Biện pháp thanh trừng
● T́nh h́nh từ tháng 12/1956 đến tháng 2/1958
Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện từ tháng 8/1956 đến tháng 12/1956. Cuối tháng 12/1956, tất cả những tờ báo có khuynh hướng theo NVGP, đều bị đ́nh bản.
Từ 20 đến 28/2/1957, tại Đại Hội Văn Nghệ II, họp ở Hà Nội, có khoảng 500 đại biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát" NVGP.
Tuy nhiên Trung Quốc chưa dẹp phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", cho nên Đảng Lao Động chưa thể mạnh tay với trí thức văn nghệ sĩ: đầu tháng 4/1957, Hội Nhà Văn chính thức thành lập thay Hội Văn Nghệ, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn được bầu vào ban chấp hành. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 65 Nguyễn Du, do Tô Hoài, Hoàng Cầm, Đoàn Giỏi phụ trách.
Hoàng Cầm đại diện miền Bắc, Đoàn Giỏi, nhà văn tập kết, đại diện miền Nam. Tô Hoài làm chủ nhiệm. Theo Hoàng Cầm, Tô Hoài thường lấy cớ đi sáng tác, để ông quán xuyến mọi việc, cho nên trong ṿng mười tháng, ông đă in được tập Bài thơ trên ghế đá của Lê Đạt cùng với thơ Vĩnh Mai; tập thơ Quang Dũng và Trần Lê Văn. Vừa chuẩn bị xong tập thơ Hữu Loan, chưa kịp in, th́ có lệnh đ́nh chỉ để chuẩn bị cho một lớp học chính trị, nhưng thực chất là lớp học tập toàn thể văn nghệ sĩ để đấu -có thể nói là đấu hơn địa chủ nữa- đấu tư tưởng NVGP[1].
Ngày 10/5/1957, Hội Nhà Văn ra tuần báo Văn, với Nguyễn Công Hoan, chủ bút, Nguyễn Tuân, phó chủ bút, Nguyên Hồng, tổng thư kư. Lúc đầu Văn theo đường lối chính thống, nhưng đến khi Thế Toàn trên báo Học Tập của Đảng lên tiếng chê báo Văn "nghèo nàn", "xa rời thực tế cách mạng", Nguyên Hồng bèn trả lời[2] phê b́nh Thế Toàn "quan liêu", "trịch thượng".
Cuộc bút chiến giữa Văn và Học Tập khiến Bộ Chính Trị chú ư. Rồi Văn dần dần thay đổi thái độ: một số cây bút cũ trong NVGP xuất hiện lại trên Văn. Văn số 21 ra ngày 27/9/1957 đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán. Số 24, ra ngày 18/10/57 đăng kịch thơ Tiếng hát của Hoàng Cầm. Số 28, ngày 15/11/1957, bài thơ Hăy đi măi của Trần Dần, và số 30, ngày 29/11/1957, hư hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của Đảng.
Năm 1957, Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, có ghé Bắc Kinh học hỏi kinh nghiệm. Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường[3] được cử sang học tập Trung Quốc. Khi họ trở về, Đảng mới thực thụ áp dụng chính sách đàn áp của Bắc Kinh.
Ngày 6/1/1958, Bộ Chính Trị ra nghị quyết số 30 về văn nghệ. Tinh thần nghị quyết dựa trên hai điểm chính:
1- Tŕnh bày các hiện tượng chống lại đường lối văn nghệ của Đảng:
"Về văn học nghệ thuật, ranh giới giữa tư tưởng văn nghệ của Đảng và tư tưởng văn nghệ tư sản đă bị xóa nḥa. Trên tuần báo Văn và trong một số sách xuất bản hoặc tái bản, đă biểu hiện khuynh hướng xa rời thực tế đời sống của nhân dân lao động ở nông thôn và thành thị, thoát ly chính trị và không nhằm đúng những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong giai đoạn mới.
Những t́nh cảm cá nhân chủ nghĩa đang có chiều hướng phát triển, những chủ đề lớn do đời sống thực tại đề ra không được chú ư. H́nh ảnh công nông binh phấn đấu dũng cảm trong ḥa b́nh mờ nhạt trong văn thơ và trong các tác phẩm nghệ thuật khác. Nhiều quan điểm văn nghệ của giai cấp tư sản lại được nêu lên.
Cuộc tranh luận giữa tạp chí Học Tập và báo Văn gần đây lại là một biểu hiện cụ thể của cuộc đấu tranh giữa đường lối văn nghệ của Đảng với khuynh hướng chống lại hoặc xa rời đường lối đó. Tư tưởng chủ đạo biểu hiện trên báo Văn chính là tư tưởng tách rời đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong giai đoạn hiện tại, tách rời sự lănh đạo của Đảng.”
2- Phải t́m cách giải quyết ngay:
"Rơ ràng những phần tử chống chủ nghĩa xă hội, chống Đảng đă nhân chỗ sơ hở của ta mà tiếp tục tiến công ta về mặt tư tưởng dưới h́nh thức văn nghệ. Sự hoạt động của những phần tử phá hoại trong giới văn nghệ là một hiện tượng hết sức nguy hiểm, một vấn đề cấp bách cần giải quyết (...) Chúng truyền bá những tài liệu và những báo chí phản động.
Dưới chiêu bài “chống giáo điều, máy móc”, chúng gieo rắc những nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ, nhằm lôi kéo văn nghệ sĩ đi vào con đường nghệ thuật tư sản suy đồi. Trước những hoạt động có hại đó, số đông văn nghệ sĩ, kể cả một số văn nghệ sĩ đảng viên, đă mất cảnh giác hoặc bị động, không kiên quyết đấu tranh, thậm chí một số c̣n hùa theo chúng".
Văn bị đ́nh bản ở số 36, ra ngày 10/1/1958, trong có đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
Tháng 2, 3 và 4/1958, Đảng Lao Động tổ chức hai "hội nghị" quan trọng ở ấp Thái Hà.
● Biện pháp thanh trừng đối với văn nghệ sĩ: "Hội nghị" Thái Hà
Thi hành tinh thần nghị quyết số 30, ngày 6/1/58 của Bộ Chính Trị, Đảng tổ chức hai lớp học tập đấu tranh "chống bọn Nhân Văn Giai Phẩm" ở Thái Hà ấp, chính thức gọi là hai "Hội nghị nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957". Duy chỉ có Hồng Cương, gọi thẳng tên là hai lớp chỉnh huấn chính trị.
"Hội nghị" đầu, tổ chức tháng 2/58, dành riêng cho 172 đảng viên, theo Lê Đạt là để học tập cách "phát hiện" và "tố giác", chuẩn bị cho hội nghị sau, tháng 3-4/58, 304 người, gồm các đảng viên, quần chúng và những người ngoài đảng đă tham gia NVGP, dốc toàn lực đấu tranh chống NVGP. Phương pháp này đă áp dụng trong Cải Cách Ruộng Đất dưới h́nh thức khác: Giảm Tô là giai đoạn một, Cải Cách Ruộng Đất chính thức là giai đoạn 2. Và cũng đă áp dụng trong thời điểm đánh Trần Dần: Đại hội Tuyên huấn trước, rồi Đại hội Văn nghệ sĩ sau.
Văn Cao, Đặng Đ́nh Hưng, Phùng Cung ... "được" dự hội nghị đầu, v́ là đảng viên. Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác ... chỉ "được" đi hội nghị sau, v́ Lê Đạt đă bị khai trừ khỏi Đảng từ tháng 5/57, sau khi in bài thơ dài Cửa hàng Lê Đạt, bị cấm. Hoàng Cầm không ở trong đảng. Trần Dần, Tử Phác đă xin ra khỏi đảng từ trước. Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Duy, là những "phần tử xấu", không được dự cả hai "hội nghị". Ở "hội nghị" thứ hai, mọi người phải viết bài "thú nhận", sau đăng báo.
Thành quả hai "hội nghị" được chính thức ghi lại trong bài Cái ổ chuột "Nhân Văn Giai Phẩm" bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận", như sau:
"Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm 172 người dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người dự.
Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những "nhân vật" bỉ ổi đă được phát hiện, tất cả nhũng âm mưu, luận điệu, thủ đoạn đều bị vạch trần. Những con chuột đă phải ḅ ra khỏi cống. Những người tự giác hay không tự giác gần gũi với những con chuột ấy cũng đă tự giác tự phê b́nh. Đây là bước cuối cùng của trận chiến đấu chống «Nhân văn-Giai phẩm» trong thời kỳ 1956-1958.
Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại "Nhân văn-Giai phẩm" bao gồm những tên "đầu sỏ", những "cây bút" đă viết "hoặc nhiều hoặc ít" cho "Nhân văn-Giai phẩm" như: Thụy An, Nguyễn hữu Đang, Trần thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng đ́nh Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn văn Tư, Phùng Quán, Hoàng tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn khắc Dực, Hoàng tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh B́nh, Yến Lan, Nguyễn thành Long, Trần lê Văn, Lê đại Thanh ..v.v...
Nhưng đó không phải là tất cả (c̣n những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ họa, có người bị lôi cuốn v́ ngây thơ chính trị ...[4].
Những ḍng trên đây đưa đến hai nhận xét:
1- Những tên tuổi liệt kê trong danh sách, đă được xếp đặt theo trật tự "tội" nặng, nhẹ: trí thức đứng đầu, rồi mới đến văn nghệ sĩ.
2- Tuy Hồ Chí Minh thân chinh và gửi thêm Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường đi học tập chính sách đàn áp ở Trung Quốc, nhưng khi thi hành, Đảng tránh nói đến Bắc Kinh, mà nêu cao việc "nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị" và "hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của Đảng Cộng Sản và Đảng Công Nhân Mạc Tư Khoa cuối năm 1957".
Còn tiếp . ...
Bookmarks