HỒ CHÍ MINH
NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
Kỳ 3
Bà Sophie Quinn-Judge (1)
Lời dịch giả Diên Vỹ
CHƯƠNG 4:
TỪ CON ĐƯỜNG CŨ ĐẾN HÀNH TR̀NH MỚI
(1927‐9)
Những di chuyển của Hồ Chí Minh
Khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Quảng Châu vào tháng 4 / 1927, ông qua Thượng Hải và Vladivostok để
đến Moscow. Tại Moscow, như ta đă thấy, ông đă t́m kiếm hậu thuẫn để đến cơ sở mới tại Xiêm nhằm tiếp tục công việc mà ông đă bắt đầu tại Quảng Châu. Một phần của mùa hè năm ấy ông phải nằm viện ở Crimean để điều trị bệnh lao. Tháng 9 / 1927 QTCS soạn thảo chỉ thị cho những công tác tương lai của ông và gửi ông đi Paris vào tháng 11 để phối hợp chương tŕnh của ông với Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp [1]. Mặc dù giờ đây ĐCS Pháp có trách nhiệm nuôi dưỡng phong trào cộng sản tại Đông Dương nhưng trên thực tế th́ các đảng viên ĐCS Pháp hoạt động dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Moscow.
Mặc dù QTCS đă không c̣n ảo tưởng về Quốc Dân Đảng, những chỉ thị để Hồ đem đến Paris vẫn phản ánh chiến lược mặt trận thống nhất với các lực lượng quốc gia. Bản chỉ thị dài hai trang (đề ngày 12 tháng 9 / 1927) chỉ định ʺAKʺ (Ai Kvak, theo cách phát âm của Nga) phải giúp kích hoạt ʺnhững nhà cách mạng dân tộc trong số những người Đông Dương lưu vong (trước tiên tại Paris rồi toàn nước Pháp) bằng cách thiết lập một đội ngũ cộng sản cốt cán trong những phần tử này... ʺ Rồi ông phải thành lập những liên hệ với Đông Dương với mục đích chuyển giao những hoạt động cách mạng vào quốc nội. Trong lúc ấy, nhằm hợp tác với ĐCS Pháp, ông được chỉ thị soạn thảo một cương lĩnh hành động cho phong trào cách mạng dân tộc tại Đông Dương. Sau tài liệu này được thông qua bởi Ban Chấp Hành QTCS, ông sẽ phát hành nó ở Đông Dương và ʺnghiên cứu khả năng để tăng cường những hoạt động cách mạng tại quốc gia lân cận như Xiêmʺ [2]. Đông Dương Cộng Sản Đảng ʺcần bắt đầu vận hành trong một tương lai gầnʺ và sẽ dựa vào ʺnhững tổ chức cách mạng dân tộc cành nhiều càng tốt với điều kiện những người thiên tả trong các tổ chức này giữ được quyền tự do phê phán tuyệt đối.ʺ Khẩu hiệu chính trị cơ bản của phong trào cách mạng được định nghĩa như sau: (1) độc lập; (2) đánh đuổi các lực lượng chiếm đóng; và (3) triệu tập Uỷ Ban Lập Pháp và tạo ra chính quyền cách mạng dân chủ, bảo đảm việc phân phát toàn bộ đất đai cho nông dân, dùng chính sách thống nhất các giai cấp để ủng hộ quyền lợi của người lao động, cương quyết bảo vệ nền độc lập của nước nhà chống lại mọi tấn công của đế quốc tham tàn.ʺ Điểm cuối cùng của chỉ thị ra ngày 12 tháng 9 lưu ư rằng QTCS sẽ theo đuổi nỗ lực tạo dựng những liên lạc với Đông Dương qua ngơ Trung Quốc [3].
