Page 3 of 7 FirstFirst 1234567 LastLast
Results 21 to 30 of 61

Thread: Tháng Tư Nghiệt Ngă 1975 - Sài g̣n Thất Thủ

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tháng Tư Nghiệt Ngă 1975 - Sài g̣n Thất Thủ
    » Tác giả: Olivier Todd
    » Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa




    14. Chương 11 - Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh

    Trước hết Tổng Thống Thiệu muốn giữ Sài G̣n trong một hệ thống pḥng thủ bảo đảm thật chặt chẽ nằm trong lănh thổ của một "Việt Nam thật sự hữu ích", đại khái gồm cả Vùng III và Vùng IV Chiến Thuật. ....

    Với tin tức t́nh báo của cả VNCH và Hoa Kỳ , Tổng Thống Thiệu đă chờ đợi nhiều tuần nay một cuộc tấn công của Bắc Việt từ phía Tây Bắc của thủ đô, trong vùng Tây Ninh. Cuộc tấn công nầy có thể là mũi dùi chính của cuộc tổng tấn công của Bắc Việt . C̣n trận chiến ở Ban mê Thuột, Plei Ku, Kontum và trên đường liên tỉnh 7 B có thể chỉ là những cuộc tấn công phụ, dương Đông kích Tây nhằm đánh lạc hướng mà thôi. Đôi khi Bắc Việt cũng có những cuộc tấn công cấp đại đội hay tiểu đoàn để thăm ḍ hệ thống pḥng thủ của Sài G̣n nằm khoảng 50 cây số ở ven biên. Với tư cách là Tổng Tư Lệnh, ông Thiệu muốn lúc nào cũng có lực lượng trừ bị trong tay. Các đơn vị thiện chiến của ông là sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng Hải Quân, và sư đoàn Nhảy Dù mà Tư Lệnh là tướng Lê quang Lưỡng, một sĩ quan ưu tú. Hai sư đoàn nầy từ lâu nay đang đóng ở Vùng I Chiến Thuật, phần lănh thổ tận trên hướng Bắc của Việt Nam Cộng Ḥa.

    Vùng I Chiến Thuật nầy được đặt dưới quyền của một tướng lănh có nhiều thành tích, tướng Ngô quang Trưỡng. Vừa có khả năng vừa được kính nể,, tướng Trưởng là một người mảnh khảnh nhỏ con, khoản 46 tuổi, ốm, mặt xương, đen đúa, lại có một nốt ruồi duyên to dưới mắt bên phải, ông luôn luôn có một cái nh́n xa xăm, như vào chỗ trống vắng.... Khi cần phải nói ǵ, ông chỉ dùng những câu ngắn gọn, nhẹ nhàng không nhấn mạnh và dùng những từ thật giản dị dễ hiểu. Nếu thấy cần phải nhấn mạnh một điểm quan trọng nào đó th́ ông mới nói nhanh hơn. Nếu ông mặc thường phục th́ người ta tưởng ông là một người thợ. C̣n ở đồng quê th́ người ta cho ông là một nông dân... Có rất nhiều sự kiện mà Lịch Sữ đă chứng minh rằng ông là một người rất b́nh dân đối với các cấp nhất là hạ sĩ quan và binh sĩ. Trong chiến trận ở Huế năm 1972, tướng Trưởng đă giữ được thành phố trong nhiều tuần lễ. Lúc đó một số binh sĩ lại có hành động lấy đồ của dân chúng. Tướng Trưởng lập tức kêu gọi trên đài phát thanh:

    - " Binh sĩ và đồng bào thuộc Vùng I ChiếnThuật ! Đây là đích thân trung tướng Trưởng nói đây, Tôi đă nhận chức Tư Lệnh Vùng. Tôi mong rằng ngày mai các binh sĩ đào ngũ hăy trở về ngay đơn vị của ḿnh. Và hăy chấm dứt ngay hành động cướp giật của đồng bào!"

    Và chỉ giản dị có thế ông đă chấm dứt được t́nh trạng lộn xộn ở Huế. Và tướng Trưỡng tái chiếm Quăng Trị với 3 sư đoàn trong lúc Bắc Việt có đến 6 sư đoàn chánh quy.

    Từ tuần lễ thứ hai của tháng 3/ 1975, cứ bị tấn công lẻ tẻ kiểu quấy rối măi, tướng

    Trưởng tin chắc rằng ḿnh có thể giữ vững được Vùng I, v́ ở đây ông có tới 5 sư đoàn . Ông rất tin tưởng sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và sư đoàn Dù. C̣n sư đoàn 1 là một trong những sư đoàn ưu tú nhất; sư đoàn 3 th́ không tệ lắm. Duy có sư đoàn 2 ở Chu Lai th́ có hơi yếu. Tướng Trưởng và Bộ Tham Mưu của ông hy vọng sẽ cầm cự được với mọi cuộc tấn công của Bắc Việt , dù Hà Nội có đưa hết lực lượng trừ bị của họ vào cũng vậy. Khác với tướng Phú, ông Trưởng có sẳn kế hoạch rút lui từ điểm pḥng thủ nầy đến cứ điểm mạnh khác cả ở Huế, Đà Nẵng và Chi Lai.

    Ngày 12 tháng 3, Tổng Thống Thiệu đ̣i hỏi tướng Trưởng phải sẳn sàng để đưa sư đoàn Dù về Sài G̣n. Tướng Trưởng phản đối ngay với Bộ Tổng Tham Mưu. Đại tướng Viên vừa quá bận rộn vừa mệt mỏi đă trả lời :

    - "Tổng Thống không muốn trở lại vấn đề nầy nữa."

    Tướng Truởng lấy phi cơ bay ngay về Sài G̣n để đ̣i hỏi xét lại vấn đề nầy. Ông Thiệu nhất định không buông:

    - "Các ông tướng nầy khó chịu thật ! Họ chỉ nh́n thấy Vùng Chiến Thuật của họ mà thôi, họ không nhận thức được quyền lợi tối thượng của đất nước!"

    Ông Thiệu quên không báo cho tướng Trưởng biết là ông sẽ rút tiếp sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến của Vùng I về Sài G̣n.

    Do đó khi về đến Bộ Tư Lệnh Vùng I, tướng Trưởng nghĩ tới việc xin từ chức.

    Tuy nhiên ông cũng phải tái phối trí và tổ chức lại hết tất cả hệ thống pḥng thủ của Vùng I.

    Quyết định mới của ông Thiệu bắt buộc tướng Trưởng phải bỏ trống những vị trí

    đối diện với Vùng Phi Quân Sự, dọc theo vĩ tuyến 17 ở phía cực Bắc của Vùng I Chiến Thuật.

    Tướng Trưởng được biết là lực lượng chánh quy Bắc Việt mà ông sắp phải đối đầu sẽ mạnh hơn bao giờ hết, quan trọng hơn ông đă dự trù.,, Vùng I sẽ đương đầu với những sư đoàn xung kích Bắc Việt như sư đoàn 325 C, 324 B, 304, sư đoàn 711 và sư đoàn 2., sư đoàn 341, một sư đoàn trừ bị, cũng sẽ xuống phía Nam. Và cuối cùng là những đơn vị hỗn hợp, gồm bộ đội chánh quy Bắc Việt và Việt Cộng của CPLTCHMN... đang tập hợp ở hai đầu Nam Bắc của Vùng I , một số ở chung quanh thị xă Quảng Trị và số c̣n lại đang nằm ở phía Nam, gần Chu Lai. Ở đây Việt Cộng được trang bị và huấn luyện tốt hơn tất cả các nơi khác. Nếu hai sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và sư đoàn Dù bị rút đi th́ ông có nguy cơ sẽ đối diện với một lực lượng tương đương với 6 sư đoàn chánh quy Bắc Việt trong lúc ông chỉ có vơn vẹn 3 sư đoàn . Địch quân sẽ có khả năng "tập trung" dài theo chiều sâu để tấn công Vùng I. Ông ở vào cái thế bị bắt buộc phải cho các sư đoàn của ông trải dài ra , phân tán mỏng..... loảng ra hết.

    Ngày 15 tháng 3, trong lúc Pleiku đang bắt đầu triệt thoái th́ Lữ đoàn 369 Thủy Qyân Lục Chiến cũng rời khỏi Quăng Trị,

    Dọc theo biên giới trên đó, Thủy Quân Lục Chiến tượng trưng cho một sự có mặt vững chắc , một lực lượng hùng mạnh và một chiến thắng, (đúng hơn là chiến thắng Quăng Trị năm 1972). Binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến có kỷ luật, rắn rỏi, lại không mang theo vợ con, bàn ghế khi di chuyển.. Cho nên sự ra đi rời khỏi Quảng Trị của họ làm cho tinh thần dân chúng xuống kinh khủng. Trong tỉnh Quảng Trị cũng như ở các chỗ khác, dân chúng thường nghe đài phát thanh ngoại quốc, nhất là đài BBC và đài "Tiếng Nói Hoa Kỳ" (VOA) , hai đài dễ bắt nhất. Từ sau ngày 16 tháng 3 các đài nầy đă phát ra những câu chuyện rất chính xác và rất hăi hùng đă xảy ra dọc theo con đuờng Liên Tỉnh 7 B. Từ chỗ đó, dân chúng trong những thành phố, thị trấn thuộc Vùng I Chiến Thuật từ lo âu đâm ra hoảng hốt bỏ chạy, trong số đó lại có một số công chức và viên chức xă ấp. Ngay như tại Quảng Trị, Trung Tă Tỉnh Trưởng Đỗ Kỳ lại khuyên công chức của ḿnh hảy cho gia đ́nh tản cư trước đi. Dân chúng Quảng Trị chạy xuống Huế, c̣n dân chúng Huế th́ lại chạy xuống Đà Nẵng. Trong có mấy ngày mà dân số của thành phố nầy từ 600 ngàn vọt lên trên một triệu.

    Ngày 18 tháng 3, Thủ Tướng Khiêm gặp tướng Phú ở NhaTrang, ở một Bộ Tư Lệnh mới, vô tổ chức, của Vùng II, Bận túi bụi, tướng Phú gần như không có khả năng nói chuyện được cho có mạch lạc. Ông ta đă từng là một trong những người mà tướng Khiêm đở đầu ! Thủ tướng đề nghị cách chức tướng Phú, nhưng ông Thiệu không đồng ư. Vả lại để làm ǵ ? v́ Quân Đoàn 2 có c̣n ǵ nữa đâu ?

    Thủ Tướng đi Đà Nẵng sau đó. Với những thành phần dân chính có trách nhiệm ông hứa là Chánh Phủ sẽ lo cho làn sóng người tỵ nạn, ông sẽ giải tỏa ngân khoản để lo việc đó. Ông đă gặp tướng Trưởng tại Bộ Tư Lệnh Vùng. Dĩ nhiên không có vấn đề giữ lại Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, tệ hơn nữa là cũng không có tăng cường được cho tướng Trưởng một lực lượng nào hết.

    Tướng Trưởng lại quay về Sài G̣n . Ông không hiểu nổi chiến lược của ông Thiệu. Chủ trương thành lập các cứ điểm mạnh đă đi đến đâu ? H́nh như ông phải cố thủ Huế. Nhận thức được sự thất bại của việc triệt thoái ở Vùng II, ông Thiệu do dự khi muốn tính tới một cuộc triệt thoái khác ở Vùng I.

    Ngày 19 tháng 3 lúc 11 giờ, Tổng Thống họp với Thủ Tướng, tướng Viên Tổng Tham Mưu Trưởng và tướng Quang cố vấn an ninh của ông . Lần nầy lại có thêm Phó Tổng Thống Trần văn Hương, và tướng Trưởng (được gọi về). Người ta nói về hai hay ba cứ điểm. Tướng Trưởng tuyên bố sẽ có thể cố thủ được Huế và Đà Nẵng. Ông Thiệu sẽ đợi tướng Trưởng về đến Đà Nẵng rồi mới đọc một bài diễn văn trên đài phát thanh nói về sự cố thủ của thành phố Huế.

    Vừa đến Đà Nẵng, tướng Trưởng biết là cộng sản Bắc Việt đang tấn công mạnh vào Huế. Ông gọi ngay tướng Viên ở Sài G̣n . Trung thành với chính ḿnh ông Viên lại chyển đường dây qua ông Thiệu. Tướng Trưởng nói ngay:

    - "Tốt hơn hết là Tổng Thống hoăn lại đừng phát thanh vội bài diễn văn nói về Huế của Tổng Thống. Thành phố nầy sẽ không thể cố thủ được ."

    Cũng trong ngày 19 tháng 3 nầy, ông Wolfgang Lehmann điện về ông Brent Sceowcroft ở Nhà Trắng. Ông nhờ chuyển bức công điện đến cho ông đại sứ Martin hiện vẫn c̣n đang chửa răng ở Bắc Carolina. Bức công điện viết:

    - "Ở đây mọi việc tiến triển nhanh quá. Chiều nay Tổng Thống Thiệu phải nói chuyện với dân chúng trong nước để giải thích về chiến lược của Chánh Phủ . Mặc dầu chuyện đó chưa được tuyên bố ra,nhưng tất cả đều cho thấy là Chánh Phủ đă có quyết định bỏ Quảng Trị."

    Theo ông Lehmann th́ người ta cũng sẽ bỏ luôn Huế. Bằng chứng là các đơn vị chiến xa đang bắt đầu rút đi.....

    Ông Lehmann nhờ tướng Homer Smith (Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ ) đến đo thử nhiệt độ của Bộ Tổng Tham Mưu. Ông nầy báo cáo lại là:

    - "các sĩ quan đều rất bất b́nh về "quyết định hấp tấp triệt thoái khỏi Plei Ku và Kon Tum. Không những họ cằn nhằn về quyết định (có một số sĩ quan h́nh như c̣n bênh vực ) mà c̣n chỉ trích lề lối và tiến tŕnh thi hành quyết định đó nữa... v́ người ta đă bỏ lại hoặc phá hủy quá nhiều đạn dược và chiến cụ."

    Ông Lehmann c̣n thêm rằng:

    - "người ta c̣n nghe thấy cả dân chúng và quân nhân Việt Nam đang có một khuynh hướng trách móc Hoa Kỳ. Khuynh hướng nầy càng ngày càng lớn mạnh thêm ra. Chúng tôi đang theo sát vấn đề nầy và sẽ có những biện pháp cần thiết để tránh những biến chuyển có hại"

    Ông ta đă có đề nghị với ông Sceowcroft là "không có ǵ là quá sớm để chúng ta nghĩ đến việc di tản một số lớn nhân sự bằng đường biển.. Người tỵ nạn đang đầy nghẹt ở Đà Nẵng.."(ngày 18/3). Đó là nhiệm vụ của ông Lehmann, ông nghĩ tới đám con chiên của ông. Các viên chức người Mỹ ở Huế không c̣n ngũ đêm ở trong thành phố nữa. Cứ đến chiều là họ ra nghĩ đêm ở gần sân bay, ở trên chục cây số về phía Nam. Từ đó trong trường hợp khẩn cấp người ta sẽ đớn bốc họ đi. Riêng những người thuộc tổ chức từ thiện th́ họ cho biết là nếu có ǵ th́ họ cũng vẫn sẽ ở lại tại chỗ. Các viên chức Hoa Kỳ thường quan tâm đến các công dân của họ nhưng nếu nếu những người nầy không phải là công viên chức của Chánh Phủ th́ họ không bao giờ ra một lệnh nào cả.

    Báo cáo của ông Lehmann c̣n cho thấy là ông không c̣n tin ở bất cứ một cuộc phản công nào nữa của phía VNCH:

    - "Bây giờ th́ dường như Chánh Phủ đă bỏ mọi ư định về một trận chiến quy mô nào ở vùng Ban mê Thuột ."

    Đây là một phương tŕnh quân sự rất thú vị:

    Hoa Kỳ không biết VNCH sẽ có hành động ǵ ? và VNCH không biết ư định của cộng sản Bắc Việt ra sao . C̣n Bắc Việt th́ đang ngạc nhiên về chiến thắng quá nhanh của ḿnh .

    Tướng Dũng viết:

    - "Chiến thắng của chúng ta ở Cao Nguyên thật là to lớn, vượt quá sự dự trù của chúng ta "

    Rơ ràng là trong nhiều trường hợp như câu chuyện trên đường liên tỉnh 7 B, vị Tổng Tư Lệnh Bắc Việt đă đặt Bộ Chánh trị và Quân Ủy Trung Ương của đảng trước những việc đă rồi, và vượt quá lệnh của họ. Không có ǵ thành công hơn sự thành công nầy, cho nên tướng Dũng muốn đi xa hơn nữa. Ông ta hỏi lệnh Hà Nội để được tiếp tục tấn công. Ông ta đang có nhiều lợi thế. Mặc dầu cũng có một số trục trặc trong các đoàn xe, nhưng không có bài toán quan trọng nào về quân số, về lương thực, về vũ khí và đạn dược. Ông có thể chuyên chở các đơn vị nhanh hơn với các quân xa cơ hữu hoặc bằng các phương tiện chuyển vận c̣n nguyên vẹn tịch thu được của Miền Nam Việt Nam .

    Khối kỹ thuật tổng quát ở Hà Nội đă biệt phái cho tướng Dũng 300 kỹ sư, thợ máy và các thợ chuyên môn để sửa chửa hàng trăm xe vận tải. Các chuyên viên nầy lại gặp khó khăn trong công tác sửa chửa các chiến xa hay các khẩu pháo binh đă tịch thu được . Tướng Dũng cũng đă kiểm soát được các trục lộ chính dẫn từ Cao Nguyên xuống bờ biển. Mặc dầu có sự thận trọng và có sự dè dặt từ những người có trách nhiệm ở Hà Nội sợ ông có thể bị rơi vào một cạm bẩy , tướng Tổng Tư Lệnh vẫn muốn tiến tới. Thật là quá hấp dẫn ! Các sĩ quan tham mưu của ông có nói đùa một câu mà đâm ra thành sự thật:

    - " Chúng tôi không thể theo kịp các trung đoàn của ḿnh trên bản đồ nữa !"

    Ngày 19 tháng 3, ông Polgar tự hỏi không biết Thủ Tướng Khiêm có chuyển cho Tổng Thống Thiệu mấy tấm không ảnh cho thấy một sự thất bại kinh khủng trên con đường 7 B hay không ? Ông gởi một công điện về Hoa Thạnh Đốn cho ông Giám Đốc Trung Ương T́nh Báo CIA, trong đó ông giải thích và tiên đoán rằng:

    -" T́nh h́nh ở đây đang xuống một cách "thảm năo" ở Vùng I cũng như ở Vùng II. Ông Thiệu sẽ mất luôn cả Huế nữa."

    Trong các công điện của ông, Polgar thích tỏ ra ḿnh là con người thấy rơ được mọi chuyện, nh́n thấy trước các biến cố, dĩ nhiên ông cố sấp xếp lại cho rơ ràng hơn. V́ ở Hoa Thạnh Đốn người ta h́nh như không nắm được sự thật của t́nh h́nh , nên không c̣n nghi ngờ ǵ nữa đây là một điều cần thiết "phải nói rơ":

    - " Trên quan điểm địa dư, VNCH là một quốc gia được thành lập sau Hiệp Định Genève 1954, và quốc gia nầy đứng vững từ đó nhờ có được viện trợ dồi dào của Hoa Kỳ, nay quốc gia nầy sẽ không c̣n tồn tại nữa rồi...!!."

    Ông Polgar nghĩ tới cuộc tranh luận quỷ quái của Quốc Hội ở Hoa Thạnh Đốn về viện trợ. Ông muốn trao thêm đạn cho vị Giám Đốc CIA để ông William Colby có yếu tố mà tranh đấu được qua điều trần trước các ủy ban một cách chánh thức hoặc nói chuyện riêng với các nghị sĩ hay dân biểu quan trọng một cách bán chánh thức, ông nói tiếp:

    - "Sự sống c̣n của Miền Nam Việt Nam độc lập tùy thuộc phần lớn vào hành động của Hoa Kỳ. Mọi sự thiếu quyết tâm của Hoa Kỳ sẽ giết chết một quốc gia mà Hoa Kỳ đă từng giúp đở từ ngày quốc gia nầy thành h́nh (1954). Ngân khoản viện trợ là tối cần thiết."

    Tại Hoa Thạnh Đốn , người ta luôn luôn vẫn không để tâm chú ư tối đa tới Việt Nam . Người ta bị vấn đề Cam Bốt ám ảnh. Các quan chuyên nghề cạo giấy th́ ngă theo bản chất tự nhiên của họ, thích nhận lấy thành quả khi họ nhúng tay vào, c̣n nếu có gập khó khăn hay thất bại th́ họ đổ lỗi lẫn nhau: chuyện đó là việc của Nhà Trắng, chuyện nầy là của Bộ Ngoại Giao, chuyện kia là do Bộ Quốc Pḥng.. Ở Ngũ Giác Đài, các sĩ quan ngành Quân Sữ so sánh sự thảm bại của QLVNCH trên con đường 7 B với cuộc tháo chạy của ông Nă phá Luân trước Mạc tư Khoa vào năm 1812, hay với cuộc lui quân của Pháp năm 1940, hoặc với sự tan ră của quân đội quốc gia Trung Quốc vào năm 1949 .

    Không một người nào ở Sài G̣n hay ở Hoa Thạnh Đốn biết được rằng để trả lời cho đề nghị của tướng Dũng, một quyết định căn bản được Hà Nội thông qua ngày 20 tháng 3:

    - " Bộ Chánh Trị và Quân Ủy Trung Ương đều đồng ư với Tổng Tư Lệnh. Phải tiếp tục tấn công. Tướng Dũng phải tránh không cho ông Thiệu có thể tiến hành một sự co cụm hệ thống pḥng thủ của ông ta, là tập trung được lực lượng trong vùng Sài G̣n và một phần của Vùng đồng bằng sông Cửu Long... Chúng ta phải thực sự chạy đua với thời gian, thực hiện kế hoạch giải phóng Sài G̣n nhanh hơn ta dự tính, "

    Ông đại tá Quân Y Jean Fourré, một chuyên viên ngành giải phẩu, một người ngay thẳng và chánh trực, một người đă có 3 năm phục vụ ở Lào, vừa tới nhận bệnh viện Grall, một cơ sở quư báu nói lên sự hiện diện của Pháp ở ngay Sài G̣n . Bệnh viện Grall tự túc về ngân sách điều hành, riêng những vị bác sĩ người Pháp th́ do Paris đài thọ. Ông Fourré rất ngạc nhiên khi thấy rằng cộng đồng người Pháp ở đây rất là b́nh tỉnh.

    Ông nói chuyện với Đại tá Yves Gras, Tùy Viên Quân Sự ở Ṭa Đại sứ Pháp.Ông nầy giải thích cho ông biết là:

    "Việt Cộng và bộ đội Bắc Việt sẽ tập trung lại chờ lệnh. Họ có thể tiến chiếm được thử đô Sài G̣n nhưng họ sẽ không làm chuyện đó. Vậy đó, ông nên biết rằng ở Á Châu nầy người ta không biết mất thể diện đâu. Vậy đó. Hà Nội không muốn làm nhục Sài G̣n đâu. Vậy đó. Cũng có thể họ tấn công trở lại sau mùa mưa "

    Đại tá Fourré tự nhủ rằng dù sao những người của sứ quán của ḿnh cũng theo dỏi được t́nh h́nh. Đại tá Gras nầy cũng thuộc loại có tuổi của thế hệ già. Hơn nữa vị Tùy Viên quân sự nầy thuộc loại đấm đá, chắc không bao giờ có cảm nghĩ qua tiên đoán liên quan đến chánh trị và quân sự của các trung tâm t́nh báo ở Sài G̣n đâu - trừ những người Ba lan.

    Trung tướng Tổng Thống Thiệu, với một diễn tiến quân sự có cơ tan ră của Vùng II và Vùng I, chắc phải tính tới một cuộc đấu tranh trên mặt trận chánh trị .

    Ngày thứ ba 25 tháng 3, vào lúc 16 giờ rưởi, ông Thiệu họp Hội Đồng Bộ Trưởng trong pḥng họp nhỏ cạnh văn pḥng của ông, trên lầu 1 của Dinh Độc Lập.

    Tướng Quang, cố vấn an ninh, báo cáo về t́nh h́nh chánh trị nội bộ. ông mô tả hoạt động của các đảng, và các phong trào đối lập. Vài cuộc họp ở đây vài cuộc biểu t́nh ở đó... Sau đó ông Nguyễn văn Hảo, Phó Thủ Tướng đặc trách về Kinh Tế tŕnh bày về vấn đề tiếp tế, giá cả, những mặt hàng thực phẩm và săng dầu. Tổng Thống ngồi nghe và có ghi chú vài điểm.

    Ông day qua phía bên trái nói với Thủ Tướng:

    - "Tôi nghĩ là đă đến lúc phải cải tổ nội các của Anh đi để đối phó với t́nh h́nh. Phải là một nội các chiến tranh.(1) gồm những thành phần yêu nước thực sự, có quyết tâm và hăng say hoạt động."

    Như vậy là thành phần nội các hiện tại không phải là những người như vậy sao ?

    - " Tôi sẽ tuyên bố chuyện nầy ngay chiều hôm nay,. ông Thiệu nói tiếp. Phải thực hiện nhanh để làm "hỏng chân" những người khác. Chúng ta không nên để mất th́ giờ..."

    Tổng Thống không có một lời nhắc tới t́nh h́nh quân sự ! Có phải ông cho đó là lănh vực của riêng ông ? C̣n ông Khiêm th́ không bao giờ nói ngược lại ư của ông Thiệu. Lần nầy th́ khác, ông lớn tiếng nói lên những ǵ mà tất cả các vị Bộ Trưởng hiện diện đều nghĩ tới:

    - " Trươóc hết chúng ta phải chận đứng các cuộc tấn công của cộng sản , ổn định và củng cố mặt trận, và giúp đỡ những người dân tỵ nạn."

    Ông Khiêm không phải là một người nặng về t́nh cảm, nhưng sau khi ông nh́n thầy tận mắt những ǵ đă xảy ra ở Đà Nẵng, tất cả những thường dân trước bờ vực thẳm đă làm cho ông cảm động.

    Ông Hảo cũng tuyên bố:

    - " Thưa Tổng Thống, chẳng lẻ chúng ta cứ phải lùi hoài như vậy sao ? Phải chận đứng sự tiến quân của Bắc Việt lại chứ ? Tổng Thống nghĩ là chúng ta chận đứng họ ở khoảng nào ?

    Ông Thiệu bước đến bản đồ Việt Nam treo trên tường với một cây bút ch́ mỡ trong tay. Ông vẻ hai ṿng và một đường thẳng trên tấm plát tít trong bọc bản đồ rồi với một giọng chắc nịch ông nói:

    - " Không lui nữa. Ở Vùng I, chúng ta có một cứ điểm ở đây, Đà Nẳng. Ở Vùng II, một cứ điểm khác ở chỗ nầy, Qui Nhơn. Chúng ta thiết lập một tuyến ổn định theo đường thẳng từ Đèo Cả phía Bắc của Nha Trang đến phía trên của Da Lat Các ông sẽ thấy Đà Nẵng sẽ là Stalingrad của chúng ta , C̣n tốt hơn Stalingrad nữa v́ rất dễ pḥng thủ và tiếp tế cũng dễ."

    Ông Thiệu lẫn lộn trong những so sánh của ông ta, dĩ nhiên ông quên rằng quân Đức nằm trong cứ điểm Stalingrad đă bị thất thủ.

    Ông ngồi xuồng và nói tiếp:

    - " Hơn nữa, tôi sẽ cho lệnh quân đội từ đây phải tử thủ tại chỗ"

    Ông Thiệu có vẻ h́nh như rất tin vào những lời tuyên bố của ông. Ông có dùng những lời tuyên bố nầy thay cho hành động hay không ? hay những động từ của ông thay cho chiến thắng ? Với một cây viết, ông thảo ra một diễn văn hay tuyên bố ngắn rồi ông đọc nó to lên, Vốn là một giáo viên, Phó Tổng Thống Hương đề nghị sửa lại vài danh từ. Tổng Thống cho gọi Đại tá Cầm, chánh vơ pḥng của ông và ra lệnh gởi bản văn nầy đến tất cả các Tư Lệnh Quân Đoàn, sư đoàn và các đại tá Tỉnh Trưởng, không chậm trể

    Ngay chiều hôm đó, đài phát thanh và đài truyền h́nh đều nói lên quyết tâm của Tổng Thống :

    -" Động viên tất cả các lực lượng của đất nước; Chận đứng các cuộc tấn công của cộng sản và cứu trợ những người tỵ nạn."

    Trong một tuần lể, Thủ Tướng Khiêm tham khảo và tiếp kiến khoảng 30 nhân vật, cũng giống như mọi cuộc cải tổ trong thời b́nh, lúc sóng lặng gió êm. Ông hành động giống như ngài Thủ Tướng của Đệ Tứ Cộng Ḥa Pháp một ngày sau khi có khủng khoảng trong nội các. Phó Thủ Tướng Nguyễn lưu Viên thảo một bản tường tŕnh đúc kết hết mọi quan điểm của những nhân vật vừa được Thủ Tướng tiếp xúc.
    Last edited by alamit; 26-02-2013 at 07:44 AM.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    14. Chương 11 - Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh
    P2




    Ông Thiệu không tin vào dư luận quần chúng ở Miền Nam nhưng ông lắng nghe nhận xét của một số thân hào nhân sĩ.

    Ông Nguyễn lưu Viên đánh bóng 4 đề mục rất cần thiết:

    ‘’ - phải lấy lại ḷng tin của dân chúng

    "- phải thực hiện một sự đoàn kết quốc gia thật rộng răi

    "- phải canh tân phương pháp làm việc của Chánh Phủ

    "- phải mở rộng cửa cho ḥa b́nh nhưng đồng thời phải củng cố quân đội để chận đứng các cuộc tấn công của cộng sản .

    Có 3 khả năng hành động:

    1,- thứ nhất: Nếu quân đội, v́ một lư do nào đó - thiếu chiến cụ , vũ khí đạn dược, hoặc mất hết tinh thần - không thể chận đứng được cuộc tổng tấn công của cộng sản , th́ VNCH phải mất về tay cộng sản Bắc Việt, và cả thế giới được đặt trước một việc đă rồi.

    2.- thứ hai: Nếu cuộc tổng tán công của cộng sản Bắc Việt bị chận đứng lại, trong lúc chúng ta vẫn quá yếu về chánh trị, một Chánh Phủ Liên Hiệp thân cộng sản có thể được thành h́nh, th́ việc cộng sản hóa Miền Nam Việt Nam chỉ c̣n là một vấn đề thời gian mà thôi.

    3.- thứ ba: Nếu cuộc tổng tấn công của Bắc Việt bị gián đoạn, và nếu chúng ta mạnh trên phương diện chánh trị, th́ có thể có một nước Việt Nam thứ ba. Đây là giải pháp ít bất lợi nhất..

    Toan tính chiếm lại các tỉnh bị mất là một điều không c̣n thực tiển nữa . ‘’

    Ở đây Phó Thủ Tướng Viên viết một câu rất lạ kỳ: ‘’ Trái lại, một câu nói như thế có thể sẽ làm cho người Mỹ kinh hoàng và đóng hẳn cánh cửa lại đối với người cộng sản ‘’

    Trong tháng rồi, trên b́nh diện chánh trị, t́nh thế của ông Thiệu không có xấu lắm. Thực tế cho thấy ông hy vọng có được sự ‘’vùng lên’’ của những phần tử cơ hội chủ nghĩa. Hầu hết những người không thích ông Thiệu và chế độ của ông ta vẫn không bao giờ tin người Miền Bắc và không bao giờ muốn bị cộng sản hóa. Mặc dầu đài phát thanh Hà Nội và đài MTGPMN lúc nào cũng xác nhận nhưng cho tới giờ nầy chưa từng bao giờ có một cuộc nổi dậy nào gọi là để hổ trợ cho cuộc tiến quân tổng tấn công của cộng sản Bắc Việt . Người ta bắt đầu nghe thấy những tin đồn mơ hồ về cung cách người cộng sản Miền Bắc đối xử với dân chúng ở Miền Nam khi họ chiếm được các thị trấn và làng mạc.

    Những người dân tỵ nạn bỏ chạy từ Phước Long, Ban Mê Thuột và những xă bị chiếm đều nói là ‘’chung chung bộ đội Miền Bắc chưa có đối xử tệ lắm đối với người nông dân cũng như dân ở thành thị. Người ta chưa ghi nhận được những hành động cướp bóc và hảm hiếp, tuy nhiên khi người dân tiếp xúc với đại diện của MTQPMN hay CPLTCHMN th́ họ được yêu cầu t́m bắt các công viên chức của VNCH đặc biệt là cảnh sát và an ninh t́nh báo. Có nhiều trường hợp được xác nhận rơ ràng là các người bị bắt được đem đi hành quyết. Ở đâu cũng vậy, họ kiểm kê dân chúng rất kỹ. Ở Cao Nguyên th́ đồng bào Thượng bị tách ra khỏi người Việt Nam, trong công tác thanh lọc. Rồi người ta giao cho một anh Việt Cộng phải coi chừng 3 hay 5 gia đ́nh, tùy theo quân số của Việt Cộng có đủ người hay không . Rồi người ta khuyến khích dân chúng ‘’tự phê b́nh’’ và ‘’phê b́nh’’ kẻ khác, từ đó tố cáo hăy tố khổ với nhau. Người ta dự trù những buỗi học tập để ‘’tẩy năo’’ hay ‘’hướng dẫn chánh trị ‘’. Vệ sinh là mối ưu tư của người Miền Bắc , họ động viên dân chúng quét dọn từ các xă ấp đến đường phố trong thị trấn, làm như họ có nhiệm vụ phải ‘’làm sạch’’ cả tỉnh về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Có nhiều nơi họ bắt đàn ông và đàn bà phải ra sửa chửa và xây dựng lại một cái ǵ đó theo nguyên tắc t́nh nguyện, nhưng thật ra là bị bắt buộc và bị chỉ định.

    Các tù binh th́ phải bị thanh lọc kỹ hơn: ở chỗ nầy là binh sĩ, ở chỗ kia là hạ sĩ quan, ở chỗ khác xa hơn là sĩ quan. Đối với hàng binh sĩ không có tỉnh nào đói xử giống tỉnh nào. Họ được thả ra, bị nhốt trong các trại tạm giam, hay đưa đi từ nhóm nhỏ về Miền Bắc . Họ giữ lại các sĩ quan và các cấp chỉ huy của lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Số phận của các tù binh tùy thuộc vào ư muốn cá nhơn của cán bộ Bắc Việt hay những cán bộ của CPLTCHMN nếu họ có mặt ở đó. Cán bộ thường là người của Miền Bắc . Những người dân tỵ nạn xác nhận là cán bộ người Miền Nam thường tỏ ra mềm mơng hơn người cán bộ người miền Trung và Miền Bắc. Có nhiều cán bộ người Nam khuyên dân chúng và nhất là các công chức cấp nhỏ hăy lánh mặt đi và t́m cách đừng cho người ta biết ḿnh . Ở Ban Mê Thuột sau chiến thắng của Bắc Việt , trên 3000 người được tập trung tại chợ. Cán bộ của CPLTCHMN đi rảo qua rảo lại, để t́m bắt được 300 công viên chức VNCH, trong đó có một số cảnh sát. Họ bị tố cáo là ‘’kẻ thù của dân tộc, đày tớ và gián điệp của Mỹ’’ . Người ta đưa hết những người nầy ra khỏi thành phố, nhiều người bị hành quyết. Mặc dầu có những trường hợp như vậy nhưng chưa thấy có ‘’cuộc tắm máu’’ quan trọng nào như người ta đồn đoán. Trong hiện tại h́nh như ngoài một sự trừng trị, tra khảo, nhục h́nh nào đó th́ Hà Nội ít nhất tạm thời vẫn tự chế, chưa để lộ vẻ ǵ gọi là sắt máu . Sài G̣n đang khai thác tối đa những tin tức nói trên trong mục đích tuyên truyền rĩ tai về hành vi trả thù độc ác của cộng sản ở các vùng vừa bị Bắc Việt chiếm đóng.

    Một số dân chúng bỏ chạy trước cuộc tấn công của cộng sản nhưng không có bao nhiêu người t́nh nguyện vào quân lực VNCH. Cho nên sự ‘’vùng lên’’ mà ông Thiệu chờ đón sẽ không xảy ra.

    Ngày 22 tháng 3 tại Hà Nội , Thủ Tướng Phạm văn Đồng thết tiệc đăi Ngoại Giao đoàn. Đúng vào giữa bữa ăn, một tuy viên đến nói nhỏ với Đại Sứ Pháp:

    - ‘’ Bây giờ Thủ Tướng muốn nói chuyện với ông.’’

    Phạm văn Đồng kéo ông Philippe Richer riêng ra. Ông Thủ tướng nầy biết xử dụng nhiều tṛ hay lắm, từ chuyện nói về Victor Hugo hay Émile Zola đến ‘’mối t́nh thắm thiết’’ giữa Pháp và Việt Nam . Ông có biệt tài đi dây khéo léo lắm, như trong hiện tại ông muốn cho ông Richer một số tin tức về diễn tiến của t́nh h́nh ở Miền Nam . Cuộc nói chuyện với một cấp lănh đạo của Miền Bắc lúc nào cũng quanh co khúc khuỷu lắm, đầy sáo ngữ. Muốn sàn lọc hết để hiểu được những điểm chánh yếu th́ phải biết cách bóc cái lưỡi bằng cây của họ mới được .

    Đại sứ Richer hỏi:

    -‘’Ông nghĩ ǵ về lực lượng thứ ba ở Miền Nam ?

    -‘’ Họ là bạn của mấy ông đó", Phạm văn Đồng trả lời.

    Sau đó ông tuyên bố:

    -‘’Bây giờ th́ t́nh h́nh không thể đảo ngược được nữa rồi. Nước Pháp phải nhúng tay vào thôi. Thiệu phải ra đi mới được ".

    Hoa Thạnh Đốn và Sài G̣n đă đạt được một sự nhượng bộ của Hà Nội trong cuộc thương thuyết để đi tới Hiệp Định Paris : ông Thiệu được ở lại.

    Làm thế nào để diễn dịch những lời tuyên bố nầy của Phạm văn Đồng đây ? Dĩ nhiên nó có nghĩa là người Pháp phải hành động, nếu không th́ sẽ quá trể cho họ. Quá trể để t́m lại mối giao hăo tốt với Hà Nội .

    Philippe Richer phải lập đi lập lại trong đầu những lời nói của Phạm văn Đồng măi trong 48 tiếng đồng hồ trước khi gởi một công điện về Quai d’Orsay cho Thủ Tướng Pháp.

    Mặc dầu không có đông dân bằng hai thủ đô Sài G̣n và Hà Nội hay Đà Nẵng, nhưng Huế là thành phố quyến rũ nhất nước Việt Nam sau Sài G̣n và Hà Nội . Là thủ đô của Miền Trung, nơi có một nền văn hóa cao, Huế lúc nào cũng vẫn là biểu tượng của quyền quư. Khi xưa lúc Việt Nam c̣n chưa bị chia cắt th́ Huế là thủ đô của Việt Nam. Năm 1972, quân lực VNCH chiếm lại thị trấn nầy . Người ta chỉ thấy chết chóc và mồ mă, một hành động mà Hà Nội không bao giờ thừa nhận . Họ đổ những phương pháp và việc làm đó lên đầu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam .

    Trong một đất nước bị tàn phá v́ chiến tranh và v́ sự canh tân, Huế vẫn giữ được vẻ đẹp duyên dáng của một đế đô cũ. Những người Việt Nam nào chưa từng nh́n thấy Huế, tưởng tượng đây là một thành phố đa t́nh, lúc nào cũng lấm tấm có mưa phùng. Ngay như trong mùa khô, thường có sương mù trên đỉnh Núi Ngự hay trên gịng nước lững lờ của con Sông Hương .Thành phố được xây cất quanh con sông nầy. Bên bờ phía Tây là kinh thành, một khu vuông vức có tường cao 6 thước bao quanh lăng tẩm của các nhà vua, một số đền đài lăng miếu lỗ chổ vết đạn bách kích pháo. Bờ bên trái là thành phố cổ, đầy dân tỵ nạn đang lăng xăng dọc theo các con đường bao quanh chợ, đi t́m các thuyển đ̣ mà lúc b́nh thường người ta hay dùng để qua đêm.

    Nhiều đoàn xe đủ loại, vận tải lớn nhỏ, xe nhà, quân xa, mô tô, xe ḅ, xe máy, xe đạp ... ngổn ngang trên cầu, họ thả người xuống đi bộ qua ṭa hành chánh dài dài tới khu của người Âu Châu bên phía Đông. Ở khu nầy quy tụ các lănh sự quán ngoại quốc và nhà của các nhân viên người Âu. Bây giờ th́ những người ngoại quốc nầy nhất là người Mỹ, những công chức cao cấp, và những nhà quư phái trong thị trấn, từ hôm đầu tháng tới nay không c̣n lui tới Câu lạc Bộ Bơi Lội, các sân quần vợt và băi biển nữa. Người dân tản cư chiếm luôn hết các bồn cỏ, lẫn lộn với một số binh sĩ mà người ta không biết đó là lính của những đội tuần tiểu hay của nhóm chạy trốn nào. Binh sĩ và dân chúng chiếm hết khu đại học.

    Không có ǵ chắc chắn để quy trách nhiệm cho ông Thiệu về chuyện để mất tỉnh Phước Long, Ban Mê Thuột, hay thất bại thảm năo trong cuộc hành quân triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum. Nhưng chắc chán là ông phải gánh chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc để mất Huế.

    C̣n tướng Trưỡng, sau khi gặp Tổng Thống ở Sài G̣n, ông về ngay Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 của ông ở Đà Nẵng, cách 65 cây số về phía Nam của Huế. Ngay từ lúc đó tin tức dồn dập thật là xấu. Chiến xa của cộng sản Bắc Việt đă quét hết lực lượng Địa Phương Quân ở Quảng Trị, cách Huế chỉ có 50 cây số về hướng Bắc.

    Tướng Trưởng bay ngay ra Huế ngày 20 tháng 3. Ở đây ông ra lệnh cho tướng Lâm quang Thi chuẩn bị pḥng thủ Huế đồng thời cũng chuẩn bị di tản về Đà Nẵng chiến cụ nặng gồm phào binh 175 ly vận hành, và các chiên xa M48. Vào hồi 13 giờ 30 ông nghe bài diễn văn của ông Thiệu :bằng mọi giá phải cố thủ Huế. Đến 19 giờ 30, khi về đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 ở Đà Nẵng tướng Trưởng lại được một công điện do đích thân Tổng Tham Mưu Trưởng Cao văn Viên kư tên : sẽ không cố thủ Huế . Nhưng mĩa mai thay ngay trong lúc đó đài phát thanh quốc gia vẫn c̣n tiếp tục phổ biến oang oang bài diễn văn lịch sữ của ông Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu kêu gọi cố thủ Huế. Tổng thống phủ quên không chuyển lệnh cho Giám Đốc đài phát thanh Lê vĩnh Ḥa và pḥng lưu trử phim ảnh.,

    Nguyên văn bức công điện được mă hóa :

    Khẩn

    Chuyển giao tận tay

    số: 20/54 H/3 -1975 T. 20/3/758.

    Nơi gởi : Bộ Tổng Tham Mưu / Tổng Tham Mưu Trưởng’

    Nơi nhận: Tư Lệnh Quân Đoàn 1 / Vùng I Chiến Thuật

    Bản văn: số 9428 / F 341

    Tham chiếu: công điện số 9.424/ Tổng Tham Mưu / F 342 hay 20/ 145 ngày 11/3/1975 của Tổng Tham Mưu

    Tiếp theo công điện nói trên, Bộ Tổng Tham Mưu trân trọng gởi đến quư Tư Lệnh những chỉ thị sau đây của Tổng Thống VNCH.

    Thứ nhất: Phương tiện Không Quân và Hải Quân c̣n khiển dụng được chỉ có thể yểm trợ cho một ( 1 ) cứ điểm mà thôi. Do vậy , ông phải hành quân (nguyên văn trong công điện là tiếng Pháp: ‘’mener’’ ) tŕ hoản chiến đến Đèo Hải Vân, nếu t́nh thế bắt buộc.

    Thứ hai: Xin đáp nhận chỉ thị nầy.

    Đại tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH.

    Hơn thế nữa, cơ quan t́nh báo của Quân Lực VNCH lại phổ biến tin tức về lực lượng tham chiến của quân đội Bắc Việt ngày hôm đó. Năm trong số bảy sư đoàn trừ bị của Bắc Việt sẽ được gởi vào Miền Nam và theo tin tức của cơ quan t́nh báo Sài G̣n th́ họ có trên 800 chiến xa với một số dự trử cho 19 sư đoàn trong đó có 14 sư đoàn bộ binh . Không c̣n nghi ngờ gí nữa, bây giờ th́ người ta tin chắc rằng quả là một điều quá lư tưởng cho Hà Nội .

    Ông Thiệu th́ có cảm nghĩ rằng ông đă cho tướng Trưởng một mức độ uyển chuyển hay tùy nghi nào đó rồi trong hành động. Trong lúc tướng Trưởng quá mệt mỏi, nóng ruột, hút hết điếu thuốc nầy tới điếu khác, th́ tin chắc rằng ông Thiệu không có cho lệnh ǵ như vậy hết. Một sự mơ hồ lẫn lộn rất tai hại, v́ thiếu sự phối hợp giữa Tổng Thống Phủ, Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 1.

    Ông Thiệu th́ đinh ninh rằng tướng Trưởng đă nói với ông ta là không có cách nào khác hơn là phải cố thủ Huế, bởi v́ con đường số 1 chạy dọc theo bờ biển giữa Huế và Đà Nẵng đă bị cắt đứt rồi. Tổng Thống đă phải cho lệnh bỏ Huế là v́ thiếu sự bảo đảm của tướng Trưởng. Trong lúc đó tướng Tư Lệnh sư đoàn 1 th́ lại bỏ Huế mà không báo trước cho tướng Trưởng hay tướng Viên hay Tổng Thống Thiệu biết. Hết người nầy đến người khác thi nhau đổ thừa cho những "lệnh và phản lệnh" và các phản ứng dây chuyền kế tiếp sau đó.

    Đêm 23 trung tướng Lâm quang Thi đến viếng Đức Cha Nguyễn Kim Điền, tại Ṭa Tổng Giám Mục Huế. Đức Tổng Giám Mục vừa từ một chủng viện ở Vatican về hai ngày trước . Không có điện, Đức Tổng Giám Mục phải tiếp tướng Thi trong pḥng khách dưới ánh sáng của một ngọn nến. Họ chỉ dùng trà.

    Đức Tổng Giám Mục nói ;

    -‘’Tôi không lấy làm ngạc nhiên chút nào khi được biết người ta sẽ bỏ Huế. Tôi biết được từ một nguồn tin chinh xác rằng Vùng II và Vùng I Chiến Thuật sẽ được giao cho cộng sản . Miền Nam Việt Nam mới sau nầy chỉ gồm có Vùng III và Vùng IV mà thôi."

    Tướng Thi có cảm tưởng rằng các nguồn tin tức chính xác đó bao gồm luôn cả từ Ṭa Thánh Vatican.

    Hai ngày sau đó lại đến lượt tướng Thi tiếp Đức Giám Mục Phạm ngọc Chi tại Đà Nẵng . Ông nầy đến để phản đối ư định ‘’tử thủ Đà Nẵng’’. Thật là vô ích. Vị Giám Mục nầy cũng vẫn đinh ninh rằng đă có một thỏa thuận nào đó với cộng sản rồi. Vậy tại sao lại phải đánh đấm với nhau làm ǵ cho những mănh đất hay thành phố mà ḿnh đă có thỏa hiệp là sẽ giao cho cộng sản ? Trong giới dân sự cũng như một phần trong giới quân nhân, những tin đồn chủ bại nhất như loại nói trên đă biến thành tin tức chinh xác.

    Rơ rệt nhất là các vị Giám Mục coi như các quân nhân tự biến ḿnh thành những người sát nhơn một cách vô ích khi họ cố gắng làm tṛn chức năng và nhiệm vụ của ḿnh trong quân đội.

    Ngày 24 tháng 3, hồi 6 giờ, tướng Trưởng cho lệnh di tản khỏi Huế. Ông ta đang h́nh thành một kế hoạch hơi táo bạo.

    Ở về hướng Đông của thị xă Huế có cù lao Vĩnh Lộc, một cù lao lớn dài khoản 30 cây số. Các binh sĩ thuộc Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và sư đoàn 1 bộ binh sẽ đi xuống bờ biển, và băng qua ḥn đảo nầy, bỏ lại chiến cụ nặng mà họ không thể đem lên phà hay tàu chiến được . Giữa phần đất phía Nam của ḥn đảo và đất liền, công binh sẽ thiết lập một cây cầu tạm để họ có thể trở lên bờ và về Đà Nẵng . Đồng thời cây cầu nầy cũng sẽ giúp di tản binh sỉ bằng đường biển. Từ Sài G̣n đề đốc Cang đă gởi ra một số tàu hùng hậu để có thể tùy nghi chở binh sĩ hay dân chúng di tản.

    Lúc đầu, mặc dù pháo binh Bắc Việt bắn dữ dội, nhưng cuộc điều động diễn tiến không xấu lắm. Các đơn vị bảo vệ đă tŕ hoăn được cuộc tiến quân của cộng sản . Nhưng đến ngày 25 th́ giống như lúc triệt thoái khỏi Plei Ku, dân chúng lẫn lộn vào với binh sĩ . Các binh sĩ thuộc sư đoàn 1 bộ binh th́ lại dắt theo gia đ́nh của họ. Sư đoàn từ đó tan ră lần lần. Sĩ quan và binh sĩ đều biết rằng tướng Nguyễn duy Hinh đă từng nói là:

    -‘’ Chúng ta sẽ bỏ Huế , chúng ta đă bị phản bội rồi!

    Trên hai bờ của ḥn đảo , có nhiều người đang chờ tàu đang c̣n đậu ở ngoài khơi. Một số khác th́ tiến về phía Nam nơi mà Công Binh đang phải thiết lập một cây cầu tạm. Biển đang động. Kỷ luật trở thành Vô kỷ luật rồi biến luôn thành nổi loạn. Quá hốt hoảng, có một số binh sĩ cướp tàu, kể cả những chiếc tàu đang dùng làm chân cầu nổi. Một số khác th́ t́m cách bơi vô đất liền và chết đuối v́ nước biển đang lên. Các tàu đổ bộ th́ đôi lúc không thể vào sát bờ được , hoặc v́ người lái không biết cách điều hành, hoặc v́ họ sợ pháo binh của Bắc Việt . Cũng có một số khác bị chết đuối v́ họ t́m cách lội ra tàu.

    Ngày 23 tháng 3, ông Thiệu nhận được một bức thơ của Tổng Thống Ford. Ngay như để nâng đở tinh thần của Tổng Thống VNCH, ông Ford cũng không bao giờ dùng điện thoại. Bức thư nầy, là bức thơ cuôi cùng, chứa đựng một sự mơ hồ kheo léo, nói chuyện chung chung đến vô nghĩa. Bức thư viêt:

    -‘’ Theo quan điểm của tôi th́ cuộc tổng tấn công của Hà Nội không c̣n ǵ chứng minh hùng hồn rằng đây là một sự phá hoại bằng vơ lực Hiệp Định Paris..không hơn không kém.’’

    Ông Ford nói rằng ông theo sát các biến cố. Người ta không chờ mong ǵ được ở ông chút nào hết. Ông ta muốn tuyên dương trách nhiệm của Hoa Kỳ . Nhưng bằng cách nào đây ? Ông ta sẽ thử làm tất cả để thỏa măn ‘’nhu cầu vật chất trên chiến trường’’ . Ông Thiệu gạch đít vài hàng ở chỗ nầy, vài câu ở chỗ khác mà dưới nhăn quan của ông, một lần nữa Hoa Kỳ đă cam kết qua vị Tổng Thống của họ như :

    - ‘’Quyết định của Hoa Kỳ phải nâng đở một người bạn...’’

    hay : ‘’Hoa Kỳ sẽ đứng vững sau lưng VNCH trong giờ phút quyết định nầy...’’

    Đối với ông Thiệu, bức thư nầy là một điềm lành đem tới cho ông. Bởi v́ ông Ford nói về trách nhiệm của Hoa Kỳ, tức là ḿnh phải nói rơ những ǵ ḿnh đang cần. Ông Thiệu nhờ một trong những vị Bộ Trưởng của ông soạn một bức thư trả lời để sẽ được gởi đi ngày mai . Đó là ông Nguyễn tiến Hưng , nhà kinh tế lỗi lạc của ông.

    Ông Thiệu nhắc ông Ford rằng:

    " VNCH đă kư vào Hiệp Định Paris không phải v́ Miền Nam Việt Nam ‘’tin tưởng một cách ngây thơ’’ vào thiện chí của kẻ thù cộng sản , mà v́ VNCH đặt hết tin tưởng vào sự cam kết long trọng của Hoa Kỳ."

    Hữu ư hay vô tinh, ông Thiệu dùng lại những từ ngữ của ông Nixon và của Kissinger như ‘’lời hứa chắc chắn’’, ‘’những biện pháp trả đủa nhanh chóng và quyết liệt’’. Đối với ông Thiệu, lời nói của Tổng Thống Hoa Kỳ là chủ yếu. Ông Nixon đă có tuyên hứa, đă có lời cam kết, nói lên ḷng thành thật và một danh dự. Không có lúc nào mà ông Thiệu tách rời Hiệp Định Paris, một hiệp định chánh thức và công khai ra khỏi những bảo đảm riêng của ông Nixon mà ông Ford sẽ phải là người thừa kế. Sau ba tháng tổng tấn công của cộng sản Bắc Việt, đây là lần đầu tiên Tổng Thống VNCH đ̣i hỏi Tổng Thống Hoa Kỳ phải có quyết định. Theo ông Thiệu th́ ông Ford phải ra lệnh cho ‘’một cuộc oanh tạc ngắn nhưng thật dữ dội bằng B.52 vào những điểm tập trung và những căn cứ tiếp vận của địch trên lănh thổ Miền Nam Việt Nam ‘’.

    Sau khi kư tên vào bức thư nầy ông Thiệu cho mời các vị Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Bộ Trưởng Ngoại Giao, Tổng Tham mưu Trưởng và Phụ tá an ninh của ông đến, để thông báo cho họ lúc 9 giờ 30 sáng.

    Sứ quán Hoa Kỳ nhận được bức thơ của ông Thiệu vào lúc trưa. Ông Ford không trả lời trực tiếp cho ông Thiệu về bức thư nầy,

    Ngày 25 tháng 3, ông Gerald Ford và ông Kissinger tiếp một phái đoàn của Sài G̣n do Đại Sứ VNCH ở Hoa Thạnh Đốn là ông Trần kim Phượng hướng dẫn. Phái đoàn đă ghi nhận được tất cả những lời tốt đẹp của ông Ford. Ông Ford sẽ làm tất cả ‘’những ǵ mà ông có thể làm được’’ để Quốc Hội chấp thuận một ngân khoản viện trợ bổ túc. Ông Ford sẽ gởi tướng Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ đến Sài G̣n.

    Ra khỏi Nhà Trắng, các thành viên của phái đoàn VNCH đều tỏ ra bi quan . Đă có một sự kiện: đêm hôm trước , trong khuôn khổ viện trợ cho ngoại quốc nói chung, Thượng Viện đă chấp thuận một đạo luật là 3 tỷ, 700 ngàn mỹ kim, mà trên b́nh diện quân sự, không có VNCH, tức là Miền Nam Việt Nam coi như đă bị loại. Dù là ông Ford có thiện ư nhưng không thể chống lại quyết định của Quốc Hội được .

    Tổng Thống Hoa Kỳ t́m những sự nâng đở quốc tế hay nói đúng hơn là ông ta muốn làm yên ḷng các quốc gia đồng minh và quốc gia bạn. Ông viết thư cho lănh đạo của các quốc gia ở Đông Nam Á Châu và những nơi khác. Ông viết cho ông Souvanna Phouma, Thủ Tướng Lào, cho ông Tun Razak, Thủ Tướng Mă Lai Á, cho ông Lư quang Diệu, Thủ Tướng Tân gia Ba, cho ông Suharto ở NamDương, cho ông Marcos ở Phi luật Tân, cho ông Bạch sùng Hy ở Nam Hàn, cho ông Tưởng kinh Quốc ở Đài Loan, cho ông Kukrit Pramodj ở Thái Lan, và nặng kư hơn, cho hai ông Thủ Tướng Úc Châu và Tân Tây Lan. Tất cả các thư tín đó đều dựa trên một mẫu chung, không có tính cách cá nhân. Trong thư, Tổng Thống Ford cam đoan với các vị lănh đạo nói trên là:

    -‘’ V́ Bắc Việt công khai xâm chiếm Miền Nam Việt Nam .... nên Hoa Kỳ vẫn phải quyết định cung cấp cho Miền Nam Việt Nam chiến cụ, dụng cụ (nguyên văn :the tools) mà VNCH đang cần để chống lại cuộc xăm lăng đó’’

    Danh từ ‘’dụng cụ’’ (tools) rất mơ hồ tối nghĩa hay là một vụng về cố ư ? Nó ám chỉ ngân khoản, vũ khí hay đạn dược ? Ông Ford không hề nghĩ tới các cuộc oanh tạc của B.52 như ông Thiệu. Ở Hoa Kỳ rất hiếm có những người đ̣i hỏi một cuộc tái oanh tạc như tướng Westmoreland, cựu Chỉ Huy Trưởng quân lục Hoa Kỳ tham chiến ở Miền Nam Việt Nam.

    Trong thư gởi cho các bạn đồng viện ở Quốc Hội, ông Ford thông báo là tướng Frederic Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ sẽ đến Sài G̣n.

    Đối với những người mà vấn đề an ninh tùy thuộc vào Hoa Thạnh Đốn, ông Ford cam kết ‘’một cách phân minh’’ rằng Hoa Kỳ sẽ tôn trọng những điều mà họ đă cam kết. Hoa Kỳ sẽ vẫn trung thành với truyền thống và những bổn phận của ḿnh đối với các đồng minh và bạn bè. Cái lối hành văn trịnh trọng nầy không gây cảm xúc được ai trong số những người nhận được thư của ông ta, nhất là Thủ tướng Thái Lan, ở tuyến đầu, đang theo dơi và rất am tường t́nh h́nh diễn tiến ở khắp Đông Dương.

    Những chánh trị gia và những người dính líu vào con đường chánh trị của Hoa Kỳ như Tổng Thống chẳng hạn, thường nhắc tới vấn đề ‘’khả tín’’ của Hoa Kỳ , thiện chí của một siêu cuờng: là phải tôn trọng những ǵ họ đă cam kết trong khuôn khổ của các đồng minh của ḿnh. Trong vùng Đông Nam Á, rất nhiều quốc gia coi vấn đề Việt Nam như một bài học trắc nghiệm. Rồi họ cũng sẽ thấy thôi !

    Trong số các quốc gia đă kư vào Hiệp Định Paris có nước Trung Hoa cộng sản. Để tăng trọng lực và bổ túc cho bức thư của Tổng Thống Ford, ông Kissinger cũng có một công hàm tương tự để phản đối với Bắc Kinh và Mạc tư Khoa, gởi cho Thứ Trưởng Ngoại Giao họ Hứa của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa và cho cả ông Gromyko của Liên Bang Xô Viêt:.

    "Kính thưa Ngài Tổng trưởng Ngoại Giao,

    Tôi viết thư nầy để thông báo cho Ngài rằng chúng tôi hết sức quan tâm và bối rối v́ những hoạt động quân sự gần đây của chánh quyền Bắc Việt . Sự hoàn toàn thiếu tự chế của họ chỉ có thể cho thấy một quyết định cứng rắn của họ:đó là họ quá coi thường Hiệp Định Paris về Việt Nam "

    Ông Kissinger không bao giờ tin rằng Hà Nội có biểu lộ một sự tự chế nào, chẳng những thế mà họ c̣n đă vượt qua khỏi lằn ranh của sự khoan dung nữa. Bây giờ ông Kissinger mới khẳng định ràng chánh quyền Bắc Việt đang lao ḿnh vào một hành động quân sự với một quy mô rộng lớn. Ngay những danh từ mà ông dùng trong thư của ông đă cho thấy rơ ư nghĩ của ông là cuộc tổng tấn công của Bắc Việt không phải bắt đầu từ Phước Long mà từ Ban Mê Thuột :

    - " Bắt đầu từ ngày 10 tháng 3 1975, lực lượng quân sự Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam đă mở những cuộc tấn công vào các căn cứ quân sự , các thị trấn quận lỵ và tỉnh lỵ. "

    Sau khi ông trở về đến Hoa Thạnh Đốn , ông Kissinger hay những người đă viết ra dự thảo của những bức thư nầy đă xem kỹ tất cả những báo cáo và phúc tŕnh về tin tức của các cơ quan t́nh báo. Ông Kissingerdlại c̣n thêm :

    - "Bắc Việt cũng đă cho 3 sư đoàn quân trừ bị vượt qua vùng phi quân sự.. "

    Ông Tổng trưỏng ngoại giao Hoa Kỳ đă viết cho những vị Tổng trưởng ngoại giao Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết rằng:

    đây là một "hành động leo thang quân sự" mà theo tin tức của các các cơ quan t́nh báo của chúng tôi th́ Bắc Việt đă quyết tâm tiếp tục các hành động xâm lăng và tiến hành các cuộc tấn công vào cố đô Huế (ông Kissinger có lư) và trong tỉnh Tây Ninh gần Sài G̣n (ông Kissinger lộn rồi). "

    Sáu ngày trước đó, Bắc Việt đă có những cuộc hành quân loại "dương Đông kích Tây" trong vùng Tây Ninh. Ông Kissinger đặt ông Tổng trưởng ngoại giao Trung Quốc trước trách nhiệm của ông nầy:

    - " Những cuộc tấn công gần đây của Bắc Việt được sự yểm trợ của các chiến xa và vũ khí chống chiến xa do các thế lực ngoại quốc cung cấp , mà một trong các thế lực nầy có tham vọng bá quyền ở Á Châu (nhắm vào Liên Xô) nhằm phá bỏ hoàn toàn Hiệp Định Paris mà ông đă kư... Các diễn tiến đó làm cho cuộc chiến ở Đông Dương biến trở lại thành một bài toán quốc tế trọng đại ".

    Ông c̣n nhấn mạnh :

    "Các cuộc tấn công nầy đă được tiến hành sau cuộc viếng thăm Hà Nội gần đây của một phái doàn quân sự Trung Quốc."... Nhiều câu hỏi rất nghiêm trọng được đặt ra liên quan đến thiện chí của các thế lực ngoại quốc đó trong việc thúc đẩy chánh quyền Hà Nội đến một sự tự chế... người ta phải khuyên can Bắc Việt để họ đừng leo thang thêm nữa và trở về với cuộc ngưng bắn .."

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    14. Chương 11 - Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh
    P3


    Ông Kissinger đă thiết lập nhiều mối giao hảo với Bắc Kinh. Khi ông kư thư nầy, có bao giờ ông ta nghĩ tới khả năng mà Trung Quốc có thể kềm hảm được Hà Nội trong giai đoạn nầy hay không ? Mạc tư Khoa đă cung cấp vũ khí nặng cho Bắc Việt như chiến xa, pháo binh và một lực lượng pḥng không đáng sợ. Trong nhiều năm Bắc Kinh cũng đă cung cấp cho Bắc Việt vũ khí cho bộ binh , súng AK.47, lựu đạn, súng liên thanh, bách kích pháo và các quân xa (không bọc sắt) và những dụng cụ thay thế. Trung Quốc cũng giúp Hà Nội sống c̣n khi họ tiếp tế cho Bắc Việt gạo thóc, vải sồ và tất cả các thứ cần dùng khác, thượng vàng hạ cám, liên quan tới sinh hoạt của đời sống hằng ngày như chén bát, kim chỉ, đèn bấm, bóng đèn v.v......

    Theo ông Kissinger,khi ông đặt vấn đề Việt Nam với các nhà lănh đạo Bắc Kinh th́ là họ cũng đă "nêu lên một vài ba điều có lợi cho Hà Nội" , nhưng đó hoàn toàn chỉ là một h́nh thức nghi lễ mà thôi. Nội dung các cuộc nói chuyện của ông Kissinger với Trung Hoa cộng sản luôn luôn nằm trong khuôn khổ 4 nước Đông Dương: hai nước Việt Nam , một Cam Bốt và một Lào. Đối với Bắc Kinh , Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận một sự chiến bại ở Việt Nam. Một siêu cường phải hành động như một siêu cường. Một nước Việt Nam thống nhất không có lợi lộc ǵ cho cộng sản Trung Quốc hết. Sự chống đối giữa Trung Hoa và Việt Nam đă có hàng thế kỷ, và những mâu thuẩn giữa các lư thuyết gia của Hà Nội và Bắc Kinh càng ngày càng sâu rộng. Mao đă từng chủ trương đối đầu lúc trước . Nhưng theo phân tách của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ th́ người "lănh đạo vĩ đại" h́nh như đă thay đổi quan diểm vào những năm của thập niên 60. Vă lại ảnh hưởng và thế lực của ông đă xuống. Người ta đă không thấy ông ở đại hội đảng mấy tuần trước vào tháng giêng 1975. Người Trung Hoa đă có nhận xét là cộng sản Việt Nam mặc dầu lúc nào cũng khoa trương về các cuộc "nổi dậy của nhân dân " , nhưng vẫn áp dụng một chiến lược quân sự quy ước theo Liên Xô. Cuối cùng th́ đối với Bắc Kinh chiến cuộc ở Việt Nam càng kéo dài th́ càng giúp cho Liên Xô có một thế đứng quan trọng trong vùng. Tất nhiên những người cộng sản Trung Hoa nầy có thiện cảm phần nào nghiêng về CPLTCHMN và Khmer Đỏ mà họ nghĩ đó là lực lượng đối trọng cấn thiết của họ ở Hà Nội . Nói tóm lại, để giữ được h́nh ảnh cách mạng ở thế giới thứ ba, người Trung Hoa hổ trợ các đồng chí Việt Nam chỉ bằng lời nói, nhưng không muốn thấy họ đặt chân lên Sài G̣n . Người dân Trung Quốc rất thương Việt Nam mà họ chỉ muốn giữ hai nước Việt Nam riêng biệt.

    Vào tháng 8 năm 1974, Trung Quốc tạo ra biến cố ở đảo Hoàng Sa với mục đích đi vào một cuộc thương lượng trực tiếp với Sài G̣n . Nhưng ông Thiệu không nắm được cơ hội mà Bắc Kinh đă trao cho ông v́ một phần ông quá cảnh giác về ư định bất chánh của Bắc Kinh , một phần v́ sợ Hoa Kỳ . Và ông Thiệu tiếp tục tin là thế giới cộng sản vẫn là một khối đoàn kết với nhau.

    Rất thận trọng, Bắc Kinh đă thử t́m cách bắt liên lạc với ông Thiệu. Qua trung gian của các người Tàu quốc gia thường qua lại giữa Bắc Kinh và Đài Bắc, cộng sản Trung Hoa đă tiếp xúc được với anh ông Thiệu lúc đó là Đại Sứ VNCH ở Đài Loan. Tại Hồng Kông, tháng 4 năm 1974, một sĩ quan thuộc Trung Ương T́nh Báo của Miền Nam Việt Nam đă tiếp xúc với ông Jim Eckes, một người có trách nhiệm trong một hảng Hàng Không tư nhân ở Sài G̣n . Vị sĩ quan nầy được một công điện của một trong những nhân vật cộng sản của Hồng Kông. Ông Eckes biết rơ những người thân cậncủa ông Thiệu. Ngay như ông Vương văn Bắc, Tổng trưởng Ngoại giao cũng đă có giúp cho đường dây liên lạc thư tín loại nầy. Một người bạn của ông, cũng vẫn vào cuôi năm 1974, dân biểu thuộc đảng Bảo Thủ Anh Quốc, đă mở đường cho ông Thứ Trưởng ở Bắc Kinh . Cộng sản Trung Quốc đặt niềm hy vọng vào CPCHMNVN, nhưng không để lộ ư ḿnh khi phải làm áp lực với Hà Nội.

    Ông Thiệu không bao giờ muốn nói chuyện với Bắc Kinh dù là trong ṿng bí mật v́ người Trung Quốc là cộng sản , cái CPLTCHMN chỉ là một công cụ của họ, và hơn thế nữa ông Thiệu lúc nào cũng sợ những đ̣n sấm sét của người Mỹ, một sự lo sợ chắc chắn là hăo huyền !

    Đối với ông Kissinger th́ người Trung Hoa coi vấn đề giao dịch với Hoa Thạnh Đốn quan trọng hơn là sự liên lạc với Hà Nội . Nhưng họ bị kẹt với h́nh ảnh ư thức hệ của họ và không thể chối bỏ Miền Bắc Việt Nam hay nói đúng hơn là "chưa có thể" được .

    Tại Hoa Thạnh Đốn người ta dư biết là có những căng thẳng giữa Bắc Kinh và Hà Nội . Bắc Việt luôn luôn phàn nàn về sự chậm trể trong dịch vụ giao hàng từ Trung Quốc. Vào cuối năm 1974 và đầu năm 75, người Trung Hoa không có cắt lương thực và đạn dược, nhưng các chuyến tàu hỏa của họ tới quá trể . Nhân công làm reo ? hay vô tổ chức trong bộ máy hành chánh ? Hay chỉ là môt cách để nói lên sự không thuận thảo giưă Bắc Kinh với Mạc Tư Khoa hay với Hà Nội ? Hay chỉ là tin vịt ? Dù ǵ đi nữa th́ ông Kissinger thấy có bổn phận phải phản đối với Bắc Kinh cũng như đối với Mạc Tư Khoa .

    Thơ của ông gởi cho Ngoại Truởng Gromyko mở đầu bằng một câu rất nghiêm khắc:

    - "Tôi viết thư cho Ngài để "thành thật" bày tỏ sự lo âu sâu xa của tôi"

    Đối với người Sô Viết khi họ nói với nhau mà dùng danh từ "thành thật" th́ có nghĩa là có một mối bất ḥa sâu đậm. Họ sẽ hiểu ngay. Bức thư cho Liên Xô nầy chứa đựng một sự buộc tội rất nặng nề:

    - " V́ các cuộc tấn công nầy được tiến hành ngay sau cuộc viếng thăm Hà Nội của Thứ Trưởng Feryubin (vị Thứ Trưởng của Ngài đó ông Gromyko ạ !) nên người ta không thể không đặt giả thuyết là Liên Bang Xô Viết đă ư thức được- và đă chuẩn thuận- những quyết định của Hà Nội . Do đó Chánh Phủ của ông phải chấp nhận một phần lớn trách nhiệm về những ǵ đang xảy ra ngay lúc nầy ở Miền Nam Việt Nam . Và cũng như về những hệ lụy rộng lớn hơn về sau. "

    Vào tháng 3 năm 1975, ông Kissinger tin tưởng Bắc Kinh hơn Mạc Tư Khoa.

    Hai năm về trước, tháng 3 năm 1973, Đại sứ Liên Xô tại Hoa Thạnh Đốn, ông Anatol Dobrynine có bảo đảm với ông Kissinger -một sự bảo đảm có giá trị- rằng Liên Xô đă ngưng gởi vũ khí cho Hà Nội từ sau khi Hiệp Định Paris được kư kêt. Ông Dubrynine xác nhận hay khẳng định rằng các món hàng cung cấp của Liên Xô đang đến Việt Nam có thể là những món đă bị chậm trể trong quá tŕnh chuyển tiếp ở Trung Quốc.

    Trong bức thư gởi cho ông Gromyko, ông Kissinger đă nói đến "trách nhiệm đặc biệt mà hai quốc gia chúng ta là phải làm tất cả để kềm hảm những sự tranh chấp hay những t́nh h́nh nào có thể gây ra thêm sự căng thẳng trên thế giới." Dĩ nhiên ông cũng đ̣i hỏi ông Gromyko phải khuyên Bắc Việt nên cho ngưng ngay tất cả các cuộc tấn công.

    Quyền lợi của Liên Xô vào tháng 3 năm 1975 khác hẳn với tháng 3 năm 1973. Ngày hôm qua Liên Xô gặp phải một vị Tổng Thống mạnh và có quyết tâm là ông Nixon. Hôm nay là ông Gerald Ford, một Tổng Thống đang bị Quốc Hội và dư luận quần chúng Hoa Kỳ cầm cương . Từ sau ngày ông Nixon phải ra đi, th́ mối giao hăo giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trở nên khác hẳn. Với chủ trương ḥa hoản của ḿnh, ông Kissinger bị Thượng Viện Hoa Kỳ kềm chế, từ chối không chấp thuận cho Liên Xô quy chế tối huệ quốc trong lănh vực thương mại, và không ngừng thúc giục phải cho một số lớn người Do Thái được phép rời khỏi Liên Xô. Vào lúc nầy , ḥa hoản không mang lại vừa ḷng nào lớn lao cho lănh đạo Liên Xô. Ở Trung Đông dù ông Kissinger có thất bại nhưng Liên Xô vẫn thấy ḿnh lần lần cũng bị hất ra ngoài. Hoa Thạnh Đốn có nói ǵ đi nữa th́ họ vẫn biết là Hoa Kỳ không c̣n hậu thuẩn cho ông Thiệu nữa. Trong năm 75 nầy Liên Xô đă sẳn sàng để nhận lấy phần lợi tức đầu tư của họ ở Việt Nam , đặc biệt trên lănh vực chiến lược của hải quân. Họ có mắt để nh́n về căn cứ và những cơ sở của hải cảng Cam Ranh.

    Tất cả đường lối chánh trị của ông Kissinger về Việt Nam h́nh như bị hậu quả của vụ Watergate. Nếu ông Nixon c̣n ở trong chánh quyền th́ ông không bao giờ chấp nhận cuộc tấn công của cộng sản Bắc Việt vào tỉnh Phước Long hay vào Ban Mê Thuột . Ông ta, phải , chính ông ta sẽ gởi oanh tạc cơ B.52 môt cách hợp pháp hay bất hợp pháp. Liên Xô cũng vẫn có quyền lợi khi cuộc xung đột được giăm bớt.

    Đă quá trể để hy vọng rằng lănh đạo Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa có ư định ngưng, hay có thể hăm các cuộc tổng tấn công của Bắc Việt lại. Hơn nữa ông Kissinger nghi ngờ Hà Nội có đủ khả năng cưỡng lại áp lực của hai đàn anh lớn của ḿnh.

    Ngày 25 tháng 3, ông Tổng Trưởng Ngoại Giao cũng kêu gọi thẳng Hà Nội trong một "công điện cho ông cố vấn đặc biệt Lê đức Thọ", người đối thủ già trong cuộc thương thuyết ở Paris năm nào. Bức thư rất ngắn:

    - " Thưa Ngài Cố vấn đặc biệt,

    Các cuộc tấn công của lực lượng quân sự của ông đă làm cho tôi khó chịu và tức giận. Quả là một cuộc xâm lăng thuộc loại quá rơ ràng. Nó nói lên một sự xé bỏ Hiệp Định Paris bằng vũ lực. Nếu ông c̣n tiếp tục, nếu ông c̣n mở rộng các cuộc tấn công đó ra thêm nữa th́ đó là ông ngăn cản mọi thảo luận nhằm thi hành các điều khoản chánh trị của Hiệp Định Paris . Từ việc nầy và những hậu quả sẽ diễn ra sau đó, ông sẽ hoàn toàn lấy hết trách nhiệm."

    Và ông Kissinger kết luận :

    - " Ông không nên coi thường phản ứng của Hoa Kỳ cũng như hậu quả của những hành động của ông ở đây và trên toàn thế giới."

    Sự đe dọa, những lời ám chỉ cần thiết và mơ hồ về một "phản ứng bất thần của Hoa Kỳ " h́nh như là một tṛ chơi quá nghèo nàn. Lănh đạo đảng ở Hà Nội c̣n có hơn 2 tháng nữa để cân nhắc những điều có lợi và những nguy cơ của việc tiêp tục tiến quân trong cuộc tổng tấn công. Qua những nhà ngoại giao của khối "dân chủ nhân dân" (cộng sản) đang ở Hoa Thạnh Đốn, và hơn thế nữa chỉ cần đọc qua các báo Mỹ được gởi tới Hà Nội ... th́ Bắc Việt cũng biết quá rơ là Hoa Kỳ không có một can thiệp quân sự nào nữa hết. Họ hoàn toàn tin chắc như thế cũng như họ đă không hề bị Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh chánh thức phản đối họ vậy.

    Khi ông Lê đức Thọ nhận được bức công điện của ông Kissinger th́ ông ta đang sẵn sàng để lên đường đi vào chiến trường Miền Nam Việt Nam . Ông Lê đức Thọ là người đă được giải Nobel về "ḥa b́nh ", là tác giả chính và kỹ sư tạo dựng ra "Hiệp Định chấm dứt chiến tranh và lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam" (tên chánh thức của Hiệp Định Paris - cũng do ông Thọ đặt ra), nhưng mỉa mai thay hiện ông đang đích thân đi giám sát và đôn đốc sao cho cuộc chiến phải được tiếp tục cho đến khi đạt được chiến thắng cuối cùng (hay ḥa b́nh kiểu cộng sản cho nước Việt Nam) !!!

    Ngày 25 tháng 3 tại Hà Nội : Chánh trị Bộ cộng sản cho ra một bản tuyên bố quan trọng:

    - " Cuộc tổng tấn công của chúng ta đă bắt đầu với chiến dịch tại Vùng Cao Nguyên. Thời điểm chiến lược chờ đợi đă đến. Tất cả mọi điều kiện đều được tập trung đầy đủ để thực hiện quyết tâm của chúng ta sớm hơn dự tính nhằm giải phóng Miền Nam, Bộ Chánh trị đă có chỉ thị phải thực hiện trong một thời gian ngắn nhất, một sự tập trung quân số, vũ khí và chiến cụ để giải pḥng Sài G̣n trước mùa mưa"

    Tổ chức Quân Chánh đă sẳn sàng tại chỗ . Lê đức Thọ và tướng Văn tiến Dũng sẽ chỉ huy tổng quát toàn bộ chiến dịch. Phạm Hùng bí thư đảng ở Miền Nam và tướng Trần văn Trà chỉ huy các cuộc tấn công chiếm Sài G̣n. Tất cà các sư đoàn trừ bị của Bắc Việt được điều động vào hết cho cuộc tổng tấn công nầy.

    Trước khi rời khỏi Hà Nội, Lê đức Thọ đă có nhiều cuộc nói chuyện với Lê Duẫn. Ông ta rời Hà Nội bằng phi cơ ngày 28 tháng 3. Trong đêm "du lịch" đầu tiên, ông làm một bài thơ tặng Lê Duẫn :

    Lời anh khuyên : "chiến thắng mới trở về"

    Nói ǵ đây? Đôi lúc không mạnh miệng

    Qua lời anh, như nghe lời đất nước

    Đường ra trận, có tin vui dồn dập

    Vọng đâu đây, ḥ reo mừng chiến thắng

    Giục đi nhanh, để kịp tới đúng giờ

    Giờ thuận lợi đến rồi, ngay trước cửa ! (1)

    Tại Hà Nội, người ta đặt hết hy vọng vào anh bộ đội, c̣n ở Hoa Thạnh Đốn th́ người ta đi t́m một con đường chánh trị và người ta đang lo tán tỉnh Quốc Hội trong lúc các nghị sĩ và dân biểu đang bận rộn lo đi nghĩ hè 10 ngày , kể từ ngày 27 tháng 3.

    Con đường chánh trị tối om, ông Kissinger lại t́m cách xuất hiện trước dân chúng trong một cuộc họp báo:

    - " Chúng ta không nên đánh sập, tiêu diệt đồng minh của chúng ta . Chuyện đó sẽ tạo ra nhiêu hậu quả rất trầm trọng trên khắp thế giới"

    Chuyện đó sẽ chớ không phải chuyện đó đă . Có ǵ lẫn lộn không ? Đối với ông Kissinger th́ tṛ chơi đă kết thúc rôi ! Nhưng với ông Ford, ông ta vẫn c̣n tiêp tục xin Quốc Hội một ngân khoản viện trợ bổ túc và tuyên bố là Chánh Phủ sẽ sẳn sàng chấp nhận một kế hoạch 3 năm cho Cam Bốt và Việt Nam . Không thể hơn được .Một nhà báo hỏi ông Ford phải chăng ông đang mua thời gian. Ông Kissinger trả lời cộc lốc:

    - " Có nhiều bài toán không có thời hạn để giải quyết... T́nh h́nh tùy thuộc vào hành động của Bắc Việt "

    Ông lại nói thêm :

    - " Từ tháng 5 /1974, VNCH chỉ có nhận được đạn dược và xăng dầu, gần như không có một cơ phận thay thế nào, và không có một chiến cụ tối tân nào. Trong hoàn cảnh đó, tinh thần quân đội xuống thấp là điều không thể tránh khỏi, và những hậu quả mà chúng ta thấy được hôm nay không có chi lạ hêt.

    Nhà Trắng có phiên họp, có sự hiện diện của ông Kissinger, của tướng Brent Scowcroft, tướngTham Mưu Trưởng Lục Quân Frederic Weyand và Đại sứ Graham Martin. Ông Martin được lệnh phải về lại ngay Hoa Thạnh Đốn . Có một người có tầm cở, vắng mặt. đó là ông James Schlesinger, Tổng trưởng Quốc Pḥng. Một người dự thính bất thần: David Kennerly, 28 tuổi,nhiếp ảnh gia đặc biệt của Tổng Thống Ford, được lệnh của ông Ford ở lại luôn trong pḥng họp.

    Cuối cùng rồi người ta mới ư thức được t́nh h́nh tối nghiêm trọng trên toàn cơi Đông Dương. Tuy vậy, ông Martin vẫn c̣n khuyên nên có một mức độ khả tín nào đó đối với mọi tin tức từ Sài G̣n gởi tới.. Người ta sổ hai gạch tréo lên Cam Bốt. Một trong những công điện cuối cùng của ông Wolfgang Lehmann cho thấy thật là bi quan. Nhân vật số hai của sứ quán Mỹ ở Sài G̣n không có đ̣i hỏi một cuộc không trợ của Hoa Kỳ v́ ông thừa biết là ông Ford không thể cho phép được .Ông đề nghị một "mẹo", một "mánh khóe" (nguyên văn danh từ tác giả dùng là gimmick, tiếng Mỹ): quảng bá tối đa số phận của những người tỵ nạn Việt Nam, để cảm hóa dư luận dân chúng Mỹ, và do đó ảnh hưởng đến các nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội . Không ai trả lời ǵ cho ông ta hết.

    Về những người tỵ nạn, người ta sẽ gởi tàu thuyền đến gần bờ biển Việt Nam , ngoài khơi trong vùng Đà Nẵng, với những chỉ thị rơ rệt: Các tàu thuyền sẽ phải ở cách bờ biển Việt Nam 3 gút, để tránh giao tranh với Bắc Việt và để tôn trọng luật lệ quốc tế.

    Tướng Weyand sẽ đi Sài G̣n với 2 nhiệm vụ: thảo một phúc tŕnh về tinh h́nh

    quân sự , và nói với Tổng Thống Thiệu rằng Chánh Phủ Hoa Kỳ sẽ hậu thuẩn Việt Nam Cộng Ḥa được chừng nào hay chừng nấy nhưng người Mỹ không chiến đấu ở Việt Nam nữa, cả trên bộ , trên không và trên biển.

    Vào cuối phiên họp, nhiếp ảnh gia Kennerly xin Tổng Thống cho phép anh tháp tùng tướng Weyand. Ông Ford chấp thuận ngay v́ ông vẫn xem Kennerly như con của ông vậy. Kennerly tươi cười nói với ông Graham Martin :

    - " Tôi rất vui mà được biết ông cũng cùng đi . Khi mọi việc kết thúc một cách tệ hại, th́ ông Phil Habib có thể chỉ mặt thủ phạm- người đó là ông !

    Ông Martin không thấy câu nói đùa đó thật là kỳ quặc !

    Hà Nội không quên mặt trận ngoại giao. Họ xử dụng mặt trận nầy để đánh lạc hướng dư luận và để quấy rối kẻ địch nhất là người Mỹ. Họ có một hệ thống rất hữu hiệu để tấn công về ngoại giao ở Ba Lê, nơi diễn ra, trên lư thuyết, những cuộc đàm phán chánh trị giữa "các Bên ở Miền Nam Việt Nam " từ năm 1973, chính xác hơn là ở La Celle- Saint-Cloud. Trên nguyên tắc người ta phải t́m ra một giải pháp chánh trị khả dĩ áp dụng được cho Miền Nam Việt Nam sau ngày ngưng bắn.(1/1973)

    Ông Đinh bá Thi, tạm thời đang cầm đầu phái đoàn của CPLTCHMN ở Ba Lê, mở một cuộc họp báo, có đủ mặt các nhà báo Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Việt Nam . Trước hết, người thông dịch viên của ông Thi đọc một bản tuyên bố thật dài:

    - "Những cuộc hành quân của chúng tôi (cộng sản) ở Việt Nam là những hoạt động nhằm chống lại một cách hợp pháp và chánh đáng những vi phạm Hiệp Định Paris của Miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ "

    Trước kia, Hà Nội và CPLTCHMN chối không công nhận là họ có hành động tấn công. Bây giờ th́ họ lại chứng minh cho hành động tấn công đó của họ:

    - " CPLTCHMN đ̣i hỏi "ông Nguyễn văn Thiệu và những người của ông ta" phải ra đi. Và họ lập lại sự đ̣i hỏi mới nhất mà Thủ tướng Bắc Việt đă nói riêng với Đại sứ Pháp Philippe Richer ở Hà Nội . CPLTCHMN chỉ sẳn sàng mở những cuộc bàn thảo về tương lai của Miền Nam Việt Nam với một " nền Hành Pháp mới, được thành lập ở Sài G̣n ", (họ lăi nhải tiếp) một nền hành pháp sẽ "giúp đỡ cho ḥa b́nh, độc lập, dân chủ và ḥa hợp quốc gia".

    Người của CPLTCHMN ở Ba Lê thi hành chỉ thị do "chi bộ đặc biệt" ban hành. Chi bộ nầy được thành lập ở Hà Nội ngày 15 tháng 3 và đặc trách về "mặt trận ngoại giao", gồm có Thứ Trưởng ngoại giao Nguyễn cơ Thạch, Phan Hiền Giám Đốc Báo Chí của Bộ Ngoại giao, Mai văn Bộ, cựu đại sứ Bắc Việt ở Ba Lê,và đại tá Hà văn Lâu, bạn của Thủ Tướng Phạm văn Đồng, một người từ lâu rồi được coi như một nhà ngoại giao hơn là một quân nhân. Ông đại tá nầy là nhân vật số 2 của công an mật vụ, thường được Bộ Chánh trị giao cho nhiều nhiệm vụ khó khăn. Liên lạc thẳng với Bộ Chánh trị, chi bộ đặc biệt nầy phải lợi dụng "tất cà các mâu thuẩn của địch" và chuồi cho đối thủ một cảm tưởng như là có một sự khác biệt hay bất đồng nho nhỏ giữa các vị trí của Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam (Bắc Việt) và CPLTCHMN.

    Sau khi đọc xong bản tuyên bố, người của CPLTCHMN ở Ba Lê tuyên bố anh ta sẵn sàng trả lời những câu hỏi. Người ta đặt một câu hỏi về sự hiện diện của các sư đoàn Bắc Việt tại Miền Nam Việt Nam . Người ta có thể nói là anh ta dùng một luận điệu cũ rích:

    - " Đó là những "báo cáo sai sự thật và cố ư vu khống"

    Anh ta lại nói thêm rằng:

    - " Hơn nữa Hiệp Định Paris "từ chối sự hiện diện của các loại đơn vị đó."

    Lại đúng là Hiệp định, đừng nói tới nó nữa!... anh ta đâu có chối cải ǵ đâu !.

    Người ta hối thúc Đinh bá Thi về một giải pháp chánh trị . Không biết ông ta hiểu thế nào là "người của ông Thiệu" ? Phải chăng đó là ông Thiệu và những người thân cận của ông ta ? Hay là tất cả Chánh Phủ của ông ta ? Ông Thi để lộ cho biết là họ cũng chấp nhận một số người của Miền Nam Việt Nam . Người của ông Thiệu chỉ là "một số ít". Sau đó ông tai khen ngợi lực lượng thứ ba. Trong mọi dàn xếp lực lượng nầy sẽ có một chỗ đứng, có một vai tṛ nào đó.. Ngay trong buổi họp báo, có một người của lực lượng thứ ba nầy phân phối một bản tuyên ngôn kêu gọi nên kết cuộc chiến bằng một giải pháp chánh trị .

    Sau cuộc họp báo, các nhân viên ngoại giao Bắc Việt và đại diện của CPLTCHMN và các phóng viên thuộc thông tấn xă Bắc Việt phân phối những bản chú thích. Vâng, Hà Nội và CPLTCHMN muốn đi tới một giải pháp chánh trị . Cuộc tổng tấn công trong hiện tại ư ? Chỉ là một phương tiện để đạt tới những cuộc thương lượng trong ch́u hướng đó mà thôi !! Đại diện của CPLTCHMN , mà Đinh bá Thi là người đầu tiên, lúc tiết lộ tâm t́nh, có nới nhỏ là họ c̣n mong muốn nhanh chóng đi đến một giải pháp chánh trị c̣n hơn Hà Nội nữa. Đúng là công thức của người cộng sản Việt Nam "vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh" hay "đánh đánh đàm đàm" đă được thay thế bàng "đánh đánh mà không đàm đàm" nhưng vẫn cho người ta có cảm tưởng rằng họ muốn đàm"

    Trong tay của người cộng sản Việt Nam , ngoại giao chỉ là một phương tiện để kéo dài chiến tranh, dĩ nhiên phối hợp với những phương tiện khác nữa. Báo chí chỉ là một trong những phương tiện khác đó.

    Giữa Clausewitz, Lénine và cộng sản Việt Nam, ai đắc ư hơn ai ?

    Trưa ngày 26 tháng 3 trong hầm trú ẩn của Bộ Tư Lệnh chiến dịch , tướng Văn tiến Dũng duyệt lại kế hoạch của ông ta. Trước khi mở cuộc tấn công vào Sài G̣n, ông muốn Hà Nội cho ông ta một thời gian để thanh toán tất cả mọi ổ kháng cự trong Vùng I Chiến Thuật. Tổng tư Lệnh quân Bắc Việt không muốn để lại sau lưng ḿnh dọc theo bờ biển bất cứ một cứ điểm pḥng ngự nào.

    Ngày hôm đó, ông ta được người ta xác nhận là Huế đă được "giải phóng" (danh từ cộng sản). Tất cả mọi kháng cự đều bị bẻ gảy. Tướng Dũng đốt một điêu thuốc lá, tự nhũ: " Ḿnh đă bỏ thuốc từ lâu rôi, nhưng cứ mỗi lần có một bài toán nào khó khăn được giải quyết, hay đạt được một chiến thắng nào, cứ mỗi lần có một sự thành công nào gở bớt gánh nặng cho ḿnh, th́ ḿnh phải hút một điếu.."

    Ngày 26 tháng 3, tại Nha Trang, tướng Phú đỡ mệt rồi nên mới có một tường tŕnh về Vùng II Chiến Thuật. Ông đă không nh́n thẳng vào thực tế chút nào! Ông nói:

    - "Binh sĩ của Vùng II Chiến Thuật đă hoàn toàn phá tan danh tiếng của 2 sư đoàn Bắc Việt . "

    Lẽ ra ông định muốn nói đă đánh tan 2 sư đoàn đó . Tướng Phú tŕ hoản sự thất bại của ông qua những câu nói đầy nghi thức của mấy ông tướng thất trận như "điều quân" hay "chận đường tiến quân của lực lượng ..... v.v..."

    Căn cứ trên những tin tức từ tướng Phú, đài phát thanh Sài G̣n đổi sự thảm bại trên đường liên tỉnh 7 B thành cuôc triệt thoái khá thành công:

    - : "Cuộc di chuyển vĩ đại về hướng Đông của hai trăm ngàn quân dân thuộc các tỉnh Kon Tum và Plei Ku, Phú Bổn và Ban Mê Thuột đă tiến hành trong khuôn khổ một cuộc tập trung lực lượng để pḥng thủ phần lănh thổ dọc theo bờ biển."

    Tướng Phú cũng đích thân trinh bày trên đài phát thanh những chi tiết mà theo ông gần như một chiến thắng:

    - " Dân chúng chạy tản cư tỵ nạn cộng sản đă được quân đội bảo vệ tối đa. Các đơn vị đă chống lại những cuộc tấn công của Bắc Việt ở phía trước mặt và phía đàng sau lưng. Trên tuyến đường dài như vậy, quân đội phải lần lượt bắc cầu, sửa đường. Các đơn vị Công Binh đă san bằng phẳng con đường và bắc lại 28 cây cầu đủ mọi kích thước. Tướng Phú gần như tin vào những điều ông nói, nhưng các đài phát thanh ngoại quốc không thấy lập lại những điều nầy. Ở Sài G̣n người ta ai cũng biết phải nghe theo ai rồi. Ở chỗ nầy phát ngôn viên quân đội Trung tá Lê trung Hiền trong ngày hôm đó đă phải long trọng cảnh cáo hai phóng viên của UPI và AP:

    - " Họ đă phạm luật khi họ cho phổ biến tin tức liên quan đến t́nh h́nh quân sự ở vùng Huế. "

    Các hảng thông tấn nầy dă loan báo ngày hôm qua rằng: "lực lượng của QLVNCH đă di tản khỏi thành phố Huế". Phát ngôn viên không muốn đính chánh mà cũng không xác nhận tin nầy, Ông ta muốn các hảng thông tấn nên thận trọng. Ông ta là một người rất tốt , cho tới giờ nây có thể tin tưởng được lối 50 %. Trong trường hợp thật sự như vậy th́ nhiệm vụ của một người phát ngôn viên quân sự gần như rất khó mà hoàn thành được . Trung tá phát ngôn viên nầy v́ muốn che dấu sự thật mặc dầu sự kiện đă quá rơ ràng như vậy, nên mất b́nh tĩnh trong buổi thuyết tŕnh hằng ngày của ông, trong 10 ngày trước . Ông đă nói với các nhà báo : " Chánh Phủ không có quyết định bỏ Pleiku. V́ chỉ căn cứ trên lư luận nên điện tín của các ông đă tạo ra một sự kinh hoàng cho dân chúng của tỉnh nầy ."

    Theo quan điểm của một vài giới chức Hoa Kỳ trước năm 1973, chánh quyền VNCH sẳn sàng nh́n báo chí như một tác nhân chính của những sự thất bại của ḿnh. Năm 1975 cũng giống như năm 1965, quan hệ giữa nhà báo và giới quân nhân ở cấp cao thường rất căng thẳng. Các nhà báo ngoại quốc đă gởi tin đi mặc cho những lời đe dọa của chánh quyền .

    Đối với báo chí ngoại quốc, chánh quyền Miền Nam Việt Nam đă có những luật lệ không rơ ràng lắm. Không ai được phép làm hại đến nền an ninh quốc gia, câu nầy bao gồm tất cả các tội của báo chí. Người ta không được nêu lên vị trí của các đơn vị đang lâm trận, vấn đề nầy dương nhiên là như vậy rồi. Thực tế th́ không có một sự kiểm duyệt nào như đối với báo chí Việt Nam . Người Việt Nam trong guồng máy chánh trị quân sự và cảnh sát ai cũng đều nhạy cảm , nếu không muốn nói là bị khủng bố v́ hệ thống và guồng máy truyền thông vĩ đại của Hoa Kỳ . Họ đều biết rằng mọi biện pháp trừng phạt như kiểu trục xuất một phóng viên người Mỹ đều nhanh chóng có những kích thước dị thường ở Hoa Kỳ . Mọi dị đồng giữa chánh quyền Sài G̣n và người phóng viên Hoa Kỳ đều có thể tạo nên một hiệu quả trái ngược mà phần xấu thường bất lợi cho chánh quyền Miền Nam Việt Nam .

    Có rất nhiều sự va chạm, công khai hay ngấm ngầm giữa sứ quan Hoa Kỳ và giới truyền thông báo chí Mỹ. Tuy nhiên khi sự va chạm đó xảy ra giữa báo chí Mỹ và chánh quyền VNCH th́ sứ quán Hoa Kỳ lại nhanh chân bênh vực công dân của họ. Trong tất cả các bất đồng giữa Mỹ - Việt, th́ phần lỗi gần như luôn luôn thuộc về phía người Việt Nam . Hoa Kỳ không có theo đuổi một cuộc chiến tranh kiểu thực dân đô hộ ở Việt Nam. Tuy nhiên, quy chế ưu đải cho giới truyền thông báo chí Mỹ và sự nể v́ của các công chức Miền Nam Việt Nam đă tạo nên một t́nh trạng gần như bị đô hộ. Người dân Bắc Việt không biết ǵ về t́nh h́nh nầy. Hằng ngàn nhà báo và phóng viên ngoại quốc đă theo sát cuộc chiến ở Miền Nam, muốn đi đâu th́ đi rất thong thả. Cón ở Miền Bắc th́ người ta chỉ cấp phép rất hạn chế (bủn xỉn) cho những đại diện báo chí nào "chắc ăn", cộng sản hay tiến bộ cảm t́nh viên. Và đặc biệt , những phóng viên chỉ ra khỏi Hà Nội với các hộ vệ thật chặt chẽ.. Cùng một lúc không bao giờ có hơn 15 phóng viên Tây Phương không cộng sản ở nước Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam, từ khi cuộc chiến bắt đầu. Trong trường hợp đó, bảo đảm là tin tức không lọt được ra ngoài, họ không có nguy cơ bị phao "tin tức giả" như ở Sài G̣n.

    Tại Đà Nẵng, tướng Trưởng tổng kết thiệt hại của Vùng I Chiến Thuật. T́nh h́nh ở đây có vẻ ít lạc quan hơn ở trên tướng Phú. Cuộc di tản khỏi Huế tiến hành không được suông sẻ. Chỉ có một số rất ít quân nhân đến được Đà Nẵng cùng với đơn vị của họ.

    Riêng phần lớn binh sĩ của một trung đoàn thuộc sư đoàn 1 bộ binh và 600 Thủy Quân Lục Chiến đă đến được Đà Nẵng với vũ khí của họ. Các sĩ quan tham mưu đến từ Sài G̣n lại làm cho t́nh h́nh càng thêm lộn xộn thêm khi họ nhắc lại là Thủy Quân Lục Chiến phải được đưa về thủ đô.

    Tướng Trưởng không có th́ giờ và phương tiện cần thiêt để tổ chức pḥng thủ Đà Nẵng . Hơn nữa, báo cáo xác nhận là bộ đội Bắc Việt được điều động quá hay, cho thấy có nhiều tiến bộ hơn từ các trận đánh lớn hồi năm 1972, nhất là việc xử dụng các chiến xa. Năm 1972, họ cũng tiến vào Huế, nhưng lúc bấy giờ họ tiến dọc theo các thung lủng, chiến xa th́ di chuyển riêng lẻ, không có sự phối hợp chặt chẻ với bộ binh và pháo binh. Các chiến xa Bắc Việt th́ đóng kín hết cửa nên thiếu tầm nh́n chung quanh, cho nên chiến xa gần như bị mù. Do đó năm 1972 các chiến xa T. 54 dể trở thành miếng mồi ngon của các vũ khí chống chiến xa và pháo binh của VNCH . Bây giờ th́ không c̣n chuyện đó nữa.

    -----------------------------------------------------------------------

    Chú thích của người dịch :

    (1) nguyên văn bài thơ của tác giả viết bằng tiếng Pháp, không biết ông sưu tầm được bài thơ của Lê đức Thọ ở đâu ? Chúng tôi xin trích lại nguyên văn tiếng Pháp mà tác giả đă dịch từ bài thơ tiếng Việt của Lê đức Thọ để quư độc giả thấy rơ quyết tâm tiếp tục cuộc chiến , tiến hành cuộc tổng tấn công xâm chiếm Miền Nam của Bắc Việt và nhất là của một người cộng sản đă được giải Noel về "ḥa b́nh" đang đi "thực hiện ḥa b́nh" bằng cuộc tổng tấn công ở Miền Nam Việt Nam !:

    Ton dernier conseil: "ne reviens que vainqueur

    Que dire? A certains moments, les mots sont faibles

    Par ta bouche le pays tout entier me parlait

    Sur la route du front que d'heureuses nouvelles

    Partout les cris de joie célébrant nos victoires

    M'encouragent à presser le pas pour arriver à temps

    Le moment favorable est là qui frappe à la porte.

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tháng Tư Nghiệt Ngă 1975 - Sài g̣n Thất Thủ
    » Tác giả: Olivier Todd
    » Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa




    15. Chương 12 - Đà Nẵng thất thủ

    Những người đang trương cờ gióng trống tiến hành cuộc xăm lăng đó là ai ?

    Đó là những anh bộ đội Bắc Việt , những người dân Miền Bắc những người lính dẻo dai, dản dị, bền bĩ, can đảm,...lúc nào cũng giữ ḿnh trong kỹ luật sắt. Họ từ Miền Bắc vào , không mang theo gia đ́nh vợ con. Tuổi của họ vào khoảng từ 16 đến 35. V́ các tổn thất nặng trong những năm gần đây nên người ta thấy có nhiều khoảng cách lớn giữa các lớp tuổi trong quân đội Bắc Việt .

    Người lính VHCH th́ nặng nề lỉnh kỉnh quá. Trong lúc người lính Bắc Việt chỉ ưu tiên mang theo đạn dược. Họ được qua một khóa huấn luyện căn bản 18 tháng. Người ta chỉ biết là họ bằng ḷng với sự tối thiểu: v́ họ đă quá quen với sự tối thiểu đó ở Miền Bắc rồi . Khẩu phần hằng ngày của họ chỉ có 600 hay 700 gram gạo, bánh lạt làm bằng đậu, đôi khi có được 50 gram cá khô hay thịt hộp của Trung Cộng, họa hoằn lắm mới được ăn gà. Thuốc lá th́ là một đặc ân khi nào có thuốc về chớ không phải đương nhiên mà có. Sĩ quan - thường không đeo quân hàm- cũng có khẩu phần như vậy suốt thời gian chiến dịch cũng như khi ra mặt trận. Nhưng ở Miền Bắc các cán bộ đảng (dân chính) đều có những đặc ân theo từng cấp về nhà ở, về lương thực, và thuốc lá th́ được thường xuyên. Họ biết và chấp nhận như vậy, coi như một định mệnh. Trong hàng ngũ quân đội không có một đặc quyền đặc lợi nào về vật chất, tất cả đều hoàn toàn mất hết khi bộ đội vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 hay đến Miền Nam bằng đường ṃn Hồ chí Minh. Dĩ nhiên là tướng Văn tiến Dũng không khi nào thiếu thuốc lá.

    Ngày trước người lính Bắc Việt phải đi bộ theo đường ṃn Hồ chí Minh nầy để vào Miền Nam và họ biết là có rất ít cơ may để trở về cũng bằng con đường nầy trong ṿng 2 hay 3 năm. Trường hợp bị thương nặng th́ không bao giờ hy vọng được sống sót, trong khi người lính chiến VNCH khi bị thương th́ hy vọng được tản thương bằng trực thăng.

    Bây giờ th́ những tân binh của Bắc Việt ước đoán là chiến tranh sẽ chấm dứt. Trước kia th́ họ phải đi bộ, mỗi ngày được chừng 30 hay 40 cây số, ngày nay th́ họ được di chuyễn bằng ô tô.

    Tất cả những người nầy không bao giờ biết được t́nh h́nh cuộc chiến và sự tuyên truyền của đảng. Ngay như ở đẳng cấp sĩ quan, họ bị nhồi nhét ư thức hệ, dù thật là đơn giản. Trong thời gian tiến hành chiến dịch năm 1975 nầy, các chánh trị viên đơn vị không có th́ giờ để giảng huấn. Trong thời gian ở cấp tiểu học và trung học và trong suốt khóa huấn luyện quân sự, hầu hết các binh sĩ đều được nhồi nhét vào đầu một vài nguyên tắc sơ đẳng:

    - " Nước Việt Nam phải được thống nhất;

    - " đồng bào Miền Nam rất nghèo khổ và bị áp bức;

    - " Họ đang chờ chúng ta vào giải phóng họ."

    Người lính Bắc Việt không đ̣i hỏi mà cũng không tự hỏi về quyền lợi mà họ phải có được hay không có được khi trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn hay sư đoàn của họ phải đi vào Miền Nam . Tất cả đều là người Việt Nam , dù giọng nói có khác nhau. Là lính của chiến xa, họ không tự hỏi xem chiến xa của họ chạy bằng ǵ, tại sao trên pháo tháp lại có cây cờ xanh và đỏ của CPLTCHMN chớ không phải lá cờ đỏ sao vàng của nước cộng ḥa dân chủ Việt Nam ? Nhất là sau khi chiếm được Ban mê Thuột , hầu hết các bộ đội Miền Bắc , phần lớn là nông dân chất phác, đều thấy ngày chấm dứt đời quân ngủ trong tầm tay. Tất cả đều mong muốn có được "ḥa b́nh", muốn đạt được ḥa b́nh tất nhiên phải chấm dứt chiến tranh. Đâu có cần ǵ đến các chánh trị viên mới có thể giải thích việc đó cho họ ?

    Chánh trị viên có một nhiệm vụ không quan trọng lắm như trước kia. Một phần v́ có sự tranh cải giữa các chuyên viên và người theo ư thức hệ (chuyên và hồng), và thường ngă về phía nhóm quân nhân chuyên nghiệp.Trong đảng và trong các bộ tham mưu người ta cũng đă có cuộc thảo luận: trong việc huấn luyện binh sĩ, câu hỏi được đặt ra là ư thức hệ chánh trị và kỹ thuật quân sự môn nào ưu tiên hơn? Câu hỏi nầy có thể có một ư nghĩa nào đó cho các đơn vị nhỏ của kháng chiến quân không có vũ khí tối tân đang đương đầu với các đơn vị Hoa Kỳ hay của VNCH, những đơn vị được vơ trang thật hùng hậu trong vùng đồng lầy của sông Cữu Long hay trong vùng rừng rậm ở biên giới CamBốt.

    Khi người ta tiến hành một cuộc chiến tranh cổ điển, với những sư đoàn quy ước th́ câu hỏi trên thật là vô nghĩa. Không có một trực giác Mác xít hay một loé sáng của ngôn ngữ nào có thể giúp hiểu được sự vận hành của một chiến xa T.54 hay của một Mig 21. Lănh đạo Bắc Việt , đệ tử trung thành Lê Nin nít đôi khi cũng lo sợ rằng giới quân nhân của ḿnh không nuốt nỗi cuộc cách mạng Việt Nam giiống như cuộc cách mạng Pháp hay nhiều cuộc cách mạng khác trên thế giới thứ ba. Đối với Chánh Trị Bộ Bắc Việt th́ "đảng kiểm soát cây súng" . Ư chí cách mạng hay lương tâm chánh trị phải chăng là động lực của quân đội ? Đó là những chuyện phù phiếm rất tốt cho các đồng chí Trung Hoa. Người ta cố tránh những mâu thuẩn và căng thẳng giữa giới dân chính và giới quân nhân, hay tranh chấp giữa đảng và các Bộ Tham Mưu quân sự bằng cách đưa những quân nhân quan yếu vào Ban Lănh đạo đảng. Tướng Giáp và tướng Dũng đều ở trong Ban Lănh đạo. Họ đă biết rơ từ lâu là không thể phân chia quyền hành giữa người chỉ huy quân sự và chánh trị viên được, khi phải ;tiến hành cuộc chiến với những đại đơn vị. Trên lư thuyết th́ vẫn có sự phân biệt, nhưng cũng nhẹ nhàng thôi khi thực hành.. Bây giờ th́ các sĩ quan quyết định và chánh trị viên phải theo. Nhưng trên cao th́ ngược lại vẫn có hai hệ thống kiểm soát, như Lê đức Thọ và Văn tiến Dũng hay Phạm Hùng và Trần văn Trà.

    Anh bộ đội Bắc Việt diễn hành không hay trên đường phố của Hà Nội hay Hải Pḥng; ở thủ đô Tel-Aviv người lính chiến Do Thái cũng vậy . Những người cộng sản Việt Nam đă học rất lâu trong cuộc chiến ở bưng biền. Trong hiện tại th́ họ đă biết thế nào là chiến tranh quy ước, và họ đă có nhiều tiến bộ trong mọi lănh vực. Chỉ có Không quân của họ là bị chậm trể mà thôi.Anh bộ đội Bắc Việt và anh kháng chiến quân được nỗi tiếng hay đi vào truyền thyết là v́ đôi dép được gọi là dép cụ Hồ làm bằng lốp xe ô tô, và khẩu súng xung kích AK.47. Không phải đôi dép râu và cây súng AK đă đem lại chiến thắng cho họ, mà là những súng đại liên, những hỏa tiển SA-7 đă giúp che chở cho các phi cơ, các khẩu đại bác thường hoạt động với những dàn ra đa, toàn là chiến cụ tối tân.

    Trong chiến tranh Tây ban Nha, Đức quốc xă và phát xít Ư đă có ư thử vũ khí đạn dược của họ để sửa soạn tiến hành Thế Chiến thứ hai. Ở Việt Nam Liên Xô cũng thử chiến cụ của họ - và nhất là các dụng cụ pḥng chống phi cơ (DCA). Phải chăng họ muốn chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh quy ước ? một Thế Chiến thứ ba ? Họ thận trọng lắm, họ không có cung cấp cho cộng sản Việt Nam những dàn hỏa tiển loại mới nhất của họ. Họ không muốn các chiến cụ tối tân nầy rơi vào tay Miền Nam Việt Nam để rồi bị trao lại cho Hoa Kỳ . Những người lính Bắc Việt là những con vật thí nghiệm rất tốt giống như người Á Rập vậy.

    Đây không phải là những đơn vị kháng chiến quân đang tiến hành cuộc tổng tấn công xăm lược với vũ khí thô sơ hay nhặt nhạnh được , mà là những quân đoàn chánh quy Bắc Việt . Ở Miền Nam Việt Nam đă có không ít người dân và cả binh sĩ nữa đă nói rằng "Cơm đă nằm trong miệng họ rồi. họ sẽ nhai và nuốt dễ dàng thôi"

    Người Pháp gọi thành phố nầy là Tourane (Đà Nẵng). Sau Sài G̣n, Đà Nẵng là thành phố lớn thứ nh́ ở Miền Nam . Cái tên của Đà Nẵng kêu như một tiếng chuông truy điệu ! Thành phố nầy có quá nhiều kỷ niệm quân sự và hy vọng cho người dân Sài G̣n, cho những người Việt quốc gia. Trên những băi biển của Đà Nẵng mười năm trước, v́ người ta thấy có 6.000 kháng chiến quân (việt cộng) ở gần căn cứ Không quân nên Tổng Thống Johnson đă quyết định đưa quân ồ ạt vào tham chiến ở Việt Nam . Bốn chục ngàn cố vấn Mỹ đă được nửa triệu quân thay thế, mà nhiệm vụ không c̣n hạn chế ở việc bảo vệ các căn cứ của Mỹ nữa.

    Năm 1965, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ lội nước đổ bộ lên Đà Nẵng với nụ cười chiến thắng trên môi , với cờ xí kèn trống... Họ được cơ quan chiến tranh tâm lư đón tiếp với biểu ngữ, và các nữ sinh trẻ tặng hoa.

    Không có một thành phố nào trên toàn Đông Dương, kể cả Sài G̣n , có nhiều dấu ấn của chiến tranh bằng Đà Nẵng . Là một trung tâm chiến lược, Đà Nẵng có 2 quân cảng, 3 sân bay có thể tiếp nhận hằng ngàn phi cơ và trực thăng. Vẻ thơ mộng của thành phố biến mất với các kho đạn dược và kho nhiên liệu, với các trại đóng quân, quân y viện... được dụng lên quá vô trật tự. Rồi phải có chỗ cho quân nhân giải trí. Trên cái hổn độn đó lại mọc thêm những câu lạc bộ, các rạp xi nê và ngoài châu vi quân đội lại c̣n có các quán rượu, các quán cơm, các nhà thổ...

    Đà Nẵng có 600.000 dân. Cũng có một số dân tản cư tương đương như vậy đang cắm trại trong thành phố. Từng đoàn từng đợt nhập cư chậm chậm vào và chỉ trong có mấy ngày họ đă trở thành dân Đà Nẵng. Có một số người vào ở ngay trong cá trường học. Cũng may là không nhiều lắm, chỉ hơn trăm thôi. Lời hứa hôm nào của Thủ tướng không thấy được thi hành, Chánh Phủ không có đón tiếp ai hết. người dân tản cư tự lo và tự sấp xếp lấy cho họ với sự giúp đở của các cơ quan từ thiện. Người ta đem gạo và mền tới, nhưng không bao giờ đủ cho hằng ngh́n người vừa già trẻ lớn bé đi bộ tới hoặc được các xe buưt cũ kỹ đổ xuống. Có một số binh sĩ thất trận chạy từ Huế về, từng toán nhỏ chen chút vào với dân tản cư. Thấy sĩ quan họ không buồn chào. Nhiều quân nhân lẻ loi không t́m tới đơn vị của họ nữa: một tấm bi kịch khác lại bắt đầu ? Binh sĩ, hạ sĩ quan và cả sĩ quan nữa đang lo đi t́m kiếm gia đ́nh và thân nhân của họ.

    Tướng Trưởng có mấy bài toán phải giải quyết ngay tại Bộ Tư Lệnh của ông :

    - Người dân tản cư đổ dồn về Đà Nẵng không những từ hướng Bắc xuống mà từ hướng Nam lên nữa.

    - Quốc lộ số 1, con đường huyết mạch dọc theo bờ biển lại đang sôi động, bị cắt đứt nhiều chỗ.

    Do đó dân chúng và có khi binh sĩ nữa chỉ c̣n có đường biển may ra mới chạy thoát khỏi Đà Nẵng mà thôi. Trong lúc đó tin tức cho biết là các đơn vị Bắc Việt đang ở phía Nam và phía Tây cũng như ở phía Bắc của thành phố.

    - Thành phố đang thiếu lương thực. Các kho dự trử bị dân tấn công, các kho hàng bị mở tung. Muốn sống phải cướp giật thôi ! người ta đánh nhau giành giựt với nhau, giữa quân nhân với nhau, giữa dân và lính. Hàng Không Việt Nam báo là có trộm cướp từ phi trường ở về hướng Tây của thành phố. Vé tàu bay đi Sài G̣n từ 50 vọt lên đến 140 đô la.

    Bộ Tư Lệnh Bắc Việt chuẩn bị một cuộc hành quân bao vây. Rất là giản dị, ba mũi giáp công .

    - Các sư đoàn 324 B và 325 C, được 2 trung đoàn pháo binh và một trung đoàn thiết giáp yểm trợ sẽ tấn công trực diện Đà Nẵng từ hướng Bắc.

    - Các sư đoàn 404 và 711 tấn công từ phía Nam.

    - Hai cánh quân sẽ bắt tay nhau tại đèo Tượng, ở phía Tây của Đà Nẵng và từ đó họ sẽ tiến thẳng ra hướng Đông đưa hết những ǵ c̣n lại của Đà Nẵng ra biển. Tướng Dũng không biết ông Thiệu thiếu lực lượng trừ bị đến mức độ nào. Nhưng ông phải bảo đảm được là nếu có lực lượng trừ bị th́ lực lượng nầy cũng không thể đến với Đà Nẵng được . Mà nếu ông Thiệu có chấp thuận tăng cường cho Đà Nẵng th́ tướng Trưởng cũng không thể đón nhận lực lượng nầy từ trong đất liền được.

    Ngày 27 tháng 3, pháo binh Bắc Việt nă tới tấp vào Đà Nẵng tạo ra một sự hỗn loạn khắp nơi trong thành phố.

    Tướng Trưởng có 2 việc không thể làm được : văn hồi trật tự trong thành phố, và tái tổ chức các đơn vị của quân đoàn.

    12 giờ trưa, Pḥng nh́ của Bộ Tổng Tham Mưu từ Sài G̣n điện ra Đà Nẵng : quân Bắc Việt sẽ tấn công thành phố vào ban đêm.

    14 giờ : các lực lượng địa phương quân có nhiệm vụ pḥng thủ ṿng đai của thành phố bỏ chạy tán loạn, nhân viên giữ các kho đạn và xăng dầu cũng bỏ chạy. Lệnh mới của Sài G̣n : "hăy di tản các trực thăng và phi cơ quân sự " Có lẽ người ta lo cứu chiến cụ, v́ không thể dùng phương tiện nầy để làm chậm trể bước tiến của quân Bắc Việt hay che chở cho công tác di tản bằng đường biển được . Các tàu thuyền đều tập trung ở ngoài khơi. Mặc dầu có một vài khẩu 175 cố gắng phản pháo nhưng pháo binh Bắc Việt vẫn tập trung bắn vào Bộ Tư Lệnh Quân đoàn và căn cứ Hải quân.

    Dưới một trận mưa pháo dữ dội, tướng Trưởng đang ở trong một căn hầm trú ẩn khoảng 100 thước vuông với và Bộ Tham Mưu của ông và đề đốc hải quân Hồ văn Kỳ Thoại, Chỉ huy trưởng Vùng Duyên Hải.

    22 giờ 30: tướng Trưởng lệnh cho Tư lệnh phó của ông, tướng Lâm quang Thi, hăy lên một tàu chiến của Hải quân đang ở ngoài khơi để thiết lập một Bộ Chỉ Huy hành quân mới. Tướng Trưởng đă có quyết định rồi. Ông không có được bao nhiêu người để thiết lập một cứ điểm pḥng thủ mạnh ở trong thành phố. Có thể ông chỉ c̣n đủ th́ giờ để cứu các đơn vị hiện c̣n đang chiến đấu. Ông dự trù một cuộc di tản, bắt đầu từ 6 giờ sáng.

    Ra khỏi hầm trú ẩn, tướng Thi nhận thấy ngay là căn cứ hải quân chính đang bị dân chúng chiếm rồi. Họ hy vọng sẽ lên được các tàu của Hải Quân . Trong số dân ở đây người ta khám phá ra được 3 quan sát viên của Bắc Việt với phương tiện truyền tin. Họ điều chỉnh tác xạ cho pháo binh Bắc Việt .

    Tướng Trưởng điện thoại về Sài G̣n cho Bộ Tổng Tham Mưu Liên Quân và cho Dinh Độc Lập. Ông đề nghị bắt đầu cuộc di tản bằng đường biển. Ông Thiệu lưỡng lự. Ông Thiệu không cho lệnh được .

    Trong lúc ông Thiệu và tướng Trưởng đang nói chuyện trên điện thoại th́ trung tâm truyền tin ở Đà Nẵng bị trúng đạn pháo của Bắc Việt . Liên lạc với Sài G̣n bị mất.

    Kế hoạch di tản do tướng Trưởng và đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại hoạch định có dự trù 3 điểm xuống tàu.

    Từ Sài G̣n phó Thủ Tướng VNCH ông Phan quang Đán gởi điện văn đến Liên Hiệp Quốc, đến Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, để yêu cầu sự giúp đở của các nơi nầy nhằm di tản mỗi ngày 100.000 người. Nhưng ngay tại Liên Hiệp Quốc, ông Tổng Thư kư cũng không chịu tiếp ông Nguyễn hữu Ch́ trong tư cách quan sát viên thường trực của VNCH.

    Ngoài số tàu thuyền của Hải quân Miền Nam Việt Nam, người ta c̣n thấy có cả tàu thuyền thuộc Nam Hàn, Đài Loan đang tập trung ngoài khơi Đà Nẵng . Úc, Anh Quốc và Phi luật Tân đều cam kết tham gia vào chiến dịch di tản nầy. Sáu phi cơ vận tải của Úc với đầy đủ lương thực và thuốc men đang chờ tại các sân bay của Mă lai Á.

    Tổng Thống Ford đă lệnh cho các tàu thuyền Hoa Kỳ, các tàu chở hàng thuộc công ty hàng hải và các tàu thuê bao như chiếc Dufresne, Ftrderick, Blue Ridge, Durham phải đến gặp chiếc Pionnier Contender và Andrew Miller . Một tuần dương hạm được lệnh ở gần đó, chiếc Lowestaff. Hoa Thạnh Đốn thông báo chánh thức là các tàu hàng hải nói trên đều không có vơ trang. Nhiều lắm cũng chỉ có vài chiếc tàu chiến nhỏ thuộc Hải quân phải có mặt trong vùng để giữ trật tự. Họ được lệnh không được khiêu khích quân đội Bắc Việt .V́ cuộc hành quân di tản và cứu vớt là hoàn toàn nhân đạo.

    Hà Nội và CPLTCHMN đều tố giác có "một sự can thiệp quân sự mới của Hoa Kỳ". Từ thủ đô Bonn (Tây Đức) ông Willy Brandt - người mà ai cũng biết là chống dường lối chánh trị của Hoa Kỳ tại Việt Nam- cho biết là "Chánh Phủ của ông đă cho Chánh Phủ Hoa Kỳ biết là Tây Đức sẽ sẳn sàng tham gia vào một sự giúp đở nhân đạo". Tại Hoa Thạnh Đốn, ông Daniel Parker Giám đốc Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế tuyên bố : " Chúng tôi sẽ hành động hết sức thận trọng". Điều nầy có nghĩa là các tàu thuyền không cập bến mà sẽ ở ngoài khơi, bên ngoài lănh hải của Việt Nam. Để chắc ăn hơn Hoa Thạnh Đốn c̣n xác định rơ là công tác nhân đạo chỉ liên quan đến dân chúng mà thôi.

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    15. Chương 12 - Đà Nẵng thất thủ
    P2



    Tại Đà Nẵng trên các đường phố cũng như ở ngoại ô và trên bến cảng, dân chúng và binh sĩ cứ chạy ḷng ṿng. Các gia đ́nh của quân nhân th́ không muốn rời khỏi thành phố mà không có con cháu của ḿnh. Bộ trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ quyết định là quân nhân nào đă rời khỏi đơn vị của ḿnh và không mang theo vũ khí cá nhân th́ có thể được coi là một người dân thường. Nhưng theo chỗ riêng tư th́ người ta giải thích là nếu cần th́ các tàu Hoa Kỳ có thể chở một vài đại đội thuộc QLVNCH, nhất là khi các chiến hạm VNCH không đủ để chuyên chở hết. Các chiến hạm nầy do đề đốc Chung tấn Cang. Tư Lệnh Hải quân VNCH gởi tới. Dĩ nhiên các tàu thuyền thuộc Hải Quân VNCH đều có quyền cập bến.

    Sáng sớm ngày 28 tháng 3, sương mù dày đặt trùm khắp bờ biển làm cho các chiến hạm không thể ủi băi hay cập vào bến được.

    Trong thành phố, vẫn c̣n một t́nh trạng hổn loạn, vô trật tự. Có nhiều toán quân nhân say rượu không tự kềm chế được bắn bừa băi vào thường dân, hay tranh giành lương thực với dân trong các kho hàng. Ba người bộ đội quan sát viên của Bắc Việt bị bắt giữ với các máy truyền tin của họ, phát sanh ra triệu chứng của đạo quân thứ năm. Có nhiều binh sĩ Miền Nam đi lùng bắt các quan sát viên khác, thật hay giả cũng không cần biết.

    Trong ṭa tổng lănh sự Mỹ, nhơn viên tự hỏi không biết ông lănh sự sẽ đi bằng cách nào ? Bằng đường biển hay bằng phi cơ ? Tại phi trường dân sự, chính ông lănh sự Al Francis bị các binh sĩ Nam Việt Nam bắt giữ trong khi ông đang t́m cách cho một số nhân viên của ông lên phi cơ. Hai người Anh thuộc một tổ chức nhân đạo can thiệp và cứu được ông tổng lănh sự Hoa Kỳ.

    Hành lư chất thành đống ngổn ngang trên phi đạo. Dân chúng và binh sĩ đi lang thang khắp nơi làm cho phi cơ không thể đáp xuống được . Và khi phi cơ đáp xuống được th́ dân tản cư làm cho hành khách không làm sao lên phi cơ được. Người Mỹ ở Đà Nẵng quyết định dùng một phi trường nhỏ hơn, nằm trong núi Thạch Bàn. Ông Al Francis không làm sao thuyết phục được sứ quán Mỹ ở Sài G̣n là t́nh h́nh đă quá bi đát. Ông Martin vừa trở lại Sài G̣n cùng với tướng Weyand và một số nhân vật cao cấp Hoa Kỳ ngày 27 tháng 3 đă không dông dài : "Đừng có bi thảm hóa việc ǵ hết "

    Nhân vật số 2 của sứ quán là ông Wolfgang Lehmann mất hết tin tưởng. Tuy nhiên trước đó chỉ vài ngày, chính ông Lehmann đă giải thích cho một nhóm thành viên của pḥng Thương Măi Sài G̣n gồm có từ những chủ quán rượu đến những thương gia, kỹ nghệ gia, những chủ ngân hàng... rằng ông Thiệu đang chuẩn bị một cuộc "pḥng thủ lưu động". Không nên bỏ đi để cho người dân Miền Nam khỏi bị mất tinh thần. Ông Lehmann cũng yêu cầu Thủ Tướng can thiệp :

    " trật tự ở phi trường dân sự Đà Nẵng cần phải được văn hồi. " Ông Khiêm gọi điện thoại cho tướng Trưởng: ông nầy gởi đến đó 2 tiểu đoàn Biệt dộng quân. Người Mỹ thuộc ṭa Tổng lănh sự Đà Nẵng kín đáo ngồi trong các xe vận tải đi ra bến tàu. Họ c̣n để lại một số cộng sự viên, hầu hết là nhân viên CIA. Họ hứa là sẽ trở lại....

    Tại Sài G̣n, một người Mỹ vạm vở và hung hăn, Ed Daly, chủ của hảng Hàng không Wortd Airways nói là ông ta sẽ mở một cầu không vận ra Đà Nẵng . Là một người biết khai thác phi cơ, ông ta có một đội phi cơ vận tải Boeing 727 và đă kiếm được 21 triệu đô la trong năm 1974, nhờ chở vũ khí và gạo từ Sài G̣n lên giao cho Phnom Penh. Tin tức từ Đà Nẵng rất chính xác, phi trường chính nơi các phi cơ cần phi đạo dài để đáp xuống hiện không c̣n xử dụng được . Do vậy người ta cấm không cho phi cơ của hảng World Airways của ông ta cất cánh. Ed Daly tức tốc chạy lại sứ quán Mỹ, chỉa súng lục vào anh lính Thủy quân lục chiến đang đứng gác, vừa rống vừa chạy vào văn pḥng Đại sứ.

    - " Họ sẽ làm ǵ ở Tân sơn Nhứt nếu chúng tôi cất cánh ?

    - Dĩ nhiên họ sẽ bắn , ông Martin trả lời

    - Lúc đó ông sẽ làm ǵ , ông ?

    - Tôi sẽ vỗ tay hoan hô ."

    Ông Martin rất ghét lối ăn mặc và tính thô lổ của Ed Daly, và anh ta lại uống rượu nhiều nữa. Ông Martin không mong là những công ty tư loại World Airways chen vào các hành động thuộc lănh vực của Ṭa đại sứ. Dù vậy Ed Daly cũng vẫn quyết định đi Đà Nẵng với 2 chiếc Boeing 727. Trong chuyến ngao du nầy anh mang theo các nhà báo, trong số nầy có Mike Marriot chuyên viên quay phim của hảng CBS và Tom Aspell, một người Tân Tây Lan, vừa quay cho hảng ITN, vừa làm cho ABC. Như vậy có hai trong ba hệ thống lớn của Hoa Kỳ đă có mặt trên phi cơ. Sau 45 phút bay, hai chiếc Boeing đă ở trên không phận Đà Nẵng và đài không lưu cho phép họ đáp xuống. Phi đạo đầy xe Jeep, xe vận tải, đàn bà trẻ nít và binh sĩ. Chỉ c̣ thể đáp một chiếc Boeing được thôi. Nhiều toán người quá giao động bao quanh phi cơ, người ta tranh giành nhau để leo lên máy bay. Các binh sĩ nổ vài loạt M.16 . Có nhiều binh sĩ thuộc đơn vị "báo đen", một đơn vị ưu tú của sư đoàn 1 bộ binh . Ed Daly bắn chỉ thiên mấy phát súng lục, tưởng là có thể sẽ gây ấn tượng với họ. Một nhà báo mang máy quây phim bước xuống phi cơ, nhưng sau đó anh không thể nào trở lên phi cơ được nữa. Về sau có trực thăng đến bốc anh đến phi trường nhỏ ở núi Thạch Bản. Trong ṿng 10 phút, chiếc Boeing đă đầy người. Dàn bánh đáp bị hỏng, hệ thống nén hơi không hoạt động. Lúc phi cơ cất cánh có một số binh sĩ vẫn c̣n đeo theo bánh xe. Ở cao độ 200 thước, một người buông tay và rơi xuống, một người khác c̣n bị kẹt cứng gần bánh xe. Phi cơ bay thẳng về Sài G̣n với chiếc Boeing thứ nh́ không đáp xuống được .. Trên đường bay, một nữ tiếp viên phải săn sóc một thương binh bằng cách lấy mạt cưa từ chiếc áo chống đạn của anh đang mặc để thấm máu cho anh ta. Đến Tân sơn nhứt, phi cơ thả xuống 259 binh sĩ, một người mẹ và 3 đứa con nhỏ. Có thêm 40 "hành khách" chui ra từ hầm chứa hành lư. người ta giải giới các anh "beo đen". Ông Jim Eckes, một người có trách nhiệm của công ty Continental chở bà mẹ và 3 đứa con nhỏ của bà về căn cứ. Ngoài phi đạo, Ed Daly vênh váo lên giải thích rằng phi cơ bị một quả lựu đạn làm hư hại ở Đà Nẵng nhưng sau khi xem xét chỗ bị hư hại, Eckes có cảm tưởng là chiếc Boeing lúc đáp xuống có bị va chạm vào một vài vật trên phi đạo ở Đà Nẵng.

    Ed Daly chạy tuông vào sứ quán, đâm sầm vào văn pḥng ông Đại sứ, trên đường đi đă vô ư làm bật lên hệ thống báo động của sứ quán, và khi ông Martin nói chuyện với ông ta th́ ông đă ngũ kḥ !

    Không có được bao nhiêu bản tường thuật của báo chí về Phước B́nh (Phước Long), về Ban mê Thuột , Kon Tum và Pleiku hay Huế. Nhưng nhờ hai chuyên viên quay phim, nhờ một số h́nh ảnh của phóng viên Viên Hương,người Việt Nam, nhờ vào phóng sự của phóng viên Paul Vocle thuộc UPI, mà cả thế giới mới thấy được những đoạn của một "chuyến đi từ địa ngục" ở Đà Nẵng. Trong năm 1975, những biến cố ở Việt Nam - và rất thường ở các nơi khác - được thấy ngay từ lúc biến cố đó được quay thành phim và được phổ biến. Dư luận dân chúng Hoa Kỳ mới biết được là t́nh h́nh ở Việt Nam càng ngày càng đi xuống. Bấy giờ họ mới "thấy" được sự lầm lẫn của Hoa Kỳ ! Nhưng đă quá muộn !!!

    Từ trụ sở của World Airway ở California, phó chủ tịch David Mendelsohn gởi một bức điện tín cho phi hành đoàn chiếc Boeing của Ed Daly : " Chúng tôi nguyện cầu cho các anh. Các anh có nhớ ḷi nói của thánh Francois hay không :Phải biết yên tâm chấp nhận những ǵ mà chúng ta không thể thay đổi được , phải có can đảm thay đổi những ǵ có thể thay đổi được , phải có chút thông minh để hiểu được sự khác biệt..." Chủ tịch Ed Daly phản đối ngay:

    - " Tôi không đồng ư với thánh Francois. Và tôi không đồng ư với Dave Men delsohn v́ ông ta là dân Do Thái. Chúng tôi có thể làm cho sự việc phải thay đổi. Tôi sẽ tiếp tục thử chừng nào tôi vẫn c̣n có thể..."

    Ed Daly c̣n có nhiều việc cần phải thanh toán:

    - Các cơ quan Hoa Kỳ và Việt Nam đă dậm chân tại chỗ trong 8 ngày trước khi có hành động, trước khi di tản bằng phi cơ một số trong từ 400 đến 600 ngàn dân tản cư đang bị kẹt cứng ở Đà Nẵng . Tôi không thể tha thứ được sự ngu dại, sự dốt tính của một số cơ quan của Chánh Phủ Hoa Kỳ , của tất cả bọn người chỉ biết ngồi nắn nót chiếc cà vạt..., những người không có khả năng...

    Trước chuyến bay chót bị cấm vừa rồi, sứ quán Hoa Kỳ đă hủy bỏ hợp đồng thuê bao công ty của Ed Daly. Với chuyến bay đó và những chuyến sắp tới, Daly phải xài tiền túi của ông ta.

    Cuộc di tản từ Đà Nẵng đă vượt quá những ǵ mà người ta đă thu h́nh hay quay phim được cho tới giờ nầy được mô tả như là là những màn vô cùng thảm khốc.

    Bây giờ th́ không c̣n xử dụng được phi cơ hay trực thăng được nữa, ngay như để bốc người Mỹ ra khỏi đó. Tổng Lănh sự ở Đà Nẵng đă van nài vị Tùy Viên quân sự Hoa Kỳ ở Sài G̣n để gởi ra cho ông ta 2 chiếc trực thăng. Tùy viên quân sự từ chối và chuyển đơn xin đó về Bộ Tư Lệnh của Không Đoàn 7 Hoa Kỳ ở Thái Lan. Trả lời :

    - thứ nhất là không thể vi phạm Hiệp Định Paris;

    - thứ hai là trực thăng tại Thái Lan đang là lực lượng trừ bị sẳn sàng cho cuộc hành quân di tản Phnom Penh không biết sẽ bị thất thủ lúc nào.

    Ở Đà Nẵng dân chúng và binh sĩ chỉ c̣n đi khỏi đây bằng đường biển mà thôi. Ở quân cảng người ta la ó, người ta khóc lóc, người ta tranh giành nhau lên các ghe thuyền, các tam bản, các ca nô hay các xà lan để có thể đi ra tàu. Bến tàu, băi biển và hầm hố đâu cũng đều có vũ khí, các chiến xa mắc lầy, những thùng đạn dược kể cả của pháo binh, những va ly bị mở tung tóe, các trực thăng không c̣n xử dụng được. Trên mặt biển th́ trôi lênh đênh những thùng to-nô, những ruột xe ô tô, những phao cấp cứu....

    Có tiếng chó sủa... Đó đây phất lên một mùi khai của nước tiểu, mùi hôi thúi của phân người và của thây ma...śnh thối bị nước dâng đùa từ ngoài biển đưa vào cảng và bải biển... V́ gấp ra khơi t́m tàu một vài thuyền quá nhỏ bị lật úp làm cho một số đàn ông đàn bà và trẻ con bị chết ch́m. Thủy Quân Lục Chiến đổ thừa cho dân tỵ nạn đă chiếm chỗ của họ trên ghe thuyền. Nhưng chính những binh sĩ đến được cảng sau cùng, đă dùng súng đuổi dân tỵ nạn xuống các xe đ̣, chiếm xe để chở họ ra bến cảng. Tất cả các đơn vị Quân Cảnh và Cảnh Sát của thành phố đều biến mất. Có nhiều xe đang bốc cháy..,và nhiều tiếng súng nổ khắp nơi.

    Có một vài xe cam nhông có loa phóng thanh chạy quanh trong các khu vực không c̣n bóng dáng một binh sĩ VNCH nào để tuyên truyền:

    -" Hăy yên tâm, tất cả rồi sẽ tốt hết. Bộ đội của sự ḥa giải sẽ đến ngay đây thôi ! quân đội giải phóng sẽ đến. Hăy trang hoàng nhà cửa bằng những lá cờ Phật giáo.

    Không c̣n ai chỉ huy, mất hết tinh thần, không c̣n chút kỷ luật nào, vài trăm binh sĩ say sưa hay sợ hải đang gây hoang mang cho đồng bào. Các sĩ quan cũng không hơn ǵ. Một thiếu tá thuộc sư đoàn 1 bộ binh khi được một đại tá hỏi Bộ Tư Lệnh sư đoàn hiện ở đâu đă trả lời :

    - " Bản thân tôi cũng không biết vợ con tôi hiện đang ở đâu. Tại sao tôi lại phải quan tâm đến Bộ Tư Lệnh sư đoàn nhỉ ?

    Dân tỵ nạn dồn cứng trên tàu, có khi khoản 8000 người trên một chiếc tàu chở hàng, không có phương tiện vệ sinh , dĩ nhiên không có đủ lương thực cho bằng ấy người . Dưới hầm tàu có nhiều quân nhân lột nữ trang hay lấy hết tiền của người dân tỵ nạn. Họ cướp của, hăm hiếp và có khi c̣n giết chết những người phản đối hay chống cự lại họ. Một ông cha v́ muốn thử can thiệp liền bị giết ngay. Có một số các em bé, trẻ em và cả người lớn nữa bị ngộp thở mà chết.

    Nhiếp ảnh gia của ông Ford, David Kennerly, lúc bấy giờ cũng đến Việt Nam bay trên vùng trời Đà Nẵng ngay trên đoàn tàu đang cứu vớt dân tỵ nạn. Ngồi trên trực thăng của Air America, anh bay quan sát bên trên chiếc tàu Contender, trực thăng của anh đă bị lính Miền Nam bắn lên.

    Tướng Trưởng lội ra một chiếc ca nô và được một sĩ quan Hải quân đưa lên một chiến hạm Việt Nam . Nhiều dân tỵ nạn phải mất ít nhất 3 ngày mới tới được một hải cảng, Cam Ranh, hay Vũng Tàu hay một ḥn đảo nào đó. Ông Thiệu đă có lệnh : không nên cho dân tỵ nạn vào Sài G̣n. Có nguy cơ là họ sẽ làm mất tinh thần quân đội và dân chúng.

    Người ta tính sổ lại: 50.000 dân và 16.000 binh sĩ đă chạy thoát khỏi Đà Nẵng . Trong thành phố hiện c̣n một triệu dân tính luôn cả người tỵ nạn.

    Ngày chúa nhật 30 tháng 3, nhằm lễ Phục Sinh, bộ đội Bắc Việt chiếm hoàn toàn Đà Nẵng. Tại trại Davis trong sân bay Tân sơn Nhứt, đại diện của CPLTCHMN xất xược xác nhận là thành phố đă bị chiếm từ ngày 29 tháng 3:

    - " Cờ của chúng tôi đă bay phất phơi ở đó từ sau buỗi trưa!

    Bắc Việt đă bắt giữ được hàng ngàn tù binh. Họ không gặp một khó khăn nào để t́m bắt nhân viên cành sát hay t́nh báo đặc biệt của Miền Nam v́ họ đă có sẳn danh sách do Chỉ huy trưởng Cảnh sát Đà Nẵng cung cấp. Việt Cộng nằm vùng?

    Bộ Chánh Trị đảng cộng sản Việt Nam họp ngày đó ở Hà Nội và đưa ra một bản nhận định:

    - " Cuộc chiến tranh cách mạng ở Nam Bộ không những chỉ tiến tới một giai đoạn nhảy vọt, mà c̣n tiến tới một thời điểm chiến lược thuận lợi để bắt đầu một cuộc tổng tấn công và tổng nổi dậy vào sào huyệt của quân thù... Cuộc cách mạng của chúng ta tiến tới bằng những buớc đi của người khổng lồ., Tốc độ nhanh đến độ chỉ một ngày thôi đă bằng 20 năm dài."

    Không thể phủ nhận được !

    Nhưng vẫn không thấy có một cuộc tổng nổi nào, đó là một yếu tố tối cần cho thần thoại của người cộng sản, không thể thiếu được. Tại Đà Nẵng cũng như ở những nơi khác, dù nghĩ ǵ th́ dân chúng vẫn ở trong tư thế "chờ xem".

    Trong cả hai miền Nam, Bắc ở Việt Nam, dân chúng bị không ít ảnh hưởng của cuộc chiến , nhưng từ mấy năm nay, trong hơn bốn chục triệu dân, chỉ có nhiều lắm là 3 triệu có dính líu hay trực tiếp can dự vào các trận chiến .

    Ngày 30 tháng 3 nầy, Chánh Trị Bộ cộng sản ở Hà Nội quyết định chủ trương "phải nắm lấy cho bằng được thời điểm chiến lược thuận lợi nầy" qua hướng dẫn : "tốc chiến, táo bạo, bất thần để tốc thắng" Bộ Chánh Trị muốn "giật lấy chiến thắng bằng mọi giá trong một thời gian nhanh nhứt, trong ṿng tháng tư, không trể hơn nữa" Họ muốn "nhắm thẳng vào những mục tiêu trọng yếu ngay trung tâm Sài G̣n "

    Ở Nam Bộ, ngày đó tướng Trần văn Trà di chuyển đến nơi mà ông dự trù đặt bản doanh, để từ đó chỉ huy các cuộc tấn công vào Sài G̣n. Chiếc "xe chỉ huy" của ông được ngụy trang thật kín đang tiến trong cánh rừng. "Các đường ṃn và đường sá lúc nầy khô ráo và dễ đi. Tháng ba là tháng nắng." Tướng Trà nghe tiếng đạn pháo binh nổ, ở hướng Sài G̣n. Hoa nở hắp nơi: đúng là mùa xuân. Tướng Trà lẩm bẩm:

    - " Phong cảnh thật đẹp và hùng dũng, làm rung động ḷng người .... Việt Nam vẫn c̣n là Việt Nam ."

    Ông ta nghĩ tới trận chiến hôm qua và trận chiến hôm nay. Trong nhật kư của ông ta, có ghi :

    - " Mai vàng nở làm đẹp con đường

    " Gió rừng thổi mạnh pha lẫn với tiếng súng

    " Pháo binh đang nổ bao quanh thành phố

    " Xưa hay nay cũng vậy, rừng núi sông ng̣i vẫn thuộc về ta ! "

    Từ ngàn xưa, tháng ba là tháng chinh chiến ở Đông Dương. Năm nào cũng vậy , từ Việt Minh, rồi đến Việt Cộng, kháng chiến quân thuộc CPCMLTMN, và bộ đội chánh quy của Hà Nội ... cứ đến tháng ba là họ mở những trận tấn công.

    Ngày 31 tháng 3, ở Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt, tờ Nhân Dân đă đăng một bài b́nh luận với một luận điệu nhẹ nhàng hơn nhận định của Bộ Chánh Trị. Đối với tờ báo của đảng, sự tiến quân của quân đội Miền Bắc đă cho thấy "một kinh nghiệm quư báu đă giúp cho bộ đội và nhân dân ta đi tới". Tờ báo loan báo những chiến thắng, nhưng chưa báo cho nhân dân chiến thắng cuối cùng. Tờ báo xác nhận là "có nhiều lính "Mỹ ngụy" đă bỏ ngũ, quay súng trở lại "bọn phản động, và đă trở về với nhân dân"

    Nhưng khắp mọi nơi, chưa thấy nói có một quân nhân nào nổi loạn quay súng trở lại bắn đồng đội hay chưa có một đại đội nào thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa "về với nhân dân" hết.

    Dưới danh nghĩa "giải phóng" Bộ đội Miền Bắc tự hỏi không biết phải giải thích thế nào với "nhân dân" của họ về làn sóng tỵ nạn của người dân . Th́ đây, tờ Nhân Dân đă có lời b́nh rằng " Bè lũ của Thiệu tranh nhau chạy vô trật tự. Mà họ c̣n bắt "nhân dân" chạy theo họ để đở đạn cho họ và để đánh lạc hướng dư luận quần chúng trên thế giới. "

    Tại Hà Nội nhiều ủy ban hỗ trợ Miền Nam được thành lập. Ủy Ban "Nhân Dân Cách Mạng" của tỉnh Quăng Đà và thành phố Đà Nẵng không thấy lạc quan chút nào khi họ phân phát một bản tuyên bố kêu gọi "nhân dân Miền Nam" :

    - " lực lượng giải phóng phải tấn công, "nhân dân" khắp nơi phải nổi dậy để giúp quân ta chiến đấu, sĩ quan và binh sĩ Sài G̣n phải quay về với "nhân dân".. v.v và v.v.........

    Ở Hà Nội anh Tiến, một thanh niên có nhiều cao vọng về phim ảnh, một người tài tử có hạng về sân khấu, thưởng thức trước những đoạn phim hay những màn tŕnh diển mà anh nghĩ rằng ḿnh sẽ được tham gia. Đến giờ nầy th́ các đoạn phim dài được tŕnh chiếu đều là của Liên Xô. Anh chàng trẻ nầy luôn luôn mơ ước có ngày anh sẽ đi Liên Xô hay Đông Đức để theo học môn nầy. Không ai nói tới chuyện bắt anh ta thi hành nghĩa vụ quân sự . Anh ta tiếp tục đi học và hưởng đặc ân của ḿnh. Anh không có thiếu thốn hay bị hạn chế ǵ cả. Khẩu phần tháng 3 nầy không bằng của tháng giêng. Chánh Phủ đang mở chiến dịch: Nhịn ăn cho Miền Nam . Phải san sẻ lương thực cho đồng bào Miền Nam . "Hầu hết dân thủ đô chỉ có 250 gram đường mỗi tháng, nhưng anh bạn trẻ nầy nhận đủ 1 kí lô lại c̣n được kèm theo một hộp sửa đặc nữa. Tùy theo số hàng nhận được - rất thất thường mấy lúc nầy- người dân ở thủ đô chỉ có quyền có được một hay hai hộp thịt 120 gram của Trung Quốc. Nếu người Trung Quốc không giao hàng th́ người ta phát bột trứng. Nhưng anh bạn trẻ th́ được lănh 1 kí lô thịt tươi, nhất là thịt heo. Người ta săn sóc cho người ưu tú. Anh Tiến nhận thấy là anh ta có nhiều thực phẩm hơn cha ḿnh, một cán bộ trung cấp của CPLTCHMN. Trong tháng giêng và tháng hai, Chánh Phủ sợ là sẽ có sự tái oanh tạc của phi cơ Hoa Kỳ : công nhân phải dọn sạch các hầm trú ẩn cá nhân dọc theo lề đường. Nhưng sẽ không có ai dùng tới . Đối với anh bạn Tiến th́ các hầm trú ẩn nầy sẽ không bao giờ được dùng tới nữa.

    Các giáo sư của anh b́nh luận về tin tức. Ngay như những người tranh đấu hăng say cũng không có một tư tưởng chiến thắng nào: người ta chỉ hy vọng thôi . Anh Tiến có một người bạn. Đó là con trai của ông Nguyễn hữu Thọ, Chủ Tịch của Chánh Phủ cách mạng lâm thời. Thỉnh thoảng anh nầy đến 69 đường Nguyễn Du, chỗ ở của ông Thọ, một biệt thự cũ của người Pháp. Có nhiều người dân Miền Nam cư ngụ trong khu nầy, gần hồ Giải Phóng. người bạn trẻ nầy không bao giờ có được quan điểm chánh trị rơ rệt. Hơn thế nữa, anh ta chỉ muốn về lại Sài G̣n thăm lại bà mẹ của anh c̣n ở lại Miền Nam và t́m lại bạn cũ. Những chiến thắng được loan báo cho anh thấy là đă sấp đến ngày về của anh rồi .

    Trong lúc anh Tiến đang theo một khóa học, người ta kêu anh ra khỏi lớp. Một đại úy đang chờ anh:

    - " Anh có một nhiệm vụ đặc biệt.."

    Anh được lệnh thu xếp một vài món hành lư và người ta đưa anh vô Bộ

    Tham Mưu. Từ đó anh lại lên xe jeep đi vào một "trung tâm đặc biệt". Ở đó anh gập lại khoảng 50 bạn trẻ, tất cả đều là người Miền Nam. Có vài người đă cùng đi với anh ra Bắc theo đường ṃn Hồ chí Minh hồi năm1971.

    - " Các anh sẽ tham gia chiến dịch Hồ chí Minh"

    Người ta cho anh xem bản đồ Sài G̣n in ở thủ đô Miền Nam Việt Nam và người ta hỏi anh :

    - Anh thấy đường phố hay đại lộ có thay đổi ǵ không? Có thêm nhà cửa hay dinh thự mới không ? Anh bạn Tiến nầy nhận là ḿnh biết rất rơ khu vực phi trường.

    Anh đ̣i phải cho anh gặp cha anh. Tại bệnh viện nơi cha anh đang làm việc, Tiến nói là anh có thể chết và anh muốn cha anh phải báo cho mẹ anh biết nếu.....

    - " Tôi được đưa đi công tác trong khuôn khổ của chiến dịch Hồ chí Minh."

    Người sĩ quan đi theo anh, trách nhẹ:

    - " Ngay với cha anh, anh cũng không cần phải nói anh sẽ làm ǵ .."

    Trong suốt bốn ngày liền, anh Tiến xem kỹ lại các đường phố Sài G̣n trên các bản đồ không mấy tốt và cho ư kiến về địa h́nh của thành phố. Người ta trao cho anh một bộ quân phục không cổ lỗ lắm. Không phải của lính mà cũng không phải của sĩ quan. Anh Tiến nầy không ưa thích ǵ các hoạt động quân sự , nhưng anh cũng hiểu là anh sẽ là một trinh sát. Anh nôn nóng với ư nghỉ là sẽ được gặp lại Miền Nam .

    Không c̣n phim ảnh ǵ nữa, không c̣n màn hát nào nữa - nhưng trong thời gian bao lâu đây ? Thủ đô Hà Nội đang có tŕnh diễn 3 vở tuồng . Tất cả đều nhằm vào Miền Nam Việt Nam : Lưỡi gươm và Biển cả, Dân chúng quanh thủ đô, và Tiếng hát của T́nh Yêu. Và đây là tóm lược của vở tuồng thứ ba : Một sĩ quan Mỹ Ngụy đang thù ghét chiến tranh, đào ngũ để đi lánh nạn trong một vùng xa xôi ngoài bờ biển. Anh muốn trốn chạy trong t́nh yêu, nhưng cảnh sát và điệp viên không để cho anh yên. Cuối cùng anh chọn đúng con dường: Anh cùng nhân dân nổi dậy và đi ra trận, vừa đi vừa hát : "Anh em ơi Hăy đứng lên và tiến lên...".

    Ở nước Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam tất cả đều hướng về cuộc chiến ở Nam Bộ, từ quân đội, đến thợ thuyền trong hảng xưởng và nông dân các hợp tác xă , từ nhà văn đến người nghệ sĩ. Trong cái xă hội "xă hội chủ nghĩa" chuyện không mấy thực tế chút nào, đó là người dân Miền Bắc phải là những người tiên phong.

    Một chiếc xe buưt đưa anh Tiến cùng với 17 người khác chạy qua cầu Paul Doumer để ra phi trường Gia Lâm. Tại đây toán người đặc biệt nầy có các sĩ quan vây quanh được nhà thơ Tố Hữu, thi sĩ chánh thức của chế độ và Ủy viên trung ương của đảng tiếp đón và chào mừng. Cũng như các tuớng lănh tài ba, các nhà văn nhà thơ trác tuyệt được đưa vào guồng máy , ở đó người ta trở nên quan trọng v́ người ta biết tự hội nhập với đảng. Với một giọng nói quan trọng, cảm động và đầy t́nh cảm ,Tố Hữu nói với nhóm trẻ :

    - " Nhiệm vụ của các bạn rất quan trọng. Chúc các bạn may mắn ..!"

    Các người chụp ảnh chụp lia lịa. Tiến nghĩ thầm " nếu ḿnh chết, người ta sẽ cho đăng h́nh ḿnh lên, h́nh của một vị anh hùng !".

    Người ta đă trao cho anh một khẩu súng lục. Bây giờ anh lại được trao thêm cho một khẩu AK. 47 nữa.. Trong cả hai khẩu súng anh không biết xử dụng khẩu nào hết. Toán những người trẻ của anh Tiến với một số nhân vật của Chánh Phủ lớn tuổi, trầm lặng, cùng lên chiếc phi cơ C.119, một chiếc phi cơ cũ của Miền Nam Việt Nam . Đến khi trời sụp tối chiếc phi cơ mới cất cánh. Không ai nói với ai một câu nào, thời gian trôi qua.. phi cơ đáp xuống một phi trường nào đó. Các hành khách đều bước xuống. Tiến nghĩ rằng có lẻ đây là Cao Nguyên v́ anh thấy đất ở đây màu đỏ. Người ta cũng không nói ǵ với anh.

    Anh lại tiếp tục lên đường bằng ô tô, cũng không hỏi ǵ cả. Người ta cũng không cho anh biết tin tức ǵ thêm. Anh chỉ biết là anh đang đi về Miền Nam . Chuyến đi nầy vui hơn là chuyến anh đi ra Miền Bắc, một chuyến đi thật là dài trên con đường ṃn Hồ chí Minh. Lúc đó anh đang lên cơn sốt của bịnh rét rừng mà mỗi ngày phải đi 10 tiếng đồng hồ. Trong suốt 3 tháng như vậy. Đi trong cánh rừng anh buồn nhớ Sài G̣n . Anh nhớ lại một vài h́nh ảnh cũ , tấm biểu ngữ ở trạm 94 :"Ở đây ranh giới cuối cùng của MTGP, trước mặt là bắt đầu thuộc Miền Bắc , đường 559 của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam"....

    Có thể anh sẽ thấy lại được Sài G̣n . Người ta vẫn im lặng, không nói ǵ với anh hết. Gần như anh di dạo mát trên xe ô tô, bằng xe cam nhông, rồi lại bằng ô tô nữa, thích thú thật. Tiến nghe người ta nói về các tỉnh, các thành phố của Miền Nam bị Bắc Việt chiếm.

    Cuối cùng anh đến Bộ Tham Mưu ở Lộc Ninh, Có nhiều sĩ quan và bộ đội, nhiều cột ăn ten trên các nóc nhà tranh và trên chiến xa. Anh được cho vào một lều vải để ngủ. Người ta đối đăi anh như một cán bộ không có cấp bậc. Anh không có quyền nói chuyện với một anh bộ đội nào. Anh chờ đợi ở đây nhiều ngày, Và anh có dịp quan sát những chiên xa T.54 được nghi trang dưới các lùm cây và vài chiến xa M.48 của Miền Nam vẫn c̣n tốt.

    Một buỗi sáng nào đó , anh thấy Lê đức Thọ cùng đi với một trong những người anh của ḿnh, tướng Đinh đức Thiên.

    Anh Tiến lại được lên xe ô tô. Sau vài tiếng đồng hồ lúc th́ chạy theo đường ṃn, lúc th́ chạy trên đường tráng nhựa, anh đến một căn cứ cũ của Miền Nam Việt Nam ở một b́a rừng.

    Cách Hà Nội 30 cây số, trong xă Thiên Đồng, ông Ba, thợ mộc, tṛ chuyện với dân. Ông Ba không giống anh bạn trẻ tên Tiến mà cũng không giống nông dân ở đây. Ông không tin những tin tức qua hệ thống phóng thanh mà xă đă trực tiếp truyền lại từ đài phát thanh Hà Nội. Ông Ba không thể tưởng tượng được là một quân đội hùng mạnh như quân lực của VNCH, có sự hỗ trợ của quân lực Hoa Kỳ mà lại có thể bị bại trận được. Theo ông Ba th́ các sĩ quan của Miền Nam là "những trí thức am tường nghề của họ" Ông chỉ so sánh một cách giàn dị giữa người lính - nông dân của Miền Bắc với những người sĩ quan trí thức của Miền Nam . Ở Miền Bắc , các đại tá và tướng lănh đều luống tuổi. Họ ở vào trạc tuổi trên 40 hay 50. Thường thường những người nầy thuộc giai cấp tiểu tư sản hay trung lưu, có khi là giáo sư như Vơ nguyên Giáp, được gởi đi học các trường quân sự ở Liên Xô hay Trung Quốc, dĩ nhiên dù được huấn luyện quá cứng ngắt nhưng họ cũng có học thức hơn các sĩ quan ở Miền Nam phần đông là hạ sĩ quan thuộc quân đội Pháp. Ở Miền Nam cũng có nhiều đại tá trẻ khoảng 34 tuổi. Dù có lạm dụng quyền hành hay tham nhũng, nhưng trong quân đội của Miền Nam vẫn có dân chủ hơn quân đội của Miền Bắc.

    Ông Ba là con người thích suy nghĩ. Ông không thích cộng sản . Nhưng ông phải im lặng và quan sát để mà sống, v́ phải sống c̣n. Dù vậy nhưng ông Ba vẫn bị bối rối. Từ tháng giêng, trong xă đă có nhiều sự thay đổi. Cán bộ đi mộ phụ nữ tuổi 18. Người ta nói họ sẽ là nhân công đi sửa đường, đi tải vũ khí đạn dược. Dân chúng được lănh thêm khẩu phần cho ngày Tết. Sau đó ít lâu cán bộ lại khuyên dân là phải tiết kiệm:

    - " Các anh chị đều có con trai hay con gái đi ra trận địa. Nếu các anh chị muốn thấy họ trở về, th́ ḿnh phải chấp nhận hy sinh để giải phóng Miền Nam "

    Ông Ba thấy là phần lớn các nông dân đều hănh diện được đóng góp vào chiến thắng. Họ không biết sự khác biệt giữa quốc gia và cộng sản . Họ chỉ biết ghét người Mỹ v́ Mỹ bỏ bom đất nước. Họ cũng ghét "ngụy" v́ ngụy phục vụ cho người Mỹ. Ngoài chuyện đó ra cũng vẫn có một số người c̣n than phiền. Có nhiều người già nói :

    - " Hồi trào Pháp, Việt Minh đă hứa là nếu không c̣n thực dân ở đây nữa th́ sẽ không c̣n người dân nào nghèo"

    Người Pháp đă rời khỏi đây trên 20 năm rồi mà người dân có khá ǵ hơn đâu ? Trong lúc các cán bộ của hợp tác xă th́ sống thoải mái quá. Họ có nhà cao cửa rộng, có xe đạp. Nếu người dân có quyền nói th́ họ sẽ nói là họ làm việc để nuôi cán bộ. Cán bộ th́ lúc nào cũng kiên nhẫn giải thích là sau khi chiến tranh chấm dứt th́ không có ǵ phải hạn chế nữa. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa là họ có lư. Nông dân không nghĩ như ông Ba, là chánh quyền thổi phồng lên con số thành phố mà quân đội đă chiếm được ở Miền Nam . Hơn nữa, những người tới thăm thân nhân ở làng Thiên Đồng thuật lại là con của họ đang ở Ban mê Thuột , trong tỉnh Kontum gần Plei Ku. Chánh quyền tổ chức "kết nghĩa" các thành phố của Miền Bắc với các thành phố của Miền Nam : Tỉnh Hà Tây kết nghĩa với Đà Nẳng. Cán bộ đi t́m những người Miền Nam đă tập kết ra Miền Bắc sau Hiệp Định Genève năm 1954, nhất là những người thuộc ngành giáo dục . Chánh quyền giải thích là đang cần rất nhiều cán bộ ở Miền Nam .

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    15. Chương 12 - Đà Nẵng thất thủ
    P3



    Cộng đồng người Pháp ở Sài G̣n rất b́nh tĩnh và đang chuẩn bị chờ đón những thay đổi lớn. Ông Patrick Hays, một cựu sĩ quan hiện dịch không có chút nghi ngờ nào về một kết thúc quân sự . Muốn ra khỏi ngơ bí nầy Chánh Phủ của ông Thiệu phải t́m một giải pháp chánh trị . Tở Courrier d'Extrême Orient , một tờ báo tiếng Pháp phát hành ở Sài G̣n , nhờ trợ cấp của sứ quán và các công ty ở địa phương của Pháp, đă tỏ ra rất thận trọng trong vấn đề nầy. Bà Marie- George Sauvezon chủ nhiệm của tờ báo nầy vẫn tiếp tục đi quan sát bằng chiếc xe Citroen DS của bà, với tài xế mang găng tay trắng hẳn ḥi. Phần đông người Pháp ở Sài G̣n đều có vẻ đồng ư với ông Hays.

    Có chừng vài ngàn người Pháp ở Sài G̣n . Họ có tiệm ăn, khách sạn , hăng bảo kê...và đă sống ở đây lâu rồi. Những người hợp tác cũ đă qua rồi. Những người c̣n ở lại đây trong ṿng 5, 3 năm nay là những người làm công hay làm chủ các công ty của Pháp như Michelin, sở Cao su Đất Đỏ, Hăng bia và Nước đá Đông Dương. Người ta nói chính xác là nhà máy và kho hàng của Hăng bia và nước đá ở Đà Nẳng đă bị dọn sạch và phá tan. Các hăng thuốc lá, các hăng xe Peugeot, Citroen, Renault, các ngân hàng Pháp Á, Pháp Hoa, các hăng tàu Chargeur Reunis và Messagerie maritimes cũng có nhiều người Pháp. Các chủ hăng bắt buộc phải xem lại tổ chức của ḿnh để hướng về tương lai. Nếu cộng sản chiếm được Miền Nam th́ số phận của các công ty xí nghiệp của người Pháp ở Miền Nam sẽ ra sao ? Chương tŕnh của CPLTCHMN dự kiến một nền kinh tế hỗn hợp. Vậy bây giờ có nên cho phụ nữ và trẻ con về Pháp trước hay không ?

    Đại sứ Pháp cho gọi ông Hays. Ông Jean Marie Mérillon có trách nhiệm đối với Pháp kiều. Các nhà trồng tỉa từ các tỉnh chạy về Sài G̣n , các nhà buôn và các linh mục cũng vậy. Phải dự trù một giải pháp để có thể tiếp tục giữa sự thất trận của Quân Lực VNCH và công tác văn hồi trật tự của cộng sản Bắc Việt . Cái ǵ cũng có thể xảy ra hết, như ở Đà Nẵng vậy. Hăy tưởng tượng có những toán binh sĩ đào ngũ và cướp bóc, lang thang phá phách khắp Sài G̣n và nhắm vào các công ty xí nghiệp của người Pháp. Hăy tưởng tượng thành phố đầy máu lửa, chúng ta sẽ tập trung đồng bào người Pháp ở đâu đây ? Ở bệnh viện Grall ? hay ở trường Saint Exupéry ? Chúng ta sẽ mở những trung tâm nào để đón tiếp người Pháp của chúng ta ? Và c̣n phải giữ an ninh cho họ nữa ? Một vài hiến binh đến từ Pháp để tăng cường an ninh cho Ṭa Đại sứ th́ có là bao . Hơn nữa họ đâu có thể trực luôn trong 24 tiếng được. Chúng ta phải lo dự trữ một số đồ hộp và gạo, nước uống v.v..

    Ông Hays là cựu trung úy của Trung đoàn Nhảy Dù của Pháp, ông ta có chịu bất thần đảm trách an ninh cho các trung tâm tiếp đón Pháp kiều hay không đây? Một ông Đại sứ không thể cho phép ḿnh mướn một cảnh sát tư để lo việc nầy được ; c̣n ông Hays th́ am hiểu t́nh h́nh và rảnh tay hơn . Anh ta tính với ông Mérillon là chỉ cần một nhóm nhỏ nào đó cũng có thể giữ không cho xảy ra ở Sài G̣n những màn thảm kịch như ở Đà Nẳng. Anh ta tập hợp được khoảng 15 người tin cậy như một số nhà trồng tỉa và giáo sư của trung tâm giáo khoa Pháp , những người đă từng qua một thời gian phục vụ trong quân đội , và nhất là người phụ tá của anh ta Michel Hamiaux, một người to con, b́nh tĩnh mà chỉ 27 tháng ở chiến trường Algérie cũng đă có được Bắc đẩu bội tinh. Bây giờ là nhu cầu cần phải có một số xe để bảo đảm cho vấn đề lưu thông được dễ dàng. Hays lấy 4 chiếc xe jeep của sở cao su, đem sơn trắng hết và cho gắn cờ Hồng thập tự. V́ dù trong bất cứ t́nh huống nào, các xe có cờ Hồng Thập Tự cũng lưu thông dễ dàng hơn những chiếc xe khác. Về vũ khí th́ anh giải thích việc nầy cho một người bạn của anh là tướng Lê quang Lưỡng, sư đoàn trưởng sư đoàn Nhảy Dù, mà các đơn vị vừa rút về đóng ở Sài G̣n . Tướng Lưỡng thuận trao cho Hays tất cả những vũ khí đạn dược mà Hays đang cần. Với một nhóm nhỏ người lo về an ninh như vậy, Hays không bao giờ có ư định chống lại bộ đội Bắc Việt . Chỉ đơn thuần là "trong trường hợp lợi dụng t́nh trạng lộn xộn trong thành phố mà bọn người vô tổ chức không ai kiểm soát được tấn công vào các trung tâm tiếp cư của người Pháp", nếu được báo qua vô tuyến điện , th́ Hays sẽ cùng đi với người của anh ta bằng xe jeep trắng, và sẽ đến giải quyết ngay tại chỗ một cách êm thấm, càng kín đáo càng tốt. Và như thế là ông Hays tổ chức luân phiên số người trong nhóm của anh đă lựa chọn. Và họ ở trong tư thế chờ đợi..... Tất cả những người Pháp ở Việt Nam , những người ngoại quốc ở Sài G̣n cũng như ở các nơi khác đều chờ đợi...

    Người Việt Nam cũng vậy, họ c̣n nôn nóng hơn. Trong sân hay ngoài vườn của những ngôi biệt thự cho người Mỹ thuê, hành lư được chất thành đống, ngổn ngang đây đó va ly và cập xách tay của người Mỹ cũng như va ly bằng giấy bồi, bao hành lư bằng ni lông ràng buộc chặt chẽ kỹ lưỡng của nhân viên người Việt Nam .

    Các cơ quan của sứ quán Hoa Kỳ lên danh sách những người tỵ nạn, khả năng tùy theo tiêu chuẩn khó khăn th́ cắt bỏ bớt. Thông thường, về vấn đề dự liệu và chọn lựa th́ người Mỹ hay lắm. Sứ quán không có soạn một danh sách chính, một kế hoạch di tản chính. Làm sao ấn định được tiêu chuẩn về ưu tiên ?

    Đầu tiên chắc chắn là phải cho những người Việt Nam nào có nguy cơ bị giết hay phải bị bắt đi vào các trại tập trung tẩy năo nếu cộng sản tới. Hầu hết tất cả những người đă làm việc cho các cơ quan của Hoa Kỳ và gia đ́nh của họ. Một trăm ngàn, hay hai, ba trăm ngàn người cần phải di tản. Ở Sài G̣n và Hoa Thạnh Đốn người ta đưa ra con số là 1 triệu người .

    Sau đó mới đến những người Việt Nam nào muốn làm việc lại ở Hoa Kỳ như kỹ sư, bác sĩ, kế toán... những người nói được tiếng Anh kha khá,

    Cuối cùng các lănh sự quán mới nói tới những người Việt Nam nào muốn rời khỏi Việt Nam .

    Ở Việt Nam h́nh như đối với việc ǵ người ta cũng nghĩ là vẫn c̣n th́ giờ. Nhưng bây giờ th́ Lịch Sữ đang đi tới nhanh quá, hết sức nhanh !. Những người Việt Nam nào mong muốn được di tản đang bị bối rối. Họ quưnh lên nhưng lại nghĩ rằng tất cả không thể sụp đổ được dễ dàng. Suốt trong 30 năm chiến tranh, đất nước cũng đă có trải qua nhiều trận chiến và sau đó th́ sóng vẫn lặng gió vẫn êm. Lần nầy chắc rồi đâu cũng lại vào đấy thôi, đất nước vẫn tồn tại.....

    Người Mỹ cũng vậy, họ tự hỏi rồi ngập ngừng. Đối với họ chắc chắn là họ phải đi rồi, nếu cần. Đối vời một số lớn công chức của sứ quán hay những quân nhân có nhiều thời làm việc ở Việt Nam th́ thời gian ở Việt Nam là thời gian quan trọng nhất cho nghề nghiệp của họ. Họ cũng không thể tưởng tượng có một sự sụp đổ nhanh chóng như vậy.

    Họ đă như được gắn bó vớ đất nước nầy, một gắn bó sâu đậm với Việt Nam qua mùi vị của món ăn hay không khí của một vài con đường, một vài cảnh đẹp ở nông thôn, hay các cánh rừng thơ mộng ở Cao nguyên. Đất nuớc nầy có một cái ǵ nó vướng víu thật. Đối với những người Mỹ dù là mặc thường phục hay quân phục, đă có tuổi hay c̣n trẻ, trầm ngâm hay vui tính, với một anh Frank Snepp có lương tâm mà không kiên nhẫn, hay với một anh Homer Smith nổi bật hay chán đời, với những người Mỹ đă có bạn bè người Việt Nam hay đôi khi có vợ hay nhân t́nh người Việt ... th́ đất nước Việt Nam nầy tuy xa lạ nhưng rất quen thuộc và thủ đô Sài G̣n nầy dù hấp dẫn hay đáng ghét cũng đều trở thành ranh giới của tuổi trẻ hay chân trời của lứa tuổi về chiều.. Những quân nhân Mỹ bị động viên , qua đây phục vụ một năm sau đó th́ họ có thể quên nước Việt Nam. Nhưng những người sĩ quan hiện dịch th́ không, những nhân viên ngoại giao cũng không. Khi họ được trở về Hoa Kỳ th́ Huế, Đà Nẳng hay Sài G̣n , những nơi nầy lúc nào cũng được gợi lên trong trí của họ.

    Lịch Sử qua rất nhanh. Địch quân không c̣n mang tên cũ nữa. Trước đây không đầy 2 năm, người ta gọi họ là Việt Cộng, là VC (đọc là Vi Ci), (1) dù cho đó là những người đến từ Miền Bắc. Mặc dầu biết họ là quá tàn ác, nhưng với sự khát máu đó của họ, báo chí ngoại quốc quá dè dặt hay thận trọng giữ im lặng không dám nói tới như đối với một vài "án mạng" của binh sĩ Miền Nam hay của người Mỹ. Quân nhân và các nhà ngoại giao tức điên lên. v́ người ta không nương tay làm ồn lên khi viết về sự kiện làng Mỹ Lai bị đốt. Báo chí ngoại quốc moi móc hết, trừ những gi đă xảy ra ở các vùng của Việt Cộng.

    Các nhà báo đi theo các cuộc hành quân thường gặp quân nhân Mỹ hay của Miền Nam tử trận và thấy rơ ràng thân thể của những quân nhân nầy đă bị Việt Cộng dày xé, cắt, thiến,... tàn tệ..nhưng phóng viên chỉ biết nh́n và chỉ biết nêu lên những chuyện hăi hùng trong cuộc chiến về phía người Miền Nam hay của người Mỹ mà thôi. Thức sớm hay ngủ muộn, các phóng viên cứ mô tả những cuộc dội bom hay những chuyến khai quang tận đâu đâu. Có ai mà tường thuật những chuyện cộng sản bắt đem đi hành quyết các chủ tịch xă, hay trưởng ấp đă xảy ra ngay trước mặt ḿnh ? Từ năm 1957 đến 1973, đă có hơn 36 ngàn vụ ám sát và hơn 58 ngàn vụ bắt người mang đi hành quyết .

    Những chuyện đó coi như trong dĩ văng. Tại Sài G̣n bây giờ, người ta không c̣n nói Việt Cộng nữa, mà nói đến 10 hay 15 sư đoàn quân chánh quy của Miền Bắc ở ngay tại chiến trường Miền Nam Việt Nam và không c̣n ai tính tới MTGPMN và CPLTCHMN nữa... Hay đó là 20 sư đoàn chánh quy Bắc Việt ? Thật là một sự thân mật quá ám muội với Việt Cộng. Có một số không ít Việt Cộng đă về chiêu hồi với Chánh Phủ VNCH. Con số lên đến hai trăm ngàn, có thể người ta cũng phải lo di tản họ nữa.

    Bộ đội Bắc Việt cứ tiến tới, ngay như khi họ bắt tù binh cũng không ai biết , v́ có ai nắm bắt họ được đâu, chuyện đó coi như quá trừu tượng, và họ có quyền của kẻ chiến thắng. Trong nhiều năm nay, người Mỹ ở Sài G̣n, Pleiku, Huế, Đà Nẳng, Cần Thơ, Mỹ Tho hay Tây Ninh, ở ngay tỉnh lỵ hay quận lỵ, đều có sống qua những đợt tấn công và phản công. Nguời ta mất đi rồi chiếm lại rồi lại mất đi một ấp, một đồn điền, một ngọn đồi, một thung lũng hay một vùng rừng núi vô bổ nào đó... th́ chỉ là để ghi nhận những biến cố thôi. người ta chơi tṛ hú tim với một kẻ địch quá quắt. Không ai thật sự thắng họ. Cuộc chiến rồi cũng được ổn định trở lại hay chỉ c̣n những dấu vết, thường rất khó hiểu được đối với người Mỹ. Và cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân là như vậy đó: làm thế nào mà một sự thảm bại về mặt quân sự của cộng sản lại có thể biến thành một chiến thắng phi thường về mặt chánh trị trên b́nh diện quốc tế ? Những người Mỹ chứng kiến điều nầy vẫn c̣n thắc mắc măi...

    Thời kỳ qua vẫn c̣n đó, đầy đủ: Có cả tỉnh, thành phố mà người ta tưởng là không thể tái chiếm lại được đă được chiếm lại. Nhưng Đà Nẵng , Huế đang nằm trong tay Bắc Việt , người Mỹ và cả người Việt Nam ở Sài G̣n đều biết là lần nầy hai thành phố nầy không thể tái chiếm lại được . Chuyện không tuởng tượng được nó đă tới, người ta đă đến một điểm tận cùng không thể trở lui lại được nữa rồi !

    Người ta không thể đo lường được mức độ sợ hăi của người dân Việt Nam . Người ta không thể thiết lập được một bản thống kê về ḷng mong muốn được đi khỏi đất nước, muốn chạy khỏi th́ đúng hơn, của người dân Việt Nam . Thế nhưng một điềm chỉ viên đánh giá được sự lo sợ đó bằng hối xuất chợ đen của đồng Mỹ kim ở Sài G̣n , một sự đánh giá không ai bác bỏ được. Ngày 29 tháng 3, một tấm giấy bạc 100 mỹ kim được đổi với giá là 5000 đồng, bốn ngày trước người ta c̣n kỳ kèo 4000 đồng. Nỗi lo sợ cũng được ghi nhận ở giá vàng đang tăng vọt lên. Ai cũng đoán được ư định của những chuyện mua bán nầy: người nào t́m mua mỹ kim là người đó có ư chuẩn bị bỏ nước ra đi. người nào t́m mua vàng là người đó cẩn thận tính toán chuyện bị kẹt phải ở lại.

    Thứ hai lễ Phục Sinh ở Đà Lạt, những giáo sư cuối cùng của Viện Đại Học c̣n ở lại cũng đang sửa soạn để rời khỏi thành phố. Đêm hôm qua, trận chiến đă xảy ra ở cách đây khoảng 60 cây số, gần đồn điền trồng trà . Người ta thuật lại là có một linh mục người Pháp đă bị găy chân v́ một mảnh đạn pháo binh. Một bác sĩ Bắc Việt đă mổ cho ông ta mà không có gây mê, v́ Bắc Việt không có đủ phương tiện như ở Miền Nam .

    Muốn đi đến Sài G̣n th́ phải đi qua ngă Phan Rang v́ đường Đà Lạt Sài G̣n đă bị cắt đứt rồi. Linh mục Jean Mais dùng chiếc xe Citroen 2 ngựa của ông để chở các giáo sư và một đứa trẻ mồ côi 18 tuổi, người Việt Nam mà ông đang bảo trợ. Linh mục chạy về hướng đèo Ngoạn Mục. Qua khỏi nhà máy điện lực ông bắt gặp đoàn người di tản, trên những chiếc xe Peugeot 203 cũ kỹ với hàng chục người trên xe, những chiếc mô tô Honda chở cả gia đ́nh với nồi niêu xon chảo và mền chiếu của họ. Bên vệ đường có vài binh sĩ đang gạ bán một tấm da cọp vừa mới chết v́ đạp phải ḿn. Tấm da cọp th́ quư thật v́ khó mà gập được nhưng không ai muốn dừng xe lại hết. Sau khi cho các giáo sư xuống Phan Rang, linh mục đi dọc theo bờ biển, ngược đường với làn sóng người tỵ nạn, để đến Nha Trang xem tin tức về những linh mục khác.

    Tại Nha Trang, các linh mục đang do dự. Có một số chiều nay sẽ đi Sài G̣n c̣n những người khác th́ nghĩ rằng họ không nên bỏ con chiên trong giáo khu của họ. Linh mục Bianchetti cắm trại ngay trong thành phố với một số đồng bào Thượng đến từ một làng trong vùng Ban mê Thuột .

    Trên đường thấy có vài ngàn người chạy loạn. Nếu chiến trận không bắt buộc họ phải chạy th́ một số nông dân sẽ ở lại. Đă từ mấy đời rồi, họ vẫn ở đây, gần mồ mả của tổ tiên họ. Đối với hằng triệu người c̣n trẻ, họ không tưởng tượng được là họ phải rời bỏ làng mạc của họ, rời bỏ lũy tre xanh của họ... nhưng họ phải bỏ chạy mà thôi... v́ cộng sản đến.

    Về đêm, khi trở lại Phan Rang, linh mục Mais và người con nuôi của ông ta ghé lại giáo đường Krong Pha. Có những luồng gió thổi trong thung lũng tối đen. Vào khoảng nửa đêm linh mục ngủ không được nên ra khỏi giáo đường để hóng mát. Th́nh ĺnh ông thấy hàng trăm ánh đèn xe từ trên đèo Ngoạn Mục. Một đoàn xe đang đi tới : binh sĩ trú pḥng của Đà Lạt, các sinh viên sĩ quan, sĩ quan , lực lượng Bảo An và gia đ́nh của họ. Một chiếc xe Jeep ngừng lại. Đại tá Chỉ huy trưởng trường Chiến Tranh Chánh trị bước xuống, bắt tay linh mục và nói:

    - " Chúng tôi được lệnh phải rời bỏ Đà Lạt."

    Một sĩ quan khác tiếp lời :

    - " Chúng tôi cố gắng về điểm tập trung ở Phan Rang."

    Cũng giống như luận điệu của đài phát thanh và báo chí, ai cũng nói tới chuyện "điểm tập trung", hay chyện "thu hẹp tuyến pḥng thủ ', toàn là sáo ngữ không sao che dấu nổi một thảm bại h́nh như không thể đảo ngược được .

    Linh mục đi vào ngủ. Sáng hôm sau, một ủy ban an ninh cộng sản đă được thành lập trong làng . Có cả người cựu chỉ huy lực lượng pḥng vệ ở đó. Các công nhân của nhà máy điện lực đă mang băng tay đỏ trên cánh tay. Linh mục lại lên đường. Ngay ở đèo Ngoạn Mục, nhân viên của một ủy ban khác xét giấy tờ của linh mục. Một cuộc dằng dai...Nhờ một phụ tá của Viện Khoa học đi tới, ông nầy biết linh mục nên linh mục mới được phép tiếp tục lên đường.

    Ở Đà Lạt, các hàng quán đă đóng cửa hết, chung quanh bờ hồ vắng tanh. Trong chợ, trái cây, rau cải, thịt cá .. đang bắt đầu thối... đặc biệt bấp cải đă nặng mùi. Thư viện của Hội Thánh đă có cướp vào dọn sạch các kệ sách, đập nát tủ lạnh, phá toang tủ sắt dĩ nhiên không c̣n ǵ từ trước rồi... Linh mục thu nhặt vài cuốn sách rơi rớt. Trong thành phố, linh mục gặp người phụ tá dạy Pháp ngữ của ông. Với một số bạn trẻ ông Ngữ đang rửa chợ. Ông ta nói :

    - " Chúng tôi đang đợi họ. Tất cả đều tốt, nhưng thành phố phải sạch sẽ ...

    Ở viện đại học linh mục gặp ông trưởng khoa văn chương, ông Nguyễn khắc Dưỡng, giáo sư triết học. Anh của ông nầy là Nguyễn khắc Viện, là Giám đốc chương tŕnh phát thanh ngoại ngữ ở Hà Nội, là một nhân vật mà tất cả người Pháp ghé qua thủ đô Bắc Việt đều gặp ông ta. Trong hai anh em một người th́ theo Mác Xít và chọn Miền Bắc , một người theo Ki Tô giáo ở Miền Nam .

    Ông giáo sư triết nói với linh mục:

    - " Miền Nam Việt Nam quá tham nhũng, giờ th́ họ phải sống với sự trừng phạt !"

    Theo ông giáo sư nầy, cộng sản sẽ mang theo ngọn lửa tẩy uế. Mặc dầu ông biết là cộng sản Bắc Việt tàn ác, họ đă hành quyết cha ông vào năm 1956 , nhưng ông không muốn đi với những người mà ông cho là hèn nhát.

    Linh mục cũng không đi. Là người của Hội Thánh, linh mục hy vọng sẽ làm việc lại nếu người ta cho viện đại học mở cửa lại. Ông nghĩ là Đà Lạt coi như đă xong rồi !

    Tuy nhiên chuyện Miền Nam Việt Nam ngăn chận người Miền Bắc không thể không xảy ra được .

    Trong lúc đó tại Sài G̣n, nhà văn Duyên Anh hỏi đi hỏi lại là ḿnh có nên đi hay không ? người Mỹ loan báo là sẽ có một cuộc "tắm máu" nếu cộng sản Miền Bắc chiếm được Miền Nam. Đích thân Tổng Thống Ford h́nh như đă đ̣i hỏi người ta phải dự trù di tản các nhà báo và các nhà văn. Không có vấn đề loan tin hay viết lách ǵ nữa, lại càng không có vấn đề tiếp tục viết tiểu thuyết bây giờ nữa. Ra ngoại quốc nhà văn có thể viết được chăng ? và có độc giả hay không ? Ông ta nghĩ là một nghệ nhân cần có quần chúng. Và quần chúng của quốc gia ông. Ông Duyên Anh đă viết quá nhiều bài chống cộng. Nếu cộng sản tới ông ta có thể bị hành quyết. Ông đang nghĩ về ḷng can đảm của một anh Paternak hay một anh Soljenitsyne. Hai ông nầy sợ không trở về nhà được nên đă từ chối không đi Thụy Điển để nhận giải thưởng Nobel của họ. Nhà văn Duyên Anh đă có ghi tên vào danh sách di tản của Sở Thông Tin Hoa Kỳ ở đường Lê quư Đôn. Dĩ nhiên ông cũng có ghi tên của người vợ và 3 đứa con của ông.

    Sự việc một số tỉnh và thành phố đă rơi vào tay của Bắc Việt đă không làm cho kỹ sư Văn nao núng. Mặc kệ lănh thổ có bị mất đi cũng không sao. Điều quan trọng là con số tử vong của cả hai bên !. Kỹ sư Văn luôn luôn nghĩ rằng người ta không thể không tiến tới được một giải pháp chánh trị. Ông nói rơ quan điểm của ông ở ngay Bộ Công Chánh, mọi người đều tán thành. Có phải v́ họ nể nang chức tước của ông hay không ? Ở các sở khác, có một số công chức đă không c̣n im lặng được nữa, Họ lớn tiếng phàn nàn rằng người ta không nên và thể nói chuyện vời cộng sản được đâu.

    Với sự trợ giúp của 9 vị Thượng Tọa và lối 20 Tăng Ni của chùa Quan thế Âm, Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa đang coi sóc một số khoảng 60 người dân tỵ nạn, thuộc các gia đ́nh Phật tử phần lớn ở một tỉnh gần Ban mê Thuột . Những người nầy chiếm hết các pḥng công cộng trong chùa. Các bà th́ bận bịu luôn với công việc ở nhà bếp, trẻ con th́ đang khóc la rên rỉ. Các máy thâu thanh lúc nào cũng ồn ào làm cho chùa không c̣n được yên tĩnh . Các tăng ni th́ gặp khó khăn với các pḥng vệ sinh cá nhân đang bị tắt nghẽn. Nhờ quỹ cúng dường của tín đồ, các Thầy mới nuôi được số dân tỵ nạn nầy. Lúc nào họ cũng than thở không biết ruộng vườn nhà cửa và thân nhân thất lạc của họ đă ra sao rồi. Đây là những người dân chất phác , họ không cần biết tới diễn biến của t́nh h́nh chánh trị mà chỉ nghĩ tới việc trở về làng mạc của họ mà thôi.

    Một ông sư trẻ đang theo dơi thời sự. Hai người anh của ông là sĩ quan trong QLVNCH, họ có thể sẽ bị trả thù khi bộ đội Bắc Việt chiếm được phần đất nầy chăng ? Bọn cộng sản là những người vô thần, nghe nói là họ sẽ buộc những sư sải phải thi hành nghĩa vụ quân sự . Ở Miền Bắc người ta nói cộng sản bắt những người mới vào tu phải đi nhập ngũ nên phần đông sư sải ở ngoài đó đều là những người lớn tuổi. Chuyện đó không ngăn cản được những người lănh đạo cộng sản như Thủ Tướng Phạm văn Đồng đă từng tuyên bố với những khách ngoại quốc rằng : " Chúng tôi là Phật Tử theo nghĩa của chúng tôi ". Trong vùng chiếm đóng của CPLTMN cũng vậy, các sư săi đều là những người già.

    Các Thầy vừa lo giúp đỡ những người dân tỵ nạn, vừa lo nghĩ đến số phận của chính ḿnh, kín đáo trong lớp áo tràng và trong những lời cầu nguyện . Rất b́nh tĩnh họ nh́n diển tiến của t́nh h́nh. "Sự Nam tiến của người Miền Bắc có lẽ là một nghiệp báo mà chúng ta phải trả cho hành động của ta thuở trước chăng ?" nhà sư trẻ nghỉ thầm như vậy.

    Bố mẹ ông khuyên ông nên ra đi. Một trong những người anh rể của ông là một trung tá Không quân đă có xác nhận với ông là các sĩ quan cao cấp có quyền mang theo gia đ́nh của ḿnh. Nhưng ông sư trẻ nầy từ chối. Ông nghĩ là ông không thể tránh được cái nghiệp báo của ông, ông phải chấp nhận những đau khổ sấp tới. Và sau đó là ông không c̣n lo lắng ǵ nữa. Bố mẹ ông cũng ở lại, không đi. Họ chờ người con trai của họ trở về, anh nầy là một thiếu úy pḥng nh́ thuộc sư đoàn bộ binh đang chiến đấu pḥng thủ thành phố Xuân Lộc ở phía Tây của Sài G̣n .

    Các tàu chở xăng dầu không đi theo Sông Sài G̣n để đến Tân Cảng gần xa lộ Biên Ḥa được nữa, làm cho xăng trở nên khan hiếm . Ở các trạm xăng, người ta phải xếp hàng dài....

    Có hàng ngàn tin đồn khắp nơi trong thủ đô như:

    - Chắc chắn là địch quân sẽ tiến hành một sự phân chia đất nước ra nữa: đă có 2 nước Việt Nam rồi chắc sẽ có một Việt Nam thứ ba nữa đây ! Cộng sản Bắc Việt sẽ giữ nguyên vẹn phân lănh thổ của họ từ biên giới Trung Quốc đến vĩ tuyến 17. Những người kháng chiến ơ Miền Nam đă từng tập kết ra Miền Bắc sẽ nắm giữ phần đất nằm giữa vĩ tuyến 17 và vĩ tuyến 13, đó là một nước Việt Nam thứ hai. C̣n nước Việt Nam thứ ba, từ vĩ tuyến 13 đến mủi Ca Mau th́ sẽ có một Chánh Phủ với 2 thành phần, một là quốc gia và một là cộng sản.

    - Người ta c̣n phao tin chắc chắn là người Mỹ , nhất là nhân viên của CIA, đă khyên các tướng tá và công chức cao cấp nên đi. H́nh như người Mỹ đă bắt buộc hàng quân nhân có chức vụ cao phải lên trực thăng. Chính những quân nhân nầy muốn ở lại lo pḥng thủ Kontum, Plei Ku, Huế, Đà Nẵng.

    - Chánh Phủ Hoa Kỳ có nhiều dự án khác. Người ta có thể ở lại Sài G̣n, và người ta bị ám ảnh về ư nghĩ nầy. Các nhà trồng tỉa người Pháp tiên liệu là quyền lợi của họ sẽ được cứu văn. Người ta mong muốn, người ta sẽ được , phải ở lại Sài G̣n.

    Tổng Thống Thiệu giải thích trên đài truyền h́nh : "người Mỹ không muốn bán vũ khí cho chúng ta nữa, chúng ta phải tiết kiệm từng viên đạn." Đôi lúc ông tâm t́nh thật sự qua những câu : Trên chiến trường làm sao chúng ta có thể ôm bọn cộng sản để mà cắn họ được ?"

    Người ta đua nhau gợi lên tất cả những giải pháp khả thi, bất khả thi, và có thể xảy ra:... Nếu ông Thiệu từ chức... Ai sẽ thay thế ông đây ? ông Phó Tổng Thống? ông Thủ Tướng hay ông Bảo Đại ? Vị cựu hoàng đế nầy ở bên cạnh người Pháp, có thể người Pháp sẽ can thiệp với cộng sản Bắc Việt ....

    Đây là những ghi nhận của ông Patrick Hays :

    " 1.- T́nh h́nh: Khó mà biết chính xác được việc ǵ sẽ xảy ra, bởi v́ lần nầy mọi việc đều đi quá nhanh, và những người có trách nhiệm đối thoại lại không thấy xuất hiện. Mặt khác, trong bầu không khi hỗn loạn nầy có quá nhiều tin đồn khắp nơi không thuận lợi cho việc nghiên cứu t́nh h́nh một cách b́nh tĩnh được . Dù sao tôi cũng mong rằng chúng ta đang nằm ở một nấc thang được giả dụ là những kế hoạch lạc quan nhất của Bộ Tham Mưu Bắc Việt trong giai đoạn tấn công của họ đă đạt được rồi hay đă vượt đi quá xa rồi, và quân nhu của họ bắt buộc phải chạy theo. Như vậy có thể chúng ta sẽ có được thời gian để t́m được biện pháp an toàn cho nhân viên và tài sản của chúng ta . ....

    2.- Việc ǵ sẽ đến bây giờ đây ? Tương quan lực lượng mới đă quá rơ rệt để không c̣n nghi ngờ ǵ nữa về một kết thúc chung cuộc quân sự. Ngay như những người nào có quyết tâm ở lại chiến đấu cho Sài G̣n , chắc phải cần một De Lattre hay phải có một thánh nữ Geneviève.....

    Ông Hays nghĩ tới một sự ra đi của Tổng Thống Thiệu, nhưng ông không tin v́ biết rơ bản chất của ông Thiệu. Một giả thuyết lạc quan :

    - " Bắc Việt không tim cách chiếm Sài G̣n trước cuộc bầu cử Tổng Thống vào tháng 9.. ông Thiệu sẽ không c̣n đại diện nữa. Sau đó, chánh quyền "phải thi hành Hiệp Định Paris" , v.v....

    3.- Thái độ phải có : Tôi thấy ngă về ư kiến là quân cộng sản Bắc Việt sẽ vào Sài G̣n . (cơ may có được một phép lạ ngay ở Miền Nam tối đa chỉ vào khoản 5 %) Câu hỏi được đặt ra là làm sao biết được lúc nào và nhất là bằng cách nào ? Tôi mong rằng chúng ta c̣n có đủ thời gian v́ lư do tiếp vận và cũng có thể là v́ lư do chánh trị của phía Bắc Việt .....

    "Ở nhà máy, người ta vẫn làm việc b́nh thường. Nhưng tôi tiên liệu (trên giấy trắng mực đen lúc nầy) các toán lo về an ninh với những nhân viên có trách nhiệm trong trường hợp mà công việc bắt buộc phải bị đ́nh chỉ....

    "Sài G̣n vẫn yên tĩnh"....

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tháng Tư Nghiệt Ngă 1975 - Sài g̣n Thất Thủ
    » Tác giả: Olivier Todd
    » Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa




    16. Chương 13 - Ba sọc đỏ

    Để đón phái đoàn của tướng Weyand đến Sài G̣n , Tổng Thống Thiệu đă cho thực hiện và treo một số biểu ngữ mới. Bằng tiếng Anh, nội dung có ư nghĩa : "Dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu đến cùng nếu được giúp đỡ" ....

    Tướng Weyand đến phi trường lúc 3 giờ ngày 27 tháng 3, với Đại sứ Graham Martin, ông Eric von Marbod Phó Tổng Trưởng Quốc Pḥng, hai kiện tướng của cơ quan T́nh Báo Trung Ương CIA Ted Shackley và George Carver, một lô Phụ tá, và nhiếp ảnh viên của Tổng Thống Ford. Người ta có cảm tưởng đây là một đoàn vũ nhỏ nào đó : V́ địa vị của ḿnh ở đây, ông Martin đă xin được là người đầu tiên bước xuống phi cơ. Ông cảm thấy các bản phúc tŕnh về t́nh h́nh ở Đà Nẳng được phóng đại nhiều quá:

    - " Tôi phải đích thân đi xem lại chuyện nầy mới được .

    - " Không thành vấn đề đâu, " ông Lehmann trả lời

    Tướng Weyand đi gặp tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng của Việt Nam, người mà ông đă thường gặp từ lâu rồi. Tướng Frederick Weyand đă từng đảm nhiệm nhiều chức vụ chỉ huy ở Việt Nam . Ông đă có sư đoàn 25 bộ binh dưới quyền ông, Sau đó ông là tướng Tổng chỉ huy, thay thế tướng Creighton Abrams. Ông nói được tiếng Việt Nam , ông biết sức mạnh cũng như yếu điểm trong hệ thống quân sự của QLVNCH. Ông không thể tin được rằng Hoa Kỳ phải thất trận qua thất bại của Việt Nam Cộng Ḥa. Ông Thiệu và các tướng lănh của ông không tin tưởng những chánh trị gia loại Kissinger, cũng không tin lắm với những quân nhân như tướng Weyand hay tướng Haig. Trong tất cả các quốc gia dù dưới chế độ nào, hầu hết các tướng lănh đều không tin tưởng những chánh trị gia dân sự.

    Những người như tướng Weyand thường giải quyết các vấn đề quan trọng như vũ khí đạn dược, đâu có lo ǵ về các tù chánh trị hay những chuyện "bá láp" khác.

    Tướng Viên tŕnh bày các khó khăn của ông ta:

    - "Hoa Kỳ nên gởi các pháo đài bay B - 52 qua Việt Nam để triệt tiêu các điểm tập trung của quân đội Bắc Việt ".

    Tướng Weyand trả lời ngay là: "mọi hành động tái can thiệp quân sự đều phải có sự chấp thuận của Quốc Hội , và những đ̣i hỏi loại nầy có rất ít cơ may được họ thỏa măn."

    Các phiên họp tổng quát hay có giới hạn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được tiếp tục. Ông Weyand rất mong được gặp riêng ông Thiệu, nhưng ông Martin th́ muốn có sự hiện diện của ḿnh trong hầu hết các buổi tiếp xúc như vậy.

    Buổi tiếp kiến quan trọng nhất được ông Thiệu chủ tọa trong một gian pḥng lớn có các bản đồ treo trên tường. Ông Thiệu ngồi giữa, bên phải là ông Martin, bên trái là Phó Tổng Thống Hương, hàng ghế bên phải của ông Martin là tướng Weyand, ông Von Marbod và ông Carver, hàng ghế bên trái đối diện là tướng Viên Tổng Tham Mưu Trưởng, Thủ Tướng Khiêm, và ông Nguyễn tiến Hưng Tổng trưởng Kế Hoạch và các vấn đề kinh tế . Trước đó báo chí đă nói nhiều rằng : Dân chúng phải hiểu rằng Tổng Thống Ford rất quan tâm đến số phận của Miền Nam Việt Nam .

    Người ta bàn về những vấn đề dân sự và quân sự . Hoa Kỳ nhấn mạnh là phải giải quyết bài toán dân tỵ nạn, và nhất là gia đ́nh của binh sĩ. Không nên để cho các gia đ́nh nầy ở trong các vùng đang có giao tranh. Tướng Viên phản đối ngay; không nên đặt vấn đề tách rời binh sĩ và gia đ́nh họ, nếu không sẽ có nguy cơ giảm sút tinh thần chiến đấu. Ông nói:

    - " Trong cuộc tấn công của cộng sản hồi Tết Mậu Thân (1968), trong các đồn bót hẻo lánh, người ta thấy đàn bà và trẻ con đă giúp các binh sĩ chồng cha của họ như tiếp đạn, hay tản thương, và có khi c̣n xử dụng các khẩu đại liên nữa."

    Nhiều người Mỹ nghĩ rằng họ đang nằm mơ, v́ chuyện không thể tưởng tượng được . Ông Carver, nhân viên CIA, tự hỏi : người ta đang nói chuyện ǵ vậy ? Phải chăng họ đang bàn chuyện sấp ghế xích đu trên bon tàu Titanic trong lúc tàu đang ch́m?"

    Phái đoàn Hoa Kỳ muốn Chánh Phủ phải giải thích t́nh h́nh cho dân chúng biết. Cần tránh cho người dân khỏi bị những tin đồn thất thiệt của cộng sản đầu độc . Các cấp lănh đạo ở Miền Nam Việt Nam nên xử dụng truyền hinh thường hơn. Người Mỹ rất tin tưởng hệ thống truyền h́nh.

    Họ cũng đ̣i hỏi phải có một chiến thắng nào đó, dù là khiêm nhường. Như thế sẽ giúp đạt được vài trăm triệu mỹ kim. Có thế nào giáng một đ̣n nặng vào sư đoàn 5 Bắc Việt trong vùng Mỏ Vịt ở phía Tây Sài G̣n ? sư đoàn 5 nầy dù sao cũng chưa phải là một sư đoàn ưu tú đâu.

    Dĩ nhiên, Chánh Phủ cũng muốn có được một chiến thắng nào đó lắm chứ ! Không phải chỉ để gây cảm giác cho giới Lập Pháp và dư luận dân chúng Hoa Kỳ, mà là để chận đứng bọn cộng sản xâm lăng Bắc Việt , Nhưng khổ nỗi Bộ Tổng Tham Mưu không c̣n quân trừ bị, nếu muốn có th́ phải lấy lực lượng pḥng thủ của Sài G̣n. Người ta lại nói đến pháo đài bay B.52. Người Mỹ hiện diện ở đây không tin rằng trong giai đoạn nầy các B.52 sẽ giúp được ǵ . Hơn nữa không nên bàn vấn đề nầy ở đây. Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH cho biết là các phi cơ C.130 A chở 24 trái bom loại 750 cân anh, đă trút hết xuống quân địch từ cao độ 15 đến 24 ngàn bộ. Anh em binh sĩ ở Miền Nam gọi các phi cơ vận tải đó là các "B52 loại nhỏ". Bom thả như vậy cũng tàn phá được một diện tích khoản 400 thước vuông.

    Ông Von Marbod nói là binh sĩ Miền Nam không được tiếp tế đạn dược. Được ông Martin đốc thúc, ông ta mới nói rơ là đạn dược bổ túc chỉ sẽ được gởi đến nhanh chóng nếu Quốc Hội chấp thuận dự án của Tổng Thống Ford:

    - "Chúng tôi có nhiều dự trữ quan trọng ở Okinawa và ở Nam Hàn.

    Ông Von Marbod cũng có mặt ở Việt Nam với nhiệm vụ di tản chiến cụ.

    Người Việt Nam đang t́m kiếm vũ khí loại "Phép Mầu" ! Có thể nào giao cho họ loại bom 15 ngàn cân anh hay không đây ? Người Mỹ dùng loại bom nầy để dọn bải đáp cho trực thăng. nhưng Hiệp Định Paris cấm đem loại vũ khí mới vào Việt Nam . Mặc kệ ! Tướng Weyand hứa là sẽ cho gởi đến 27 trái bom loại nầy và cả chuyên viên cần thiết cho việc xử dụng.

    Ông Carver đang tự so sánh sự giống nhau giữa QLVNCH năm 1975 với Quân đội hoàng gia Anh năm 1940 .

    - " Đúng là một trận Dunkerque, ông nói, làm cho Đại sứ Martin phải nhăn mặt:

    - "Đứng trước Tổng Thống ta nên tránh không nên nêu lên những bài toán nóng bỏng, một sự cần thiết để t́m được sự thỏa thuận về trách nhiệm quan trọng cho Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam. Cơ quan nầy phải có nhiều quyền hạn hơn và không nên để bị Tổng Thống chen vào măi như thế."

    Trong cuộc tiếp xúc nầy, hầu hết nhân viên của phái đoàn Weyand đều có cảm tưởng là Tổng Thống Thiệu chưa ư thức được mức độ nghiêm trọng của t́nh h́nh .

    Trong một buỗi họp khác, Tổng Thống mạnh niệng giải thích rất chi tiết là sau cuộc bầu cử tháng 10 1975 tới, khi ông được tái đắc cử - ông tin chắc như vậy- th́ ông sẽ cho phép các đảng phái chánh trị khác được thành lập và hoạt động. Lần nầy th́ ông sẽ cho phát triển thật sự đường lối dân chủ.

    Ông Thomas Polgar xin phép được đề nghị là : 'tất cả những chuyện đó rất rất tốt và rất hứa hẹn nhưng trước hết là chúng ta nên nghĩ tới những bài toán quân sự trong hiện tại."

    Và ông tŕnh bày trở lại t́nh h́nh, nhấn mạnh đến những cuộc tiến quân của Bắc Việt , những điểm yếu của guồng máy chánh quyền , sự sụp đổ của Đà Nẳng. Th́nh ĺnh, trước mặt trưởng cơ quan t́nh báo CIA/Sài G̣n và ông Sed Shackley, đại diện của cơ quan t́nh báo CIA / Hoa thạnh Đốn, Tổng Thống Thiệu bật lên khóc .

    Rất nhiều nhân viên thuộc phái đoàn Weyand tiến hành các cuộc điều tra trong Nam, trong vùng đồng bằng sông Cữu Long. Tại Nha Trang, họ gặp được tướng Phú phờ phạc!

    Có nhiều phiên họp Mỹ Việt rất căng thẳng và gay gắt. Người Mỹ th́ cho rằng phía Việt Nam thiếu thực tế. Phía Việt Nam th́ cho rằng người Mỹ không hiểu những khó khăn của họ.. Phái đoàn Weyand đă làm việc ở Việt Nam đến ngày 4 tháng 4/1975.

    Ông Nguyễn tiến Hưng trao cho ông Von Marbod phóng ảnh của các bức thư của ông Nixon gởi cho ông Thiệu, và nhấn mạnh là Tổng Thống Ford nên đọc.

    Tướng Weyand thảo một tờ tŕnh dài 28 trang. Trong phần mở đầu, tướng Weyand viết :

    - "T́nh h́nh quân sự hiện tại rất nguy kịch. và Miền Nam Việt Nam có khả năng tồn tại như là một quốc gia thu gọn vào những tỉnh vùng Đông Nam hay rơ hơn là sát bờ biển (ư nói vùng 4 ở miền Tây). Chánh Phủ VNCH th́ gần như thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên Miền Nam vẫn chuẩn bị tiếp tục chiến đấu tự vệ với những phương tiện mà họ đang có. Hoa Kỳ cần phải giúp đở họ. Không quân Mỹ sẽ giúp ích cho họ trên cả phương diện vật chất cũng như tâm lư và tinh thần, nhưng tôi ghi nhận có nhiều rắc rối về mặt pháp lư và chánh trị rất dễ xảy ra khi áp dụng đề nghị nầy".

    " Một vấn đề khác mà chúng ta phải quan tâm, đó là Hoa Kỳ phải sẵn sàng để di tản 6000 công dân Hoa Kỳ và hàng chục ngàn người dân Miền Nam, những người quốc gia mà chúng ta phải có bổn phận phải giúp đỡ họ. Bài học tại Đà Nẳng cho thấy là công tác di tản nầy đ̣i hỏi tối thiểu phải có một "lực lượng đặc nhiệm Mỹ", một sư đoàn tăng cường, với sự yểm trợ của Không Quân Chiến Thuật để chống lại pháo binh và Pḥng Không Bắc Việt ."

    Tướng Weyand cũng đề nghị phải dứt khoát cho Hà Nội biết rằng : đến "lúc thuận tiện nào đó" th́ Hoa Kỳ dự định sẽ dùng sức mạnh, bất chấp mọi trở ngại, để di tản nhơn viên của ḿnh. " Tổng Thống Ford phải có được những quyền hạn cần thiết để "trừng phạt Bắc Việt bằng quân sự" nếu họ cản trở công tác di tản nầy. (1)

    Tướng Weyand kết thúc phần mở đầu trong tờ tŕnh của ḿnh bằng một tiếng chuông như thường lệ :

    -" Ở Việt Nam người ta đang xét lại ḷng tin đối với người bạn đồng minh Hoa Kỳ" . Chắc chắn diều nầy sẽ làm cho Kissinger bằng ḷng và thích thú !

    Cũng trong tờ tŕnh nầy, tướng Weyand tổng kết t́nh h́nh trong 3 tháng qua tại Việt Nam :

    - " Có rất nhiều đơn vị Miền Nam đă chiến đấu rất anh dũng, đáng ngợi khen. C̣n sự rút quân khỏi Kon Tum và Pleiku ? Đó là một "ư định hành quân" đúng, và Tổng Thống Thiệu có thể đă có lư khi ông ước tính đó là điều cần thiết phải làm, nhưng phần thực hành đă rất tồi tệ.. "

    Đôi với dân chúng bị kẹt trong vùng chiến sự th́ tướng Weyand cho đó là miếng mồi ngon của Bắc Việt .

    Theo tướng Weyand th́ quân đội Bắc Việt với 152.000 bộ đội có mặt trong Miền Nam là những quân nhân hiện diện chiến đấu thật sự , tổ chức thành 74 trung đoàn bộ binh , 5 trung đoàn thiết giáp, 14 trung đoàn pháo binh, và 33 trung đoàn pḥng không. Con số nầy không tính số quân nhân thuộc các đơn vị yểm trợ và tiếp vận. Phía Miền Nam Việt Nam chỉ có 59.000 quân, thuộc 19 trung đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn thiết giáp, 5 chiến đoàn Biệt động quân, 4 lữ đoàn Dù và 2 lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Sài G̣n cũng có lực lượng Không quân, Hải Quân, lực lượng Địa phương Quân. Nhưng tướng Weyand ghi nhận là lực lượng Địa phương Quân không hữu hiệu bằng lực lượng của MTGPMN (hay của CPLTCMN) . Tóm lại, lực lượng cộng sản Miền Bắc nhiều hơn lực lượng Miền Nam Việt Nam với tỷ lệ ba trên một.

    Tướng Weyand gạch chữ thập tréo lên Vùng 2 và Vùng 1. Chỉ c̣n lại 2 vùng ở Miền Nam . Mặc dầu có nhiều áp lực lên vùng Tây Ninh và Xuân Lộc, Chánh Phủ Sài G̣n phải cố giữ Vùng 3 Chiến Thuật "như hiện trạng ngày 1 tháng 4, ít nhất cũng trong tương lai gần đây.". Tại Vùng 4 Chiến thuật cũng vậy, nếu không có sự xuất hiện nào của bộ đội Bắc Việt .

    Với đẳng cấp của ḿnh, tướng Weyand phải nghĩ đến cả t́nh h́nh quân sự lẫn chánh trị . Ông ước tính có 2 khả năng:

    1.- Bắc Việt sẽ có thể khai thác tối đa lợi thế chiến thuật trên chiến trường để có thể đi tới một "chiến thắng cuối cùng, hoàn toàn quân sự"

    2.- hoặc họ sẽ củng cố những thắng lợi chiến thuật của họ cộng với chiến thắng đạt được trong tỉnh Tây Ninh, để đ̣i hỏi một cuộc thương thuyết. "

    Ở đây, tướng Weyand có ư nghĩ tới một người đàn bà trong trạng thái lưỡng ước :không biết ḿnh đang có mang hay không ?

    Tướng Weyand mạnh dạn nói với Tổng Thống Ford những ǵ ông đă không dám đề nghị với Tổng Thống Thiệu:

    - " T́nh h́nh nầy đ̣i hỏi một người lănh tụ có khả năng về hành chánh giỏi như Churchill và Chánh Phủ chiến tranh của ông ta đă giúp cho Anh Quốc sau trận rút quân ở Dunkerque và sau khi nước Pháp thất thủ". Tới ngày hôm nay người lănh tụ chưa thấy xuất hiện,. Hơn nữa không có một biển Manche để có thể tập trung quân về một chỗ trú an toàn. Các sĩ quan Miền Nam xác nhận là tinh thần của binh sĩ ở Vùng 4 rất tốt. Khi bị tấn công, họ chiến đấu "một phần bởi v́ đây là phần đất cuối cùng không c̣n chỗ nào để họ có thể lui về nữa". Ở chỗ riêng tư mà nói, các tư lệnh đơn vị xác nhận là nếu Vùng 3 Chiến Thuật mà thất thủ như Vùng 2 và Vùng 1 th́ tinh thần binh sĩ sẽ bị suy sụp theo"

    Tướng Weyand cũng giải thích là : ngoài xă hội cũng như ở các cấp hành chánh, quân sự, người Miền Nam tin chắc là "họ đă bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi và phản bội họ nữa". Đẳng cấp càng cao bao nhiêu ḷng oán hận Hoa Kỳ càng mănh liệt bấy nhiêu.

    Có một số quân nhân đă bắn lên trực thăng trên đó có nhiếp ảnh viên của Tổng Thống Ford. Tuy nhiên cho tới giờ nầy, ngoài một vài trường hợp ngoại lệ, người dân Miền Nam không có ǵ chống người Mỹ. Có tin đồn ở Sài G̣n là một số sĩ quan của Miền Nam đang toan tính sẽ bắn hạ các trực thăng hay phi cơ Mỹ nếu Hoa Kỳ di tản các viên chức của họ.

    Tướng Weyand có cảm nghĩ không thuận lợi lắm về Tổng Thống Thiệu và những cố vấn chính của ông ta mà ông gọi là "một Chánh Phủ thật sự của Tổng Thống ", (bao gồm Tổng Tham Mưu Trưởng, Thủ Tướng và cố vấn an ninh tướng Đặng văn Quang). Theo tướng Weyand th́ hầu hết người dân Miền Nam đều cho đây là những người dơ bẩn, không có khả năng hoặc là thành phần xấu."

    Không có một Churchill nào xuất hiện ở chân trời ! Ở Sài G̣n người ta nói nhiều về một cuộc đảo chánh . Nhưng theo tướng Weyand th́ đó sẽ là một "thảm họa" ! Dầu sao th́ tướng Weyand cũng dự kiến là trong những tuần lễ sắp tới, nhóm tướng lănh thật sự kiểm soát được Quân đội , sẽ nói với Tổng Thống Thiệu là "ông nên ra đi".

    Rơ ràng tướng Weyand rất lo ngại, khi ông nhận thấy rằng Bộ Tổng Tham Mưu Miền Nam thực sự không có một kế hoạch chiến lược nào. Tổng Thống Thiệu không thể tự ḿnh điều hành cuộc chiến từ Dinh Độc Lập, và "không một người nào khác có quyền làm việc đó " V́ thế mà tất cả hệ thống công chức của Miền Nam gần như ở trong t́nh trạng "khó chịu".

    Trái lại, Miền Bắc h́nh như không có một bài toán nào quan trọng: Họ có thể chuyển vào Miền Nam những sư đoàn c̣n lại của ḿnh c̣n nhanh hơn Chánh Phủ Miền Nam phối trí lại các sư đoàn mới thành lập của họ nữa..

    Tướng Weyand nghĩ là phải cần đến 722 triệu đô la viện trợ quân sự , dựa trên những mất mát trong những tuần lễ cuối cùng nầy. Ông lên danh sách những mất mát đó như sau:

    - Đạn dược (duy nhất trong kho ) 107 triệu đô la

    - Vũ khí cá nhân và cộng đồng .................... ..... 24 .6 "

    - Pháo binh .................... .................... ................ 16.1

    - Xe kéo .................... .................... .................... 85.0

    - Quân xa thường .................... .................... .... 67.0

    - Dụng cụ truyền tin .................... .................... . 15.6

    - Xăng dầu .................... .................... .............. 4.8

    - Dụng cụ y tế .................... .................... ....... 7.9

    - Công Binh .................... .................... .......... 1.8

    - Dự trữ tổng quát................ .................... ..............67.4

    Tổng cộng ..............397.2 triệu

    Ngoài ra Không Quân Miền Nam Việt Nam đă bỏ lại 268 phi cơ, 66,8 triệu đô la cơ phận thay thế, và 48 triệu đô la đạn dược. Hải Quân VNCH đă bị mất 3 chiến hạm và một số trang thiết bị. Chưa tính đến gíá trị của một số đạn dược mà các đơn vị mang theo và bỏ lại, và những căn cứ Hải và Không quân.

    Tại ṭa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n, có một số người, như Frank Snepp, nhắc đi nhắc lại là sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam trước hết không phải là v́ vấn đề vũ khí đạn dược. Những con số của tướng Weyand đích thân đưa ra chỉ có tính chất xác nhận điều đó thôi .

    Dường như là để cho được đầy đủ, hơn là có một sự niềm tin vững chắc, tướng Weyand tŕnh bày qua về kế hoạch của Miền Nam : là chỉ cần giữ vững một phần Đông Nam của Vùng 2 Chiến Thuật, 2/3 của Vùng 3 Chiến Thuật và cả Vùng 4 Chiến Thuật.

    Đây là một lập luận quá xưa của tướng Weyand: Vùng lănh thổ nầy là phần đất có nhiều dân chúng nhất, là "thực thể chánh trị và kinh tế để có thể sống c̣n". Nhưng lạ lùng ở chỗ là (tướng Weyand tŕnh bày tiếp ) "sau khi t́nh h́nh quân sự được ổn định rồi, Chánh Phủ sẽ tái tổ chức và tái thành lập nhanh chóng cơ cấu quân đội lại " Làm cách nào ổn định được chiến tuyến mà không có sự tái tổ chức lực lượng ? Tướng Weyand tŕnh bày lập luận của Tổng Thống Thiệu:

    - "Nếu người Miền Nam tập trung lại được th́ các phương tiện giao thông sẽ ngắn hơn và sẽ không có nhiều chỗ yếu hơn. Về phần địch, họ sẽ có quá nhiều lănh thổ, họ sẽ phải yếu hơn v́ lực lượng kháng chiến hay v́ những mũi tấn công đột kích của lực lượng quân sự Miền Nam "

    Sự tái tổ chức của các đơn vị của Miền Nam Việt Nam chỉ nằm trên lư thuyết. Bộ Tổng Tham Mưu nói là sẽ tái tổ chức lại 4 sư đoàn bộ binh, chuyển 12 chiến đoàn Biệt Động Quân thành 4 sư đoàn khác, và biến cải 27 chiến đoàn Địa phương Quân thành nhiều sư đoàn bộ binh . Không thấy có kết quả nào nào, người Mỹ đă giải thích là chỉ nên tăng cường thêm binh sĩ thiện chiến vào các đơn vị đang h́nh thành .

    Kết luận của tờ tŕnh cho Tổng Thống Ford rất là dè dặt một cách khéo léo. Tướng Weyand không thể bảo đảm rằng " một hay những biện pháp" mà ông đề nghị sẽ hữu hiệu để ngăn chận hay có thể làm chậm lại chiến thắng toàn bộ của Miền Bắc . Bản phúc tŕnh nầy đưa ra một nguyên tắc mà bất cứ cấp nào trong quân đội Hoa Kỳ cũng đều biết rơ , để tự bảo vệ "cái đầu của ḿnh" (sát nghĩa) : đừng có hành động phiêu lưu nguy hiểm, đừng có hứa hẹn ǵ nhiều , hảy nghĩ tới tương lai của chính ḿnh.

    Trước khi rời Sài G̣n tướng Weyand có một cuộc họp báo ngắn. Ông làm các nhà báo ngạc nhiên khi ông tuyên bố :

    - " QLVNCH vẫn c̣n mạnh, vẫn c̣n đủ tiềm lực cần thiết và ḷng dũng cảm để chiến đấu với kẻ thù Miền Bắc "

    Cơ quan t́nh báo của quân đội Hoa Kỳ đă có một tờ tŕnh dự kiến là VNCH sẽ sụp đổ trong ṿng "không quá 30 ngày".

    Tướng Weyand gặp lại Tổng Thống Ford ở California. Tổng Thống Ford thiếu hẳn tế nhị, trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng nầy (nguyên tác :thời điểm nguy kịch và bi thảm nầy) mà ông c̣n đi chơi gôn (golf) ở Palm Springs được ! Những người đồng hương của ông c̣n nh́n thấy ông khều trái banh nhỏ vào lỗ, và một vài giây sau đó qua tin tức truyền h́nh, họ chứng kiến cảnh di tản của các thành phố Việt Nam ! Có một số h́nh ảnh được phổ biến rộng răi cho thấy ông Ford với chiếc sơ mi ngắn tay đă chạy nhanh lên phi cơ ở phi trường Bakersfield dể tránh các nhà báo.

    Một nhà báo đă nói ngay với Ron Nessen, tùy viên báo chí của Tổng Thống rằng:

    -"Ông ấy chạy c̣n nhanh hơn quân đội Miền Nam Việt Nam !

    Bị các chuyên viên cao học về giao tế nhân sự bao vây, toàn là những bậc thầy trong ngành truyền thông, ông Ford có những vụng về chồng chất. Nhờ ông Bob Hartmann một cố vấn chuyên soạn diễn văn cho ông, Tổng Thống mới tránh khỏi một bữa ăn với diễn viên Frank Sinatra. Diễn viên có mùi "băng đảng" nầy rất nổi tiếng v́ thường hay gặp ông Nixon .

    Ông Ron Nessen đă cho biết thẳng thừng là Tổng Thống Ford không hề có ư định trong việc cho tái oanh tạc để yểm trợ cho QLVNCH:

    - " Luật pháp cấm ông ta làm như vậy.Vả lại ông cũng có khuynh hướng chống lại việc đó. Và ông không có một kế họch nào dự trù cho việc đó.

    Nessen nói tiếp:

    - " Tổng Thống có nhiều cảm t́nh và ḷng thương hại đối với dân chúng Việt Nam .

    Ḷng thương hại không đúng chỗ ! C̣n nhớ ông Phó Tổng Thống Rockerfeller lúc đi thăm viếng vùng Đông Nam Á Châu và dự đám táng của Tưởng giới Thạch trở về, đă công khai tuyên bố : - " Tôi tin là thật sự đă quá muộn để chúng ta có thể làm được một việc ǵ đó...

    Lúc nào cũng vậy, ông Rockefeller là người không bao giờ có một nhiệm vụ ǵ trong vấn đề Việt Nam.

    Vậy là Hà Nội rất vui vẻ được thông báo và bảo đảm là các pháo đài bay B.52 không bao giờ trở lại Việt Nam nữa.

    Ông Kissinger đă có mặt trong buổi gặp gỡ của Tổng Thống với tướng Weyand tại Palm Springs ở California. Không có đối thủ của ông, Tổng Trưởng Quốc Pḥng James Schlessinger.Buổi họp ở đây người ta xoay quanh ư kiến một ngân khoản viện trợ quân sự có thể cung cấp cho Miền Nam Việt Nam 744 khẩu pháo binh, 100.000 khẩu súng trường, 6000 súng liên thanh, 11.000 súng phóng lựu, 1300 đại bác ( ?) và 120.000 tấn đạn dược. Xuyên qua các cuộc thảo luận, bênh vực lập luận của ông trong tờ tŕnh, tướng Weyand đă cố ư cho thấy là người ta c̣n có thể cứu văn được t́nh h́nh bằng quân sự , và khi trở về đến Hoa thạnh Đốn, ông đă cho ông Bùi Diễm biết rơ sự đánh giá đó của ông.

