Học tṛ thời xưa
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2018/...-thoi-xua.html
https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...hinhhoiuc.html
Học tṛ thời xưa
Không biết nên gọi cuốn sách “Tuấn chàng trai nước Việt” là tiểu thuyết hay hồi ức. Ngay phần mở đầu sách, tác giả Nguyễn Vỹ đă khẳng định: “Bộ sách này không phải một tiểu thuyết. Cũng không phải là một kư ức cá nhân…”. Cuốn sách được viết năm 1959 tại Sài G̣n và dựa vào bối cảnh đất nước trong hai thập niên 1900-1910 với nhân vật chính là Tuấn.
Nguyễn Vỹ (1912[1]-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca đương thời.
Tên cúng cơm của Tuấn là Chuột. Đến khi đi học, Chuột được thầy giáo đặt tên là Trần Anh Tuấn và với tư cách của một nhân chứng thời đại, Tuấn thuật lại một cách vô tư, khách quan và chân thật những diễn biến của đất nước khi người Pháp đến Miền Nam.
Tác phẩm “Tuấn chàng trai nước Việt” – Nguyễn Vỹ (1959)
Vào đầu thế kỷ 20, chữ Hán c̣n rất thịnh hành, chữ quốc ngữ được rất ít người học, thậm chí c̣n chê bai. Năm 1910, thằng Chuột khi đó mới 9 tuổi, đă vào học Lớp Năm (lớp Một ngày nay) để bắt đầu học chữ quốc ngữ tại một tỉnh ở miền Trung.
Vào thời đó, những đứa con nít như Chuột đều sợ hăi mỗi khi gặp “ông Tây, bà Đầm”. Chúng chạy trốn vô nhà và chỉ ló đầu ra nh́n khi họ đă đi qua! Nguyễn Vỹ c̣n đưa ra hai nhân vật: cậu Bốn, một thanh niên thuộc loại đẹp trai nhất xóm, anh đem ḷng thầm yêu trộm nhớ cô Ba Hợi. Chuột nói với bạn (tên Đít) về cậu Bốn:
“- Ảnh sợ Tây vậy, chớ hôm trước gặp cô Ba Hợi con gái ông Bá Hộ đi chợ về, ảnh cứ đeo theo chọc hoài, không sợ đâu mầy ơi! Cô Ba không thèm nói ǵ hết, để cho ảnh cứ đi theo cho tới gần ngơ cổ mới quay lại bảo ảnh: "Nhà tôi có con chó dữ lắm, cậu đừng xớ rớ đây, tôi xịt nó ra cắn th́ chịu đấy". Vậy mà anh Bốn cũng không sợ con chó Vện của cô Ba Hợi, mầy ơi!
- Ảnh cứ đứng ngoài ngơ hả?
- Ừ, mầy biết ảnh mê cô Ba Hợi lắm. Mẹ tao nói thế đó. Tại cô Ba Hợi có nhan sắc hơn hết thẩy ở đây.
- Cô Ba Hợi có xịt chó ra cắn ảnh không?
- Không. Nhưng không biết cổ có méc với ông Bá Hộ làm sao mà ông cầm cây roi mây chạy ra ngơ... Anh Bốn thấy cái roi của ổng, sợ quưnh cắm đầu cắm cổ chạy thẳng một mạch về nhà, mầy ơi…(hết trích)
Một lớp học vùng ven
Ở xóm Cửa Bắc, chỉ có thằng Chuột là đi học “Trường Nhà Nước” vào năm 1910. Nói một cách nôm na, Chuột thuộc loại “Lắc-léo-mê-ḍng-lô”, được phiên âm từ tiếng Tây “bồi”: “L'élève maison l'eau”, ám chỉ “Học Tṛ Nhà Nước”.
Số là thầy giáo cứ đến nhà thằng Chuột, thuyết phục cha mẹ nó cố xin cho nó đi học. Thầy c̣n đem cho nó một xấp “giấy tây” thật trắng, một quyển vở ngoài b́a có in h́nh “Bà Đầm xoè” thật đẹp, một cây bút, một ng̣i bút, một b́nh mực, một cây thước, một cây bút ch́ và một cục “gôm”.
Tuy thầy giáo đă dụ dỗ nó ba lần bảy lượt, mà thằng Chuột cứ nhất định không đi học Trường Nhà Nước, nó muốn học “chữ ta” tức là chữ Nôm. Sau cùng, một hôm thầy giáo đến hăm dọa cha mẹ nó: "Chú thím không cho thằng Chuột đi học th́ Quan Tây bỏ tù, đừng có trách tôi, nghe không?".
Thầy giáo cũng thú thật rằng thầy được lịnh Quan Đốc và Quan Sứ bảo phải đi kiếm con nít tới học cho đông v́ Trường Nhà Nước chưa có học tṛ. Mấy ngày đầu Tuấn chỉ muốn trốn học, v́ thầy giáo bắt học “chữ Quốc Ngữ” ABC. Chuột thấy kỳ cục quá… không giống những chữ “Thiên trời, Địa đất, Thất mất, Tồn c̣n, Tử con, Tôn cháu, Lục sáu, Tam ba...”.
Thầy giáo bắt nó học “Ba, Bă, Bâ, Bi…”, nó vừa học vừa tức cười. Nó mắc cở, nhưng v́ nó sợ ba mẹ nó bị bắt bỏ tù nên nó phải đi học. Trường tỉnh mà vẫn ít học tṛ, lớp Năm mà chỉ có 7 đứa, lớp Tư cũng 7 đứa, lớp Ba 6 đứa. Lớp Nh́, lớp Nhất chưa có tṛ nào.
Thầy giáo bảo thằng Chuột về nhà dụ những đứa trẻ khác đi học, Nhà Nước phát cho giấy bút, mực, khỏi phải mua, lại c̣n phát cho nó một cái mũ trắng nữa. Nó rủ thằng Đít, con chú thợ mộc, nhưng thằng Đít không chịu đi. Thằng Đít nhất định ở nhà học chữ “Thánh Hiền”. Cha nó, chú thợ mộc, muốn thế.
Trong tháng đầu, mỗi lần thằng Chuột đi học là nó cứ khóc tuy nó đă 9 tuổi rồi, cái chởm tóc trên đỉnh đầu đă dài xuống đến ót. Nhưng học được một năm, nó biết chút ít “tiếng Tây”.
Dân Cửa Bắc đồn rùm lên là thằng Chuột giỏi tiếng Tây lắm, mới học một năm mà đă nói được chữ Tây. Nó vô t́nh trở thành người quảng cáo chữ Tây và Trường Nhà Nước cho cả dăy phố Cửa Bắc. Nhờ nó mà tháng 9/1910, sau kỳ nghỉ hè trường có thêm khá đông học tṛ.
Thầy đồ và lớp học chữ Nho
Trường hợp của cậu Bốn khác hẳn với chuyện đi học của thằng Chuột. Cậu nhất định chê chữ Tây không có nghĩa lư cao thâm bằng chữ Ta. Vả lại, cậu đă 18 tuổi rồi, chữ Hán cậu đă giỏi, đă thuộc hết “Tứ Thư Ngũ Kinh”, c̣n học chữ Quốc Ngữ và tiếng Tây làm chi nữa?
Không dè rốt cuộc cậu cũng phải học chữ Quốc Ngữ. Nguyên do là tại cô Ba Hợi, con gái ông Bá Hộ ở bến Tam Thương. Không biết ai bày vẽ cho cổ từ hồi nào, mà cô ở nhà đă học chữ Quốc Ngữ, thuộc vần xuôi, vần ngược, bắt đầu đánh vần và viết được rồi.
Cô đi chợ, mua một đồng tiền bột phẩm tím về nhà bỏ trong một cái ve, đổ nước sôi vào, hoà thành ra mực. Cô đến một tiệm lớn của khách trú mua một “manh giấy Tây” giá là một tiền, cô bọc lá chuối thật kỹ, cho khỏi nhớp. Cô cũng mua một cán bút, một ng̣i bút.
Những lúc rảnh, cô tập viết chữ Quốc Ngữ một ḿnh. Kể ra ở tỉnh cô Ba Hợi là một cô gái tân tiến nhất lúc bấy giờ trong giới phụ nữ, nghĩa là chỉ có ḿnh cô là con gái học chữ Quốc Ngữ mà thôi. Cô phải học lén ở nhà với một ông thầy v́ sợ chúng bạn ngạo.Một hôm cô Ba đi chợ, t́nh cờ gặp lại cậu Bốn Thanh, khăn đeo áo dài với cái búi tóc trên đầu mà lại… đi chưn không. Đến chỗ vắng, chàng thanh niên chận cô Ba Hợi giữa đường để tán tỉnh. Nguyễn Vỹ tả lại cách tán gái của chàng thanh niên Nho học:
- Cô Ba ơi! cô nỡ ḷng nào chê bai kẻ tiện sĩ này sao? Tôi không thấy mặt cô mộtngày th́ nhớ cô ḷng thắt ruột đau. Sách có chữ “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”,mà cô không thương xót tôi sao đành! Cô ơi, sách lại có chữ “Xuân bất tái lai”, th́ giờ chạy mau như bạch câu quá khích, hay là cô c̣n chọn đá thử vàng mới kết duyên TầnTấn?
Cô Ba đội nón, c̣n cúi mặt xụp xuống nữa, không dám ngó cậu Bốn, nhưng cô la lớn: “Cậu không để tui đi, tui la làng la xóm bây giờ đây”.
Câu Bốn sợ cô Ba la làng, nên phải đứng né qua một bên để cô Ba đi, nhưng cậucứ lẽo-đẽo theo sau nói lải-nhải hoài. Cô Ba làm thinh không trả lời một tiếng. Tối hômấy, dọn dẹp bếp núc xong, cô lấy một tờ giấy Tây, b́nh mực tím và cây viết… cổ vừađánh vần Quốc Ngữ, vừa viết thật kỹ:
“CẬU BỐN
“Chừng nào cậu đọc được bức thư này, th́ tôi mới nói chuyện với cậu. C̣n cậu không đọc được thư này, th́ cậu đừng có nói chuyện với tui mất công. Thư bất tận ngôn.
Nguyễn Thị Hợi”
(hết trích)
Học tṛ thời Pháp thuộc
Hôm sau, cô Ba đi chợ, dắt thằng em trai 6 tuổi đi theo. Đi khỏi nhà được một quăng, gần chỗ ngă tư rẽ ra Cửa Bắc, cô gặp cậu Bốn Thanh đứng câu cá nơi mương. Cậu giả vờ câu cá mà thực ra là mong được gặp cô Ba đi chợ như mọi ngày.
Cô tḥ tay trong yếm (năm 1910, cô Ba mặc yếm cũng như đời nay mặc coóc-xê), cô rút ra phong thư bằng giấy Tây mà cô đă viết đêm qua. Cô đút thư trong bàn tay của đứa em trai và nói thầm ǵ với nó. Cô bước đi thật nhanh, để em đứng lại sau đưa thư cho cậu Bốn Thanh. Nó sợ sệt nói ấp úng: “Chị tui đưa cho chú cái này nè”.
Chàng trai vui mừng cầm giấy th́ đứa bé đă chạy thật lẹ để theo kịp chị nó. Chàng mở giấy ra coi, đứng tần ngần một lát, mắc cở đỏ mặt tía tai… v́ chàng không biết chữ Quốc Ngữ. Chàng không đọc được bức thư của cô Ba Hợi, tức quá, không biết là cổ viết ǵ?
Thế là chàng nhất định phải t́m người dạy chữ Quốc Ngữ. Thầy giáo chỉ cho chàng học A,B,C, Ba, Bă, Bâ... không ai xa lạ: chính là thằng Chuột! Thằng Chuột thật là quái ác. Thanh đă dặn nó đừng tiết lộ cho ai biết câu chuyện “bức thư quốc ngữ” của cô Ba Hợi, thế mà thằng nhỏ lại đi mách lẻo cùng cả dăy phố, làm cho ai nấy ôm bụng cười.
Từ hôm đó, cả ngày Thanh không dám bước chân ra phố. Chàng lén đưa tiền bảo thằng Chuột mua dùm giấy, bút và mực để nó cứ tối tối đến dạy cho chàng học chữ Quốc Ngữ. Thằng Chuột đă học hết vần xuôi vần ngược, và đă tập viết, tập đọc, ba tháng sau khi đến trường nên nó đủ sức dậy lại cậu.
Tuy nhiên, thân sinh của cậu Bốn là ông Xă không bằng ḷng. Một hôm ông rầy con với giọng bực tức: “Mầy đă 18 tuổi, thằng Chuột 9 tuổi mà nó làm Thầy mầy, thiệt ốt nhột quá”. Ông c̣n nói, học A.B.C. đó là “chữ Tây” chứ đâu phải “chữ Ta”.
Cậu Bốn giải thích đó là chữ Tây nhưng đánh vần thành ra… chữ Ta. Thí dụ như muốn viết chữ "cha", th́ đánh vần ch.a.cha.. Chữ "mẹ" th́ đánh vần m-e-me-nặng-mẹ. Cuối cùng, v́ sợ ba rầy, cậu nói với Chuột là cậu đă đánh vần được chữ quốc ngữ nên từ nay khỏi đến dạy nữa.
Thầy giáo dạy môn địa lư
Biết quốc ngữ nên để trả lời cho người đẹp, chàng thanh niên tên Lê Văn Thanh đă viết một bức thư dài hai trang giấy tây với chữ thật to.. v́ mới tập viết! Và thế là chuyện t́nh của Lê Văn Thanh – Nguyễn Thi Hợi đă tiến tới một đoạn kết… có hậu.
Cả khu phố Cửa Bắc, và cả làng Chánh Lộ, ở ngay tỉnh lỵ, không ai ngờ cậu Bốn Thanh học tṛ chữ Nho của ông Tú Phong, bây giờ lại cắp vở đến Trường Nhà Nước học chữ Tây. Ai hỏi tại sao th́ cậu trả lời: “Tại Nhà Nước Đại Pháp bắt buộc, khôngđi học th́ bị tù”.
Thật t́nh cô Ba Hợi yêu cậu Bốn Thanh, nhưng cô chỉ bằng ḷng làm vợ của cậu với một điều kiện là người yêu của cô phải đi học chữ Tây ở trường Nhà Nước, phải thi đậu làm thầy Thông, thầy Kư.
Chàng Thanh đă 18 tuổi bắt đầu vào học lớp Năm! Nhưng chàng không ngượng, v́ thời bấy giờ theo học chữ Hán học tṛ toàn là 17, 18 sắp lên. Tụi con nít như thằng Chuột chưa phải là học tṛ chánh hiệu. Vả lại, Trường Nhà Nước mới mở, học tṛ c̣n hiếm lắm.
Chân dung một học tṛ
Ngày nhập học, Lê Văn Thanh, vẫn để búi tóc trên đầu, vẫn bịt khăn đen, mặc áo dài đen, chân mang guốc, cặp hai quyển vở và cây bút sắt, cây bút ch́, thước gạch, b́nh mực tím, bẽn lẽn đến trường. Đây là một ngôi trường lợp tranh, vách tường bằng phên tre quét vôi, nền tô xi-măng. Ông Đốc là người Việt Nam nói:
“Trưa nay về nhà, tṛ phải cúp tóc ca-rê, bỏ cái búi tóc kia đi và đừng bịt khăn... Chiều nay cậu cúp tóc rồi Nhà Nước sẽ cho cậu một cái mũ trắng để đội”.
Ba cậu phản đối kịch liệt, ông nói: “Làm con, có cái búi tóc ở trên đầu để thờ Cha kính Mẹ mà cắt bỏ đi, th́ c̣n ǵ là Cha con, Mẹ con nữa!... Mầy mà nghe lời người ta cắt bỏ cái búi tóc là tao nhẩy xuống giếng tao tự tử!”
Ông Xă khóc, bà Xă khóc, chàng thanh niên Lê văn Thanh cũng khóc, nhưng rốt cuộc cái búi tóc trên đầu chàng cũng phải cắt bỏ đi, tóc phải cúp "carré" v́ Quan Đốc học trường Nhà Nước đă truyền lịnh như thế.
Nhưng năm 1910, tận nơi tỉnh lỵ ở Trung Việt, chỉ mới có một vài người làm nghề hớt tóc. Chú Bảy theo ghe nước mắm vào Đồng Nai học nghề cúp tóc trước đó một vài năm. (Lúc bấy giờ các tỉnh Trung Việt, người ta vẫn gọi Sài G̣n là Đồng Nai, danh từ Saigon chưa được thông dụng).
Chú mua kéo, toon-đơ, dao cạo, cũng ở tại Đồng Nai, đem về mở tiệm cúp tóc ở tỉnh lỵ.Nói là mở tiệm, nhưng chú chỉ thuê một xó hè của một tiệm buôn khách trú, đặt mộtcái bàn con, một chiếc ghế đẩu, và treo một tấm kiếng trên vách tường. Thế là đủ chochú hành nghề.
Chú treo tấm vải trắng phía ngoài đường, trên vải chú viết bằng mực Tàu, một chữ Tây "COIFFEUR" và chua ở dưới hai chữ Hán (Thế Phát: Cắt Tóc). Chữ Quốc Ngữ v́ chưa được truyền bá, ít người biết, nên chú thợ hớt tóc chỉ viết quảng cáo bằng chữ Hán và chữ Tây. Chú để chữ Tây cho oai, bắt chước chữ Tàu học lỏm trong Đồng Nai, và thỉnh thoảng chú c̣n nói với mấy bác lính tập: "Tui làm cốp phơ cho quan Công Sứ".
Cậu Thanh t́nh thật đến nhờ chú Bẩy đem đồ nghề qua nhà cúp tóc v́ ông già c̣n phải cúng ông bà để cho cắt tóc. Chú Bẩy cốp phơ gật đầu lia lịa. Chú c̣n nói cái búi tóc trên đầu ḿnh là của ông bà cha mẹ. Cắt nó đi là có tội, cho nên phải cúng ông bà.
Chú “cốp phơ” gói đồ nghề đến nhà ông Xă. Trên bàn thờ có bầy một hộp trầu cau, một nải chuối chín và một con gà luộc. Một mâm gỗ lớn đựng mười chén cháo và mười đôi đũa, đặt trên bộ ván kê trước bàn thờ. Ông Xă thắp đèn hương, đứng khấn vái hồi lâu. Ông khấn như sau:
“Bữa nay, thằng con bất hiếu Lê văn Thanh, tuân lệnh Quan, phải cắt tóc để đi học trường Nhà Nước, nên có lễ vật để cáo với liệt vị tiền nhân, các bậc Cao tằng Tổ khảo với Tổ phụ, Tổ mẫu, chứng giám. Xin vong linh liệt vị phù hộ cho con cháu, để nó học hành, công danh hiển đạt”
“Coiffeur” ngày xưa
Mỗi năm Thanh đều lên lớp, đến năm 22 tuổi anh học hết lớp Nhất, được đi thi “Khoá Sanh”, nói theo tiếng Pháp là thi “Ri me” (Primaire). Thi “Ri me” rất khó v́ có ông Tây chấm thi, và hầu hết các môn thi bằng chữ Tây.
Lê văn Thanh bây giờ đă hoàn toàn là một cậu học tṛ “Trường Pháp Việt”, học chữ quốc ngữ, chữ Tây, nói tiếng Tây, tuy chưa phải là thứ tiếng Tây đúng đắn, nhưng cũng cứ nói được, hiểu được khá nhiều để có thể bập bẹ đối đáp với “ông Tây bà Đầm”.
Một tuần lễ sau khi tuyên bố kết quả kỳ thi “Ri me” năm 1915 là ngày cậu Khoá Lê Văn Thanh được “vinh quy bái tổ” về làng. Tám giờ sáng, cậu mặc áo dài đen mới may bằng “vải trăng đầm”, mang đôi guốc, đội mũ trắng, được quan Đốc học dẫn đến chào Quan Công Sứ Pháp và Quan Tuần Vũ.
Trước cổng dinh Quan Tuần, chức sắc và dân làng sở tại đă về tựu rất đông với cờ quạt, trống chiêng, và một chiếc xe kéo gỗ, bánh bọc bằng niềng sắt. Lúc bấy giờ, từ khoảng năm 1910 đến 1920, chưa có bánh xe bằng cao su.
Ông Xă phải giết một con ḅ và một con heo để đăi làng, đăi dân. Kể từ đây, chàng thanh niên Lê Văn Thanh được lên địa vị “khoá sanh”, được miễn khỏi xâu, khỏi thuế, lại c̣n được đứng vào hàng chức sắc Hương Cả.
Lễ Vinh quy Bái tổ
***
* Thay thời kết:
Học chữ quốc ngữ và tiếng Tây hồi đầu thế kỷ 20 xem ra cũng không có ǵ là khó. Chỉ một cậu bé 9 tuổi như thằng Chuột cũng có thể chỉ cho người người lớn như chú Bốn Thanh. Thời gian cũng chỉ mất vài tháng vừa đánh vần xuôi, vần ngược mà lại c̣n có thể viết ra giấy.
Ấy thế mà các vị khoa bảng ngày nay không hài ḷng với tiếng Việt. Họ muốn cải tiến. Nhưng h́nh như càng sửa lại càng làm cho tiếng Việt mất đi sự trong sáng vốn có từ bao đời nay.
Phải chăng chuyện của tác giả Nguyễn Vỹ trong “Tuấn chàng trai nước Việt” có thể coi như bài học cho các Giáo sư, Tiến sĩ và các quan chức ngày nay? Các vị hăy dừng lại những “tối kiến” trước khi làm cho tương lai tiếng Việt… ngày một tối tăm! Xin đừng để con em chúng tôi trở thành những con chuột bạch trong pḥng thí nghiệm.
Mong lắm thay.
Lớp học ngày xưa
Sách “Tuấn Chàng trai nước Việt”
https://vnthuquan.net/truyen/truyen....237nvn#phandau
Bookmarks