V́ một số lư do Hồ đă không thực hiện hết những chỉ thị của QTCS tại Pháp, ông báo cáo lại với Moscow. Chiến dịch ruồng bố những hoạt động cộng sản tại Paris đă xảy ra cùng lúc với khủng hoảng chính trị trong nội bộ ĐCS Pháp, có lẽ việc này có liên quan đến phong trào thanh trừng các phần tử Trotskyist đang xảy ra tại Liên Bang Sô Viết để hướng tới Đại Hội Đảng 15 vào tháng 12. Cùng thời gian ấy Jacques Doriot, người bảo trợ của Hồ tại Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp, đă bị bắt giam tại Pháp. Hồ viết rằng những thành viên c̣n lại của Uỷ Ban đă tránh những tiếp xúc riêng với ông. Ư ông muốn nói đến trong báo cáo là việc ʺthiếu linh độngʺ trong hoạt động của Uỷ Ban có thể đă làm nó tê liệt về mặt chính trị. ʺTrong suốt một tháng rưỡi có mặt tại Paris,ʺ ông giải thích, ʺtrong khi Đồng Chí Doriot đang ở tù, tôi đă không có được bất kỳ một cơ hội nào để thảo luận một cách nghiêm túc với các đồng chí khác. Đă vài lần tôi đă đề nghị những địa chỉ chính xác để có thể liên lạc với họ khi tôi quay lại phương Đông, nhưng đồng chí có trách nhiệm đă không cho tôi biếtʺ [4], Hồ đă không đề cập đến những liên lạc giữa ông và những người Việt khác tại Paris, nhưng chúng ta tự hỏi là không biết ông có t́m cách gặp lại Nguyễn Thế Truyền không. Ít nhất là cho đến năm 1926, Truyền vẫn là đầu mối tiếp xúc chính giữa những người Việt cánh tả tại Paris và Uỷ Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp. Chính ông là người đă sắp xếp để gửi những người Việt Nam, trong đó có một số họ hàng của ḿnh, đi Moscow học tập[5]. Vào đầu năm 1927, sau sự sụp đổ của Công Đoàn Thuộc Địa vào năm 1926, Truyền đă thành lập một tổ chức mới mang tên An Nam Độc Lập Đảng [6]. Việc ra đời của đảng dân tộc vào năm 1927 th́ thường được xem như là bước khởi đầu cho việc phân chia giữa những người Việt quốc gia và thân cộng sản. Nhưng hiện tại đă có những bằng chứng rằng Truyền đă đi theo một chính sách dành cho các nước thuộc địa được QTCS chấp nhận, có thể nó được thực sự củng cố trong thời gian Bukharin c̣n nắm quyền trong Ban Chấp Hành QTCS. Chỉ thị của Jaques Doriot nhằm biến Thanh Niên trở thành một đảng quốc gia đại chúng là một ví dụ cho chính sách này; Chỉ thị tháng 9 của Hồ Chí Minh cũng là một dấu hiệu của việc các nhóm cộng sản thuộc địa được phép tồn tại bên trong những đảng cách mạng quốc gia. Ngay cả đến mùa đông năm 1929, những thành viên của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp vẫn c̣n tiếp tục thi hành chính sách này tại Algeria bằng cách tạo dựng một đảng dân tộc Algeria tên Ngôi Sao Bắc Phi (LʹÉtoile Nord‐africanine ‐ ND) [7].
An Nam Độc Lập Đảng có liên hệ mật thiết với chi nhánh ở Pháp do QTCS lănh đạo mang tên Liên Đoàn Phản Đế. Nhóm này đă tổ chức đại hội đầu tiên vào tháng 2 / 1927. Trong một bản báo cáo của Uỷ Ban Thuộc Địa thuộc ĐCS Pháp gửi cho QTCS vào tháng 3 / 1927, tác giả báo cáo có nhắc đến việc An Nam Độc Lập Đảng đang tạo dựng các chi bộ tại miền nam nước Pháp và dự định tổ chức đại hội vào mùa hè. ʺChúng tôi sẽ tham gia vào các cuộc họp của nhóm này tại Paris nhằm giúp đỡ những hoạt động của họ một cách thực tế hơn,ʺ bản báo cáo viết [8]. Truyền, cùng với hai nhà hoạt động khác từ Việt Nam là nhà báo Trịnh Hưng Ngẫu thuộc đảng Jeune Annam và Dương Văn Giáo thuộc đảng Lập Hiến ‐ đă tiến hành một cuộc hành tŕnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp vào tháng 10, trong đó họ kịch liệt lên án chính sách và thể chế của Pháp. Sở Liêm Phóng cho rằng những cuộc hội họp trên được tổ chức với sự đồng loă của ĐCS Pháp [9].
Nhưng cũng như Hồ, có lẽ Truyền cũng thấy được rằng làm việc với ĐCS Pháp trở nên khó khăn hơn nhiều sau khi Doriot bị bắt. Truyền trở về Việt Nam vào tháng 12. Đến mùa hè 1928 chính sách của QTCS về hoạt động của các nước thuộc địa càng trở nên phức tạp, nhưng măi cho đến giữa năm 1929 QTCS mới dứt khoát thay đổi quan điểm của ḿnh trong việc hợp tác với những người quốc gia phi cộng sản tại các nước thuộc địa.
Vào tháng 12 1927 Hồ chuyển từ Paris đến Brussels để tham dự một hội nghị, ông cho biết. Nhưng đó không phải, khác với mọi người thường viết, là Đại Hội lần 1 của Liên Đoàn Phản Đế v́ nó đă xảy ra vào tháng 2 trước [10]. Có thể là ông đă tham dự một cuộc họp nội bộ của Ban Chấp Hành Liên Đoàn được tổ chức vào ngày 9 tháng 12 ở Brussels [11]. Từ trung tuần tháng 12 đến tháng 5 1928 ông ở tại Berlin để chờ đợi tiền và chỉ thị từ QTCS cho chuyến trở về châu Á của ḿnh. Ông nhận 18 đồng Mark (mệnh giá tiền Đức ‐ ND) mỗi tuần từ tổ chức Trợ Giúp Đỏ (Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS ‐ tương tự như Hội Chữ Thập Đỏ ‐ ND) để trang trải chi phí thường nhật nhưng không đủ để sống qua ngày, ông nói [12]. Trong thời gian bị bắt buộc ở đây, ông đă viết hồi kư về phong trào nông dân Quảng Châu, trong đó miêu tả Bành Bái như một vị anh hùng. Bài viết dài 120 trang, không mang tính chính trị và thống kê, chỉ quan tâm đến cuộc sống nông dân, ông giải thích. Nông Dân Quốc Tế đă từ chối nhận trách nhiệm hiệu đính cần thiết để xuất bản, nhưng một số tài liệu của Hồ đă lọt ra và được xuất bản [13]. Việc ông đă có những tiếp xúc nào với cộng đồng người Hoa tại Berlin th́ không được rơ. Nhưng không có ǵ ngạc nhiên nếu ông đă trao đổi quan điểm với những người có liên hệ với Liên Đoàn Phản Đế vốn đă có cơ sở tại Berlin. Vợ của Tôn Dật Tiên là Tống Khánh Linh (Song Qing Ling ‐ ND) đă đến Berlin vào cuối năm 1927 và dường như đă ở đấy cho đến cuối năm 1928 để thành lập một ʺĐệ Tam Đảngʺ cho Trung Quốc [14]. Trong lá thư đề ngày 21 tháng 5 gửi cho Moscow, Hồ thông báo cho các đầu mối rằng ông sẽ liên lạc với họ qua Comade Chutto, một người Ấn làm việc trong Liên Đoàn Phản Đế [15]. V́ thế có vẻ Liên Đoàn đă là một đầu mối tiếp xúc quan trọng của ông tại Berlin.
Trong mùa đông ấy, QTCS đang bận tâm với những vấn đề c̣n quan trọng hơn là về Hồ Chí Minh và chương tŕnh di chuyển của ông. Leon Trotsky và 148 thành viên của nhóm Đối Lập của ông đă bị trục xuất ra khỏi Moscow vào cuối tháng Giêng, sau Đại Hội thứ 15 của ĐCS Liên Xô. Trong trọn tháng 2 QTCS đang bận rộn với Hội Nghị Toàn Thể lần 9 của Ban Chấp Hành. Sau khi ra tù, trên đường tham dự Hội Nghị Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS, Jaques Doriot ghé qua Berlin và đă hứa sẽ giải quyết ʺtrở ngạiʺ của Hồ. Nhưng măi cho đến trung tuần tháng 4 Hồ vẫn không nhận được tin tức ǵ từ Moscow lẫn Doriot [16]. Nông Dân Quốc Tế cũng chẳng giúp được ǵ. Hồ đă yêu cầu họ giúp cho 500 Đô‐la và một ʺkế hoạch tổ chức thiết thực để tôi có thể hoạt động một cách hữu ích” [17] Dombal không những từ chối cung cấp ngân quĩ mà c̣n nói rằng ông biết quá ít về t́nh h́nh nông dân ở Đông Dương để đưa ra một kế hoạch tổ chức chắn chắn. Ông khuyên Hồ nên dùng kinh nhiệm của ḿnh về phong trào nông dân Trung Quốc để bắt đầu những bước căn bản để xây dựng những liên hiệp nông dân [18]. Vào ngày 12 tháng 4 Hồ viết thư cho Jules Humbert‐Droz, một người cộng sản gốc Thụy Sĩ trong Ban Bí Thư QTCS, ban này chịu trách nhiệm về những vấn đề của những thuộc địa Pháp. Thư nói ʺđồng chí có thể mường tượng được t́nh trạng thể xác cũng như tinh thần của tôi lúc này: biết được c̣n rất nhiều việc phải làm nhưng lại không làm được ǵ cả, lo nghĩ, thiếu tiền, sống ngày qua ngày trong t́nh trạng bị ép buộc phải bất động, vân vânʺ [19]. Cuối cùng Humbert‐Droz đă bảo Hồ (bằng 2 mẫu ghi chú ngắn đề ngày 28 tháng 4) rằng quyết định về việc chi trả cho chuyến đi và ba tháng đầu làm việc đă được chấp nhận: ʺSố tiền chúng tôi gửi trong tương lai sẽ tuỳ thuộc vào tin tức từ đồng chí. Tôi nghĩ tốt hơn là đồng chí nên t́m cách tự lực cánh sinh hơn là chờ đợi giúp đỡʺ[20].
