sill Hoa Kỳ, Trung úy Lộc được thuyên chuyển về Trường Đại Học Quân sự Sài G̣n với nhiệm vụ thu thập, soạn thảo, và phiên dịch các tài liệu liên quan đến Pháo binh để thành lập binh thư cho binh chủng này. Sau đó được thuyên chuyển về Liên Đội Pháo Binh thuộc Lữ Đoàn Pḥng Vệ Tổng Thống Phủ và được lệnh tŕnh diện Biệt Bộ Phủ Tổng Thống. Nơi đây đưa Anh đến tŕnh diện Tổng Thống và đích thân Tổng Thống giao cho Anh công tác đi kiểm soát lại các địa mốc ranh giới Việt Miên Lào, từ Mỏ Vẹt Hậu Nghĩa cho đến Ashau Quảng Trị, so sánh chi tiết bản đồ và hiện thực, những chỗ thiếu th́ thiết lập lại các mốc bằng ciment.

    Trong chương tŕnh phát triển an ninh lănh thổ, khi tiếp nhận các mật khu của Cộng sản để lại, Tổng Thống đă chỉ thị áp dụng kế hoạch “gắp gai bỏ vào bao tử” bằng cách thiết lập một số tỉnh mới tại những mật khu mà đối phương đă gài cán bộ ở lại cũng như chôn dấu quân dụng trước khi rút ra Bắc. Di một số dân có kinh nghiệm về Cộng sản vào đó, tăng thêm đường xá giao thông để dân chúng di chuyển luôn luôn, có sự hiện diện của dân chúng th́ sự có mặt của đối phương sẽ ngày một giảm đi. Trung úy Lộc được trao trách nhiệm thám sát vị trí đặt thị xă cho các tỉnh mới thành lập như Phước Long, Quảng Đức, v.v. Đến tận nơi, chọn lựa, và đề nghị những vị trí thiết lập các cơ sở công quyền, doanh trại quân đội, đường xá trong khu vực, hầu phong tỏa, vô hiệu hóa, và hủy diệt các mật khu của đối phương c̣n tồn tại. Khi được chấp thuận Trung úy Lộc cùng với các bộ, ngành phóng vị trí, đường xá, v.v

    C̣n tiếp ...

  6. #46
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Cũng trong thời gian này TT đă triệu tập một hội nghị gồm 7 Cụ học giả với sự có mặt của Tổng Thống Diệm suốt một ngày Chúa nhật tại dinh Độc lập để bàn và kiếm chữ đặt tên cho mấy tỉnh mới thành lập và thay đổi các tên tỉnh lỵ có ư nghĩa hay liên hoàn. Phục hồi ngũ Quảng tại miền Nam: Quảng Trị, Quảng Đức (là tên cũ của Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Nghĩa (kiêng tên Ngăi nên đọc nhái là Nghĩa). Bây giờ dùng tên Quảng Đức cho tỉnh mới thành lập giữa Lâm Đồng và Ban Mê Thuột, Quảng Tín chia bớt đất của Quảng Nam,

    Sau này mới biết tại sao Trung úy Lộc được gọi tŕnh diện v́ theo chỉ thị của Tổng thống, công việc cần một sĩ quan có sức khỏe, biết ngoại ngữ, và giỏi địa h́nh.

    Cuối năm 1959, nhân dịp có hai sĩ quan tùy viên được phép trở về đơn vị theo đơn xin, chính Tổng thống ra lệnh chọn “Anh sĩ quan đen đen ấy”, là Đại úy Pháo binh Lê Châu Lộc, làm Sĩ quan Tùy Viên cho Tổng Thống.

    Mời bạn nghe thêm vài mẩu chuyện sau đây:

    Về thói quen.

    -Tổng Thống có lối sống đơn giản của người độc thân, kê một giường ngủ ngay cạnh văn pḥng, và Tổng Thống thường ngủ tại đó. Sáng sáng Tổng Thống tham dự thánh lễ.

    Về tiền bạc.

    -Tiền lương hàng tháng của Tổng Thống th́ Ô. Vơ Văn Hải, Bí thư đặc biệt của Tổng Thống lĩnh tiền và giữ. Tiền này thường được chi dùng cho các dịch vụ như trả tiền cơm cho Tổng thống, bà bếp đi chợ nấu ăn cho Tổng Thống và các nhân viên như: Ô Hải, các SQ tùy viên có mặt, v.v., thêm 50 đồng/ngày, và là tiền ủy lạo mỗi khi đi công cán, tặng cho binh sĩ, đơn vị và dân nghèo.

    -Về ăn uống

    Thực đơn của bữa điểm tâm thường là cháo trắng, hột vịt muối hay cá kho và dưa món. Bữa trưa cũng chỉ là vài cái bắp luộc với tô nước trà bự rót nước nổi bọt, xong nghỉ ngơi độ nửa giờ. Buổi tối bữa ăn nhiều chuẩn bị hơn, cố nhiên là món miền Trung, họ hàng ở Huế vẫn thường gửi đồ ăn vào cho Tổng Thống như cá kho, … Bữa ăn tối nếu có người trong gia đ́nh như các bà chị, Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục th́ không khí vui vẻ hơn. Hôm nào buổi tối có dạ tiệc thết khách th́ cố nhiên phải chuẩn bị thực đơn tương xứng, tuy nhiên vẫn có thức ăn thanh đạm riêng dành cho Tổng Thống được mang thêm ra.

    Trang phục.

    - Quần áo của Tổng Thống do tiệm may Chya đường Lê Thánh Tôn phụ trách và cung cấp, hàng ngày Ông Ẩn lo quần áo. Không có khách th́ mặc khăn đống áo dài. Nếu có khách th́ Ông Ẩn nhắc và chuẩn bị cho Tổng Thống.

    Công việc.

    Mỗi sáng Tổng Thống nghe Sĩ quan Tùy viên tŕnh đọc thời khóa biểu trong ngày, Bác sĩ Bùi Kiến Tín thăm hỏi t́nh trạng sức khỏe của Tổng Thống. Công việc th́ do Ông Vơ Văn Hải hay Ông Trần Sử tŕnh, hay nếu quan trọng hơn th́ chính Ông Phó Đổng lư Đoàn Thêm hay Ông Đổng lư Quách Ṭng Đức, hay đích thân các Ông Bộ trưởng tŕnh bầy. T́nh h́nh Quân sự trong đêm là phần của Tham Mưu Biệt bộ.

    Vi hành.

    Tổng Thống thường hay ra lệnh đột ngột đi thăm dân cho biết sự t́nh, đến các chợ, chùa, nhà thờ xóm đạo để tự t́m hiểu t́nh h́nh. Có những chuyến thăm Đô Thành mà không có Đô Trưởng tháp tùng. Một lần năm 1962 sau cuộc bầu cử tổng thống lần thứ hai Tổng Thống thức dậy lúc 5 giờ sáng, gọi Anh Lê Châu Lộc và tỏ ư muốn đến thăm Chùa Ấn Quang để cám ơn quí vị trụ tŕ đă tham dự cuộc bầu cử vừa qua. Tổng Thống muốn cuộc đi thăm này “không chính thức, tự nhiên, đơn giản, và thân mật”. Tổng Thống muốn đi sớm để tránh nạn kẹt xe cho Đô Thành. Tổng Thống chỉ thị cho Lộc “Anh lái xe, một xe theo sau là đủ rồi”. Cố nhiên v́ an ninh cho Tổng Thống, Đại úy Lộc phải chuẩn bị đầy đủ để bảo đảm an toàn cho Tổng Thống. Đoàn xe đến chùa có xe Cảnh sát Đô Thành đi đầu không đèn chớp, không c̣i hụ, tiếp theo là xe Tổng Thống, có Tham Mưu Biệt Bộ và Sĩ quan Tùy viên Lê Châu Lộc, sau cùng là xe hộ tống. Đến Chùa th́ thấy các thầy đă xếp hàng nghênh đón hai bên từ cổng vào. Tổng Thống ngạc nhiên về sự tiếp đón này và vào trước cửa thiền viện ngỏ lời cám ơn, thăm hỏi các tăng ni hiện diện. Tổng Thống quan tâm đến việc đào tạo các cán bộ của đạo, muốn hệ thống hóa thành một tổ chức qui củ, phát triển hữu hiệu. Nhân dịp, ḥa thượng Thích Quảng Liên đến chào Tổng Thống và cám ơn v́ đă được Tổng Thống đặc biệt gửi đi học Tiến Sĩ Giáo dục tại Michigan State University. Thượng tọa sau này làm Hiệu Trưởng Trường Trung Học Bồ Đề tại Cầu Ông Lănh Sài G̣n. Một ḥa thượng khác nói với Tổng Thống:”Chúng tôi buồn Tổng Thống!. Tổng Thống quay lại hỏi :”Chuyện chi mà buồn”. Ḥa thượng nói :Tổng Thống có tin vui mà không chia sẻ cho mọi người, chúng tôi c̣n biết năm 1959 Tổng Thống đă dành tiền thưởng 10.000.00 của Tổng Thống khi đoạt giải Massasay làm quà tặng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tổng Thống chậm răi giải thích :”Ừ, tôi đâu có dùng tiền nên biếu Đức Đạt Lai Lạt Ma xử dụng vào việc cần”. Có những việc Tổng Thống đă làm trong kín nhiệm, chính Tổng Thống muốn như vậy.

    Thế có bao giờ Tổng Thống tỏ ra không bằng ḷng không?.

    Có chứ giận dữ là đàng khác. Hôm đó Tổng Thống đi kinh lư tỉnh Kiến Tường. Khi đáp xuống phi trường th́ đă có dân chúng đứng chờ đón Tổng Thống, nhưng v́ thấy chung quanh toàn lá cờ Công Giáo La Mả, Tổng Thống lệnh không xuống quay trở về Sài G̣n. Tổng thống giận cầm cây cane dộng xuống sàn máy bay rầm rầm và nói :”Đây đâu có phải Vatican?”. Tuy nhiên chỉ ít phút sau, Ông Tỉnh Trưởng nhận lỗi v́ không kiểm sóat nên sự việc đă xẩy ra, 15 phút sau các lá cờ Công giáo La Mă được thay thế bằng lá cờ quốc gia, cũng như biết dân chúng đă đứng chờ đón Tổng Thống từ sáng sớm nên Tổng Thống đă hết giận và xuống máy bay. Lần thứ hai cũng lá cờ, Tổng Thống đi qua đường Vơ Tánh Phú Nhuận, có một cơ sở treo một lá cờ quốc gia quá cũ và rách, Tổng Thống lệnh mời Thiếu tá Xích Tỉnh trưởng Gia Định gặp Tổng Thống. Khi tŕnh diện Tổng Thống chỉ thị phải huấn luyện để người dân biết tôn trọng lá quôc kỳ, không thể treo quốc kỳ cũ và rách. Lần thứ ba Tổng Thống nh́n thấy một bức h́nh chụp ngoài Vũng Tầu bức h́nh tượng Phật ngồi rất đẹp mắt trong một tờ báo ngoại quốc, chung quanh toàn là cờ Phật giáo, không có một lá cờ quốc gia nào. Tổng Thống biên một cái note cho Ông Quách Ṭng Đức nói đại ư, trong bất cứ chổ nào đều phải có cờ quốc gia kể cả Chùa, Nhà thờ tôn giáo, nhưng không chưng cờ tôn giáo ngoài khu vực chùa chiền, nhà thờ. Việc treo cờ phải theo qui luật quốc gia. Việc này Ông Quách Ṭng Đức chưa chỉ thị thi hành th́ biến cố Miện Trung bùng nổ.

