Sức Mạnh Của Chủ Nghĩa Ngu Dân © Dương Thu Hương
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về một câu hát cũ, “Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau ḍng nước Vàm Cỏ Đông…” Lăng mạn sao, những cặp t́nh nhân cùng uống chung một ḍng nước. Và hạnh phúc thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép ḿnh dưới bóng các rặng cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đă diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận ḷng sâu của mỗi gia đ́nh. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ xẩy ra giữa hai nền văn hoá Đông-Tây mà c̣n xẩy ra ngay giữa ḷng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong một gia đ́nh, một ḍng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài biên giới… Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu.
Khoảng cách giữa người với người có thể c̣n dài rộng hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.”
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đă từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy chữ kư của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí c̣n bị gọi là “các phần tử phản động”.
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng v́ lư do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nh́n nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, c̣n bạn là thứ quư hiếm, nó c̣n quư hiếm hơn t́nh yêu v́ không có bệ đỡ t́nh dục. T́nh bạn đ̣i hỏi một sự cảm thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nh́n về một hướng, cùng đi theo một ngả. V́ lẽ đó, t́nh bạn không thể có được một cách dễ dăi. Không có thứ t́nh cảm nào không cần thử thách, cho dù là t́nh yêu, t́nh bạn hay t́nh đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh căi, v́ nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết rơ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hănh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đă xảy ra trong một t́nh thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam bị cuốn vào ḍng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đă rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhă nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà c̣n là chính những người lănh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến ḿnh thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đă thực sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể loài người.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi t́nh h́nh. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi đến Paris, tôi đă ở Turin (Ư) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ư đă phỏng vấn tôi và đă đăng bài tức khắc. Một trong số các bài báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đă kể lại hai điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đă khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 th́ sự căng thẳng trong chính trường đă khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm người nhưng không có một ḍng trên báo, không một câu trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ư:
“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”
V́ ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn căi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đă thuật lại cho họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lănh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm ḍ địa h́nh địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là c̣n có những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đă đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không pḥng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài ṃn ḷng kiêu ngạo lẫn ư chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngă chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuư, một ư thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng và ḷng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lănh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong th́ hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh th́ phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
(C̣n phần nữa).
Bookmarks