Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn c̣n tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết cuộc này 
 chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản chiến  trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng  thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ  khi thâu h́nh cho chương tŕnh “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi  tôi đă lư luận rằng cuộc chiến rơ ràng là có thể thắng được ngay cả vào  giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của ḿnh, ứng cử viên  tổng thống năm 1972, người t́nh nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, b́nh  luận, “
Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao? ”  Ông McGovern không chỉ có một ḿnh. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ  nhưng vô cùng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đă đạt được điều họ muốn..
 Có  lẽ không c̣n minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh  chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức  vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài  liệu hay nhất được trao cho 
phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác  tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng  ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam. Các  nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai  trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar.  Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng  Sản của ḿnh. Đứng trước máy vi âm ông ta nói :
 
 
Bert schneider và cuốn phim "Hearts and Minds" 
 "Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
 Rồi  giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đă được  cố t́nh quên đi-. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đă đổ  máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng,  Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại  biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của  ḿnh. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của  Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.
 Chúng  ta, những người đă từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ  những cố gắng ở đó, nh́n lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự  sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. 
Họ là ai mà  cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nh́n của thế giới về chúng ta? Sao họ  lại có thể chống lại chính những người đồng hương của ḿnh một cách dữ  tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ  thù Cộng Sản, kẻ đă làm thiệt mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng  minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ  đang sống trong cùng một đất nước? 
 Từ  lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của  những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập  đến những trại tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt  Nam đă bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm,  nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng  bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công an trị mà hiện vẫn c̣n đang  tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ư tốt nhưng kém  về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn t́m một phim thuộc loại  có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự  và trong những khung cảnh có thật.
 Tại sao?
 Bởi  v́ cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ  trong xă hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm  với những con người đă nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục  vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang  diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam  như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, 
trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
 Giữa  những người dân Mỹ b́nh thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian  rối ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và  những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ư  với chúng ta , những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy  yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi  trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn c̣n được mô tả như là thành phần nổi loạn chống  chiến tranh.
 Như  được tường tŕnh lại trong bài Ư Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm ḍ  của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy  tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa  tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ  trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ  có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ư. Những phát hiện  nầy cho thấy giới trẻ nói chung rơ ràng là không cực đoan, điều này đă  được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18  đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so  với 46 phần trăm.
 
Nixon vs McGovern
 Tương  tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay  đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đă khăng khăng nói  ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đă được ủng hộ quần  chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đă gây ra sự phản đối rộng khắp ở các  sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent  State University. Theo những kết quả thăm ḍ dư luận của Harris gần 6  phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. 
Đa  số được hỏi ư kiến, trong cùng bản thăm ḍ này vào tháng 5 năm 1970, ủng  hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn  phong trào phản chiến. 
 Các  cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh,  trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn  cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ b́nh thường tôn trọng.  Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến  binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans  Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh  Việt Nam đồng ư với câu phát biểu “
 Vấn đề rắc rối ở Việt  Nam là quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà  các lănh tụ chính trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”,  70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ư với câu  phát biểu “Những ǵ chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu  hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đă từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam  nói rằng họ hănh diện đă phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ  thấy thoải mái với thời gian trong quân đội. Hơn nữa, 
71 phần trăm những người phát biểu ư kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.
 Bản  thăm ḍ này c̣n có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái  độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1  đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên  thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền h́nh 6.1, chính trị  gia 5.2, những người biểu t́nh chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch  và chạy sang Canada được cho 3.3.
 Trái  ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần  ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân t́nh nguyện chứ không phải bị  động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân t́nh nguyện.  Trong số những người tử trận:86 phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm  người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những  cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người  nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt  Nam là điều sai lạc. Sự bất quân b́nh trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn  giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của  ḿnh, và chính những người này kể từ thời gian ấy đă kiên tŕ bôi bẩn  những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính ḿnh,  pḥng khi sau này bị lịch sử phán xét.
 Thế  c̣n những kẻ không những đă hiểu sai ư nghĩa một cuộc chiến, mà c̣n  không hiểu nổi dân tộc của ḿnh, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của  xă hội đó bây giờ ra sao? 
Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải  ở trong ṭa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đă xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu ḿnh thật kín.  Họ nên dấu ḿnh như thế. 
 Đối  với những kẻ đă đem cuộc hành tŕnh tuổi trẻ đánh bạc trên cái ư tưởng  rằng tổ quốc ḿnh là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ  của ḿnh trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất  kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng ḷng cho những kẻ đă tỉnh thức, đă tự  vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn  người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn "ngọn lửa tinh nguyên của cách  mạng" trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm  sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nh́n thấy những h́nh ảnh truyền h́nh của  hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng  hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng  Sản “giải phóng quân.”
 Thực  vậy, chúng ta hăy thẳng thắn nh́n nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi  nh́n vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp  của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của  em đă chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lư tưởng mà bọn họ  công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu  hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đă để cho em học sinh đó  thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống  như vậy ở quê hương của em.
James Webb, THG chuyển ngữ
http://batkhuat.net/tl-changoi-voikethu.htm 
						
Bookmarks