    Thế c̣n sở thích.?

    Tổng Thống thích đọc sách. Ngày nào Tổng Thống cũng đọc sách báo trước bữa ăn sáng, nhất là các sách photography và Reader’s digest.

    Tổng Thống thích chụp h́nh. Tổng Thống có một bộ collection máy chụp h́nh. Sau này Tổng Thống thích xử dụng máy chụp h́nh Polaroid, có thể lấy h́nh sau mấy phút. Mỗi khi đi kinh lư, Tổng Thống đều dặn nhớ mang theo máy chụp h́nh. Có những lần chính Tổng Thống đă chụp h́nh cho các quân nhân, và cho họ những tấm h́nh đó để làm kỷ niệm. Tổng Thống nh́n anh em quân nhân vui th́ Tổng Thống thích lắm.

    Tổng Thống cũng mê kiến trúc, Tổng Thống hay đàm đạo với Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ nhất là thời gian sửa dinh Độc Lập. Có khi nói chuyện qua đêm về kiến trúc.

    Tổng Thống thích đi thăm mấy con ngựa. Thỉnh thoảng sau bữa cơm tối, Tổng Thống đi ủng rồi rủ sĩ quan tùy viên đi thăm mấy con ngựa ở phía sau dinh độc lập. Tổng thống vuốt ve mấy con thú vật, đưa tay về phía sau, sĩ quan tùy viên biết là Tổng Thống đang cần đồ ăn cho ngưa, sĩ quan tùy viên bỏ vào tay Tổng Thống vài cục đường, xong Tổng thổng cho ngựa ăn, những lúc như vậy thấy vẻ mặt vui hiện rơ.

    - Đừng nghĩ rằng Tổng Thống không biết sự thật, thường bị các nhân viên chung quan lường gạt để thủ lợi. Tổng thống đă dùng những chuyến đi thị sát để t́m hiểu sự t́nh, thăm ḍ tin tức giá cả qua bà bếp, nhân viên của nhà may Chya v.v. Có một lần đi thăm Ấp chiến lược miền Tây, Tổng thống đă đổi lộ tŕnh và đến thăm một nơi công tác đang c̣n dang dở. Tổng Thống nh́n thấy nỗi lo âu của Anh Quận trưởng, đă an ủi rằng ”chưa xong hả, cần thêm thời giờ ?. Tŕnh cho Ông Tỉnh Trưởng hỉ.”. Lần nữa chính Tổng Thống đă chữa lại cho đúng lời Ông Đô trưởng định giá vật dụng 4 đồng trong khi người bán hàng nói với Tổng Thống 8 đồng.

    Về chủ quyền quốc gia.

    Chủ quyền quốc gia là điều Tổng Thống tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ. Chính Tổng Thống đă biểu lộ ư chí đó bằng lời nói với Ông Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge khi Ông Lodge ngỏ ư đề nghị Tổng Thống thay đổi nhân sự trong guống máy của chính quyền: “Xin Ông Đại sứ biết rằng Ông Đại sứ đang đứng trước mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa”. Tổng Thống cũng biết nếu cần nhờ vả và làm theo lời của Ông Đại sứ th́ chắc chắn Tổng Thống đă có được sự đảm bảo an ninh cho Tổng Thống và người thân. Nhưng Tổng Thống đă dứt khoát từ chối xử dụng lối giải quyết như vậy. Tổng Thống không sợ.

    Tổng Thống Diệm không muốn quân đội nước ngoài hoạt động trong lănh thổ của ḿnh. Chấp nhận như vậy th́ chúng ta đâu c̣n chính nghĩa, làm sao đối đầu được với đối phương đă luôn t́m cách nói xấu mà lại thêm gian manh, nên Việt Nam đă có cuộc đảo chính và lật đổ Tổng Thống Diệm. Tổng thống đă cảm thấy trước ư đồ của chính phủ Hoa Kỳ ngay lúc Hoa Kỳ bằng ḷng trung lập vùng Đông Nam Á theo đ̣i hỏi của Trung Cộng, nên nhất quyết không ủng hộ thể chế trung lập tại Lào, điều này đă làm xáo trộn chương tŕnh và kế hoạch của Chính phủ Hoa kỳ tại Đông Nam Á. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mất mặt và người trách nhiệm cố t́nh trả thù Tổng Thống Diệm bằng cách gởi về Hoa Thịnh Đốn những tờ tŕnh ngụy tạo t́nh h́nh Việt Nam đặt chính phủ Hoa Kỳ vào cái thế phải quyết định thay thế Tổng Thống Diệm. Vụ đảo chính tháng 11- 1963 được Mỹ bật đèn xanh. Và những kẻ nhận tiền làm đảo chánh đă giết hai Ông Diệm, Nhu v́ sợ hậu họa.

    Về Quân Đội.

    Với Quân đội, Tổng Thống Diệm đă hết ḷng lo lắng. Việc gửi Trung tá Nguyễn Văn Thiệu đi tham quan các trường Vơ Bị Westpoint của Hoa Kỳ, Saint Cyr của Pháp và Trường Vơ Bị của Anh quốc, là bước đầu trong ư định của Tổng Thống muốn xây dựng một Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam (tại Dalat) mà khi tốt nghiệp, các tân Sĩ quan có tŕnh độ và bằng cấp tương đương 4 năm đại học với kiến thức quân sự hiện đại, vững vàng. Tổng Thổng đă từng vào trường Vơ Bị Quốc Gia ăn sáng với các Sinh Viên Sĩ quan khi có dịp ghé qua Đà Lạt. Tổng Thống cũng làm những cải tổ như vậy cho các trường Quốc Gia Hành Chánh và Học Viện Cảnh Sát.

    Tổng Thống không chấp nhận việc Quân đội đánh lộn nhau như trong biến cố 1960 hay cuộc đảo chính 1963. Tổng Thống đă bị thảm sát trên đường tới Bộ Tổng Tham Mưu với ư định trao quyền hành cho Quân Đội, sau khi từ chối đi lên Cao nguyên lánh nạn đế phục hồi quyền lực dẹp đảo chính, và từ chối đề nghị xử dụng Lữ Đoàn Pḥng Vệ phản công bắt các Sĩ quan trong lực lượng đảo chánh tại Bộ Tổng Tham Mưu gần Tân Sơn Nhất.

    Tổng Thống Diệm không chủ trương thăng cấp bừa băi. Ông muốn duy tŕ một Quân Đội có khả năng, thực lực, đáng tự hào. Quân nhân phải có tŕnh độ tri thức, kinh nghiệm chỉ huy, tham mưu và chiến công trận mạc xứng đáng với cấp bậc ḿnh nhận lănh. Điều này đă làm cho một số sĩ quan bất măn manh tâm tạo phản. Với Tổng Thống Diệm không có việc “ở lâu thành lăo làng”. Sĩ quan chỉ có tŕnh độ tiểu học mà đeo sao làm tướng chắc chắn làm giảm uy tín và năng lực của Quân Đội.

    Nói thế có nghĩa là Tổng Thống Diệm không sai sót, lỗi lầm ǵ sao ?

    Là người ai chẳng có lỗi lầm, sai sót. Tôi nghĩ rằng Tổng Thống Diệm quá hiền từ, nên đă có những người lợi dụng điều đó để mưu tư lợi. Nếu có trách th́ trách những “nịnh thần” lợi dụng vị thế một thời được Tổng Thống tin cẩn, đă bày đặt ra chung quanh Tổng Thống những h́nh thức tiếp xúc phong kiến lỗi thời, ví dụ vào gặp Tổng Thống phải xưng hô Cụ - con, khi cáo từ phải đi dật lùi ra cửa. Cũng có người đă trông thấy có kẻ quỳ, lạy Tổng Thống trong dịp lễ Tết trong khi Tổng Thống thẹn đỏ mặt, ngượng nghịu, lúng túng nói không ra lời.

    ***

    Trên đây là những mẩu truyện thật về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm do Pháo thủ Lê Châu Lộc, Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống kể theo những ǵ mắt thấy, tai nghe. Người viết ghi lại để những ai quan tâm t́m hiểu về Tổng Thống Diệm có tài liệu đọc thêm hoặc tùy nghi xử dụng.

    Anh Lộc

    Cám ơn Anh đă chia sẻ những điều mắt thấy tai nghe lúc Anh là Sĩ quan Tùy viên của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Đọc những trang giấy này cũng đă giúp chúng tôi xét lại nhiều vấn đề. Lúc nào Anh cũng giữ đúng tư cách của người Pháo Thủ đại diện cho binh chủng có gần một trăm ngàn người phục vụ dưới cờ: binh chủng Pháo Binh.

    Chúng tôi hănh diện v́ Anh.

    C̣n tiếp ...

  7. #47
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Phần đọc thêm 9



    Bà Ngô Đ́nh Nhu

    Tôi nhận được rất nhiều câu hỏi qua những lần gặp gỡ, điện thư, điện thọai về “hồi kư’ của Bà Ngô Đ́nh Nhu. Người nào cũng hỏi là bao giờ ‘hồi kư” của Bà Nhu...được phát hành và nếu đă có bầy bán rồi th́ mua ở đâu? Ngay cả một ‘sử gia chân chính” đă từng viết trong “chính sử” rằng Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim, hai cái thương xá ở Paris và một đồn điền ở Ba Tây cũng có câu hỏi như vậy. Ai cũng muốn biết cuộc đời công và tư của Bà Nhu như thế nào. Bà làm ǵ và sống ra sao từ năm 1963 cho đến ngày hôm nay. Nhiều người cũng c̣n ṭ ṃ muốn biết cuộc sống t́nh cảm của một góa phụ nổi tiếng và xinh đẹp có ǵ vui buồn không?

    Năm nay Bà Nhu đă trên tám mươi tuổi và bà đả xa ĺa cuộc sống với những thăng trầm đă gần nửa thế kỷ. Bà đă thực sự xa lánh những phù phiếm ảo ảnh của trần thế. Bà sống đơn độc nghèo khó như một người tu hành. Đă từ hai năm nay bà không c̣n đi nhà thờ mỗi buổi sáng nữa v́ đau chân. Tuổi già với những giới hạn về sức khỏe và đủ mọi lọai bệnh tật chẳng trừ một ai. Tuy vậy bà vẫn c̣n khỏe mạnh hơn đa số những người cùng lứa tuổi.

    Cho đến ngày hôm nay, rất nhiều người c̣n có những câu hỏi thật vô lối về Bà Nhu, như số tiền mười bẩy tỷ Mỹ kim bây giờ c̣n bao nhiêu và cất giữ ở đâu? Sau khi Ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát th́ bà có mối t́nh nào không? Tiền và t́nh luôn luôn là những câu hỏi và v́ không có những câu trả lời nên mỗi người tin tưởng theo những cảm t́nh và nhận định khác nhau. Do vậy ai cũng trông chờ “hồi kư” do chính Bà Nhu viết sẽ giải tỏa những thắc mắc đó.

    Một nhà báo ở trong nước, Ông Phan Kim Thịnh, bút hiệu Lư Nhân, đă viết một cuốn sách nhan đề “Trần Lệ Xuân Giấc Mộng Chính Trường”. Cuốn sách được nhà xuất bản Công An Nhân Dân phát hành và đă được in lại đến ba lần chỉ trong ṿng hai tháng. Như vậy th́ vẫn c̣n biết bao người yêu kẻ ghét Bà Nhu. Quyển sách cũng chẳng có ǵ mới lạ. Tác giả chỉ thu góp lại những tài liệu trên báo chí và cô đọng lại thành một tập sách nhưng cũng đă lôi cuốn được rất nhiều người đọc. Tất nhiên là những tài liệu trên báo chí do nhiều người viết một cách vội vă theo nhu cầu tin tức đă có rất nhiều sai trái, nhiều khi bịa đặt trắng trợn.

    Bà Nhu có viết “hồi kư” không? Câu trả lời chắc chắn và rơ ràng nhất là KHÔNG, hoàn toàn không có cái gọi là “hồi kư Bà Nhu” như nhiều lời đồn đại và cũng là trông chờ của nhiều người.

    Năm 1963, thế giới có hai người góa phụ trẻ và xinh đẹp là Bà Jacqueline Kennedy và Bà Ngô Đ́nh Nhu. Hai góa phụ này luôn luôn là những tâm điểm của báo giới quốc tế. Một tiếng nói, một bước đi của Bà Kennedy hay của Bà Nhu cũng là một đề tài nóng sốt sôi nổi. Bà Kennedy đă trải qua nhiều cuộc t́nh và chính thức kết hôn với tỷ phú người Hy Lạp Onassis. Những h́nh ảnh của Bà Kennedy với nhiều người đàn ông khác nhau đầy rẫy trên báo chí. Cuộc sống của Bà Kennedy chưa thể nói là quá vương giả nhưng cũng thật nhung lụa. Một góa phụ có bạn trai hay lấy chồng, đối với người Âu Mỹ là một chuyện rất b́nh thường. Bà Kennedy cũng bị dư luận chỉ trích v́ đôi khi đi quá giới hạn của một mệnh phụ đă từng là đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ. Ngược lại những soi mói rất tinh vi và tân tiến đôi khi thật tàn bạo của báo giới trên toàn cầu đă không đưa ra được một h́nh ảnh dù rất nhỏ nhoi về những cái gọi là chuyện t́nh của góa phụ Ngô Đ́nh Nhu. Bên cạnh những luật lệ tôn giáo rất khắt khe và lễ nghĩa của người phụ nữ Việt Nam th́ đối với Bà Nhu chỉ có h́nh ảnh của một người đàn ông là Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, cho dù Ông Nhu đă ra người thiên cổ. Bà Nhu góa bụa ngay vào tuổi mặn nồng của người phụ nữ nhưng bà đă ở vậy thờ chồng nuôi con và không hề có một tai tiếng ngay cả không có những lời đồn thổi vu vơ. Bên cạnh những xung khắc chính trị, những người chống đối Bà Nhu cũng không thể nào t́m ra được một t́ vết để nhạo báng nhưng lại kính trọng bà như là một người phụ nữ nền nếp đoan trang.

    Chuyện t́nh cảm không có ǵ để nói tới. Chuyện tiền bạc của cải cũng chỉ là một con số không.. Bà Nhu sống đơn sơ thanh bạch trong một căn pḥng bầy biện giản dị. Trong pḥng, ngoài cái điện thọai th́ chỉ có một cái máy truyền h́nh mầu cỡ nhỏ 13 inches mà ở Mỹ bỏ ra ngoài băi rác chắc chắn không ai ngó ngàng tới. Bà Nhu chẳng có ǵ ngoài hai căn pḥng trên tầng lầu thứ mười một của một chung cư. Bà Nhu ở một căn và một căn cho thuê để lấy tiền sinh sống. Chỗ ở của Bà Nhu như một cái hộp bằng kính. Khách đứng trong căn pḥng này nh́n mây bay lăng đăng ngay bên cạnh sẽ có cảm giác sợ hăi như đang bay giữa trời mây. Tiền mua hai căn pḥng này là do một người Ư ẩn danh bí mật trao tặng. Bà Nhu có con dâu và con rể người Ư nên chắc hẳn có nhiều liên hệ giao tiếp với người Ư. Hơn nữa bà vợ của Ông Ngô Đ́nh Trác, con trai lớn của Bà Nhu, là người Ư thuộc một gia đ́nh quư tộc và rất giầu có. Chỗ ở này rất bất tiện và không thích hợp với người cao tuổi. Nếu Bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim th́ với tuổi đời như vậy chắc bà cũng t́m một chỗ tiện nghi thoải mái hơn để sống những ngày c̣n lại trên dương thế.

    Bà Nhu không viết hồi kư và bà cũng không có ǵ cần phải cải chính, biện minh hay tâm t́nh. Thực sự th́ trong những lúc rảnh rỗi, bà có viết nhiếu bài tạp bút. Nếu gom góp những bài tạp bút này th́ cũng có thể in thành một cuốn sách dầy đến sáu trăm trang. Bà Nhu đă viết ǵ? Có thể nói đây là một cuốn sách đạo. Bà Nhu viết về sự hằng hữu của Thiên Chúa và đời sống tâm linh của con người. Sau ngày Ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát, Bà Nhu sống gần như là một người khổ tu hết ḷng trông cậy phó thác vào sự an bài và định đọat của Thiên Chúa. Bà viết nhiều về ḷng thương xót của Chúa không những đối với con người mà c̣n đối với những tạo vật trong vũ trụ. Bà rất có ḷng yêu mến và gần gũi với Đức Mẹ Maria. Bà viết về những ân sủng đă được nhận lănh và những mầu nhiệm huyền diệu của Đức Mẹ mà bà đă được ân hưởng những phước đức từ ḷng yêu mến và cậy trông Đức Mẹ. Khi được tin Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị thảm sát th́ Đức Giáo Hoàng Paul Đệ Lục và các giám mục trên ṭan thế giới đang họp Công đống Vatican II đă cùng dâng thánh lễ cầu nguyện cho Tổng Thống Diệm. Đó là một sự kiện vô cùng đặc biệt và Bà Nhu đă một lần duy nhất nhắc đến tên Tổng Thống Diệm trong gần sáu trăm trang giấy.

    Một ông gốc lính huyênh hoang có “hồi kư” của Bà Nhu trong tay và sẽ công bố khi cần thiết. Ai cũng biết đây chỉ là một âm mưu gian giảo bịp bợm. Ông phường chèo này nếu quả thật có cái gọi là “hồi kư” của Bà Nhu th́ chắc hẳn sẽ c̣n nhiều đ̣n phép láo khoét chứ không chịu ngồi yên để nghe thiên hạ mắng nhiếc chửi bới v́ những lươn lẹo phản trắc lúc cưỡng chiếm được quyền hành trong một thời gian ngắn. Một sử gia chân chính th́ lại quả quyết rằng các con Bà Nhu sẽ công bố cuốn “hồi kư” sau khi Bà Nhu từ trần. Ông sử gia này chắc không biết rằng Bà Nhu viết những bài tạp bút này bằng tiếng Pháp và chỉ viết về những suy tư và tâm t́nh tôn giáo mà thôi. Độc giả người Việt biết đọc tiếng Pháp có là bao và chắc rằng số người muốn biết về những suy tư và tâm t́nh đạo giáo của Bà Nhu sẽ c̣n ít hơn nữa. Một tập giấy gần sáu trăm trang chỉ nói về tôn giáo và đạo đức lễ nghĩa th́ phát hành lúc Bà Nhu c̣n sống hay đă quá văng không phải là một vấn đề phải cân nhắc.

    Bài viết này là một câu trả lời rơ ràng và chắc chắn: Không, Bà Ngô Đ́nh Nhu không viết hồi kư.

    Trương Phú Thứ

  8. #48
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Phần đọc thêm 10 - (bài viết dưới đây của tác giả Việt Linh)


    Những Bức Mật Điện .....Được Giải Mă Làm Sụp Đổ Nền Đệ Nhất Cộng Ḥa. Đưa Đến Hậu Quả Ngày 30/04/1975

    Bốn mươi lăm năm đă trôi qua .. nhưng câu chuyện đau thương nầy luôn luôn mới mẻ.

    Cũng chẳng trách cứ làm ǵ những tên Mỹ thiển cận, phi nhân, xấc xược ...

    Đáng nguyền rủa chăng là cái đám người ăn cháo đá bát, miệng c̣n tràn trề ngập ngụa bổng lộc quốc gia mà đành tâm phá nát giềng mối quốc gia, để đưa đến thăm họa vong quốc.

    Cái sai lầm lớn nhất của cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm là sử dụng lũ phản phúc đề làm tâm phúc.

    Đây là những bằng cớ trên giấy trắng mực đen về việc chính quyền Kennedy đă chủ xướng, chủ mưu, chủ động và chủ lực trong việc khai tử chính quyền Ngô Đ́nh Diệm năm 1963. Một hành động mà lịch sử Mỹ đă lấy làm hối tiếc và hổ thẹn sau này, cũng đă hối tiếc và hổ thẹn trong vụ phản bội miền Nam năm 1975.

    1) Công điện ngày 24/8/1963, bộ ngoại giao Mỹ gởi đại sứ Lodge:

    Khánh và Cabot Lodge

    Đại sứ Cabot Lodge đến Saigon 22/8. Hai ngày sau, ngày 24/8 ông nhận được công điện của bộ ngoại giao Mỹ, với một nội dung sau đây:

    "Bây giờ đă rơ rệt: vụ thiết quân luật dù do quân đội đề nghị hay do Ngô Đ́nh Nhu đề nghị; Ngô Đ́nh Nhu vẫn là người đă lợi dụng nó để đánh phá chùa chiền với lực lượng cảnh sát và lực lượng đặc biệt của Lê Quang Tung hiện trung thành với Nhu. Như vậy, Nhu đă đổ trách nhiệm lên đầu quân đội, trước mặt thế giới và nhân dân VN. Hiển nhiên Nhu đă tự điều động ḿnh lên tư thế nắm quyền chỉ huy. Chính quyền Mỹ không làm ngơ để cho quyền bính lọt vào tay Nhu. Diệm phải được dành cho cơ hội để loại bỏ Nhu và bè lũ, và thay vào đó, những phần tử tốt nhất có thể t́m thấy, quân sự cũng như dân sự. Nếu ông đại sứ đă cố gắng thuyết phục Diệm mà Diệm vẫn ngoan cố, th́ lúc đó chúng ta phải đứng trước t́nh huống là ngay cả Diệm cũng không được duy tŕ nữa. Ông đại sứ và tổ hành động tại chỗ phải cấp tốc cứu xét việc t́m người lănh đạo thay thế, và soạn thảo những kế hoạch chi tiết để thay thế Diệm, khi cần. Không cần phải nói, chắc ông đại sứ sẽ tham khảo ư kiến với đại tướng Harkins về những biện pháp cần thiết để bảo vệ nhân viên Mỹ trong suốt thời kỳ khủng hoảng... Ông đại sứ nên hiểu rằng chúng tôi không thể từ Hoa Thịnh Đốn đưa ra những chi tiết hành động, nhưng ông đại sứ cũng nên hiểu rằng chúng tôi triệt để đứng sau lưng ông đại sứ trong tất cả những hành động nhằm đạt tới mục tiêu của chúng ta" (Telegram 243, State to Lodge, Aug 24, 1963, Box 198, National Security File, John F. Kennedy Library).

    Đoạn văn trên của bức công điện có thể tóm tắt như sau: "Diệm phải loại bỏ Nhu. Nếu không, chính Diệm sẽ bị loại bỏ. Hăy cấp tốc sửa soạn kế hoạch thay thế Diệm, ông đại sứ được toàn quyền hành động để đạt mục tiêu".

    Loại bỏ ông Diệm bằng cách nào ? Bức công điện viết tiêp: "Ông đại sứ cũng có thể nói cho những tướng lănh "thích hợp" biết rằng: chúng ta sẽ trực tiếp ủng hộ họ trong thời kỳ tạm quyền, khi bộ máy chính quyền trung ương bị ngưng."

    Câu này có thể viết lại một cách sống sượng như sau: "Ông đại sứ hăy nói cho các tướng lănh biết: lật đổ chính quyền trung ương đi, Mỹ sẽ ủng hộ".

    Bức công điện nói trên (mà sau này sử sách gọi là bức công điện ngày 24/8) mang chữ kư chấp thuận (approved) hoặc thông qua (cleared) của những người sau đây: Roger Hillsman, phụ tá bộ ngoại giao, W. Averell Harriman, thứ trưởng ngoại giao đặc trách chính trị vụ, Michael V. Forrestal, chuyên viên về VN và Đông Nam Á tại ṭa Bạch Ốc và George Ball, thứ trưởng ngoại giao.

    Tác giả của bức công điện là Hillsman và Harriman. Hai người này đă hành động gấp rút và trí trá, vượt mọi thủ tục thường lệ TT Kennedy, tổng trưởng ngoại giao Dean Rusk, tổng trưởng quốc pḥng McNamara, tổng tham mưu trưởng liên quân Maxwell Taylor, giám đốc trung ương t́nh báo MacCone, tất cả đă bị qua mặt. Hôm đó những nhân vật này đang nghĩ cuối tuần. Họ chỉ được thông báo và đọc cho nghe trong điện thoại. Và trong điện thoại, mỗi vị đều được biết: tổng thống đă chấp thuận, hoặc cấp trên trực tiếp của họ đă chấp thuận. Riêng TT Kennedy th́ được phúc tŕnh rằng ngoại trưởng Dean Rusk đă chấp thuận... C̣n ngoại trưởng Dean Rusk đă chấp thuận, và được cho biết trong điện thoại rằng TT Kennedy đă chấp thuận.

    Công điện gửi đi lúc 9 giờ 36 phút tối 24/8 và khoảng 11 giờ tối hôm đó, đại tướng Taylor mới nhận dược bản sao. Ông nổi giận cho rằng "nhóm chống đối Diệm nằm trong Bộ Ngoại Giao đă lợi dụng lúc các viên chức cao cấp trong chính phủ vắng mặt để đưa ra những chỉ thị mà nếu được soạn thảo trong những trường hợp b́nh thường sẽ không bao giờ được chấp thuận". (Kennedy in Vietnam, trang 116).

    2) Công điện ngày 26/8, đại sứ Lodge gởi Bộ Ngoại Giao.

    Đại sứ Lodge nhận được công điện nói trên của bộ ngoại giao vào sáng chủ nhật 25/8. Ông bèn họp tham mưu, và quyết định đi thẳng với các tướng lănh VN. Ông lập luận rằng: ông Diệm sẽ chẳng bao giờ chấp nhận những khuyến cáo của Hoa Kỳ về việc loại bỏ ông Nhu. Nói cho ông Diệm biết lập trường của ṭa Bạch Ốc, sẽ không ích lợi ǵ. Chẳng những vậy, c̣n có thể khiến cho ông Diệm đâm ra nghi ngờ các tướng lănh.

    Dưới đây là bức công điện của đại sứ Lodge trả lời bộ ngoại giao:

    "Tôi tin rằng Diệm sẽ không chấp thuận những đ̣i hỏi của chúng ta. Đồng thời, khi đưa những đ̣i hỏi ấy ra, chúng ta sẽ cho Nhu cơ hội đề pḥng trước hoặc chận đứng hành động của quân đi, đó là một cuộc mạo hiểm không nên làm, bởi v́ hiện nay Nhu đang nắm giữa những lực lượng chiến đấu tại Saigon. V́ vậy, tôi đề nghị, chúng ta nên đi thẳng với các tướng lănh, mà không cho Diệm biết. Tôi sẽ nói cho các tướng lănh biết rằng chúng ta chủ trương giữ Diệm lại, không có Nhu. Nhưng trên thực tế, giữ Diệm hay không là tùy ở họ. Tôi cũng sẽ yêu cầu các tướng lănh làm những điều cần thiết để thả các lănh tụ Phật giáo và thi hành thỏa ước này 16/8. Tuy nhiên tôi không đề nghị ra tay hành động, cho đến khi chúng ta có được những kế hoạch trốn thoát và tránh né (evasion, escape) thỏa đáng. Tướng Harkins đồng ư. Ngày mai, hồi 11 giờ sáng, tôi sẽ tŕnh ủy nhiệm thơ lên TT Diệm". (Lodge to State, quoted in telegram 6346 Forrestall to President, Aug 25, 63. Box 198, National security files, John F. Kennedy library).

    Có ba điểm quan hệ trong bức công điện của đại sứ Lodge. Thứ nhất: không cần phải nói với Diệm loại bỏ Nhu, mà bảo các tướng lănh loại bỏ Nhu. Thứ hai: cho phép các tướng lănh VN được tùy ư giữ Diệm hay loại bỏ Diệm. Thứ ba: toà đại sứ Mỹ đă nghĩ đến việc giúp đỡ các nhân viên Mỹ và các tướng lănh VN trốn thoát trong trường hợp đảo chánh thất bại.

    Đại sứ Lodge gởi công điện đi ngày 26/8. Cùng ngày đó, ông nhận được công điện vắn tắt sau đây của bộ ngoại giao: "Đồng ư với sự sửa đổi đă đề nghị". Nguyên văn "Agree to modification proposed". (telegram Ball to Lodge, 26/8/63, Box 198, national security files, John F Kennedy library, được trích dẫn trong Kennedy in Viet Nam, trang 116). Tức là bộ ngoại giao Mỹ chấp thuân toàn bộ kế hoạch của đại sứ Lodge: đi thẳng với các tướng lănh để giải quyết vấn đề loại bỏ ông Nhu, và có thể loại bỏ cả ông Diệm.

    3) Công điện ngày 28/8, TT Kennedy gởi đại sứ Lodge.

    Sáng thứ hai, ngày 26/8, TT Kennedy trở về ṭa Bạch Ốc sau cuộc nghỉ cuối tuần tại Hyannisport. Ông khám phá ra những mờ ám chung quanh bưc công điện 24/8. Tổng trưởng quốc pḥng McNamara không được tham khảo ư kiến, không được thông báo. Giám đốc CIA MacCone, đại tướng Taylor và ngoại trưởng Rusk cũng không được tham khảo. Ngoại trưởng Rusk đă đồng ư cho gửi bức công điện đi, và tưởng rằng TT Kenndy đă đồng ư. Và TT Kennedy đă đồng ư cho người gửi bức công điện đi, và tưởng rằng ngoại trưởng Rusk đă đồng ư.

    Harriman và Kennedy

     Theo các tài liệu, th́ sau khi khám phá ra những điều khuất tất, TT Kennedy đă giận dữ như chưa từng thấy. Trưa hôm đó (26/8), một cuộc tranh luận sôi nổi đă diễn ra tại ṭa Bạch Ốc, trước sự hiện diện của Kennedy. Phần đông những nguời có mặt đều bất măn với nội dung của bức công điện và lề lối làm việc của Hillsman và Harriman. Vấn đề được đặt ra một cách khẩn trương: có nên rút lại dức công điện 24/8 hay không ? Tuy đa số những người có mặt không đồng ư với nội dung của bức công điện, nhưng không một ai tán thành việc rút lại hoặc hủy bỏ bức công điện. V́ vậy, bức công điện vẫn giữ nguyên hiệu lực của nó.

    Chẳng những vậy, ngày 27/8, khi TT Kennedy gặp lại các cố vấn trong ṭa Bạch Ốc, ngoại trưởng Rusk c̣n nhấn mạnh rằng: "chúng ta phải cho các viên chức chúng ta ở Saigon biết rằng chúng ta sẽ không thay đổi những chỉ thị đang có, những chỉ thị mà họ đă căn cứ và để tiến hành nhiều công việc rồi" (Memorandum of Conference with the President, Aug 27, 63, John F. Kennedy library)

    Một vấn đề khác, không kém khẩn trương, cũng đă được đặt ra trong phiên họp, liệu các tướng lănh VN sẽ thành công hay không ? Đối với TT Kennedy, th́ đây là một vấn đề sinh tử. Chính quyền mang tên ông đă được gắn liền với những thất bại ê chề và rúng động dư luận trong vụ Vịnh Con Heo và Ai Lao mới đây. Nếu cuộc đảo chánh thất bại, ông là người phải chuốc lấy mọi tiếng xấu và khinh khi của dư luận, trong cũng như ngoài nước.

    V́ vậy, ngày 27/8, bộ ngoại giao được lệnh phải đánh điện yêu cầu đại sứ Lodge cho biết thêm chi tiết về âm mưu đảo chánh và về những tướng lănh đang âm mưu đảo chánh. Đ/s Lodge bèn cấp tốc gửi công điện về Hoa Thịnh Đốn đoan quyết răng: "cuộc đảo chính có viễn tượng rất tốt, nếu tŕ hoăn, cơ may thành công sẽ giảm đi" (The Overthrow of Ngo Dinh Diem, United States Viet Nam Relation III, trang 19).

    Nhưng, khi bộ ngoại giao đánh điện hỏii đại sứ Lodge, th́ tướng Taylor ở Ngũ Giác Đài cũng đánh điện cho tướng Harkins tư lệnh MAGV tại Saigon để hỏi về "tỷ lệ thành công" của cuộc đảo chính mà các tướng lănh VN đang sửa soạn. Tướng Taylor cũng cho tướng Harkins biết rằng công điện ngày 24/8 đă không có sự tham gia ư kiến của bộ quốc pḥng hoăc của bộ tổng tham mưu liên quân. Tướng Taylor c̣n nói rằng: "các viên chức chánh phủ đang suy nghĩ lại bức công điện đó". (FYI State to Saigon, Telegram 3368-63, Taylor to Harkins, Aug 28, 63, Box 316, national security files, John F. Kennedy library, được trích dẫn trong Kennedy in Viet Nam, trang 123)

    C̣n tiếp ...

  9. #49
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Tuớng Harkins

    Trái với đại sứ Lodge, tuớng Harkins không lạc quan lắm về khả năng của các tướng đảo chánh. Theo ông, cán cân lực lượng về phía những đạo quân trung thành với ông Diệm. Sau khi nhận được điện tín của tướng Taylor, tướng Harkins bèn đánh điện về ṭa Bạch Ốc cho biết quan điểm của ông, và kết luận đại khái rằng: ông không tin rằng ṭa Bạch Ốc có đủ lư do để dốc toàn lực chấp nhận một cuộc đảo chánh trong lúc này. (The Overthrow of Ngo Dinh Diem, III, trang 19).

    Hai quan điểm đối nghịch nhau của đại sứ Lodge và tương Harkins từ Saigon đánh về, đă làm cho TT Kennedy cực kỳ hoang mang. Ủy ban An Ninh Quốc gia (UBANQG) cấp tốc nhóm họp trưa ngày 28/8, căi nhau như một cái chợ bên Ai Cập. Theo Arthur Schesinger trong cuốn Robert Kennedy and His Time, th́ các nhân viên thuộc bộ ngoại giao chủ trương phải tiến tới việc lật đổ ông Diệm. Chống lại chủ trương đó, có đại sứ Nolting.

    Cuộc họp của UBANQG kết thúc chiều hôm đó (28/8). Các ủy viên ủy ban vẫn chia rẽ và ṭa Bạc Ốc vẫn không có được một quyết định dứt khoát cho vấn đề. Ngay tối hôm đó, TT Kennedy gửi cho đại sứ Lodge một mặt điện trong đó tổng thống tái xác nhận chủ trương đảo chánh của ṭa Bạch Ốc, nhưng ư kiến ấy hoàn toàn tùy thuộc vào sự nhận định tại chỗ của ông đại sứ, và tôi tin rằng ông đại sứ sẽ không ngần ngại cho lệnh hoăn lại hoặc thay đổi kế hoạch bất cứ lúc nào ông đại sứ thấy là cần". (Telegram 269, Kennedy to Lodge Aug 28, 1963, Box 316, national security files, John F. Kennedy library).

    Mật điện nói trên của TT Kennedy là một sử liệu vô cùng qúy gía, chứng minh sự tham gia tích cực của chánh quyền Mỹ trong vụ lật đổ TT Ngô Đ́nh Diệm năm 1963. Hơn thế nữa, nó c̣n là hành vi trực tiếp dấn thân của nhân vật cao cấp nhất trong hệ thống quyền lực và quyền bính của Hoa Kỳ, trong vụ lật đổ một tổng thống của miền Nam Việt Nam....

    4) Công điện ngày 29/8, đại sứ Lodge gửi ngoại trưởng Rusk.

    Sau khi nhận được mật điện 269 của TT Kennedy, đại sứ Lodge bèn tức tốc gửi công điện cho ngoại trưởng Rusk, khẳng định rằng Mỹ không thể nào tháo lui được nữa, và phải lật đổ Diệm. Dưới đây là những đoạn quan trọng của bức công điện:

    "Chúng ta đang ở trên một tiến tŕnh hành đúng không thể tháo lui được nữa: việc lật đổ Ngô Đ́nh Diệm. Không thể tháo lui, phần về uy tín của nước Mỹ đă công khai gắn liền với vụ này: sự gắn liền ấy sẽ trở nên lớn hơn khi những sự việc đă bị tiết lộ ra ngoàị Trên một ư nghĩa căn bản hơn, không thể tháo lui, bởi v́ theo tôi, không có hy vọng ǵ thắng được cuộc chiến tranh này với một Ngô Đ́nh Diệm c̣n ngồi ở chính quyền. Càng không hy vọng ǵ Diệm hoặc bất cứ người nào trong gia đ́nh Diệm có khả năng lănh đạo đất nước và tranh thủ được sự hậu thuẫn của những thành phần đáng kể trong dân chúng, như giới trí thức trong và ngoài chánh quyền, dân sự cũng như quân sự, chưa nói đến nhân dân Hoa Kỳ. Trong những tháng gần đây và đặc biệt trong những ngày gần đây, anh em Diệm đă làm cho những thành phần dân chúng nói trên chán ghét đến cực độ. V́ vậy, bản thân tôi hoàn toàn đồng ư với sách lược mà tôi được lệnh phải thi hành, chiếu công điện ngày chủ nhật vừa qua. Cơ may thành công của cuộc đảo chánh tùy thuộc vào các tướng lănh VN một mức độ nào đó, nhưng cũng tùy thuộc vào chúng ta, ít nhất cùng một mức độ đó. Chúng ta phải khởi sự làm một cố gắng toàn diện để thúc đẩy các tướng lănh hành động mau lẹ" (Telegram 375, Lodge to Stae Aug 29,1963, Box, National security files, John F. Kennedy library)

    Bức công điện của đại sứ Lodge có thể tóm tắt như sau: chúng ta người Mỹ, không thể lùi được nữa, phải lật đổ Ngô Đ́nh Diệm.

    Điều đáng nói, là: trong các công điện trước, đại sứ Lodge chỉ nói đến việc loại bỏ ông Nhu, loại bỏ hay giữ ông Diệm để tùy ở các tướng lănh. Nhưng trong bức công điện nói trên, đại sứ Lodge đă minh thị nói đến sự cần thiết phải loại bỏ ông Diệm và gia đ́nh ông Diệm.

    Đại sứ Lodge viết tiếp: "Nếu các tướng lănh đ̣i chúng ta phải công khai tuyên bố cắt viện trợ, chúng ta cũng sẽ chấp nhận làm điều đó, miễn là họ hiểu rằng họ sẽ phải khởi sự cùng một lúc với lời tuyên bố của chúng ta".

    Một sự việc đă xảy ra, khiến đại sứ Lodge trở nên quyết liệt trong bức công điện. Số là, sáng ngày 29/8, trưởng nhiệm CIA và Lou Conein đă được gọi đến trụ sở MACV cho xem bức công điện của đại tướng Taylor gửi cho tướng Harkins trong đó có câu "các viên chức trong chính phủ đang suy nghĩ lại bức công điện ngày 24/8". Buổi sáng hôm đó, Conein cũng có hẹn với tướng Dương văn Minh, người được coi là lănh tụ của cuộc đảo chánh. Cuộc gặp gỡ rất là chiếu lệ, Conein đă được chỉ thị của CIA không được hứa hẹn ǵ với tướng Minh. Sự việc này đă khiến tướng Minh cực kỳ lo ngại, ông nghĩ rằng Mỹ đang chơi tṛ phản bội đối với các tướng đảo chánh. Tướng Minh bèn đ̣i Mỹ phải tỏ dấu hiệu ủng hộ các tướng lănh đảo chánh băng cách ngưng viện trợ cho chế độ Ngô Đ́nh Diệm.

    Khi biết rơ câu chuyện của tướng Minh, đại sứ Lodge nổi giận và đ̣i Richardson (trưởng nhiệm CIA tại Saigon) cho biết lư do. Richardson bèn trả lời rằng: Hoa Thịnh Đốn đang suy nghĩ lại và có vẻ hối tiếc về công điện ngày 24/8. Khi nghe vậy, đại sứ Lodge đă phải vội vàng gửi ngay công điện về bộ ngoại giao, khẳng định rằng: Mỹ không thể nào tháo lui được nữa và phải lật đổ Ngô Đ́nh Diệm.

    Chúng ta thấy: vai tṛ của Mỹ trong vụ đảo chánh 1963 đă qúa rơ rệt và qúa lộ liễu. Đại sứ Lodge đă khẳng định trong đoạn 2 của bức công điện. "cơ may thành công của cuộc đảo chánh tùy thuộc vào các tướng lănh một mức độ nào đó, nhưng nó tùy thuộc vào chúng ta, ít nhất cùng một mức độ đó". Đại sứ Lodge muốn nói rằng: nếu Mỹ không trực tiếp và tích cực nhúng tay vào, th́ cuộc đảo chánh sẽ chẳng bao giờ thành công.

    Nhưng c̣n một sự thực khác mà đại sứ Lodge không nói ra, sợ làm nản ḷng ṭa Bạch Ốc. Sự thực đó, là: nếu Mỹ không trực tiếp và tích cực nhúng tay vào, th́ các tướng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh ông Diệm.

    Và bây giờ, chúng ta hăy suy nghĩ theo từng giai đoạn.

    1 - Nếu Mỹ triệt để ủng hộ ông Diệm, nhưng không chống ông Diệm, các tướng lănh sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.

    2 - Nếu Mỹ không triệt để ủng hộ ông Diệm, nhưng không chống ông Diệm, các tướng lănh cũng chẳng bao giờ dám đảo chánh.

    3 - Nếu Mỹ chống ông Diệm, nhưng không chống đối công khai, các tướng lănh cũng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.

    4 - Nếu Mỹ công khai chống ông Diệm, nhưng không cho CIA đến móc nối, các tướng lănh cũng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.

    5 - Nếu Mỹ cho CIA đến móc nối, nhưng lại không có một hành động cụ thể và công khai nào chứng tỏ Mỹ quyết tâm lật đổ ông Diệm (như cắt viện trợ), các tướng lănh cũng sẽ chẳng bao giờ dám đảo chánh.

