Biến cố Vịnh Bắc Bộ 1964
(Bài 1/6)- Trần Đỗ Cẩm biên khảo
(Austin Texas, mùa Thu 1998)
Vụ đụng độ giữa các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ và những ngư lôi đĩnh Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Vịnh Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964 mang một ư nghĩa hết sức đặc biệt và hậu quả vô cùng quan trọng. Đây không phải là một trận hải chiến lớn liên quan tới nhiều chiến hạm hay thương vong đôi bên lên tới một con số cao, nhưng có hậu quả vô cùng quan trọng. Các sử gia đều cho rằng biến cố này đă khơi ng̣i cho việc quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, tương tự như trận tấn công bất ngờ tại Trân Châu Cảng đă mở màn cho cuộc chiến tranh Mỹ - Nhật tại Thái B́nh Dương thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Nhưng cho tới nay, dù cuộc đụng độ xảy ra đă trên 30 năm và đă làm tốn hao nhiều giấy mực, nhiều chi tiết vẫn chưa được sáng tỏ. Có thể nói "Biến Cố Vịnh Bắc Việt" tuy là đề tài được đề cập nhiều nhất cũng như bàn căi sôi nổi nhất tại Hoa Kỳ mỗi khi nhắc tới chiến tranh Việt Nam, nhưng vẫn c̣n chứa đựng nhiều bí ẩn nhất. Những "nghi vấn" này không những đă làm nhiều sử gia thắc mắc, ngay cả những người liên quan chủ chốt cũng muốn t́m câu trả lời. Mới đây nhất, khi cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ là Robert McNamara - người được mệnh danh là "kiến trúc sư" của cuộc chiến tranh - sang thăm Việt Nam vào năm 1995, ông cũng đă hỏi đối thủ Vơ Nguyên Giáp:" Cho tới bây giờ tôi vẫn không biết chuyện ǵ đă xảy ra tại vịnh Bắc Việt vào hai ngày 2 và 4 tháng 8 năm 1964. Tôi nghĩ rất có thể chúng tôi đă phạm phải hai suy đoán sai lầm quan trọng ... Vậy điều chúng tôi gọi vụ đụng độ vào ngày 4 tháng 8 năm 1964, thường được gọi là cuộc tấn công thứ nh́, có thật sự xảy ra không?"
Một vị cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng khi đặt câu hỏi như vậy đă chứng tỏ không nắm vững t́nh h́nh, không biết ḿnh biết người, nhưng vẫn đưa ra nhiều quyết định quan trọng sinh tử trong quá khứ! Thật là điều không tưởng tượng nổi! V́ vậy, nhiều người đă chê bai câu hỏi "ngớ ngẩn" và làm bẽ mặt Hoa Kỳ này. Vơ Nguyên Giáp đă trả lời câu hỏi "ngây thơ" của người đă từng quyết định sự thắng bại của cuộc chiến tại Việt Nam thế nào? Biến cố vịnh Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964 đă diễn tiến ra sao? Những nghi vấn ǵ vẫn c̣n chưa được sáng tỏ? Chúng tôi sẽ tuần tự mô tả lại những sự kiện liên quan trực tiếp hay gián tiếp để độc giả dễ bề theo dơi và tự t́m câu trả lời.
I. Những Hoạt Động Biệt Kích Nhắm Vào Bắc Việt
Ngay từ sau hiệp định Genève năm 1954 chia đôi đất nước, cả hai phe Quốc - Cộng đă để lại trong "ḷng địch" một số gián điệp với mục đích thu thập tin tức t́nh báo và quấy rối đối phương. Tuy nhiên, lúc ban dầu, những hoạt động này thường chỉ có tính cách "nằm vùng" chờ thời cơ hơn là tích cực xâm nhập hoặc phá hoại.
Dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, cơ quan t́nh báo được đặt dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến. Trung tá Lê Quang Tung, chánh Sở Liên Lạc đảm nhiệm những công tác đặc biệt dưới quyền bác sĩ Tuyến. Đại Úy Ngô Thế Linh, Trưởng Pḥng 45 - coi như "Sở Bắc" - đặc trách về những công tác đặc biệt ngoại biên gồm Bắc Việt, Lào và Cam Bốt. Người em của Trung Tá Tung là Đại Úy Lê Quang Triệu, nghe nói là một Đại Đội Trưởng thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống, lo về vấn đề quản trị hành chánh. Đa số những nhân viên phục vụ được tuyển mộ trong số những người gốc Công giáo hoặc trong đảng Cần Lao. Các ông Ngô Đ́nh Cẩn và Ngô Đ́nh Nhu cũng dính dáng đến các hoạt động t́nh báo với sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Vào năm 1955, một toán biệt kích 6 người gốc Quảng B́nh dùng ghe buồm giống như ghe miền Bắc xâm nhập Bắc Việt. V́ có thể trà trộn với những ghe đánh cá địa phương nên những chuyến công tác ban đầu kéo dài chừng vài ba ngày này không bị Cộng Sản phát hiện.
Tới năm 1958, Tổng Thống Diệm lại yêu cầu cơ quan Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ trợ giúp để đảy mạnh hoạt động biệt kích. Do đó những hoạt động xâm nhập miền Bắc được gia tăng vào khoảng năm 1960 bằng phương tiện ghe buồm. Vùng duyên hải Bắc Việt có rất nhiều ghe đánh cá nên các ghe xâm nhập có thể trà trộn dễ dàng không bị khám phá. Qua năm 1961, với sự trợ giúp tích cực của Trung Ương T́nh Báo (CIA) Hoa Kỳ, miền Nam bắt đầu tổ chức những vụ xâm nhập qui mô hơn bằng đường hàng không. Các toán biệt kích do Hoa Kỳ huấn luyện tinh thục và vơ trang tối tân được thả bằng máy bay vào vùng thượng du Bắc Việt. Phi công dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Cao Kỳ bay những phi vụ đầu tiên. Sau đó, những phi công người Đài Loan đảm nhiện những phi vụ kế tiếp.
Về mặt huấn luyện các biệt kích quân miền Nam, ngoài Hoa Kỳ, Đài Loan cũng góp phần tham dự. Vào năm 1960, một toán ngưới nhái Việt Nam được gửi sang Đài Loan để thụ huấn. Đến năm 1961, có 20 huấn luyện viên người nhái của Đài Loan đến Việt Nam để mở các khóa huấn luyện tại Vũng Tàu và Đà Nẵng. Sở dĩ Đài Loan hợp tác với các hoạt động biệt kích của miền Nam v́ họ cũng muốn nhân dịp thăm ḍ sự cộng tác của CSBV và Trung Cộng. Nhiều tài liệu cho biết vào cuối thập niên 50, đă có một số các cuộc hành quân Biệt Hải giữa biệt kích Nam Việt Nam và Đài Loan xuất phát từ Đài Loan nhắm vào vùng biển Hải Pḥng - Móng Cáy giáp ranh giới Hoa Việt.
II. Chiến Dịch Oplan 34-A
Tới năm 1963, Hoa Kỳ quyết định đẩy mạnh các hoạt động biệt kích nhắm vào các cơ sở quân sự của Bắc Việt. Bộ Tham Mưu quân đội Hoa Kỳ chỉ thị Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, soạn thảo một kế hoạch đặc biệt gọi là Oplan 34-63 (Operation Plan) do lực lượng miền Nam đảm nhiệm với sự trợ giúp phương tiện của Hoa Kỳ. Sau nhiều cuộc thảo luận giữa CIA và Quân Đội Hoa Kỳ, kế hoạch Oplan 34-63 được biến cải trở thành Oplan 34A vào tháng 12 năm 1964. Theo kế hoạch này, Hoa Kỳ sẽ huấn luyện những quân nhân Việt Nam, đa số gốc người Bắc để xâm nhập miền Bắc với mục tiêu tuyên truyền móc nối, thả truyền đơn, phá hoại và ngăn chặn các tầu bè Việt Cộng chuyên chở vũ khí vào miền Nam. Nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của các toán biệt kích là điều nghiên hệ thống pḥng thủ của Bắc Việt và thu thập tin tức t́nh báo cần thiết để có thể hoàn thành kế hoạch oanh tạc cũng như đổ bộ Bắc Việt khi cần.