Trong sự tiễn đưa thờ ơ ấy, Hồ Chí Minh đă quay lại châu Á vào cuối tháng 5, từ Thụy Sĩ sang Ư, và từ đó đi đường thuỷ đến Băng Cốc. Lúc ấy chắc hẳn ông đă biết được việc đàn áp phái Đối Lập Trotsky do Stalin khởi xướng bên trong ĐCS Liên Xô cũng như những khuynh hướng khác chống lại chính sách của Stalin bên trong QTCS. Ta có thể giả định rằng ông cũng đă được đọc những tài liệu của Đại Hội Toàn Thể thứ 9 Ban Chấp Hành QTCS được tổ chức vào tháng 2 1928, trong đó có một số nghị quyết về Trung Quốc. Những nghị quyết này đă nói rơ người Nga nghĩ rằng đă đến lúc các đồng chí Trung Quốc nên cẩn trọng hơn, nên dừng lại sau cố gắng khởi nghĩa đầy liều lĩnh vào cuối năm 1927 (dĩ nhiên là nó đă tiến hành dưới sự chỉ đạo của đại diện của QTCS là Lominadze và Neuman.) Hiện trạng của cách mạng Trung Quốc được cho là không mang đặc tính xă hội hoặc ʺcố địnhʺ như Lominadze đă nhận định một cách sai lầm, mà vẫn đang nằm trong giai đoạn ʺdân chủ tư sảnʺ. Đường hướng chiến lược cơ bản của ĐCS Trung Quốc là ʺsẵn sàng dùng bạo lực để dấy lên những làn sóng cách mạng mớiʺ. Nhưng nhiệm vụ hiện tại vẫn là ʺnắm được quần chúng công nhân và nông dân, giáo dục chính trị cho họ, tập hợp họ đi theo đảng và tuyên ngôn của đảng.ʺ Mặc dù một ʺnhiệm vụ chiến lược cấp báchʺ đă được giải thích như ʺtổ chức và hành động qua khởi nghĩa quần chúng vũ trang,ʺ lực lượng tiên phong của giai cấp công nông vẫn không được tách rời khỏi quần chúng và không được ʺxem nhẹ những cuộc nổi dậyʺ [21]. V́ phong trào cách mạng Việt Nam chưa được phát triển như của Trung Quốc, có thể Hồ Chí Minh đă hiểu những nghị quyết hơi mâu thuẫn này như là như một xác nhận cho những chính sách riêng của ḿnh: đào tạo và tổ chức chính trị một cách thận trọng.
Điều quan trọng mà ta nên lưu ư là Đại Hội 6 QTCS bắt đầu trong tháng 7 1928, lúc Hồ vẫn c̣n lênh đênh trên biển. Có thể ông đă không biết đến những tin tức chi tiết về kết quả của đại hội cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả những bằng chứng có được, dường như ông đă đi châu Á với hành trang không có ǵ ngoài những chỉ thị trong tháng 9 1927 để thực hiện công tác của ḿnh.
Đại Hội Quốc tế Cộng Sản lần 6
Đến mùa hè 1928 việc đấu tố chống lại phái Trotskist đă làm xáo trộn QTCS và ĐCS Pháp. Nhưng một cuộc thanh trừng đẫm máu khác lại vừa bắt đầu. Trên thực tế, đến khi Đại Hội 15 ĐCS Liên Xô diễn ra vào cuối năm 1927, những người theo Stalin đă bắt đầu chỉ trích Bukharin là đă không quan tâm đến ʺnhững đe doạ của cánh hữuʺ trong QTCS [22]. Nhưng Stalin vẫn chưa sẵn sàng thanh toán những đồng minh cánh hữu của ḿnh. Hai hệ thống điều hành chính sách đang h́nh thành tại Nga với Stalin đang tăng cường hoạt động thông qua những thành viên do ông chỉ định và những tổ chức như đoàn Komsomol để thi hành việc thu thập ngũ cốc cũng như những chính sách khác [23]. Đại Hội 6 QTCS, một hội nghị kéo dài từ ngày 12 tháng 7 măi đến 1 tháng 9, đă phản ánh t́nh trạng hai hệ thống này. Đây là lúc bắt đầu cho sự chuyển đổi phương hướng của QTCS, một quá tŕnh kéo dài trọn một năm cho đến Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào tháng 7 / 1929. Người ta thường cho rằng Cương Lĩnh và Luận Cương của Đại Hội 6 QTCS đă đánh dấu một thời kỳ mới cho phong trào cộng sản Việt Nam. Nhưng thật khó để thiết lập một mối liên hệ trực tiếp về nguyên nhân và hệ quả giữa Moscow và những sự kiện tại Việt Nam cho đến mùa thu năm 1929, hoặc ngay cả những chính sách cho những quốc gia thuộc địa thực sự là ǵ.
Vào mùa hè 1928 những người lănh đạo ĐCS Trung Quốc đă tập trung tại Moscow, nơi Đại Hội 6 ĐCS Trung Quốc đang nhóm họp từ ngày 18 tháng 6 đến 11 tháng 7, trước thềm Đại Hội QTCS. Đại hội này được tổ chức dưới sự bảo trợ của Bukharin và đă thông qua những chính sách ôn hoà hơn để Trung Quốc tŕnh bày trước Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần 9. Nhưng tính chất lưỡng hệ trong các chính sách của QTCS vào thời điểm này đă được phản ánh trong nghị quyết Đại Hội, đa số đều mang tính mập mờ và đôi khi mâu thuẫn. Bukharin cổ xuư cho một liên minh phản đế nhưng xem nhẹ thành phần tiểu tư sản. Khẩu hiệu: ʺchiến thắng mở màn tại một hay nhiều tỉnhʺ đă trở thành cái mà Trương Quốc Đào (Zhang Guo Tao ‐ ND) gọi là ʺthần dượcʺ (panacea ‐ ND), một cách biện hộ cho chủ nghĩa manh động vào cuối năm 1927 mà không phải nói rằng cuộc cách mạng Trung Quốc đang ở lúc ʺcao tràoʺ [24]. Đại Hội đă bầu chọn một Bộ Chính Trị mới, dẫn đầu bởi Hướng Trung Phát (Xiang Zhong Fa ‐ ND). Những thành viên khác là Hạ Tế An (Qu Qiu Bai ‐ ND), Chu Ân Lai, Trương Quốc Đào, Thái Hoà Sâm (Cai Hesen ‐ ND), Lư Lập Tam (Li Li San ‐ ND), Hạng Anh (Xiang Ying ‐ ND). Ba thành viên của bộ chính trị mới đă quay về lại Trung Quốc trước Đại Hội QTCS là Hướng Trung Phát, Thái Hoà Sâm và Lư Lập Tam, những người này theo lời Trương Quốc Đào là có nhiệm vụ tổ chức đảng[25]. Những ảnh hưởng cá nhân của những nhà lănh đạo ĐCS Trung Quốc vừa quay về lại Thượng Hải vào tháng 7 hoặc tháng 8 1928, sau khi đại hội đảng của họ kết thúc và trước khi đại hội QTCS bắt đầu, có thể lúc đầu đă có nhiều tác động đến những người cộng sản Việt Nam hơn là bản thân Đại Hội 6 QTCS.
Mặc dù Đại Hội 6 QTCS thường được xem là một sự kiện quyết định mà từ đó đă cho ra những từ ngữ như ʺhành tŕnh mớiʺ và ʺvô sản hoáʺ, thực ra nó chỉ là bước đầu của việc chuyển hướng tổ chức. Bukharin, vẫn là Tổng Bí Thư của QTCS, đă chiếm độc quyền trong việc soạn thảo và thông qua bản ʺCương Lĩnh Chung của Đệ Tam Quốc Tếʺ. Nhưng vị thế của ông đă bị yếu đi v́ sự lũng đoạn của Stalin trong ĐCS Liên Xô ‐ đến tháng 12 1928 ông đă từ chức trong QTCS mặc dù chưa chính thức bị cách quyền cho đến tháng 6 1929. Với vị thế của Bukharin trong QTCS, những đồng minh ʺcánh hữuʺ của ông trong các đảng châu Âu như Jules Humbert‐Droz vẫn giữ được ảnh hưởng cho đến mùa đông [26]. V́ thế đến mùa hè 1928, QTCS vẫn phần nào hậu thuẫn cho chính sách hợp tác với tầng lớp dân chủ xă hội cánh tả và thiếu nhất trí trong việc phân tích một cách đúng đắn hiện trạng của chủ nghĩa tư bản thế giới. Đoàn đại biểu Liên Xô mà chủ yếu là những người theo Stalin, đă không hài ḷng với ʺĐề Cươngʺcủa Bukharin, và ʺđă hiệu chỉnh nó nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng quốc tế của những kế hoạch kinh tế Sô Viết và những mâu thuẫn của sự ổn định tư bản cũng như tăng cường việc tấn công vào những người dân chủ xă hội cánh tảʺ [27]. Dù vậy giọng điệu tận thế miêu tả