    Cái nếu thứ 5 đă xảy ra. Trong suốt thời gian tháng 8/1963, nhất là từ ngày đại sứ Lodge đến, Lucien Conein để đến móc nối khuyến khích các tướng lănh đảo chánh nhất là hứa hẹn rằng Mỹ sẽ triệt để ủng hộ họ trong thời gian chuyển tiếp sau khi bộ máy chính quyền trung ương bị phá sập. Mặc dù vậy, các tướng lănh vẫn không dám hành động. Hơn ai hết, họ thuộc nằm ḷng bài học 1960 của đại tá Nguyễn Chánh Thi. Họ ư thức một cách sâu sắc rằng: nếu Mỹ không dấn thân, nếu Mỹ không nhập cuộc, th́ cuộc đảo chánh sẽ chẳng bao giờ thành công. Chẳng những không thành công, mà c̣n mang họa. Họ cũng ư thức một cách sâu sắc rằng: sự nhập cuộc và dấn thân của Mỹ phải được thể hiện bằng hành động cụ thể nhất, ngoạn mục nhất và dễ khích động quần chúng nhất, đó là: chính quyền Mỹ phải cắt viện trợ và tuyên bố cắt viện trợ. Chỉ trong trường hợp đó và chỉ với điều kiện đó, họ mới dám đảo chánh.

    Các tướng lănh trong nhóm đảo chánh, tướng Trần văn Đôn, tướng Trần Thiện Khiêm, tướng Dương văn Minh, và kể cả tướng Lê văn Kim - người có ư thức chính trị nhất trong nhóm - không phải là những con người chính trị, hoặc cách mạng. V́ vậy họ thiếu hẳn cái khí phách và can trường của những con người chính trị hoặc cách mạng. Họ không có tầm vóc của những người lănh đạo. Họ được đào tạo để phục tùng và để được người khác lănh đạo. Họ cần phải được người khác lănh đạo và họ cho có hiệu năng khi được người khác lănh đạo. Đó là một sự thật đáng buồn. Sự thât ấy, quốc dân VN đă có dịp nh́n thấy ra sau khi ông Diệm bị lật đổ.

    5) Công điện ngày 29/9 của ngoại trưởng Rusk

    Công điện ngày 29/8 nói trên của đại sứ Lodge đă được đưa ra mổ xẻ tại Hội Đồng An Ninh Quốc Gia nhóm họp khẩn cấp ngay hôm đó tại ṭa Bạch Ốc. Và buổi chiều ngày 29/8, ngoại trưởng Rusk cấp tốc đánh điện cho đại sứ Lodge biết quyết định của hội đồng. Dưới đây là nhữg điểm chính:

    a) Cho phép tướng Harkins (tư lệnh quân đi Mỹ tại VN) được gặp các tướng đảo chánh để nói cho họ biết Mỹ triệt để ủng hộ việc loại bỏ Ngô Đ́nh Nhu, cũng như sẽ ủng hộ một cuộc đảo chánh có nhiều cơ may thành công, nhưng Mỹ không dự tính việc trực tiếp dùng quân đội Mỹ để tiếp tay cho nhóm đảo chánh.

    Cho phép đại sứ Lodge được quyền loan báo việc Mỹ ngưng viện trợ cho chánh quyền Ngô Đ́nh Diệm, vào thời điểm với những điều kiện do ṭa đại sứ lựa chọn. (Cablegram from secrectary Rusk to Ambassador Lodge Aug 29/8/63, được in lại trọn vẹn dưới số 40 trong The Pentagon Papers, tr. 198-199)

    Cũng ngày hôm đó (29/8), TT Kennedy gửi một mật điện cho đại sứ Lodge, xác nhận triệt để ủng hộ việc lât đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Nhưng tổng thống không đồng ư về điểm chính quyền Mỹ "không c̣n đường tháo lui". Ông bị ám ảnh bởi sự thất bại trong vụ Vịnh Con Heo tại Cuba năm 1961, v́ vậy ông khuyên đại sứ Lodge phải cực kỳ thận trọng. Bức mật điện viết: "Kinh nghiệm cho tôi biết rằng: hành động mà thất bại sẽ tai hại hơn là không hành động và bị coi là thiếu quả quyết... Chúng ta hành động, là để thắng. V́ vậy, thà đổi ư (không hành động) c̣n hơn là (hành động mà) thất bại" (Telegram Kennedy to Lodge Aug 29/8/63, national security files, John F. Kennedy library).

    Trong hai ngày cuối cùng của tháng 8/63, ṭa Bạch Ốc bận rộn như đại bản doanh hành quân của một đoàn quân viễn chinh. TT Kennedy và các cố vấn của ông ở trong t́nh trạng báo động. Tất cả trí năo và ư chí của ṭa Bạc Ốc đều hướng về một cuộc đảo chánh sẽ xảy ra bất cứ giờ phút nào tại miền Nam VN để lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.

    V́ TT Kennedy chủ trương rằng đă ra tay hành động là phải thắng, cho nên quân lực Mỹ đă được huy động để tránh cho nước Mỹ một vụ Vịnh Con Heo thứ hai. Một lực lượng đặc nhiệm hải quân gồm tàu chở trực thăng đổ bộ và khu trục hạm được lệnh tuần tiểu ngoài khơi VN. Tại Okinawa, hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ tăng cường, tổng cộng 3 ngàn người, được đặt trong t́nh trạng báo động 24/24. Mặt dầu vậy, ngoại trưởng Rusk vẫn không an tâm, ông lo sợ quân đảo chánh có thể bị quân đội chính phủ đè bẹp và cuộc nổ súng sẽ kéo dài trong nhiều ngày. Ông đ̣i Hillsman phải đệ tŕnh một bản phân tách t́nh h́nh và cho biết những khả năng về phía Mỹ để giúp nhóm đảo chánh thành công mau lẹ. Hillsman đệ tŕnh bản phân tách, trong đó có câu: "Nếu cần, chúng ta sẽ đưa quân chiến đấu Mỹ vào Saigon để giúp quân đảo chánh đạt được chiến thắng". Nguyên văn: if necessary, we should bring in US combat troops to assist the coup group to achieve victorỵ (Memorandum Hillsman to Rusk, Aug 30, 63, Chicago Sun Times, June 23, 1971, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 126)

    Về phần đại tương Harkins, tuân theo chỉ thị của TT Kennedy, ông mời tướng Trần Thiện Khiêm tới bản doanh MAGV sáng ngày 31/8 và cho tướng Khiêm biết: "Nếu các tướng lănh sẵn sàng lật đổ Diệm, Hoa Kỳ sẽ ủng hộ". Tướng Khiêm bèn đi gặp tướng Dương Văn Minh, rồi chiều hôm đó trở lại báo cho tướng Harkins biết rằng tướng Dương văn Minh đă thôi không nghĩ đến chuyện đảo chánh nữa, v́ lư do: nhóm đảo chánh không đủ lực lượng để đương đầu với quân chính phủ. Sự thật, đó chỉ là một lối giải thích. Lư do sâu xa đă khiến nhóm đảo chánh ngưng lại, là: họ không tin Mỹ đă thực sự dấn thân. Họ chờ đợi ở Mỹ một hành động dứt khoát và cụ thể, tức là cúp viện trợ và tuyên bố cúp viện trợ, điều mà Mỹ do dự chưa dám làm. Cuộc đảo chánh vào cuối tháng 8 đă không xảy ra, như Mỹ dự kiến.

    6) Lời tuyên bố của TT Kennedy ngày 2/9

    Việc các tướng lănh Saigon ngưng lại không đảo chánh, được Hoa Thịnh Đốn coi như là một thất bại của chính người Mỹ. Hội đồng ANQG và các cố vấn ṭa Bạch Ốc họp liên miên để t́m biện pháp đối phó với t́nh thế mới. Vấn đề anh em ông Diệm bỗng nhiên mang một kích thước lớn hơn: đó là kích thước của chính nghĩa Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á.

    PTT Johnson

    Các ông Hillsman, Harrman và Katenburg (thuộc bộ ngoại giao) vẫn chủ trương phải lật đổ ông Diệm để tăng cường hiệu năng chiến đấu chống cộng của miền Nam, nếu không, người Mỹ sẽ phải rút khỏi miền Nam. Ngoại trưởng Rusk không đồng ư, ông chủ trương không rút khỏi miền Nam mà cũng không lật đổ Ngô Đ́nh Diệm. Riêng phó tổng thống Johnson th́ dứt khoát. Theo ông, người Mỹ không nên lật đổ ông Diệm, v́ sau đó sẽ không t́m được người lănh đạo có tầm vóc như ông Diệm. PTT Johnson c̣n nói: "chúng ta nên chấm dứt cái tṛ vừa đánh trống vừa ăn cướp và trở lại nói chuyện thẳng với chính quyền Saigon". Nguyên văn: we should stop playing cops and robbers and get back to talking straight to Saigon Government" (The Pentagon Paper, p. 174)

    Đang khi đó TT Kennedy tỏ ra vô cùng bực bội.

    Ngày 2/9 TT Kennedy lên đài truyền h́nh CBS, tuyên bố: "chúng ta thấy những cuộc đàn áp Phật giáo (tại miền Nam VN) là những hành động cực kỳ thiếu khôn ngoan. Và bây giờ chúng ta không thể làm ǵ khác hơn là khẳng định một cách rơ rệt rằng: chúng ta không nghĩ đó là phương thức để chiến thắng CS" .

    Kư giả Walter Conkrite hỏi: "Liệu chính quyền Ngô Đ́nh Diệm có c̣n th́ giờ để lấy lại sự hậu thuẫn của quần chúng hay không ?" TT Kennedy trả lời: "c̣n, nếu họ chịu thay đổi chính sách, và có lẽ thay đổi cả nhân sự".

    Trong bối cảnh chính trị lúc đó, ai cũng hiểu rằng: khi ám chỉ đến một sự thay đổi nhân sự trong chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, TT Kennedy muốn nói đến việc loại bỏ Ngô Đ́nh Nhu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử bang giao Mỹ-Việt, một vị tổng thống Hoa Kỳ công khai và minh thị lên án chính quyền miền Nam. Nghiêm trọng hơn, tổng thống Hoa Kỳ đă công khai kết tội anh em ông Diệm "đàn áp Phật giáo". Tổng thống Hoa Kỳ đă công khai đứng vào hàng ngũ của nhóm đấu tranh qúa khích tại Saigon đang đ̣i lật đổ chính quyền.

    C̣n tiếp ...

  10. #50
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Phần đọc thêm 11 - (tiếp theo bài của tác giả Việt Linh)


    Tổng thống Hoa Kỳ đă công khai đồng hóa nhóm qúa khích ây với Phật giáo, và đă minh thị đồng hóa nhóm quá khích ấy với nhân dân VN.... Những sai lầm thô bạo nói trên đă hầu hết được các tác giả sau này phê phán nghiêm khắc, coi đó như những xuẩn động của chính quyền Kennedy.

    Cùng ngày 2/9 tại Saigon, tờ Times of Vietnam (của chính phủ) kéo tít lớn tố cáo CIA âm mưu đảo chính chống lại chính quyền miền Nam VN. Bang giao giữa dinh Độc Lập và ṭa Bạch Ốc đă căng thẳng lại càng căng thẳng hơn. Sự kiện này đă được nhóm đấu tranh quá khích tại Saigon triệt để khai thác. Nó cũng được nhóm chống Ngô Đ́nh Diệm trong ṭa Bạch Ốc triệt để khai thác.

    Đang khi đó, anh em ông Diệm càng ngày càng tỏ ra quyết liệt đối với nhóm đấu tranh quá khích, cũng như dối với những đ̣i hỏi của ṭa Bạch Ốc.

    7) Công điện số 478, đại sứ Lodge gửi bộ ngoại giao

    Sau những lời tuyên bố của TT Kennedy trên đài truyền h́nh CBS, ṭa Bạch Ốc vẫn không t́m hướng đi rơ rệt, nhất là không t́m được giải pháp cho vấn đề Ngô Đ́nh Diệm. Dúng lúc đó Robert Kennedy xuất hiện.

    Robert Kennedy

    Trong một phiên họp các cố vấn vê chính sách đối ngoại của TT Kennedy tại ṭa Bạch Ốc, Robert Kennedy nói: "Nếu thấy không thể thắng được chiến tranh VN dưới bất cứ một chính thể nào tại miền Nam, th́ bây giờ là lúc Hoa Kỳ nên rút khỏi miền Nam. Nhưng nếu nhận định rằng chế độ Ngô Đ́nh Diệm là một trở ngại cho cuộc chiến thắng, th́ đại sứ Lodge phải được trao cho toàn quyền hành động để đem lại những thay đổi cần thiết".

    Vấn đề cắt viện trợ lại được đặt ra, nhất là vấn đề cắt lương của Lực Lượng Đặc Biệt do đại tá Lê Quang Tung chỉ huy. Và vấn đề lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm lại được đem lên thảm xanh của ṭa Bạch Ốc.

    Robert Kennedy, thay mặt anh ruột, đề nghị Ngũ Giác Đài cho biết ư kiến của các cố vấn quân sự tại chiến trường miền Nam để giúp ṭa Bạch Ốc có dữ kiện hầu t́m một giải pháp thỏa đáng và dứt khoát cho vấn đề VN.

    Đại tướng Taylor, tham mưu trưởng liên quân HK, bèn cử trung tướng Victor Krulag đi VN. Roger Hillsman, v́ sợ Ngũ Giác Đài không am hiểu chính trị và sẽ gây trở ngại cho chủ trương lật đổ Ngô Đ́nh Diệm, cho nên bèn đề nghị Joseph Mendenhall cùng đi với tướng Krulag.

    Phái đoàn "đi t́m sự thật" đến VN ngày 7/9, và trở và Hoa Thịnh Đốn ngày 9/9. Trong hai ngày, họ đă t́m thấy sự thật !
    Ngày 10/9, TT Kennedy và các cố vấn họp khẩn cấp tại tờa Bạch Ốc để nghe phái đoàn tường tŕnh về chuyến đi t́m sự thật.

    Theo Menenhall (thuộc phe Hillsman - Do Thái) th́ chính quyền Ngô D́nh Diệm đang đi đến sụp đổ toàn diện, dân chúng sợ và ghét vợ chồng Ngô Đ́nh Nhu t́nh h́nh có thể đưa đến một cuộc chiến tranh tôn giáo, hoặc một phong trào quần chúng rộng lớn đi theo VC. Mendenhall kết luận: "Nhu phải ra đi, nếu chúng ta muốn thắng cuộc chiến tranh VN" (Memorandum of conference with the president, sept 10, 1963, Box 316, national security files, John F. Kennedy library, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 135)

    Quan điểm của tướng Krulag th́ hoàn toàn khác. Theo tướng Krulag th́ cuộc chiến đấu quân sự vẫn đang tiến hành với một nhiệp độ đáng khâm phục. Cuộc khủng hoảng chính trị cũng có ảnh hưởng đến, nhưng không bao nhiêu, VC sẽ thua, nếu Mỹ vẫn tiếp tục những chương tŕnh viện trợ về quân sự và xă hội, không cần lư đến những thiếu xót trầm trọng của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm (Report, Visit to Vietnam, 7-8, sept 1963, Box 316, national security, JFK library, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 135)

    Nghe xong phúc tŕnh đối chọi nhau của hai người cùng đi trong một phái đoàn t́m sự thật, TT Kennedy chỉ c̣n biết kêu trời.

    Chính lúc đó, đại sứ Lodge lại nhảy vào ṿng chiến, lần này với sự trắng trợn và quyết liệt ít thấy nơi một nhà ngoại giao Tây phương. Trong một công điện đặc biệt gửi về Hoa Thịnh Đốn (công điện số 478) đại sứ Lodge khẳng định rằng: chính quyền miên Nam đă hiển nhiên tách rời ra khỏi thực tế. Ông ví chế độ Diệm với một chiếc tàu đang ch́m dần xuống biển. Ông chủ trương chính quyền Mỹ phải cố gắng một lần nữa để khích lệ một cuộc đảo chánh. Và ông kết luận: "đă đến lúc HK phải dùng mọi chế tài hữu hiệu có trong tay để lật đổ chính quyền hiện hữu và thiết lập một chính quyền khác". Nguyên văn: The time has arrived for the US to use what effective sanctions it has to bring about the fall of the existing government and the in installation of another" (Telegram 478, Saigon to State, Box 316, nationalsecurity file JFK library, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 138)

    Trong công điện, đại sứ Lodge c̣n cho biết: biện pháp chế tài hữu hiệu nhất, sẽ là cắt viện trợ trong một số lănh vực lựa chọn, như một tín hiệu ủng hộ cuộc đảo chánh, điều mà các tướng lănh VN đă từng yêu câù hồi cuối tháng 8 vừa qua.

    8) Công điện ngày 17/9, ṭa Bạch Ốc gửi đại sứ Lodge.

    Công điện số 478 của của đại sứ Lodge được đem ra mổ xẻ trước hội đồng ANQG. Và ngày 17/9, ṭa Bạch Ốc gửi cho đại sứ Lodge một công điện tóm tắt và xác quyết lập trường của Hội đồng về những biện pháp dối phó với t́nh h́nh miền Nam. Bức công điện gồm 10 điểm. Dưới đây là những điểm chính:

    a/ Ṭa Bạch Ốc chưa thấy có cơ hội tốt để lật đổ Ngô Đ́nh Diệm lúc này (điểm 2 của công điện).

    b/ Ṭa Bạch Ốc cho phép đại sứ Lodge được tùy nghi tŕ hoăn những cuộc cung cấp hoặc chuyển tiền viện trợ của bất cứ một cơ quan Mỹ nào cho chánh quyền miền Nam, nếu đại sứ Lodge nghĩ rằng những cuộc cung cấp hoặc chuyển tiền viện trợ ấy không có lợi cho Mỹ. Ṭa Bạch Ốc cũng nhấn mạnh rằng đại sứ Lodge nên xử dụng quyền này để hạn chế tất cả những h́nh thức viện trợ cho (hoặc qua) Ngô Đ́nh Nhu hoặc những cá nhân liên hệ với Nhu, tỷ như Lê Quang Tung (điểm ba).

    c/ Ṭa Bạc Ốc chỉ thị cho đại sứ Lodge phải buộc chính quyền Ngô Đ́nh Diệm phải cải thiện, như: thả hết sinh viên và Phật tử, cho báo chí được tự do ngôn luận, giới hạn mật vụ và cảnh sát chiến đấu vào nhiệm vụ hành quân tiểu trừ CSVN thay v́ thiểu trừ đối lập, cải tổ nội các, chấp nhận tự do bầu cự chấp nhận phái đoàn Phật giáo quốc tế đến điều tra tại VN, hủy bỏ dụ số 10 (điểm 4)

    d/ Ṭa Bạch Ốc chỉ thị đại sứ Lodge phải làm áp lực buộc Ngô Đ́nh Nhu ra khỏi VN (điểm 6)

    e/ Ṭa Bạc Ốc khuyên đại sứ Lodge nên mở lại và tiếp tục đối thoại với TT Diệm và thâu lượm tin tức t́nh báo (điểm 8)

    f/ Ṭa Bạch Ốc khuyên chờ đợi ư kiến của đại sứ Lodge đối với chương tŕnh phác họa ở trên, trước khi ṭa Bạch Ốc có quyết định cuối cùng.

    Đây chỉ là một kế hoạch tạm thời (Telegram 63516, White House to Lodge Sept 17, 63, The Pentagon Papers, p. 206)

    Đọc bức công điện trên, chúng ta thấy ṭa Bạch Ốc vẫn giữ vững chủ trương phải lật đổ ông Diệm. Nhưng v́ chưa có cơ hội tốt để lật đổ ông Diệm, nên ṭa Bạch Ốc phải đưa ra một kế hoạch tạm thời để đối phó với t́nh h́nh ṭa Bạch Ốc ban cho đại sứ Lodge toàn quyền tu chính. Và ṭa Bạch Ốc sẽ chỉ đưa ra quyết định cuối cùng, sau khi nhận được phúc đáp của đại sứ Lodgẹ

    9) Công điện ngày 19/9, đại sứ Lodge gửi TT Kennedỵ

    Công điện nói trên của ṭa Bạch Ốc không làm cho đại sứ Lodge hài ḷng. Ông không muốn tiếp xúc với ông Diệm. Ông cho rằng: đề nghị cải tổ cũng như đ̣i ông Diệm phải loại bỏ Ngô Đ́nh Nhu, là một việc làm vô ích. Trước sau, ông vẫn chủ trương phải lật đổ ông Diệm để cải thiện miền Nam.

    Ngày 19/9, đại sứ Lodge gửi cho TT Kennedy một công điện gồm 11 điểm. Dưới đây là những điểm chính:

    a/ Đồng ư với ṭa Bạch Ốc rằng hiện nay chưa có cơ hội tốt để lật đổ Diệm, v́ vậy phải tạm thời làm bất cứ những ǵ chúng ta có thể làm được, trong khi chờ đợi cơ hội đó đến (điểm 1).

    b/ Không kỳ vọng lắm vào những cuộc tiếp xúc với Diệm, cũng như không kỳ vọng lắm vào những hứa hẹn cải tổ của Diệm (điểm 2).

    c/ Không nghĩ rằng việc công khai tiếp xúc với Diệm có thể giải quyết thỏa đáng những vấn đề mà t́nh thế đặt ra. Theo Duơng văn Minh cho biết mới đây, th́ : VC càng ngày càng lớn mạnh, càng được ḷng dân, những cuộc bắt bớ vẫn tiếp tục, các nhà tù đầy ấp, thêm nhiều sinh viên đă đi theo VC, chính quyền càng ngày càng tham nhũng và ăn cắp tiền viện trợ Mỹ (điểm 4)

    d/ Đang nghiên cứu biện pháp ngăn chặn viện trợ để trừng phạt Diệm Nhu mà không gây ra sự sụp đổ vỡ kinh tế và trở ngại cho nỗ lực chiến đấu của quân đội (điểm 5).

    e/ Đề nghị ṭa Bạch Ốc cứu xét vấn đề ủng hộ một quân đội biệt lập với chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Bức công điện viết như sau: "Tôi cũng nghĩ rằng bất cứ biện pháp chế tài nào mà chúng ta t́m được, phải được trực tiếp nối liền với một cuộc đảo chánh có triển vọng thành công. Ngoài viễn tượng nói trên, các biện pháp chế tài ấy sẽ không được áp dụng. Trong hướng đó, tôi nghĩ rằng chúng ta nên tiếp tục tiếp xúc với Big Minh và thúc giục ông ta tiến tới, nếu ông ta xem ra c̣n muốn hành động. Tôi (Cabot Lodge) đặc biệt nghĩ rằng ṭa Bạch Ốc nên nghiêm chỉnh cứu xét vấn đề ủng hộ một quân đội VN biệt lập với chính quyền". Nguyễn văn câu cuối cùng: I particularly think that the idea of supporting a Vietnamese Army independent of the government should be energically studied. (Cablegram 544, ambassador Lodge to State dept., "For President only", sept 19, 63, The Pentagon Papers, p. 208-209)

    Chúng ta cần ghi nhận những điều sau đây, liên quan tới bức công điện nói trên.

    1/ Đại sứ Lodge bác bỏ việc mở lại những cuộc tiếp xúc với ông Diệm. Ông vẫn chủ trương phải lật đổ Ngô Đ́nh Diệm.

    2/ Đại sứ Lodge dùng lời lẽ của tướng Dương Văn Minh để lên án TT Ngô Đ́nh Diệm.

    3/ Đại sứ Lodge chủ trương phải tiếp tục tiếp xúc với tướng Dương văn Minh, thúc dục tướng Minh làm đảo chánh.

    4/ Đại sứ Lodge thúc dục ṭa Bạch Ốc phải cứu xét vấn đề ủng hộ "một quân đội VN độc lập với chính quyền trung ương". Nói cách khác, một quân đội VN không chịu mệnh lệnh của vị tổng thống kiêm Tổng Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH. Nói cách khác; một quân đội không nằm trong hệ thống chính quyền hợp hiến của quốc gia miền Nam. Nói cách khác: một quân đội chịu mệnh lệnh của ngoại bang và phục vụ ngoại bang trong những mưu đồ bất chính của ngoại bang.

    Giữa tháng 1/63, một phát đoàn gồm tổng trưởng quốc pḥng McNamara và đại tướng Taylor được TT Kennedy cử sang VN để thẩm định t́nh thế, đồng thời ước tính triển vọng về một cuộc đảo chánh tại miền Nam. Phái đoàn rời Saigon ngày 2/10. Bản phúc tŕnh của họ lạc quan về t́nh h́nh quân sự, nhưng bi quan về t́nh h́nh chính trị. Họ khuyến cáo TT Kennedy phải áp dụng những biện pháp chế tài về kinh tế đối với TT Diệm. Một trong những biện pháp đề nghị là: ngưng viện trợ cho chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.

    Một điểm đáng ghi nhận là: trong chuyến đi, tướng Taylor và tổng trưởng quốc pḥng McNamra đi đích thân đến thăm tướng Dương Văn Minh.....

    10/ Công điện ngày 5/10, đại sứ Lodge gửi Bộ Ngoại Giao

    Ngày 2/10, khi phái đoàn McNamara-Taylor rời Saigon để trở về Hoa Thịnh Đốn, th́ Lucien Conein được lệnh của đại sứ Lodge phải mở lại những cuộc tiếp xúc với tướng Trần văn Đôn. Hai người gặp nhau tại bờ biển Nha Trang. Trong cuộc gặp gỡ, tướng Đôn cho Conein biết: nhóm đảo chánh đă thuyết phục được tướng Tôn Thất Đính, và quân đi đă sẵn sàng để lật đổ ông Diệm. Tướng Đôn cũng yêu cầu Conein đích thân đến gặp tướng Minh.

    Lucien Conein

    Ngày 5/10, đại sứ Lodge gửi về bộ ngoại giao một công điện gồm 10 điểm để tường tŕnh về cuộc tiếp xúc giữa Conein và tướng Minh. Dưới đây là những điểm chính:

    a/ Trung tá Lucien Conein tiếp xúc với Dương văn Minh trong một giờ mười phút , tại bản doanh của Dương văn Minh đường Lê văn Duyệt. Conein đă được phép của ṭa đại sứ để làm việc này. Họ chỉ có hai người và nói với nhau bằng tiếng Pháp (điểm 1).

    b/ Dương văn Minh nói với Conein rằng ông ta cần phải biết rơ lập trường của chính quyền Mỹ đối với một cuộc thay đổi chính quyền tại miền Nam trong một tương lai rất gần. Dương văn Minh cho biết : nhóm đảo chánh, ngoài ông ta ra, gồm các tướng Trần văn Đôn, Lê văn Kim và Trần thiện Khiêm (điểm 2).

    c/ Dương văn Minh cho biết ông ta không kỳ vọng một sự giúp đỡ đặc biệt nào của Mỹ trong việc thay đổi chính quyền, nhưng ông ta rất cần chính quyền Mỹ cam kết rằng sẽ không t́m cách làm hỏng kế hoạch của ông ta (điểm 3).

    d/ Dương văn Minh phác họa ba kế hoạch để thay đổi chính quyền. Thứ nhất, ám sát Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn và giữ TT Diệm lại. Thứ hai bao vây thủ đô Saigon bằng những đơn vị khác nhau, đặc biệt là những đơn vị đồn trú tại Bến Cát. Thứ ba: trực tiếp giàn quân đánh nhau với quân chính phủ. Dương văn Minh cho biết Nhu có thể trông cậy vào một số quân trung thành khoảng 5,500 binh sĩ (điểm 5).

    e/ Dương văn Minh cho biết ba người nguy hiểm nhất miền Nam là Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn và Ngô Trọng Hiếu. Conein nói: Lê Quang Tung là người đáng sợ hơn, th́ Dương văn Minh trả lời: Khi tôi loại trừ được Nhu, Cẩn và Hiếu rồi, th́ Tung sẽ quỳ xuống trước mặt tôi (điểm 7).

    f/ Dương văn Minh nói rằng ông ta rất thắc mắc về vai tṛ của Trần Thiện Khiêm. Trần Thiện Khiêm có thể đă đi hàng hai trong vụ tháng 8 vừa qua. Trước đó, CIA đă đưa cho Khiêm họa đồ căn cứ Long Thành và bản kê khai vũ khí tại căn cứ này để Khiêm trao lại cho Dương văn Minh. Nay Dương văn Minh muốn có bản sao những tài liệu đó để đối chiếu với những tài liệu mà Khiêm đă trao cho ông ta (điểm 8).

    g/ Dương văn Minh cho biết một trong những lư do khiến ông ta phải hành động gấp rút, là: nhiều sĩ quan chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội cũng đang tự động đứng ra tổ chức những cuộc đảo chánh riêng, họ có thể thất bại và di hại cho đại cuộc (điểm 9) (Telegram 1445, Lodge to State, oct 5, 63, The Pentagon Papers, p. 213).

    Chúng ta nên ghi nhận những điểm quan trọng sau đây:

    Thứ nhất: trước khi đảo chánh, tướng Dương văn Minh muốn biết rơ lập trường dứt khoát của Hoa Kỳ về việc thay đổi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm. Đây là một h́nh thức xin phép, trước khi hành động. Nhóm tướng lănh VN chỉ dám đảo chánh, khi biết chắc Mỹ cho phép đảo chánh và bật đèn xanh cho phép đảo chánh.

    Thứ hai: CIA Mỹ đă vẽ họa đồ căn cứ Long Thành (tức căn cứ của Lực Lượng Đặc Biệt trung thành với ông Diệm), và lập bản kê khai vũ khí của căn cứ này trao cho nhóm tướng lănh đảo chánh.

    Cũng ngày 5/10, đại sứ Lodge gởi thêm một điện văn nữa về bộ ngoại giao đề nghị cho phép Conein, trong cuộc tiếp xúc lần tới với tướng Dương văn Minh, được: thứ nhất, hứa với tướng Minh rằng Hoa Kỳ sẽ không t́m cách làm hỏng cuộc đảo chánh của ông ta.

    Thứ hai: cam kết với tướng Minh rằng HK sẽ tiếp tục viện trợ cho VN sau khi đảo chánh, miễn là chính quyền mới hứa tranh thủ nhân tâm và chiến thắng CS (The Pentagon Papers, p. 215).

    11/ Công điện ngày 5/10, TT Kennedy gửi đại sứ Lodge.

    Cũng ngày 5/10, TT Kennedy gửi mật điện, ra chỉ thị cho đại sứ Lodge không nên ngầm khuyến khích một cuộc đảo chánh. Nhưng ông cũng chỉ thị cho đại sứ Lodge phải cấp tốc bí mật nhận diện và tiếp xúc với những người có thể thay thế ông Diệm. Ông căn dặn đại sứ Lodge phải tuyệt đối bí mật và hành động khôn khéo, để sau này chính quyền Mỹ có thể chối căi một cách dễ dàng là đă không nhúng tay vào vụ lật đổ Ngô Đinh Diệm (Telegram 63560, White House to Lodge Aug 5, 63, The Pentagon Papers p. 215).

    Chúng ta ngạc nhiên về thái độ khó hiểu và đầy mâu thuẩn của TT Kennedy. Ông chỉ thị cho đại sứ Lodge phải cấp tốc bí mật nhận diện và tiếp xúc với những người có thể thay thế ông Diệm. Sự thật, không có ǵ khó hiểu. TT Kennedy đă gửi mật điện nói trên, trước khi nhận được bức công điện số 1445 mùng 5 tháng 10 của đại sứ Lodge cho biết rướng Dương văn Minh đă sẵn sàng để lật đổ ông Diệm.

    Sau khi nhận được công điện 1445 báo tin tướng Dương văn Minh đă sẵn sàng để đảo chánh, TT Kennedy gửi ngay điện văn dưới đây cho đại sứ Lodge.

    C̣n tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Nh́n lại cuộc chiến Việt Nam
    By alamit in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 45
    Last Post: 22-08-2012, 04:59 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 28-07-2012, 04:08 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 19-08-2011, 12:59 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •