Results 1 to 3 of 3

Thread: THUYẾT CÔNG DÂN CỘNG H̉A

  1. #1
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    THUYẾT CÔNG DÂN CỘNG H̉A

    Lê Nguyên Hồng - Là một hệ tư tưởng riêng biệt, nhưng thường đi kèm với tư tưởng dân chủ, chủ nghĩa Cộng ḥa là một chủ nghĩa chủ trương thay thế chế độ cha truyền con nối trị v́ của nhà nước Phong kiến, bằng quyền lực nhân dân. Nhưng trong mô h́nh thiết lập nhà nước Cộng ḥa, rất nhiều quốc gia đă chấp nhận sự hiện diện song hành của Hoàng gia, như là một phần của h́nh thức thiết lập chế độ cầm quyền.

    Ở Việt Nam, chế độ Phong kiến đă bị xóa sổ, nhưng chủ nghĩa Cộng ḥa – Cái mà từ đó thiết đặt nên một nền móng dân chủ cho đất nước – Cũng chưa có cơ hội phát triển. Để t́m ra phương cách thiết lập và vận hành có hiệu quả chế độ Cộng ḥa, Thuyết Công Dân Cộng Ḥa ra đời nhằm làm rơ vai tṛ, trách nhiệm và quyền hạn của người Công dân trong xă hội, cải biến vị trí thụ động của người dân có dân trí Công dân thấp, thành cương vị người Công dân có đủ năng lực để làm chủ đất nước. Nếu áp dụng đúng, công năng của Thuyết Công Dân Cộng Ḥa có đủ quyền lực để “hô biến” một thể chế Độc tài thành thể chế Cộng ḥa Dân chủ trong một thời gian cực ngắn. Và sẽ khiến công cụ đàn áp của chế độ Độc tài thành tṛ cười, v́ họ không biết đàn áp vào ai và vào đâu.

    Trước khi đi vào chủ đề “Thuyết Công dân Cộng ḥa”, chúng ta hăy cùng t́m hiểu sơ lược về chủ nghĩa Cộng ḥa và tư tưởng Công dân.

    Chủ nghĩa Cộng ḥa là một hệ tư tưởng được h́nh thành sau thời Phong kiến. Trên danh nghĩa, nhà nước Cộng ḥa được xây dựng bằng tư tưởng Cộng ḥa, tức là chế độ nghị viện. Hệ thống “tam quyền phân lập”, được thiết lập theo chủ đề “chính quyền nhân dân”, do toàn dân bầu ra đại diện của ḿnh trong một cuộc tổng tuyển cử đa đảng, hoặc đa thành phần.

    Chế độ Cộng Ḥa được h́nh thành rất sớm ở Hy Lạp cổ đại, thời kỳ đó người ta chưa thể hiểu thế nào là Cộng ḥa, mà họ chỉ nghĩ đến nó như là một chế độ tiến bộ có chính phủ hỗn hợp. Sau này vào thế kỷ XIX tại Châu Âu, dưới chủ trương của chủ nghĩa tự do phát triển kinh tế đa thành phần, chế độ Cộng ḥa được thiết lập bằng đầu phiếu phổ thông, lập nên nhà nước pháp quyền.

    Nhưng bản thân hai từ “Cộng ḥa” cũng khá trừu tượng. Ở những nước không c̣n sự hiện diện của nhà vua th́ nó được gọi là “chế độ Cộng ḥa lập hiến”, hoặc “Dân chủ lập hiến”. Nhưng ở một số nước người dân vẫn có nếp suy nghĩ cũ, tức là trọng công tạo dựng đất nước (giữ ǵn hoặc xâm lăng) của nhà vua, cho nên dù vẫn có nghị viện, nhưng quốc gia đó vẫn được gọi là vương quốc, điển h́nh là nước Anh và hàng loạt các nước từ Âu sang Á khác. Như vậy người ta không thể gọi quốc gia có chế độ chính trị nghị viện đó là Cộng ḥa được, nhưng thực tế vai tṛ của nhà vua chỉ mang tính tượng trưng, cho nên họ gọi những quốc gia loại này là “chế độ Quân chủ lập hiến”. Lịch sử đă chứng minh: Tại các nước Quân chủ lập hiến, tính dân chủ và nghĩa cộng ḥa được thể hiện rất cao, thậm chí vượt trội các nước tự xưng ḿnh là chế độ Cộng ḥa.

    Như vậy chế độ Cộng ḥa thực chất không nằm ở tên gọi Cộng ḥa hay không Cộng ḥa. Vấn đề là ở cách thiết lập nên thể chế cầm quyền và cách thực thi pháp luật của nhà cầm quyền đó có công minh hay không. Đơn cử như các nước Xă hội chủ nghĩa, họ đều ghép thêm hai chữ “Cộng ḥa” vào trong tên gọi của quốc gia mà họ đang nắm quyền. Nhưng thực chất “tam quyền” của chế độ Cộng ḥa đích thực đă được thay từ “phân lập”, tức là hoạt động độc lập với nhau, sang “phân công” công việc trong nội bộ đảng duy nhất cầm quyền, hoặc đảng chiếm tuyệt đại đa số trong cả ba cơ quan: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là chế độ Cộng ḥa trá h́nh. Lẽ dĩ nhiên, tính dân chủ cũng chỉ là giả hiệu.

    Chủ nghĩa Cộng ḥa sản sinh ra chế độ Cộng ḥa (Republic). Nhưng định nghĩa như thế nào cho chính xác th́ hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất. Bản thân triết gia Kant cũng cho rằng chế độ quân chủ lập hiến vẫn có thể chấp nhận là chế độ Cộng ḥa. Nhưng một số khác lại cho rằng hai từ “quân chủ” bản thân nó đă không Cộng ḥa rồi. Sự khác biệt về cách định nghĩa của chủ nghĩa Cộng ḥa thậm chí đă phải trả bằng máu, v́ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hai cuộc cách mạng: Cách mạng Mỹ năm 1775 – 1783 và Cách mạng Pháp thập niên 1789 - 1799.

    Đối với Việt Nam, chúng ta có quyền kế thừa những tinh hoa chính trị của thế giới. Nhưng để “Việt Nam” hóa, thiết nghĩ cũng nên hiểu chủ nghĩa Cộng ḥa theo cách Việt Nam, tức là “Cộng ḥa là một thể chế chính trị được xây dựng bằng trí tuệ toàn dân, xuất phát từ một cuộc tổng tuyển cử đa đảng, đa thành phần, lập nên một thể chế “tam quyền phân lập” rành mạch”. Đơn giản hơn, có thể nói: “Cộng ḥa là một thể chế có nhà nước đa thành phần, ḥa chung bởi quyền lợi chính đáng của mỗi công dân, song hành với quyền lợi đất nước”. Một cách ngắn gọn: “Cộng ḥa là thể chế quyền lực Công dân, nó được cấu tạo đa nguyên hài ḥa, b́nh đẳng giữa trách nhiệm, quyền và lợi ích các bên”.

    Về tư tưởng Công dân. Trước hết ta t́m hiểu xem thế nào là một công dân? Một cách hiểu giản dị, công dân là những người dân sống trong một quốc gia hay vùng, miền lănh thổ. Vậy công dân chính là người dân, nhân dân, hay thần dân một nước? Không đúng! Khi nhà nước Phong kiến ra đời, người dân được đặt vào vị trí “thần dân”, vua bảo sao nghe vậy, họ chỉ là công cụ sai khiến thuộc về nhà vua như mọi thứ tài sản khác của người trị v́ đất nước. “Nhân dân” là để chỉ thân phận, vị trí thấp nhất trong thang bậc xă hội nói chung. C̣n “người dân” có nghĩa gần giống với “nhân dân”, người ta thường dùng thay hai từ “nhân dân”. Nhưng thực ra nói “người dân” là muốn ám chỉ đến cá nhân mỗi con người trong xă hội…

    Khái niệm Công dân (Citizen) ra đời khi thể chế Cộng ḥa xuất hiện. Theo nghĩa tiếng Việt, ta có thể hiểu “Công dân” nghĩa là người dân được xă hội tôn trọng như người chủ đất nước. Điều này khác hoàn toàn về vị trí xă hội so với các khái niệm: Thần dân, thảo dân, hay nhân dân. Đây là một sự đột biến vĩ đại nhất trong việc thay đổi cách nh́n về vị trí xă hội giữa người với người. Trong xă hội Phong kiến nửa Tư bản cổ điển ở Châu Âu, hai chữ “quư tộc” để chỉ ra những ḍng tộc cao quư, sống ở tầng thượng lưu xă hội. Thật bất công, khi có rất nhiều người trong những ḍng tộc cao quư ấy, lại có nhân cách sống không cao quư chút nào. C̣n nếu xét theo nghĩa “quư tộc” là những người giàu (v́ thường là như vậy), th́ nếu một khi người đó phá sản, sống trong nghèo túng, họ có c̣n được gọi là quư tộc nữa hay không?

    Như vậy khái niệm Công dân đă khá rơ ràng: Họ là người chủ đất nước, hay vùng lănh thổ. Điều này lại cũng quá hiển nhiên. Nhưng đối với những thể chế Cộng ḥa trá h́nh, người ta tuyên truyền rầm rộ vị trí người chủ đất nước của người dân, song lại ngấm ngầm tước đoạt mọi phương tiện để người dân có thể làm chủ đất nước. Thành ra, vị trí người chủ của họ chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà thôi. V́ có dân trí Công dân thấp hoặc v́ quá cả tin vào những lời đường mật, mà người dân cứ mặc nhiên sống trong sự tự huyễn hăo huyền. Và cũng v́ thực chất người dân trong các nước có thể chế Cộng ḥa trá h́nh chẳng có quyền hành ǵ, thậm chí chuyện làm chủ chính bản thân họ, họ cũng không làm nổi, cho nên họ đă bị biến thành một thứ thảo dân, thần dân hiện đại, mà về bản chất không khác ǵ thứ thần dân, thảo dân cổ điển.

    Có cách nào có thể hóa giải được những nghịch lư oái oăm trên hay không? Rất đơn giản! V́ bất kỳ một nhà nước cầm quyền nào cũng phải sống nhờ dân. Người dân nuôi sống guồng máy công quyền bằng thuế má và đủ mọi h́nh thức đóng góp khác. Trong thời chiến, người dân lại là người lính cầm vũ khí đi mở rộng bờ cơi hoặc bảo vệ tổ quốc (trong đó có thể chế cầm quyền). Nhưng thật bất công, trong các chế độ Cộng ḥa trá h́nh phi dân chủ, người dân lại không được kẻ chịu ơn nuôi nấng và bảo vệ ḿnh đáp lại cách hợp lư và công bằng. Điều ǵ sẽ xảy ra, nếu người dân chấm dứt nguồn cung cấp vật chất hoặc từ chối nghĩa vụ quân sự cho kẻ (hoặc giới) cầm quyền?

    Phải khẳng định lại vị trí người chủ đất nước. Nhưng một cách ôn ḥa và khoa học nhất, đó là nhà nước cầm quyền phải thực sự có cơ chế trao quyền làm chủ cho nhân dân. Đồng thời người dân phải có tŕnh độ dân trí đủ để ư thức được quyền hạn, nghĩa vụ của ḿnh trong guồng máy xă hội. Người dân có tŕnh độ dân trí Công dân đó, và sống trong sự lănh đạo của nhà nước đó, chính là người Công dân đúng nghĩa và đích thực.

    Vậy tư tưởng Công dân chính là việc nắm được nguyên tắc căn bản của chế độ Cộng ḥa: Người dân làm chủ đất nước, nhà nước có cơ chế phân lập rành mạch để người dân có thể dễ dàng thực hiện quyền và nghĩa vụ Công dân của ḿnh. Một người có tư tưởng Công dân là một người ư thức được không những quyền hạn của ḿnh, mà c̣n biết được đâu là giới hạn của quyền lực ấy. Họ c̣n phải biết được là bằng cách nào, bằng con đường nào tốt nhất để họ thực hiện được nghĩa vụ Công dân của ḿnh. Công dân làm nên chế độ Cộng ḥa, và chế độ Cộng ḥa không thể làm nên một công dân. Vậy dân (công dân) là gốc.

    Thuyết “Công dân Cộng ḥa” ra đời nhằm khẳng định mối tương quan giữa người công dân và chế độ cầm quyền. Thật đơn giản nếu cụm từ “dân là gốc” được hiểu một cách h́nh tượng, giống như một cái cây. Nó không thể xanh tốt và vươn cành lá ra xa mà không có gốc rễ. Nếu được hiểu như một thể thống nhất và có từng bộ phận riêng, với chức năng riêng, th́ bộ phận gốc rễ và phần thân cành của “cái cây” xă hội là một thể cộng sinh: Thiếu cái này th́ cái kia không thể tồn tại. Vậy “Thuyết Công dân Cộng ḥa” là một thuyết giống như thuyết Cộng sinh.

    Muốn có một chế độ Cộng ḥa đúng nghĩa, để từ đó xây dựng nên một xă hội Dân chủ tuyệt vời, trước hết phải có một xă hội Công dân. Xă hội Công dân là một tập hợp những nhóm công dân khác nhau, có mục đích riêng, nhưng hướng đến một mục tiêu chung là xây dựng xă hội Dân chủ. Các nhóm đó do những công dân có tŕnh độ dân trí Công dân làm nên. Họ tự chọn ra cho ḿnh những cá nhân xuất sắc nhất làm đại diện để lập nên một nhà nước chính trị pháp quyền. Đồng thời nhà nước pháp quyền đó lại tự tạo ra một cơ chế phân lập, để mỗi người dân có thể kiểm soát hiệu quả mọi hoạt động của nhà nước ấy thông qua các đại diện của ḿnh. Xă hội Công dân vừa kể phải thật sự do những công dân đích thực xây dựng. Trên thực tế tại các nước Cộng ḥa trá h́nh, giới cầm quyền nhào nặn ra hàng loạt các tổ chức dân sự bù nh́n. Nhưng v́ các tổ chức đó chưa có đủ tŕnh độ dân trí Công dân, và không có thực quyền, cho nên họ không làm được ǵ khả dĩ có ích cho đất nước và cho xă hội.

    Có vẻ như không có ǵ mới nếu nói tư tưởng của Thuyết Công dân Cộng ḥa là tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Rất nhiều thể chế Cộng ḥa trá h́nh đă sử dụng câu nói này để mị dân. Thực ra chữ “lấy” trong cụm từ vừa nêu là một hành động chủ động của kẻ bề trên, hoặc ít nhất là của kẻ chủ động, có thẩm quyền quyết định. Tư tưởng của Thuyết Công dân Cộng ḥa lại hoàn toàn khác: “Công dân là gốc”. Câu này khẳng định cái gốc thực, cái mầm mống đầu tiên nảy sinh ra chế độ Cộng ḥa. V́ nếu không có gốc rễ ắt không có ngọn, và “cái ngọn” rơ ràng là không có quyền “lấy” hay không lấy “cái gốc”.

    Thật dễ hiểu và rất khúc chiết: “Công dân là gốc”. Quyền lực của cái gốc đó chính là quyền lực nuôi dưỡng và bảo vệ. Nếu nhận thức được điều đó một cách đúng đắn th́ cái ngọn kia, cái luôn được ví như một thượng tầng kiến trúc của xă hội, sẽ phải biết điều hơn, v́ nó phải hiểu rằng nó sống được là nhờ vào cái gốc đă nuôi sống nó. Vậy Thuyết Công Dân Cộng Ḥa hướng tới điều ǵ?

    Thuyết Công Dân Cộng Ḥa đề cao vai tṛ Công dân trong xă hội. Chỉ có cách lấy trách nhiệm chăm sóc Công dân làm đường lối, lấy mục đích phục vụ con người làm kim chỉ nam, th́ nhà nước Cộng ḥa mới bền vững. Trong một thể chế, nếu dân chúng bị bỏ rơi, bị coi nhẹ, th́ nhà nước đó không thể được gọi là Cộng ḥa. Hoặc nếu có, nó chỉ tồn tại như một chiếc hộp rỗng vô giá trị, và ngày cáo chung của nó ắt phải đến. Không ai khác, chính những người dân có dân trí Công dân sẽ dẹp bỏ chiếc hộp rỗng ấy. Bằng cách nào? Đó chính là việc mọi Công dân biết cùng nhau từ chối: Từ chối nuôi dưỡng, từ chối bảo vệ, từ chối hợp tác với nhà cầm quyền. Khi hết nguồn sống, tự nhiên cái thể chế cũ nát xấu xí phi dân chủ kia sẽ tự nhiên sụp đổ mà không cần ai phải “cử động”, dù chỉ bằng một ngón tay của ḿnh…

    Thuyết Công Dân Cộng Ḥa khẳng định rằng: Nếu thực sự người dân có dân trí Công dân, trong trường hợp đất nước họ vừa mới trải qua “đêm trước” trong thể chế Độc tài, th́ với năng lực Công dân, toàn dân trong đất nước ấy sẽ biết cách thiết lập nên một chế độ Cộng ḥa đích thực với cơ chế “tam quyền phân lập”. Điều này có ư nghĩa vô cùng lớn để tránh tai họa tái diễn Độc tài, mà kẻ đến sau đôi khi c̣n nguy hiểm hơn cả những tên Độc tài trước nó. Quyền lực Công dân chắc chắn sẽ làm tốt điều ấy.

    Thuyết Công Dân Cộng Ḥa bảo vệ cho các bên, tuy gọi là “các bên” nhưng v́ một nhà nước pháp quyền được xây dựng bằng sức lực và trí tuệ Công dân, vậy cái chính quyền ấy nó chính là một phần của mỗi công dân nước đó, nó sẽ là công cụ hữu hiệu để bảo vệ mọi công dân. V́ vậy công tác chăm lo xây dựng chính quyền vững mạnh, chính là chăm lo cho mỗi công dân trong xă hội, người ta thường nói “dân giàu nước mạnh” là như vậy. Hiểu câu nói vừa dẫn không phải là làm cho “dân giàu” trước rồi mới đến “nước mạnh”, hoặc dân giàu th́ nước tự nhiên mạnh. Thực tế dường như lại là ngược lại: Nước mạnh th́ dân sẽ giàu, nước đă giàu mạnh rồi th́ trước hết các dịch vụ công cộng sẽ có chất lượng tốt nhưng giá sẽ rẻ đi, chế độ an sinh xă hội được nâng lên, người dân thậm chí không phải lo cái ăn cái mặc theo lẽ thường v́ có nhà nước chi trả, cung cấp. Con người sẽ hướng tới những tầm cao cống hiến và thú vui hưởng thụ ở đẳng cấp khác, văn minh hơn, hiện đại hơn.

    Một mặt khác, khi dân chúng tại các thể chế Công dân Cộng ḥa thực sự giàu có, nghĩa là họ sẽ có thu nhập cao, vậy mức đóng góp theo định mức thuế các loại cho nhà nước sẽ cao hơn. Điều này lại càng làm cho đất nước thêm giàu mạnh. Nước đă giàu mạnh th́ vấn đề tệ nạn xă hội sẽ có xu hướng giảm v́ ít nhất các loại tệ nạn ăn cắp vặt tràn lan sẽ không c̣n xảy ra, bởi các loại hàng hóa thiết yếu và nhu cầu tiêu dùng đă băo ḥa. Tệ nạn nghiện ngập các chất kích thích sẽ giảm, con người sẽ trở nên yêu đời hơn, v́ theo điều tra th́ phần lớn các thói quen xấu như nghiện thuốc lá, nghiện rượu, thậm chí cả nghiện Á phiện, đều có nguyên nhân ban đầu là người ta buồn chán bởi cuộc sống khó khăn không có tương lai, hoặc không lối thoát v́ thất nghiệp. Các nguyên nhân khác cũng có nhưng không phải là phổ biến…

    Chuyện tăng dân số phi mă - Một nguy cơ có thể làm sụp đổ cả thế giới - Sẽ bị chặn đứng, v́ người dân chú trọng đến sắc đẹp chứ không phải con cái, chú trọng đến hưởng thụ chứ không thích mệt nhọc v́ chuyện sinh nở. Vấn đề ṇi giống đối với đại đa số, hiện nay không phải là chuyện đặc biệt quan trọng. C̣n nữa, ở những nước lạc hậu, trong đó có Việt Nam, người ta có tâm lư sinh con đẻ cái để sau này về già con cái sẽ nuôi nấng và bảo vệ lại ḿnh. Nhưng nay người già đă chắc chắn được nhà nước Cộng ḥa chăm sóc tốt, vậy người ta sẽ chọn cách sinh con ít hoặc thậm chí là không sinh con để dành th́ giờ cho sự cống hiến và nghỉ ngơi. Điều này đă xảy ra đối với một vài nước Châu Âu đang có tỉ lệ tăng dân số âm.

    Một bằng chứng không thể chối căi, nếu lấy mốc từ năm 1945 - Năm thế chiến II kết thúc - Đến nay, tất cả các nước có cơ cấu Cộng ḥa đích thực đều phát triển vượt bậc, giàu có hơn hẳn những mô h́nh nhà nước Độc tài nguyên thủy, hoặc Cộng ḥa trá h́nh. V́ giàu có nên nó giải quyết được quá nhiều vấn đề quan trọng mà các thể chế khác chưa làm được. Và sự giàu có đó lại được phân phối cách hợp lư cho mọi công dân, th́ ta đă đạt được đến những bậc thang đầu tiên của chế độ Cộng ḥa siêu đẳng, siêu cường. Nhích thêm một vài nấc thang về ư thức nữa, th́ con người đă có thể được sống trong một thiên đường có thực ngay tại nơi trần thế. Thuyết Công Dân Cộng Ḥa hoàn toàn có thể dắt ta đi đến được sự thật đáng mơ ước đó, th́ tại sao chúng ta không có quyền hy vọng?

    http://congdanconghoa.blogspot.com

  2. #2
    Năng
    Khách

    Đôi ḍng thơ thẫn

    Cộng Ḥa hai chữ nghĩa ǵ đây
    Để Cộng lấy ǵ làm tánh xây
    Ḥa phải dùng chi không đối khắc
    Cộng Ḥa hai chữ bó hai tay!:(
    Bó ǵ khổ sở mà nhanh vậy
    Cộng lấy đức Trung làm tánh Ngay
    Sẵn có viên dung trong ấy đấy
    Ḥa th́ dùng Pháp thế gian hay:o

    Năng

  3. #3
    Member
    Join Date
    12-04-2011
    Posts
    617
    Thể chế Cộng hoà đơn giản là mô h́nh Nhà nước có Hiến pháp.

    Công dân - 1 khái niệm từ Tây, thua rất xa Quốc dân của Đông.

    Quốc dân: nhân dân liên kết chặt chẽ với quốc gia, nghĩa là với Nhà nước. V́ có Quốc dân nên người Việt, người Tàu sang xứ khác vẫn là người Việt, cho dù có dùng quốc tịch Mỹ th́ trong tâm họ vẫn là dân Việt chứ không phải Mỹ gốc Việt.

    Dân chủ, tam quyền phân lập: đều là tṛ loè bịp từ Tây. Ban đầu do văn hoá kém cỏi, tư tưởng chính trị lạc hậu nên khi kinh tế vượt trội khả năng khống chế của mô h́nh chính trị hiện tại làm phát sinh 2 con đường: thực dân và dân chủ. Nhưng cả 2 đều là lối đi sai lầm, không đưa xă hội loài người đi đến đâu cả.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. THUYẾT TR̀NH GIẢI THỂ CỘNG SẢN
    By BanhBongLan in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 21-04-2012, 11:04 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 06-04-2012, 06:38 AM
  3. Replies: 5
    Last Post: 24-03-2012, 09:31 PM
  4. Replies: 7
    Last Post: 07-06-2011, 08:03 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 30-12-2010, 12:51 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •