Năm nguy cơ mất nước của Lê Quư Đôn
http://dandensg.blogspot.com/2016/10...oc-cua-le.html
https://nuocnha.blogspot.com/2020/01...le-quy-on.html
Wednesday, October 12, 2016
Suy nghĩ về năm nguy cơ mất nước của Lê Quư Đôn
Lê Quư Đôn
B́nh luận án Blog (*)
BLA: Lê Quư Đôn sống trong thời kỳ đất nước nhiễu nhương, triều đ́nh thối nát, rối ren, tham nhũng tràn lan, nhân dân đói khổ. Chẳng bao lâu sau khi ông qua đời, nghĩa quân Tây Sơn vùng lên khởi nghĩa, đánh sập ách thống trị tàn ác của triều đ́nh và bọn giặc nhà Thanh phương Bắc. Một kết quả mang tính quy luật vậy.
Lê Quư Đôn là học sỹ thời vua Lê chúa Trịnh, nổi tiếng uyên bác, từng lănh chức Thượng thư bộ công. Cuối đời ông cởi áo quan về ở ẩn và qua đời năm 58 tuổi. Sinh thời trong cảnh nhiễu nhương, ông chỉ ra năm (5) nguy cơ có thể mất nước. Đó là:
Lê Quư Đôn (1726 - 1784) Nguồn ảnh: internet.
1. Trẻ không kính già
2. Tṛ không trọng thầy
3. Binh kiêu tướng thoái
4. Tham nhũng tràn lan
5. Sĩ phu ngoảnh mặt
Xin "b́nh lựng" như sau:
1. Trẻ không kính già v́ già không đáng kính
2. Tṛ không trọng thầy v́ thầy không ra thầy
3. Binh kiêu tướng thoái v́ chẳng bao giờ đánh trận
4. Tham nhũng tràn lan v́ không ăn cũng uổng
5. Sỹ phu ngoảnh mặt v́ nói chẳng ai nghe
Nếu cụ Lê Quư Đôn có linh thiêng, xin chỉ ra 5 sách lược hóa giải 5 nguy cơ ấy ạ.
(*): Bài này tôi viết chơi cũng đă lâu, khi đó kư tên là "Vũ Dạ"
................
Lê Quư Đôn
Lê Quư Đôn sinh năm 1726 - mất năm 1784.
Lê Quư Đôn tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương, tự Doăn Hậu, hiệu Quế Đường; là vị quan thời Lê trung hưng, cũng là nhà thơ, và được mệnh danh là "nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến".
Ở thế kỷ 18, các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đă ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến tŕnh độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đ̣i hỏi phải có những bộ óc bách khoa, Lê Quư Đôn với học vấn uyên bác của ḿnh đă trở thành người "tập đại hành" mọi tri thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 của nước ta đều được bao quát vào trong các tác phẩm của ông. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.
Tác phẩm của Lê Quư Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc.
Lê Quư Đôn là con trai cả trong gia đ́nh, đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Th́n, 1721), và làm quan trải đến chức H́nh bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quư Đôn họ Trương (không rơ tên), là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Th́n (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.
Ba lần đỗ đầu
Thuở nhỏ, Lê Quư Đôn nổi tiếng là người ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". Năm lên 5 tuổi, ông đă đọc được nhiều bài trong Kinh Thi. Năm 12 tuổi, ông đă học "khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử".
Năm Kỷ Mùi, ông theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Năm Quư Hợi (đời vua Lê Hiển Tông, ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 17 tuổi. Sau đó, ông cưới cô Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Cô là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718).
Tuy đỗ đầu kỳ thi Hương, nhưng thi Hội mấy lần, ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (1743-1752). Sách Đại Việt thông sử (c̣n gọi là "Lê triều thông sử") được ông làm trong giai đoạn này (Kỷ Tỵ, 1749).
Năm 26 tuổi (Nhâm Thân, 1752), ông lại dự thi Hội, và lần này th́ đỗ Hội nguyên. Vào thi Đ́nh, ông đỗ luôn Bảng nhăn. V́ kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên, nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu.
Làm quan
Sau khi đỗ đại khoa, năm Quư Dậu (1753), Lê Quư Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754).
Năm Bính Tư (1756), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác "6, 7 viên quan ăn hối lộ". Tháng 5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên). Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa...rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất.
Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này, ông viết Quần thư khảo biện.
Biên soạn sách
Trở về nước (Nhâm Ngọ, 1762), ông được thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các để duyệt kỷ sách vở, Ngô Th́ Sĩ giữ chức Chính tự. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết rằng:
Bổ dụng Nguyễn Bá Lân và Lê Quư Đôn sung làm học sĩ trong Bí thư các, để duyệt kỷ sách vở, chọn người có văn học là bọn Ngô Th́ Sĩ sung giữ chức chính tự trong các.
Năm Quư Mùi (1763), ông viết Bắc sứ thông lục. Trong năm này, ông được cử coi thi Hội.
Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin thiết lập pháp chế, v́ thấy một số quan lại lúc bấy giờ "đă quá lạm dụng quyền hành, giày xéo lên pháp luật", nhưng không được chúa nghe. Cũng trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải Dương (Ất Dậu, 1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu.
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết rằng:
Tháng 6, mùa hạ. Lê Quư Đôn, tham chính Hải Dương bị băi. Từ khi sang sứ nhà Thanh trở về nước, rồi bổ làm tham chính Hải Dương, Quư Đôn tự giăi bày chín tội, nhưng thực ra là tự kể công lao của ḿnh.
Theo Phan Huy Chú, lời sớ đại khái rằng: "Tấm thân từng đi muôn dặm c̣n sống về được, lại gặp cảnh vợ chết, con thơ phiêu bạt chỗ giang hồ, thần thực không thích làm quan nữa, xin cho về làng". Được chấp thuận, ông trở về quê "đóng cửa, viết sách".
Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân, chúa cho triệu Lê Quư Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó, ông được cử làm Tán lư quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu) đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa.
Năm Mậu Tư (1768), ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh.
Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa.
Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ, kiêm Thiêm đô Ngự sử. Mùa thu năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa. Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện và thuế thân c̣n thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đ́nh bàn và thi hành. Ít lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lănh trọng trách này, ông có tâu tŕnh lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là:
1/ Sửa đổi đường lối bổ quan.
2/ Sửa đổi chức vụ các quan.
3/ Sửa đổi thuế khóa nhà nước.
4/ Sửa đổi phong tục của dân.
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết rằng:
Trước kia, Quư Đôn làm phó đô ngự sử, thường dùng số bạc đút lót trong khi xét kiện để dâng chúa Trịnh, bèn được thăng chức Hữu thị lang bộ Hộ. Đến nay, nhân khi khám xét hạt Thanh Hoa trở về, lại dâng hơn một ngàn lạng bạc đă ăn của đút, nên do chức Hữu thị lang bộ Hộ thăng lên chức này.
Năm Nhâm Th́n (1772), ông được cử đi điều tra về t́nh h́nh thống khổ của nhân dân và những việc nhũng lạm của quan lại ở Lạng Sơn.
Năm Quư Tỵ (1773) đại hạn, nhân đó ông tâu tŕnh 5 điều, đại lược nói: "Phương pháp của cổ nhân đem lại khí ḥa, dẹp tai biến, cốt lấy lễ mà cầu phúc của thần, lấy đức mà khoan sức dân" [20]. Chúa nghe theo, bổ ông làm Bồi tụng (Phó Tể tướng), giữ việc dân chính, kiêm quản cơ Hữu hùng, tước Dĩnh Thành hầu. Trong năm này, ông viết Vân đài loại ngữ.
Tháng 5, năm 1773, chúa Trịnh Sâm hạ lệnh cho Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Phương Đĩnh và Lê Quư Đôn làm lại sổ hộ tịch, Quư Đôn kê cứu tra xét quá nghiêm khắc, nhân dân đều nghiến răng căm hờn, họ làm thư nặc danh dán ở cửa phủ chúa Trịnh xin băi bỏ Quư Đôn đi mà dùng Ngũ Phúc, lời lẽ trong thư rất là khích thiết. Nhân đây, Trịnh Sâm thay đổi mệnh lệnh, cho Ngũ Phúc cùng Quư Đôn đều giữ công việc đôn đốc làm sổ. Ngũ Phúc xin thi hành theo điều lệ đời Cảnh Trị, đại để có nơi tăng, có nơi giảm, có nơi b́nh bổ vẫn như cũ. Số dân đinh hơi kém với ngạch đinh năm Bảo Thái, dân cũng cho là thuận tiện.
Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774), chúa Trịnh Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa, Lê Quư Đôn được cử giữ chức Lưu thủ ở Thăng Long.
Đầu năm Ất Mùi (1775), tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm được Thuận Hóa. Tháng 2 năm đó, chúa Trịnh trở về kinh, rồi thăng ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán.
Cũng trong năm đó xảy ra vụ Lê Quư Kiệt (con Lê Quư Đôn) đổi quyển thi với Đinh Thời Trung (hay Th́ Trung). Bị phát giác, cả hai đều bị tội. V́ là đại thần, Lê Quư Đôn được miễn nghị.
Năm Bính Thân (1776), chúa Trịnh Sâm đặt ty trấn phủ ở Thuận Hóa. Lê Quư Đôn được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ, để cùng với Đốc suất kiêm Trấn phủ Bùi Thế Đạt t́m cách chống lại quân Tây Sơn. Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị lang bộ Hộ, kiêm chức Đô ngự sử .
Tháng 7, năm 1779, thổ tù Hoàng Văn Đồng làm phản, triều đ́nh sai Nguyễn Lệ, Nguyễn Phan đi đánh, Văn Đồng xin hàng. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép rằng:
Văn Đồng cáo tố rơ t́nh trạng sách nhiễu của Quư Đôn và Xuân Hán. Lệ đem việc này tâu về triều, bọn Quư Đôn đều can tội, phải giáng chức.
Năm Mậu Tuất (1778), được cử giữ chức Hành tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang vơ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho ông làm Tả hiệu điểm, quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa), tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quư Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức.
Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ chức Tổng tài
Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đ́nh Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng, Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quư Đôn.
Đầu năm Quư Măo (1783), ông nhận lệnh đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư bộ Công.
Qua đời
Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều chính rối ren, nhân dân đói khổ,... Lê Quư Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Th́n niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784), lúc 58 tuổi.
(Theo Wikipedia)
Tác phẩm/nhân vật (của BLA)
Đường dẫn về trang chủ: https://dandensg.blogspot.com
Bookmarks