ʺGiai Đoạn Thứ Baʺ về diễn biến của chủ nghĩa tư bản sau chiến tranh cũng không được mạnh mẽ mấy khi nó được đưa ra trong Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 vào năm 1929. Tại Đại Hội 6, Bukharin đă miêu tả Giai Đoạn Thứ Ba như một ʺổn định của chủ nghĩa tư bảnʺ mà cuối cùng sẽ trở thành một khủng hoảng mới của chủ nghĩa này [28]. Đến mùa hè 1929, Otto Kuusinen đă báo cáo lên Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 rằng ʺhiện đă hoàn toàn thống nhất trong việc nhận định về Giai Đoạn Thứ Ba như là một thời kỳ tan ră của sự ổn định của chủ nghĩa tư bản và hơn nữa ‐ cũng là giai đoạn chín muồi của một cao trào cách mạng mớiʺ [29]
Kuusinen, một nhà cộng sản lăo thành người Phần Lan, là người đứng đầu Uỷ Ban Thuộc Địa tại Đại Hội và được giao trách nhiệm lănh đạo Ban Bí Thư Cục Đông Phương khi Đại Hội bế mạc. Ông đă trở thành một trong những người điều hành của QTCS ở phương Đông. Nhưng chính Cương Lĩnh Chung của Bukharin là văn bản súc tích nhất về chính sách của Đệ Tam Quốc Tế đối với các nước thuộc địa. Cương lĩnh đă liệt kê tám nhiệm vụ chính:
(1) Lật đổ chủ nghĩa tư bản ngoại bang, chế độ phong kiến và tầng lớp địa chủ;
(2) Thành lập nền chuyên chính dân chủ của giai cấp công nông trên nền tảng của chính quyền Sô Viết;
(3) Tiến tới độc lập nước nhà và thống nhất chính trị; (4) Huỷ bỏ nợ quốc gia;
(5) Quốc hữu hoá những cơ sở kinh doanh lớn của giai cấp tư bản (trong những ngành công nghiệp, giao thông, ngân hàng, vân vân);
(6) Sung công tài sản của những đại địa chủ, nhà thờ và tu viện, quốc hữu hoá toàn thể đất đai;
(7) Thực hiện chính sách ngày làm tám tiếng; và
(8) Thành lập quân đội cách mạng công nông [30]
Trong nội bộ Uỷ Ban Thuộc Địa, cố gắng của Kuusinen nhằm thiết lập một chính sách chi tiết hơn cho ʺnhững nước thuộc địa và bán thuộc địaʺ đă gặp phải một chống đối khá mạnh. Các đại biểu không hiểu được cách thức phân chia các nước thuộc địa ra 4 thành phần khác nhau của ông cũng như sự thiếu rơ ràng về chiến lược đối với những nước lạc hậu hơn [31]. (Việc phân loại này đă bị huỷ bỏ trong văn bản chính thức của luận cương). Trong bài phát biểu bế mạc của ḿnh vào ngày 21 tháng 8, Kuusinen đă thú nhận rằng trong Luận Cương của ḿnh, đoạn nói về ʺnhững tiến triển phi tư bản cho những nước thuộc địa lạc hậuʺ đă thiếu những luận chứng cần thiết. (ông cũng nhắc là Luận Cương 1920 của Lenin cũng thiếu luận chứng về phần này). Ông đề nghị vào thời điểm này, thời điểm của ʺhướng đi riêngʺ đến chủ nghĩa cộng sản, nên được sự quan tâm đặc biệt từ uỷ ban soạn thảo, uỷ ban này vẫn chưa bắt đầu làm việc [32]. Trong những nhận xét về hoạt động của uỷ ban soạn thảo, ông có nhắc đến bản Luận Cương trong phần đề cập đến những vấn đề chiến lược hiện nay chỉ được áp dụng cho một nhóm các nước thuộc địa sau: Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập và Nam Dương ‐ ʺchắc chắn là những quốc gia thuộc địa quan trọng nhấtʺ, theo như ông nói [33].
Luận Cương cho các Quốc Gia Thuộc Địa và Bán Thuộc Địa đă không được xuất bản trên tờ
Inprecor (viết tắt của International Press Correspondence, một tạp chí cộng sản đa ngôn ngữ của QTCS ‐ ND) vào cuối năm 1928, không như những nghị quyết và luận cương khác của Đại Hội; cuối cùng nó được in thành tập sách mỏng với 96 trang bằng tiếng Nga đề năm 1928 nhưng không rơ chính xác là khi nào [34]. Trong văn bản chính thức, luận cương giữ nguyên quan điểm rằng chủ nghĩa tư bản là một lực lượng rệu ră, không có một vai tṛ tiến bộ trong tương lai, ngay cả trong những nước thuộc địa. Một bài viết ngắn với quan điểm đối lập của đoàn đại biểu Anh gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa đă được xuất bản vào ngày 27 tháng 12 1928 [35]. Thành viên người Ư Angelo Tasca (Serra], người đứng đầu Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Roman trong một thời gian ngắn tại Đại Hội 6 cũng không mấy hài ḷng. Ông đă viết cho Kuusinen vào tháng Giêng 1929 than phiền về Luận Cương. ʺChúng không hoàn toàn là một luận cương chính trị hay là một cương lĩnh hành động, trong cả hai trường hợp chúng đều không đầy đủ. Tôi không biết là ĐCS Pháp đă can dự nhiều vào việc soạn thảo hay không...ʺ [36]. Đến tháng 7 Tasca liền bị đưa ra khỏi hàng ngũ lănh đạo của QTCS. Jacques Doriot, người khởi xướng mặt trận thống nhất tại Việt Nam, để giữ được chức vụ của ḿnh trong ĐCS Pháp, đă phải công khai từ bỏ quan điểm của ḿnh về việc hợp tác với phái dân chủ xă hội [37]. Khó khăn trong việc t́m ra ư kiến thống nhất về đường hướng đúng đắn cho các quốc gia thuộc địa là dấu hiệu cho t́nh trạng tồi tệ chung của guồng máy QTCS trong giai đoạn cuối năm 1928. Vào tháng 11 Andres Nin, một đảng viên cộng sản Tây Ban Nha, đă bộc lộ trong một mẫu thư gửi cho Trotsky: ʺT́nh trạng QTCS đang vô cùng lộn xộn. Chẳng có việc ǵ hoàn tất. Mọi người đều ngóng chờ kết quả của trận đấu đá giữa Stalin và cánh hữu. Một sự băng hoại hoàn toàn,ʺ ông than phiền [38].
Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Đại Hội 6 gồm ba người do ĐCS Pháp lựa chọn từ những nhà hoạt động ở Paris. Một trong ba người ấy là Nguyễn Thế Vinh, họ hàng với Nguyễn Thế Truyền. Ông đă theo học tại Moscow từ tháng 9 1926 đến tháng 11 1927 nhưng đă rời khỏi đây v́ lí do sức khoẻ [39]. Người thứ hai là một một thuỷ thủ Bắc Kỳ có gọi là ʺBanʺ, người này không lâu sau Đại Hội đă rời bỏ đảng [40]. Người thứ ba là Nguyễn Văn Tạo, một người miền Nam và là thành viên của ĐCS Pháp, ông đă thành lập một tổ chức cộng sản người Việt tại Paris vào tháng 4/1928 [41]. Ông đă đọc một bài diễn văn gửi đến Uỷ Ban Thuộc Địa vào ngày 17 tháng 8 với bí danh là ʺAnʺ [42]. Phân tích của ông về chủ nghĩa thực dân Pháp cũng gần giống với quan điểm của Kuusinen về sự phát triển của hệ thống thuộc địa tại Ấn Độ: ngành tiểu công nghiệp của Việt Nam đă bị phá huỷ bởi sự cạnh tranh giữa các công ty nằm trong tay của tư sản bản xứ và đế quốc; những người thợ thủ công đang gia nhập giai cấp vô sản trên đà lớn mạnh; sản lượng nông nghiệp bị đ́nh trệ. Báo cáo của ông không hề nhắc đến việc đào tạo những nhà hoạt động người Việt tại Quảng Châu hoặc việc thành lập Thanh Niên Hội. V́ lư do này nên rất có thể Hồ Chí Minh đă không phải là người soạn thảo bài phát biểu của Tạo, theo phỏng đoán của Sở Liêm Phóng sau này. Một nhóm khác bao gồm những người Việt tương đối kinh nghiệm tại Nga trong thời gian giữa năm 1928 trong đó có Trần Phú, Ngô Đức Tŕ và Lê Hồng Phong. H́nh như họ chỉ tham gia Đại Hội với tư cách quan sát viên. Ta không rơ lư do tại sao họ không được là thành viên của đoàn đại biểu chính thức. Hai trong số ba đại biểu từ Paris h́nh như đă trở thành những người ʺkhông được chào đónʺ (nguyên văn Latin: Peronae Non Gratae ‐ ND). Sau đó vào năm 1930, một lá thư đầy bất b́nh của một nhà hoạt động người Việt có trụ sở tại Paris được gửi đến Ban Bí Thư Đông Phương có nhắc đến việc một đại biểu của đoàn Việt Nam tại đại hội đă phê phán hoạt động của Uỷ Ban Thuộc Địa trong ĐCS Pháp, hai đại biểu (có lẻ là Nguyễn Thế Vinh và Ban) đă được đưa vé tàu quay về Pháp ngay ngày hôm sau [44]. Vào tháng 9 1928 một quá tŕnh tái tổ chức trong QTCS lại một lần nữa chuyển giao phần trách nhiệm Đông Dương lại cho Phân Bộ Trung Đông, một chi nhánh của Đông Phương Cục bao gồm cả Ấn Độ và Nam Dương. [45] V́ thế, dù ĐCS Pháp và Uỷ Ban Thuộc Địa của đảng này vẫn tiếp tục được cho là có trách nhiệm trong phong trào Việt Nam, trên lư thuyết th́ nguồn hướng dẫn tư tưởng chính thống giờ đây đă thuộc về Ban Bí Thư Cục Đông Phương do Kuusinen đứng đầu.