Về phía CSBV được Nga Sô cho biết về các hoạt động t́nh báo của miền Nam nên cũng ráo riết chuẩn bị đề pḥng. Nga Sô c̣n viện trợ cho Bắc Việt nhiều khinh tốc đĩnh tuần duyên trang bị ngư lôi, hỏa tiễn, đại bác pḥng không và pḥng duyên cùng những giàn radar pḥng thủ duyên hải. Bờ biển miền Bắc từ vĩ tuyến 17 tới vùng Hải Pḥng, Móng Cáy gần biên giới Hoa Việt gồm nhiều đảo nhỏ và những mỏm núi cao thuộc giải Hoành Sơn (núi đâm ngang ra biển). Ngang vĩ tuyến 17 gần Đồng Hới có đảo Ḥn Cọp. Vùng Vinh, Bến Thủy có đảo Ḥn Mật. Xa hơn về phía Bắc có các đảo Ḥn Mê, Ḥn Niếu gần Thanh Hóa, Sầm Sơn rồi tới Vịnh Hạ Long với các đảo Cát Bà, Cái Bầu, Cái Bàn v.v... Các mũi biển quan trọng gồm mũi Ron, mũi Vinh Sơn, mũi Sót v.v... Trên các hải đảo và các mũi đá cao dọc duyên hải, Việt Cộng đặt các đài radar và hải pháo pḥng duyên để theo dơi và ngăn chận các hoạt động xâm nhập của biệt kích cũng như của chiến hạm Hoa Kỳ hoạt động trong vùng Vịnh Bắc Việt.
Tới ngày 24 tháng giêng năm 1964, Hoa Kỳ thành lập Toán Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Group - SOG) và đặt dưới quyền của Phái Bộ Viện Trợ Quân Sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) nên thường được gọi tắt là MAC/SOG. Sau này để đánh lạc hướng địch và cũng để giảm bớt ấn tượng nặng về quân sự, Toán Hành Quân Đặc Biệt được đổi tên là Toán Nghiên Cứu và Quan Sát (Studies and Observations Group), vẫn gọi tắt là MAC/SOG.
Về phía Việt Nam, một cơ quan tương đương gọi tên là Sở Kỹ Thuật (Strategic Technical Service) được thành lập vào ngày 12 tháng giêng năm 1964 để làm việc hàng ngang với MAC/SOG. Đây là hậu thân của Sở Khai Thác Địa H́nh (Topographic Exploitation Service) và Sở Liên Lạc do Đại Tá Lê Quang Tung điều động dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Sau này, Sở Kỹ Thuật được đổi thành Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical Directorate). Như vậy, về phía Việt Nam, Nha Kỹ Thuật là cơ quan chịu trách nhiệm tổng quát về các hoạt động biệt kích trên thủy, bộ cũng như đường hàng không.
III. Sở Pḥng Vệ Duyên Hải
Dưới cơ quan MAC/SOG, Hải Quân Hoa Kỳ có Nhóm Cố Vấn Hải Quân (Navy Advisory Detachment - NAD) để hoạt động với Sở Pḥng Vệ Duyên Hải (Coastal Security Service - CSS) c̣n được gọi là Lực Lượng Hải Tuần (LLHT) của Hải Quân Việt Nam, trực thuộc Nha Kỹ Thuật. Nhóm NAD/CSS này đặt căn cứ tại ṭa nhà "Bạch Tượng" đôi khi c̣n gọi là "Nhà Trắng" ở vùng bán đảo Sơn Chà, Đà Nẵng. Các doanh trại của Sở Pḥng Vệ Duyên Hải nằm ngay dưới chân Núi Khỉ (Monkey Mountain) gần căn cứ Hải Quân Tiên Sha thuộc BTL/V1 Duyên Hải. Các chiến đĩnh của LLHT đậu tại cầu tầu riêng biệt trong khu cảng Deep Water Pier gần bán đảo Tiên Sha. Khu cảng này rất gần băi ủi của các tầu chuyển vận (LST - Landing Ship Tank) của Hải Quân Hoa Kỳ.
Các chiến đĩnh LLHT xử dụng trong những chuyến công tác gồm hai loại: PTF (Patrol Torpedo Fast) và PCF (Patrol Craft Fast), c̣n được gọi là Swift . Có 3 loại PTF:
- Loại cũ nhất là các PT thời đệ nhị thế chiến của Hoa Kỳ nhưng ống phóng ngư lôi đă được gỡ bỏ. Loại tầu này vỏ sắt, máy chạy bằng xăng nên thường được gọi là "tầu xăng". Một trong những PT nổi tiếng của Hoa Kỳ là chiếc PT 109 do Trung Úy Kennedy - sau này là Tổng Thống Hoa Kỳ - làm hạm trưởng. Loại tầu xăng có nhiều khuyết điểm về kỹ thuật như dễ bị cháy, bộ tục kết hay bị trục trặc, nhất là khi vào số lùi hay bị tắt máy. Máy khó khởi động sau khi bị tắt v́ những hơi thừa con lại khóa cứng piston.
- Loại vỏ bằng gỗ Balsa rất nhẹ do Na Uy đóng thường được gọi là " Nasty ". Đây là loại tốt nhất, dễ vận chuyển và chạy nhanh nhất. Về sau này, LLHT dùng toàn chiến đĩnh Nasty.
- Loại tầu vỏ sắt do Hoa Kỳ đóng phỏng theo kiểu "Nasty" nhưng có tên là "Osprey". Loại này tuy khá hơn tầu xăng nhưng nặng nề, khả năng vận chuyển và bền bỉ thua Nasty xa.
Việc thám sát mục tiêu cho các chuyến công tác của LLHT phần lớn do phi cơ gián điệp U-2 đảm trách. Căn cứ U-2 chính đặt tại Phi Luật Tân nhưng vào khoảng giữa năm 1964, tại phi trường Biên Ḥa lúc nào cũng có hai phi cơ U-2 túc trực. Vào ngày có chuyến công tác, phi cơ U-2 bay từ lúc sáng sớm ra Bắc để thám sát mục tiêu mục tiêu lần chót, đến trưa MACSOG tại Sài G̣n đă có không ảnh. Trước khi xuống tầu đi công tác, các Hạm Trưởng PTF đều tham dự một buổi thuyết tŕnh về chuyến công tác và nghiên cứu những tấm không ảnh mục tiêu này. Tuy nhiên v́ U-2 phải bay rất cao ngoài tầm hỏa tiễn pḥng không nên thường h́nh nhỏ không được rơ ràng. V́ vậy sau này Hoa Kỳ dùng những phi cơ nhỏ không người lái (drone) bay thấp hơn để chụp h́nh mục tiêu trước mỗi chuyến công tác. Ngoài ra, cũng có kế hoạch chụp h́nh ban đêm bằng radar.
V́ LLHT là một đơn vị đặc biệt của Hải Quân nên ít người biết tới, ngay cả đối với đa số HQVN. Mới đây, một số hồ sơ Hoa Kỳ được giải mật nên có vài quyển sách do ngưới Mỹ viết nói qua về LLHT. Nhưng rất tiếc, cũng giống như những tài liệu khác của người Mỹ nói về chiến tranh Việt Nam, nhiều sự thực đă vô t́nh hay cố ư bị xuyên tạc gây ngộ nhận không hay. Đây có thể là "thói quen" của người Hoa Kỳ - kể cả "sử gia" - thường xuưt xoa tâng bốc người thắng trận (winner) và coi rẻ kẻ bại trận (loser). Chúng tôi là người đă phục vụ tại LLHT liên tiếp 5 năm với nhiều chuyến công tác từ năm 1965 đến 1970, tiện đây thấy cần phải nói lên những sự thật.
Trước hết là quyển sách "Tonkin Gulf and the Escalation of VietNam war" của tác giả Edwin E. Moise. Ông này là giáo sư sử học chuyên về chiến tranh Việt Nam tại trường Đại Học Clemson, tiểu bang North Carolina. Theo dư luận, giáo sư Moise được coi là người có nhiều tài liệu nhất và có thẩm quyền nhất về phương diện sử học khi nói về chiến tranh Việt Nam. Tóm lại, ông Moise được coi như là "sử gia" chuyên về chiến thanh Việt Nam. Trước khi xuất bản sách này, ông Moise có tới gặp chúng tôi tại nhà riêng để hỏi một số chi tiết về LLHT cũng như các loại và đặc tính của các chiến đĩnh PT. Sách của ông Moise có đoạn nói về nghi vấn nhân viên hải quân Hoa Kỳ "bí mật" có đi theo nhân viên HQVN trong các chuyến công tác ra Bắc không (trang 15)? Ông Moise trích lời của Đại Tá Phil Bucklew là cấp chỉ huy của toán nhân viên Hoa Kỳ này cho rằng "ông không biết bất cứ trường hợp nào những chiến đĩnh PTF đi công tác từ Đà Nẵng mà KHÔNG có nhân viên Hoa Kỳ trên đó"(he did not aware of any cases in which the PTF's from Danang went on combat operations without American personnel aboard. His recollection is that the American were running the boats, with Vietnamese along in what was essentially an apprenticeship role). Đại Tá Bucklew c̣n "nhớ" lại rằng những nhân viên Hải Quân Hoa Kỳ trực tiếp điều khiển chiến đĩnh, c̣n thủ thủ đoàn Việt Nam chỉ đóng vai tṛ "phụ việc". Đại Tá Bucklew cũng nói tuy có đề nghị để nhân viên VN điều khiển chiến đĩnh trong khi công tác, nhưng đề nghị này bị từ chối vi nhân viên VN không đủ khả năng (the Vietnamese did not have the skills). C̣n ông Đô Đốc Roy Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất hạm Đội thời đó cũng nói :"Thủy thủ đoàn Việt Nam không tin tưởng được (unreliable)" nên "phải dùng thủy thủ đoàn Hoa Kỳ để thay thế". Ông Đô Đốc "khá chắc chắn" rằng thủy thủ đoàn Hoa Kỳ đă được dùng trong các công tác đánh phá ngoài Bắc từ tháng 8 năm 1964 hay chỉ ít lâu sau đó."
Về việc có người Mỹ đi theo trong những chuyến công tác hay không, trước năm 1965 chúng tôi không không giám nói chắc v́ lúc đó chưa có mặt tại LLHT, nhưng theo những bạn bè đi trước nói lại và suy đoán, chúng tôi tin rằng chỉ có thủy thủ đoàn Việt Nam trong những chuyến công tác. Nhưng trong khoảng thời gian từ năm 1965 tới 1970 là thời gian chúng tôi phục vụ tại LLHT với nhiệm vụ Hạm Phó rồi Hạm Trưởng PTF trong hàng trăm "combat missions", chắc chắn, quả quyết không hề có người Hoa Kỳ nào đi theo tầu chúng tôi hay tầu khác trong những chuyên công tác vượt vĩ tuyến 17. Nhân viên Hoa Kỳ chỉ đi theo trong những chuyến huấn luyện dưới vĩ tuyến 17. C̣n về vấn đề khả năng và kinh nghiệm thật rất khó nói. Nếu không có khả năng hay không tin tưởng được, chắc chắn chúng tôi đă khó có thể an toàn trở về sau 5 năm công tác liên tiếp tại vùng biển Bắc Việt. Nhưng dù một Đô Đốc Hoa Kỳ thường khoe khoang là thủy thủ đoàn Việt Nam chỉ đóng vai phụ việc đi nữa, nếu phục vụ tại lực lượng PTF trong một "tour" chỉ có 6 tháng, lại thường nằm trong pḥng lạnh ăn hút, không đi một chuyến công tác rồi đổi đi nơi khác, cũng khó có "khả năng" hơn một thủy thủ HQVN phục vụ đă lâu năm năm!
Chuyện thứ hai trong sách của sử gia Moise là việc bận đồng phục (uniform) hay quân phục trong lúc công tác. Trang 15, ông Moise viết:"Có nhiều bằng cớ chứng tỏ thủy thủ đoàn các chiến đĩnh Nasty là người của HQVN và mặc quân phục hải quân trong lúc công tác". Tác giả đă nói đúng về việc thủy thủ đoàn thuộc HQVN, nhưng việc "mặc quân phục hải quân trong khi công tác" là điều không đúng. Một nhân viên khi t́nh nguyện gia nhập LLHT, tuy quân số vẫn thuộc Hải Quân và vẫn lănh lương hải quân hàng tháng, nhưng không trực thuộc quyền điều động của hải quân. Mỗi người kư một giao kèo phục vụ trong ṿng 6 tháng, sau đó nếu muốn có thể kư tiếp hay thuyên chuyển về hải quân. Có thể nói lúc đó nhân viên LLHT coi như vừa là hải quân, vừa là dân sự. Ngay cả tên cũng thay đổi, ngoại trừ tên thật vẫn giữ trong thẻ quân nhân. Khi đi công tác, không ai được phép mặc quân phục hải quân, thông thường mặc thường phục không ai mang lon đội mũ. Riêng chúng tôi chỉ mặc bộ bà ba đen. Những lúc ở trong doanh trại không đi công tác, chúng tôi chỉ mặc quân phục hải quân khi có thượng cấp hải quân viếng thăm và mặc tiểu lễ chào cờ vào sáng thứ hai và nghe "câu chuyện dưới cờ" của Đô Đốc Tư Lệnh Trần Văn Chơn. Vả lại, trong nhiều công tác Tâm Lư Chiến ra Bắc, chúng tôi có nhiệm vụ đóng vai nhân viên của mặt trận "Gươm Thiêng Ái Quốc" - coi như một phong trào nổi dậy tại miền Bắc - để phát radio (dân miền Bắc gọi là "đài"), truyền đơn và quà cho ngư phủ miền Bắc, nếu bận quân phục hải quân VNCH th́ đâu c̣n là "Đồng chí miền bắc" nữa. Tóm lại, tuyệt đối không có việc mặc quân phục hải quân trong những chuyến công tác, ngoại trừ trong sách của sử gia Moise hay "nhớ lại" của các giới chức cố vấn Mỹ! Hiện nay, các anh em cựu LLHT c̣n có mặt tại Hoa Kỳ rất nhiều, v́ tuy tham dự nhiều chuyến công tác vượt vĩ tuyến nguy hiểm nhưng luôn luôn nắm thế "thượng phong" nên rất ít khi bị thiệt hại. Bạn đọc có thể dễ dàng tiếp xúc với các cựu chiến sĩ Hải Tuần để phối kiểm những chi tiết nêu trên.
Vào khoảng giữa năm 1964, cường độ hoạt động của LLHT gia tăng. Nhiều chuyến công tác thành công phá hủy một số đài radar, cơ sở pḥng duyên và căn cứ hải quân của Bắc Việt. Nhiều ngư phủ Bắc Việt cũng bị bắt đem về Cù Lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng để khai thác tin tức, sau đó lại được trả về nguyên quán ngoài Bắc. Dĩ nhiên, để chống lại các hoạt động biệt kích bằng đường biển này, CSBV cũng ráo riết gia tăng hệ thống pḥng thủ duyên hải. Các chuyến công tác do đó trở nên nguy hiểm và hồi hộp hơn nhiều.
Vào mùa hè năm 1964, trong lúc các chiến đĩnh thuộc LLHT thường xuyên thực hiện những chuyến công tác biệt kích bí mật trong khuôn khổ OPLAN - 34A th́ Hải Quân Hoa Kỳ cũng có kế hoạch riêng nhằm công khai thám sát bờ biển Bắc Việt. Kế hoạch của Hải Quân Hoa Kỳ mang bí danh DeSoto.
IV. Kế hoạch tuần tiễu DeSoto
Hải quân Hoa Kỳ thường tổ chức những cuộc tuần tiễu mang bí danh DeSoto dọc theo bờ biển các quốc gia vùng Á Châu Thái B́nh Dương để thám sát và thu thập tin tức t́nh báo bằng những dụng cụ "nghe lén" và "nh́n lén" đặc biệt.
Vào tháng 4/1964, Khu Trục Hạm (KTH) DeHaven thực hiện chuyến công tác DeSoto đầu tiên dọc theo bờ biển Trung Cộng, sau đó công tác tiếp tục mỗi tháng một lần, liên tiếp trong ṿng 5 tháng. Trung Cộng chỉ phản ứng chiếu lệ. Trong các chuyến công tác vào tháng 10/62 do KTH Hollister (DD-788) và tháng 11/62 với KTH Shelton, lần đầu tiên chiến hạm Hoa Kỳ thám sát cả bờ biển Bắc Hàn. Cũng như những lần trước, phía Cộng Sản không có phản ứng mạnh. Vào khoảng cuối năm 1962, KTH Agerholm (DD-826) xuất phát từ Keelung - Đài Loan lần đầu tiên thám sát vịnh Bắc Việt và vùng đảo Hải Nam nhưng không vào cách bờ dưới 20 hải lư. Trong năm 1963, có tổng cộng 6 công tác DeSoto dọc bờ biển Trung Cộng, Nga Sô, Bắc Hàn và Bắc Việt nhưng vẫn giữ khoảng cách 20 hải lư. Trong chuyến công tác vào tháng 4/63, khi KTH Richard Edwards (DD-950) tuần tiễu khu vực giữa đảo Hải Nam và bờ biển Bắc Việt, có 6 tầu tuần duyên Bắc Việt và một số phi cơ Trung Cộng theo dơi, nhưng Trung Cộng cũng chỉ phản kháng chiếu lệ. CSBV không lên tiếng.
Sang đầu năm 1964, Bộ Tư Lệnh Liên Quân Hoa Kỳ ra lệnh thực hiện thêm nhiều chuyến tuần tiễu DeSoto trong vùng vịnh Bắc Việt để thâu thập những tin tức t́nh báo sau đây:
- Hệ thống pḥng thủ mặt biển gồm phối trí và khả năng của các chiến hạm pḥng duyên, kể cả tiềm thủy đĩnh.
- Hệ thống pḥng không gồm phối trí và khả năng đối phó với các mục tiêu trên không và trên biển.
- Hoạt động của các thương thuyền.
- Khả năng điện tử duyên pḥng.
- Chụp h́nh và xác định hệ thống pḥng thủ.
- Thâu thập tin tức t́nh báo và thủy đạo.
Mỗi chuyến công tác DeSoto thường do một khu trục hạm mang những dụng cụ kiểm thám điện tử đặc biệt, xuất phát từ căn cứ Keelung (Đài Loan) đảm nhiệm.
Ngày 25/2/64, KTH John Craig có Đại Tá Edward Williams, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn KTH 12 tháp tùng, xuất phát từ Đài Loan để thi hành công tác tuần tiễu vịnh Bắc Việt với KTH Ingersoll (DD-652) bên ngoài vịnh để yểm trợ khi cần. Tuy Trung Cộng cho một chiến hạm loại Kronstadt và phi cơ theo dơi nhưng không xảy ra biến cố nào quan trọng. KTH Craig hoàn tất nhiệm vụ vào ngày 9/3/64.
Đến đầu tháng 7/1964, MACV tại Sài G̣n yêu cầu Hải Quân cung cấp thêm tin tức t́nh báo dọc theo bờ biển Bắc Việt, nhất là tại những nơi các chiến đĩnh OPLAN-34A thường hoạt động. V́ vậy Đô Đốc Ulysses G. Sharp, người vừa thay thế Đô Đốc Felt trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, ra lệnh tiếp tục các cuộc tuần tiễu thám sát DeSoto. Các Đô Đốc Moorer, Tư Lệnh Hạm Đội Thái B́nh Dương và Đô Đốc Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội chỉ định KTH Picking (DD-685) đảm nhận công tác. Chiến hạm dự trù khởi hành từ Keelung vào ngày 28/7 với Đại Tá John Herrick, Chỉ Huy Trưởng Phân Đoàn KTH 192 tháp tùng. Phân Đoàn KTH 192 thuộc Lực Lượng Hoa Kỳ tại Đài Loan do Đô Đốc Robert A. MacPherson chỉ huy. Theo kế hoạch, chiến hạm tuần tiễu không được vào gần bờ dưới 8 hải lư (hải phận Bắc Việt) và cách các hải đảo dưới 4 hải lư và c̣n phải tới đúng các chuẩn điểm (check points) theo lộ tŕnh và thời điểm vạch sẵn (xem bản đồ trục tuần tiễu ấn định).
Đô Đốc Johnson cũng ra lệnh cho KTH Maddox đặc biệt ghi nhận vị trí và tầm hoạt động của những đài radar, hải đăng, các dấu mốc quan trọng cũng như chi tiết về thủy đạo, nhất là tại vùng các cửa sông. Chiến hạm cũng chụp h́nh những vị trí quan trọng dọc theo duyên hải Bắc Việt. Có lẽ Hoa Kỳ muốn thâu thập trước các chi tiết cần thiết để chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ sau này.
V́ các chiến đĩnh thuộc LLHT và chiến hạm DeSoto tuy đảm nhiệm công tác riêng biệt nhưng sẽ hoạt động chung một vùng nên nhiều biện pháp cần thiết được hoạch định để tránh làm trở ngại hoặc ngộ nhận. Chiến hạm DeSoto sẽ theo đúng lộ tŕnh và giờ giấc đă vạch sẵn, c̣n chiến đĩnh LLHT sẽ hoạt động tại vùng riêng biệt cách xa. Về không trợ, mẫu hạm Ticonderoga lúc đó đang hoạt động tại điểm Yankee ngang vĩ tuyến 17 ngoài khơi Đà Nẵng sẽ yểm trợ chiến hạm DeSoto khi cần.
Tất cả mọi chuẩn bị và huấn thị cho chuyến công tác DeSoto tại vịnh Bắc Việt vào mùa hè năm 1964 đă đầy đủ, nhưng tới gần ngày công tác, KTH Maddox (DD-731) được chỉ định thay thế KTH Picking. Trong lúc đó, hoạt động của các chiến đĩnh LLHT cũng gia tăng trong vịnh Bắc Việt.
Ngày 22/7, các chiến đĩnh PTF-3 , 4, 5 và 6 thám sát vùng Đồng Hới và bắt về một số ngư phủ để khai thác tin tức.
Ngày 30/7, các chiến đĩnh PTF-2, 3, 5 và 6 rời Đà Nẵng đi đánh phá các đảo Ḥn Mê và Ḥn Niếu. Hồi 2315H, bốn chiến đĩnh đến mục tiêu tại vị trí vĩ độ 19 Bắc, kinh độ 106.16 Đông phía Đông Nam Ḥn Mê. Tại đây, các chiến đĩnh chia làm hai toán. Các PTF-3 và 6 đảm nhận mục tiêu Ḥn Mê, trong lúc PTF-5 và 2 hướng về Ḥn Niếu.
Hai chiến đĩnh dự trù đổ toán Biệt Hải lên Ḥn Mê bị địch phát hiện và nổ súng khiến 4 người trên PTF-6 bị thương. Toán Ḥn Niếu cũng không đổ được quân. Khoảng sau nửa đêm, các chiến đĩnh bắn phá mục tiêu được chỉ định bằng đại bác 57 ly, 40 ly và 20 ly gây nhiều tiếng nổ phụ. Khoảng 1 giờ sáng ngày 31/7, hai toán chiến đĩnh rời mục tiêu trở về tới Đà Nẵng vào khoảng 11 giờ trưa ngày 31/7.
(C̣n tiếp)
Bookmarks