Tại Đại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đă có dịp công bố một cách có hệ thống hơn về những chiến lược trong buổi khai mạc đại hội vào ngày 3 tháng 7 1929. Stalin, người chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá nội bộ của ĐCS Liên Xô, đang dùng QTCS để biểu lộ phong cách lănh đạo mới của ḿnh. Trong báo cáo này mà sau đó đă được in với đầu đề T́nh H́nh Quốc Tế và Những Nhiệm Vụ của Quốc tế Cộng Sản, Kuusinen kêu gọi các đảng cộng sản nên trở thành ʺhoá chất tinh khiếtʺ, để sẵn sàng cho ʺtrận chiến quyết định quyền lựcʺ. [46] ʺNếu không gột rửa ḿnh khỏi những phần tử cơ hội cũng như vượt qua được mong muốn hàn gắn quan hệ với chúng, các đảng cộng sản sẽ không thể đạt được thành công để tiến đến giải quyết những khó khăn mới, lớn dậy từ sự tôi luyện của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại mới của phong trào công nhân,ʺ ông tuyên bố [47]. Thành viên của bất cứ đảng cộng sản nào không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ bị khai trừ [48]. Giờ th́ không c̣n những lập lờ về chiến lược của mặt trận thống nhất ‐ M.N. Roy, thành viên cộng sản người Ấn, người tin tưởng vào một mặt trận thống nhất với những người Ấn Độ quốc gia, đă bị lên án [49]. Trong phần kết luận đầy phấn khích, Kuusinen tuyên bố rằng ʺCon đường hiện tại của Quốc tế Cộng Sản là một con đường mới, nhưng nó cũng là con đường cũ. Ba phần tư thế kỷ trước, Marx đă tuyên khởi khẩu hiệu hiện thời của chúng ta ʺGiai cấp chống lại giai cấpʺ trong lời hiệu triệu cho cuộc cách mạng đấu tranh giai cấp của ông. Đây là hướng đi mới của chúng taʺ [50].
Đại Hội Mở Rộng lần thứ 10 đă không chú ư nhiều đến việc điều chỉnh chi tiết hơn về những hướng dẫn cho các quốc gia thuộc địa đang trong những hoàn cảnh phát triển khác nhau. Cách mạng thế giới, một cuộc cách mạng thuần tuư cộng sản, đă được xem như như là một lực lượng khổng lồ đang chiến đấu cho giai cấp vô sản trên toàn địa cầu. Kuusinen đă hưng phấn tột bật trong khả năng hùng biện của ḿnh:ʺNh́n lại những cuộc đấu tranh toàn cục đă xảy ra trong một thời gian ngắn kể từ Hội Nghị Thế Giới lần 6, ta có thể nói rằng: đội quân thế giới của những chiến sĩ giai cấp tích cực đang phát triển nhanh chóng. Những người thợ mỏ ở vùng Ruhr (một khu vực ở Đức ‐ ND) và Scotland, những người thợ dệt ở Balan và Pháp, những chiến sĩ tại pḥng tuyến Berlin, những người biểu t́nh và đ́nh công ở Bombay, những phu đồn điền ở Columbia, những người khởi nghĩa da đen ở Congo, những nông dân đang đ́nh công tại Czechoslovakia và Balan, những công nhân cách mạng và du kích bần nông tại Trung Quốc, những nhà tranh đấu người Ma Rốc và hàng trăm ngh́n người khác ‐ đây là một đạo quân tích cực khổng lồʺ [51]. Thảo luận của Kuusinen về đấu tranh quần chúng là dấu hiệu của những ǵ sẽ xảy ra tại Việt Nam trong vài năm tới. ʺTrong giai đoạn hiện tại, điểm xuất phát của đấu tranh quần chúng là những quyền lợi tiên khởi và thường nhật của nhân dânʺ, ông nói. ʺChúng ta phải lưu ư điều này trong những chiến lược của ḿnh. Nhưng cuộc đấu tranh hiện nay không chỉ giới hạn trong những đ̣i hỏi cấp bách và cục bộ này ‐ nó có chiều hướng mạnh mẽ và rơ ràng để đi xa hơn nữa [52].
Bookmarks