    Ông Kissinger không có một ảo tưởng nào. Nhưng dù gặp t́nh h́nh khó khăn, th́ phải hành động như ḿnh đă nắm chắc vấn đề . Ở đây th́ như ḿnh đă có thể cứu được Miền Nam Việt Nam được vậy. Do đó ta phải xin Quốc Hội 722 triệu mỹ kim viện trợ. Thật tâm hay giả dối th́ chiến thuật nầy cũng có lợi. Nếu Quốc Hội từ chối không chấp thuận viện trợ, và nếu mọi việc trở nên quá tồi tệ ở Đông Dương th́ dư luận sẽ phê phán các ông nghị sĩ và dân biểu.

    Các cố vấn của Tổng Thống Ford như Robert Hartmann và Ron Nessen th́ không đồng quan điểm với cách tính toán nầy. Họ không muốn cứu Miền Nam Việt Nam . Họ chỉ muốn cứu ông Ford ra khỏi vũng lầy Việt Nam . Nhưng ông Kissinger thắng. Tổng Thống Ford sẽ xin Quốc Hội 722 triệu mỹ kim viện trợ quân sự và 250 triệu viện trợ kinh tế và nhân đạo cho Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh đến số phận đau thương của các dân tộc ở đó.

    Nhiếp ảnh gia David Kennerly mang về rất nhiều h́nh ảnh thu được ở Đông Dương. Anh tŕnh lên cho Tổng Thống Ford để Tổng Thống cho treo ở các hành lang trong Nhà Trắng. Anh nói với Tổng Thống :

    - " Campuchia chắc chắn sẽ không c̣n. Đừng nghe những ǵ các tướng lănh tŕnh bày với Tổng Thống . Họ chỉ kể chuyện tào lao nếu họ nói là Việt Nam chỉ c̣n tồn tại chừng ba bốn tuần lễ nữa mà thôi !.

    Sau buổi họp "tiểu thượng đỉnh" ở Palm Springs, ông Kissinger tuyên bố với báo chí :

    - " Hoa Kỳ đang đứng trước một bài toán về đạo lư. Đó là phải thẩm định xem khi một quốc gia đồng minh đă sát cánh với ḿnh trong 10 năm mà muốn tự vệ th́ chúng ta có thể nào dám quyết định ngưng hết mọi cung cấp chiến cụ cho họ hay không ?

    Những giới chức Hoa Kỳ có trách nhiệm đều tin rằng VNCH không tái chiếm lại các tỉnh đă mất. Nhiều lắm là VNCH có thể giữ vững ṿng đai pḥng thủ Sài G̣n để buộc Hà Nội phải đàm phán. Trong hiện tại cần phải nghĩ đến việc di tản các công dân Mỹ và người Việt Nam .

    Về phần ḿnh, ông Schlesinger thấy là phải trao cho hệ thống truyền h́nh phần giải đoán tối thiểu của những biến cố ở Miền Nam Việt Nam:

    - " Cuộc "tổng tấn công" của Bắc Việt đă quá rơ ràng. Đó là một danh từ mà chúng ta cần phải để vào hai dấu ngoặc kép. Chúng ta đang chứng kiến cảnh sụp đổ từng mảng của Quân Lực VNCH."

    Ông giải thích rằng, từ sau Ban mê Thuột, đă không có thêm những cuộc giao tranh quan trọng. Không phải là một chiến thắng quân sự của Bắc Việt mà đúng ra là một cuộc bại trận của Miền Nam Việt Nam .

    Đó là một sắc thái đặc biệt về ngữ nghĩa. Với đề nghị là Quân Lực VNCH không đáng được viện trợ, như dư luận khá phổ biến ở Hoa Kỳ , ông Schlesinger không trợ giúp được ǵ cho ông Tổng Thống ford và ông Kissinger.

    Vậy ai là người có trách nhiệm trong sự thảm bại của Quân Lực Miền Nam Việt Nam ? Câu hỏi nầy được nêu lên trong giới chánh trị . Ông Schlesinger tuyên bố là người ta không thể đưa ra câu trả lời ngay một cách đơn giản được. H́nh như ông gián tiếp nhắm vào Tổng Thống Ford và ông Kissinger, đồng thời cất cao giọng xác nhận rằng Hoa Kỳ thật sự không có nhu cầu phải có một sự đối đầu quan trọng giữa Hành Pháp và Lập Pháp" trong lúc nầy.

    Một Chánh Phủ mà các thành viên quan trọng nhất gần như công khai đối chọi nhau th́ làm sao chế ngự được một cơn khủng khoảng ? và dĩ nhiên không thể gây được niềm tin cho ai hết.

    Để làm tăng thêm các bài toán của Nhà Trắng, người ta bắt đầu rĩ tai là ông Nixon đă có những cam kết mật, và các tin phao đồn th́ đi rất nhanh . Đó là những bức thư của ông Nixon đă gởi cho ông Thiệu. Cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ đă gần kề rồi, vào năm 1976 tới đây. Ngón đ̣n nào dường như cũng tốt hết. Ông Eric Von Marbod đă nói về các bức thơ đó cho ông Schlesinger là cấp trên của ông ta . Ông Tổng trưởng Quốc Pḥng lại đem ra thảo luận với thượng nghị sĩ Henry Jackson, ông nầy lại nói công khai là : "đằng sau Hiệp Định Paris, c̣n có những "thỏa thuận mật ".

    Đọc được những bức thư đó, Tổng Thống Ford đâm ra rối trí...

    Sau khi Vùng 2 Chiến THuật bị thất thủ, về đóng ở Nha Trang, tường Phú lấy lại phần nào sức khỏe sau một phen nản chí. Ông cũng đang nghĩ là phải lập lại tuyến pḥng thủ từ phía Bắc của Nha Trang. Nhưng với các đơn vị nào đây để thực hành ư định nầy ?

    Thành phố Nha Trang đang yên ổn.

    Một buổi sáng nọ, không báo ǵ trước cho tướng Phú, cũng không báo cho người Mỹ, ông tỉnh trưởng cho lệnh các pḥng sở trực thuộc đóng cửa văn pḥng. Tướng Phú đă đặt Tổng Hành Dinh của ông trong một dinh thự trong đó có một số pḥng sở của Tỉnh. Trước đó ông không chú ư đến sự ra đi của các công chức dân chính của Tỉnh. Nhưng vào khoản giữa trưa, th́nh ĺnh tướng Phú chạy qua các pḥng làm việc của Quân Đoàn trên các tầng lầu, vừa chạy vừa la lớn:

    - " Ta chạy đi thôi !

    Vẻ mặt lơ láo, ông bảo người phi công lái trực thăng riêng của ông :

    -" Ta đi thôi "

    Và cứ thế ông rời khỏi Nha Trang. Vào lúc 1 giờ trưa, tin nầy chạy khắp thành phố làm sửng sốt mọi người .

    Nha Trang không hề bị tấn công. Có một số người nào đó đă thề là họ đă thấy các đơn vị Bắc Việt đă ở ngay cửa ngỏ vào thành phố, một số người khác th́ lại nói rằng Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam đă chia thành phố Nha Trang cho cộng sản Bắc Việt từ lâu rồi. Thế là dân chúng gồng gánh hành lư ùn ùn chạy lên phi trường, hy vọng t́m được chỗ lên phi cơ, hay chạy ra bến tàu để t́m tàu thuyền.... Trong thành phố, binh sĩ tông cửa và cướp các kho hàng, súng cầm tay họ tấn công dân chúng đ̣i lương thực, đ̣i tiền bạc , đ̣i nữ trang... Binh sĩ của Nha Trang trà trộn với binh sĩ chạy từ Đà Nẳng hay từ Huế về. Tại bến tàu, có quá nhiều người đến độ họ phải đứng xuống nước để chờ đợi, có chỗ ngập đến nửa thân ḿnh . Các bô lăo, phụ nữ và trẻ con bị chết ngộp, và thi thể của họ c̣n đó, tại chỗ, đôi khi được nằm trong chiếc túi ny- lông.

    Lại một cảnh tượng của Đà Nẳng nữa !....

    Cảnh hỗn loạn lan dần.. Tổng Lănh sự Hoa Kỳ ông Moncrieff Spear tâm sự với viên Lănh sự phó người Pháp Henri Strahlheim là ông không c̣n biết nói ǵ hơn được nữa.. Người Pháp th́ được di tản bằng một phi cơ do Ṭa Đại sứ thuê bao. Ba vị Linh mục và một D́ Phước thuộc Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc phải t́nh nguyện ở lại tại chỗ.. Họ không thể rời bỏ đám con chiên Việt Nam mà họ thấy họ c̣n có trách nhiệm . Trong Ṭa Lănh sự Hoa Kỳ c̣n có 200 công dân Mỹ và một số đông nhân viên người Việt Nam . Và trong số các sĩ quan hiện diện đang công tác ở Nha Trang c̣n có thêm một số dân đến từ Pleiku, Huế hay Đà Nẵng . Người ta chờ đợi các phi cơ của hảng Air America, của Bird Air và của World Airways hay của Continental....

    Trong sân của Lănh sự quán Hoa Kỳ , hằng trăm nhân viên chen chúc nhau với gia đ́nh của họ. Họ muuốn rời khỏi đây và cũng muốn lănh lương nữa . Nhưng điều bất hạnh là phát ngân viên đă di tản trước rồi với cả ngân quỷ.. Binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang ra sức ngăn cản, đôi khi làm bị thương những người Việt Nam khác muốn vào Lănh sự quán để được bốc đi.. Phải cần đến một số trực thăng để làm con thoi giữa Lănh sự quán và phi trường chỉ cách đó có 6 cây số ngàn !

    Anh Howard Archer, một nhân viên của cơ quan CIA phải chạy hết lầu 4 của Lănh sự quán và với sự giúp sức của 4 người đồng đội để thiêu hủy tất cả máy móc truyền tin. Mặc dù đă cố gắng nhưng cơ quan CIA nầy cũng phải c̣n để lại vô số hồ sơ, tài liệu và một số nhân viên. Cuộc di tản đă được tổ chức quá dở đến độ chuyến bay C.46 cuối cùng c̣n trống quá nửa khi rời khỏi phi trường . Anh John Lewis, một nhân viên khác của cơ quan nầy đă rất kiên tŕ và can đảm đi t́m khắp Nha Trang những người cộng sự viên của anh ta.. V́ thế anh bị bỏ quên lại và bị Bắc Việt bắt làm tù binh.

    Ông trưởng cơ quan CIA của Nha Trang chỉ lo cho những người Mỹ mà thôi. Ông giải thích là đă nhiều tuần lễ nay, người Việt Nam đă bỏ chạy mà không bao giờ nhớ đến người Mỹ.

    Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n phải nhận phần nào trách nhiệm về sự lộn xộn nầy. Vào lúc 17giờ rưỡi ngày mà tướng Phú rời khỏi Nha Trang, một phụ tá đặc biệt của Ṭa Đại sứ là ông George Jacobson, không biết v́ thiếu tin tức hay v́ mất cả b́nh tĩnh, đă cho lệnh vị Lănh sự như sau :

    - " Ông hăy rời khỏi thành phố ngay đi, các người Mỹ khác cũng vậy ".

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    16. Chương 13 - Ba sọc đỏ
    P2



    Khi trực thăng cuối cùng rời khỏi lănh sự quán, một ông già van nài đưa một em bé cho mấy người Mỹ đang ngồi trên trực thăng. Th́ có một người dùng chân đạp vào mặt ông già, làm đứa bé rớt xuống đất...

    Cuộc di tản nầy rất là vô ích, v́ quá sớm ! Sự thật không có một đơn vị Bắc Việt nào đến cửa ngỏ của thành phố Nha Trang. Vị tổng tư lệnh Bắc Việt lần nầy quá táo bạo, đă quyết định bỏ Nha Trang lại đằng sau lưng ḿnh, cho lệnh sư đoàn 316 và 320 bọc ṿng thành phố nầy để tiến thẳng vào hải cảng và Vịnh Cam Ranh, cách Nha Trang 35 cây số vế phía Nam.

    Căn cứ Cam Ranh c̣n ở cách Sài G̣n 260 cây số.

    Tại văn pḥng của cơ quan CIA ở Sài G̣n người ta đang tiêu hủy giấy tờ hồ sơ mà họ quên rằng Cảnh Sát Việt Nam c̣n lưu giử một bản sao. Thomas Polgar đang bị bối rối. Vô t́nh ông đă cho gởi bà vợ ông về Bangkok. Và sau đó ông đă viết thư cho bà ta đại ư cho biết là t́nh h́nh cũng chưa có ǵ đáng lo ngại. Tin chắc như vậy bà ta trở lại Sài G̣n mà không báo trước cho ông chồng, và bà đă bắt gặp chồng ḿnh đang ở với một phụ nữ Việt Nam trẻ tuổi. Khi ông Feydeau xen vào th́ bà cảm thấy nhục quá nên quyết định xa chồng và ly dị. Hoảng hốt và quá bối rối, ông Polgar không c̣n đủ tinh thần và sáng suốt trong việc điều hành và kiểm soát cuộc hành quân di tản đang được tiến hành. Có nhiều cơ quan Hoa Kỳ đă bắt đầu di tản một cách không chánh thức. Và nhờ thế mà người vợ của vị sĩ quan trưởng Pḥng T́nh báo Miền Nam Việt Nam được gởi đi đến Hạ uy Di với cái tên là bà W. Legros, với sự chấp thuận của Đại Sứ Hoa Kỳ . Nhiều người Việt Nam bâu lại các bạn thân và người quen của họ ở Ṭa Đại Sứ.

    Các chuyến bay quốc tế hoạt động thường xuyên, nhưng các chuyến bay nội địa của Hàng Không Việt Nam th́ từ 40 giảm xuống c̣n có 4, hằng ngày. Lănh thổ của VNCH đang teo dần...

    Có quá nhiều người xếp hàng dài trước ngân hàng Việt Nam Thương Tín , một ngân hàng tương đối lớn nhứt ở Miền Nam . Người ta muốn có ngoại tệ, muốn có vàng. Giá đồng mỹ kim đang lên. Giám đốc Ngân Hàng tuyên bố:

    - " Chúng tôi c̣n đến 150 tỷ bạc tiền dự trữ, nên chúng tôi không khóa chương mục nào hết "

    Giá gạo, giá rau cải tăng gấp đôi. Chợ búa đang thiếu trà, cà phê, những thứ nầy thường đến từ Vùng Cao Nguyên.

    Tổng Thống Thiệu cho lệnh thiết lập ṿng đai y tế chặt chẽ quanh Sài G̣n . Những người di tản bị chận lại ở các rào cản, và trong số đó có cả binh sĩ chạy lẻ tẻ về, không có vũ khí, Họ sẽ phải bị tước hết vũ khí nếu họ c̣n giữ súng trường hay súng lục. Thôi th́ gián điệp tràn lan, người ta thấy bọn việt cộng khắp nơi. Chánh quyền quân sự ra thông cáo cho biết là bất cứ người nào từ chối lệnh bị bắt giữ lại sẽ bị bắn tại chỗ.

    Hoa Kiều của Chợ Lớn th́ hấp tấp xin chiếu khán ở sứ quán Đài Loan. Người ta cũng kể lại là người Úc cũng có phân phát một số chiếu khán một cách rộng răi. Lănh sự Úc có nhờ Cảnh Sát dẹp bớt các nhóm quá đông đang tụ tập quanh văn pḥng của lănh sự.

    Các chuyến bay đến Âu Châu và Hoa Kỳ lúc nào cũng đầy ấp. Các chuyến bay đi Bangkok, Tân gia Ba, Hong Kong và Đài Bắc không c̣n một chỗ trống .

    Đại sứ Martin cho chỉ thị t́m cách thắng bớt sự hoảng hốt lại. Các hảng Mỹ có những biện pháp để giúp ông Martin. Họ cho các phụ nữ và trẻ con di tản từ cuối tháng 3 nhưng họ tuyên bố chánh thức là họ không nhúc nhích ǵ cả. Hảng "Training Co." tuyên bố là "chúng tôi đang trong t́nh ttrạng chờ đợi", hảng IBM th́ nói: "Chúng tôi sẽ ở lại đây lâu chừng nào hay chừng nấy". Hăng MobilOil vẫn tiếp tục công tác khoan dầu ngoài biển Đông,và các nhân viên của hai hăng Exxon và Caltex vẫn ở nguyên nhiệm sở của họ.

    Về báo chí th́ những tin "Rao Vặt" đă cho thấy là c̣n nhiều người Việt Nam vẫn c̣n quan tâm thực sự đến tài sản của họ. Như trong tờ Saigon Post đă có rao:

    - " Xin lưu ư tất cả các công ty dầu khí

    Khẩn: Bán 6 pḥng lớn, có các pḥng phụ thuộc (trên 1000 thước vuông, kể cả 2 pḥng ở và làm việc, nhà xe, hồ tắm và sân thượng) Khu vực an ninh (quận 2) Giá : trên 100 triệu đống.

    Liên lạc: 315/21 Hai Bà Trưng. Điện thoại: 22806 "

    Về nhà cửa th́ rao bán nhiều hơn rao mua. Tuy nhiên cho đến tháng 3 người ta vẫn c̣n tiếp tục xây cất như điên. Và ngay tại Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ người ta cũng vừa cho ngưng các buổi họp nhắm vào việc xây khách sạn Hyatt.

    Những "Rao Vật" vẫn xuất hiện b́nh thường như dạo nào. Cũng trong tờ SaiGon Post, dưới tấm ảnh của ḿnh, với bộ râu quai hàm rậm rạp và chiếc khăn truyền thống Ấn độ trên đầu, Giáo sư G. Singh một chiêm tinh gia nổi tiếng của Á Châu, quảng cáo về sự bói toán chính xác và lạ lùng của ông về quá khứ, hiện tại , và tương lai bằng khoa đọc trên lá cây, bằng khoa Tử vi và xem sắc tướng.... .Ông xác định là ông đă " thấy trước sự ra đi của Tổng Thống Hồi Quốc" (mà ông nói là ông Marcos!) Trong số thành tích của ông đưa ra trong quảng cáo, có một lá thư cám ơn của Tổng Thống Phi luật Tân. Liên lạc với Giáo Sư ở khách sạn Pasteur, pḥng 401, điện thoại 91236 từ 10 giờ đến 18 giờ, và ông chỉ sẽ tiếp khách trong ṿng 2 tuần lể.... v.v...

    Tại Sài G̣n không một ai không biết là Phnom Penh đang bị vây khổn, và Tổng Thống Cam Bốt là tướng Lon Nol cũng sắp ra đi "để trị bịnh ở ngoại quốc".

    Thủ đô Miền Nam có quá nhiều tin đồn, mơ hồ, đối nghịch nhau, rồi thanh minh rồi cải chính, rồi lại tung ra.....Ngay như tướng Dương văn Minh tuyên bố là có một số sĩ quan Việt Nam đă nghi ngờ là Tổng Thống Thiệu và người Mỹ ở Hoa thạnh Đốn đă kư một Hiệp Định mật với cộng sản Việt Nam. Ông tướng được gán cho là thủ lănh của lực lượng thứ 3 đă tuyên bố:

    - " Vừa đ̣i hỏi Tổng Thống Thiệu phải ra đi, cộng sản Việt Nam cũng vừa muốn khuấy động người Mỹ, những người đang bị rơi vào bẫy của cộng sản."

    Thật ra, sự có mặt của tướng Thiệu là điều rất thích nghi cho Bắc Việt trong chiến dịch của họ . Hoa Kỳ lại hiểu theo từng chữ mà cộng sản Bắc Việt đă nói, và họ vẫn giữ Tổng Thống Thiệu trong chánh quyền . Thật là quanh co rắc rối !

    Một vài sĩ quan đă tâm t́nh với tướng Dương văn Minh :

    - " Một ngày đẹp trời nào đó chúng tôi sẽ thấy ông Thiệu trong bộ quân phục cộng sản ."

    Một điều hoàn toàn vô nghĩa !

    Rồi người ta lại đồn là sắp có một cuộc đảo chánh quân sự. Rồi mặc dầu rất ít khi tuyên bố về chánh trị , tướng Tổng Tham Mưu Trưởng lại hiểu thị là "Đă bắt đầu một cuộc chiến đấu để sống c̣n.Thời điểm lịch sử đă đến. Nếu chúng ta quyết tâm chiến đấu, th́ chắc chắn chúng ta sẽ thắng."

    Rồi người ta đón nghe tin tức từ Hoa thạnh Đốn. Một chỉ dấu cho thấy là ông Kissinger đă có lưu tâm trở lại về vấn đề Việt Nam . Ông bỏ chuyến du hành xuống Nam Mỹ. Lẽ ra ông phải đi Á căn Đ́nh, Ba Tây, Pérou và Vénézuela.

    Trong một buổi phát thanh sáng trên hệ thống CBS, vị Đại Sứ VNCH tại Hoa thạnh Đốn đă tuyên bố :

    -" Hoa Kỳ không ở được đúng tầm vóc của Hiệp Định Paris. Thế giới đă có thể kết luận là tốt hơn nên chọn cộng sản làm đồng minh hơn là chọn Hoa Kỳ "

    B́nh luận về điều nầy, Tổng trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đă tỏ ra hiểu biết:

    - " Chúng ta phải cần có ḷng thương hại cho người Việt Nam "

    Đă bắt đầu có những rạn nứt trong guồng máy chánh quyền Miền Nam Việt Nam . Lần nầy th́ trong cơ quan Lập Pháp. Thông thường rất dễ dăi hơn Hạ viện, Thượng viện vừa chấp thuận một quyết nghị chống Chánh Phủ , "cáo buộc Tổng Thống Thiệu lạm dụng quyền hành và tham nhũng" . Các nghị sĩ tuyên bố là Tổng Thống Thiệu cũng phải chịu trách nhiệm về những bất công xă hội . Đức Tổng Giám Mục địa phận Sài G̣n , Đức Cha Nguyễn văn B́nh, cũng lên tiếng kêu gọi sự ra đi của Tổng Thống Thiệu. Lại có nhiều tin tức độc hại đến từ Âu Châu: Phó thủ tướng Trần văn Đôn vừa trở về từ Phi Châu là nơi ông đi thăm các nước để vận động dư luận ủng hộ cuộc chiến đấu tự vệ của VNCH, Khi ông ghé lại Paris ông được tin chắc chắn rằng: "Cả 3 siêu cường Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc đều đă đồng thuận là hai nước Việt Nam nên thống nhất lại dưới sự kiểm soát của Hà Nội ". Xuất xứ của nguồn tin mật nầy ? Một người bạn của ông Jacques Chirac, Thủ tướng Pháp. Ông Chirac không bao giờ gập tướng Đôn.

    Tại Sài G̣n, mặc dầu không hề có tiếp xúc nào với cộng sản Trung Quốc, một vài nhân vật chánh trị ước mong rằng Bắc Kinh sẽ có một ành hưởng nào đó đối với Hà Nội . Tướng Đôn ghé lại Hong Kong trên đường về. Tại đây ông có gặp được Tổng Lănh sự Hoa Kỳ . Hai người đă ước t́nh con số người Việt Nam cần được di tản. Phải đưa đi khoản một triệu người . Ông Tổng lănh sự nầy chuyễn con số đề nghị của ông Đôn về Hoa Thạnh Đốn , ở đó rủi thay họ đă chánh thức đưa ra con số là 250.000 người . Sự lộn xộn nầy lẽ ra chỉ có trên Hỏa Tinh mới thấy được, th́ Mạc tư Khoa, Bắc Kinh và Hà Nội đều nhận được hết......

    Hong Kong là thủ đô của các quan sát viên thượng thặng của Trung Hoa Cộng sản . Tại đó, rất nhiều viên chức của chánh quyền cộng sản núp bóng trong các ngân hàng và các công ty của Bắc Kinh. Họ nói năng rất tự do hơn nơi khác và những tin tức thuờng rất tốt. Ngày 4 tháng 4, tổng biên tập viên tờ Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông (Far Eastern Economic Review), một trong những tờ báo, hay ít ra là tờ tuần báo hay nhất của Á Châu , ông Leo Goodstadt đă dùng cơm trưa với Tỗng Lănh sự Hoa Kỳ . Ông Goodstadt có nhiều tiếp xúc với những người cộng sản ở Hong Kong, những người nầy phản ảnh rơ quan điểm của Bắc Kinh. Cộng sản Trung Quốc rất quan ngại về sự toàn vẹn lănh thổ của hai nước Cam Bốt và Lào. Họ không thích cái lối mà những người của Hà Nội lúc nào cũng muốn tự nhận là phát ngôn viên của toàn cơi Đông Dương. Thủ Tướng Bắc Việt không bao giờ chịu trả lời về đ̣i hỏi của Bắc Kinh là muốn bảo đảm sự độc lập của tất cả các quốc gia ở Đông Dương. Trung Quốc nhận rất nhiều đ̣i hỏi của Hà Nội về nhu cầu lương thực và áo quần cho những vùng do quân đội của họ "giải phóng" .Bắc Kinh không làm sao nhận được từ phía Hà Nội là phải có một hội nghị ở đó sẽ thảo luận tất cả những bài toán về Á Châu, trong đó có quy chế của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc và VNCH đang tranh chấp về vấn đề nầy.

    Quần đảo Trường Sa được Trung Quốc ghép vào bản đồ của họ. C̣n về quần đảo Hoàng Sa th́ khoảng cách từ quần đảo nầy đến bờ biển của Trung Quốc và bờ biển Việt Nam tương đối bằng nhau. Trên các đảo nầy có vô số phân chim, nhưng chung quanh đó chắc chắn có mỏ dầu khí. Ngày 12/4 đă không c̣n nghe thấy nói ǵ về toán binh sĩ QLVNCH đồn trú trên đảo san hô

    Song Tử Tây thuộc quần đảo Trường Sa nữa, Tàu chiến của Bắc Việt đă cho đổ bộ bộ đội Bắc Việt lên đảo nầy và họ dựng cờ của CPLTCHMN trên đảo. Trưóc đó mấy tháng, đă có những cuộc giao tranh giữa binh sĩ VNCH và cộng sản Trung Quốc. Bộ đội cộng sản Trung Quốc sau khi đánh ch́m một số tàu chiến của VNCH, đă lên chiếm đóng một số đảo nhỏ ở đó. T́nh h́nh lại trở nên rắc rối v́ Phi luật Tâm và Đài Loan cũng có gởi binh sĩ đến đồn trú tượng trưng trên một số đảo khác của quần đảo nầy. Đây là cuộc tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các quốc gia Á Châu không cộng sản .

    Điểm chánh là : cộng sản Việt Nam và cộng sản Tàu đang tranh chấp ở đây. Ông Thiệu không bao giờ khai thác các mối bất ḥa nầy mà ở Hà Nội và Bắc Kinh người ta gọi là các mâu thuẩn. Vào lúc mà những căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh trở nên quyết liệt, th́ tại Sài G̣n người ta đồn là cộng sản Tàu đă sẳn sàng giao Miền Nam Việt Nam cho Bắc Việt .

    Ngày 4 tháng Tư Tổng Thống Thiệu tiếp Thủ tướng Khiêm và Bác sĩ Nguyễn lưu Viên, Phó ThủTướng không giữ bộ nào, trưởng phái đoàn VNCH ở hội nghị La Celle-Saint-Cloud. Tướng Khiêm tuyên bố là một cuộc cải tổ nội các chưa đủ để đối phó với những bài toán nội bộ, Bác sĩ Nguyễn lưu Viên nói:

    - " Thưa Tổng Thống , nếu bây giờ ông ra đi th́ có thể có nội loạn. Nếu ông ở lại và vẫn tiếp tục đường lối chánh trị như cũ th́ Chánh Phủ sẽ bị cô lập....Nếu Tổng Thống cho phép th́ chúng tôi xin đề nghị với Tổng Thống 3 biện pháp.

    - Để chận đứng hẳn dư luận xôn xao, Tổng Thống hăy tuyên bố là ông không ra ứng cử Tổng Thống nhiệm kỳ thứ ba tới nữa.

    - Để lấy lại ḷng tin trong quân đội , Tổng Thống nên triệu tâp một hội đồng tướng lănh. Và giao cho hội đồng nầy toàn quyền hành động. Họ phải điều hành các cuộc hành quân.

    - Sau cùng, để cho Chánh Phủ được hữu hiệu hơn, Tổng Thống hảy giao cho họ thêm quyền hành.

    Tổng Thống Thiệu b́nh tĩnh trả lời:

    - "Trở lại theo thứ tự. người ta muốm tôi phải ra đi ?- Tôi được dân chúng bầu lên, tôi chỉ ra đi khi nào dân chúng bảo tôi phải ra đi . Chớ không phải một nghị quyết của Thượng Viện hay của một nhóm nào đó bắt tôi phải ra đi. Các Anh sẽ hỏi tôi : làm thế nào để cho dân chúng tŕnh bày ư kiến của họ ? - sẽ tổ chức một cuộcTrưng cầu dân ư.

    - Bác sĩ Viên nói nhỏ nhẹ:

    - Trong thời buổi nầy khó mà tổ chức một cuộc trưng cầu dân ư lắm.

    - Như vậy là lúc nào tổ chúc được th́ ta sẽ tổ chức vậy, Tổng Thống Thiệu nói.

    Các anh bảo tôi hăy tuyên bố là tôi sẽ không ra tranh cử Tổng Thống một nhiệm kỳ nữa. Bên Âu Châu hay ở Hoa Kỳ th́ được . ông Johnson đă ngồi ở ghế Tổng Thống của ông cho đến hết nhiệm kỳ. Ở Việt Nam, nếu hôm nay tôi tuyên bố là tôi không ra tranh cử nữa, th́ các anh sẽ biết chuyện ǵ sẽ xảy ra không ? Ngay ngày mai là không c̣n ai làm việc nữa, không c̣n ai tuân lệnh tôi nữa. Tôi không c̣n bảo tướng B́nh (Chỉ huy trưởng cảnh sát) là phải giải tán đám biểu t́nh nào được nữa. Sẽ có một sự vô trật tự khắp nơi. C̣n tệ hơn là tôi đi nữa đó.

    Một hội đồng tướng lănh hả? Tại sao ? Tướng Kỳ đă có nói rồi, các anh lại đề nghị như vậy nữa. Tất cả các anh muốn ǵ đây ? Về vấn đề quân sự th́ chúng ta đă có Bộ Tổng Tham Mưu Liên Quân là đủ rồi. Thêm một hội đồng tướng lănh nữa chỉ làm phức tạp thêm tất cả. Chuyện nầy làm tôi nhớ lại hội đồng tướng lănh hồi năm 1964 và 65, với những cuộc đảo chánh liên hồi. Đừng nói chuyện đó với tôi nữa. Cứ để cho ông Tổng Tham Mưu trưởng làm việc. Cho tới giờ nầy ông ấy làm việc tốt lắm rồi.

    Tổng Thống Thiệu ít khi khen vị Tổng Tham mưu trưởng của ông lắm. C̣n Chánh Phủ dân sự th́ sao ? Tổng Thống nói:

    - Chánh Phủ đă có đầy đủ quyền hành. Chánh Phủ không biết xử dụng đó thôi, không có những biện pháp xét thấy cần thiết phải có.

    Thủ tướng không nói lớn tiếng trước Tổng Thống nhưng lần nầy ông buông ra một câu :

    - " Thưa Tổng Thống , chúng ta đă mất 14 tỉnh rồi. Ở các nơi khác th́ không một Chánh Phủ nào được tồn tại với một biến cố lớn như thế. Không có một h́nh phạt nào đối với Chánh Phủ cũng như đối với Bộ Tham Mưu. Tôi muốn đứng ra gánh hết tội ..."

    Tổng Thống Thiệu nói không do dự:

    - " Anh muốn từ chức ? Tôi chấp thuận... Tôi sẽ tuyên bố chuyện đó chiều nay trong bài diễn văn truyền h́nh . Tôi sẽ nói ǵ đây ? .... Tôi sẽ không giải thích là Anh không thể thành lập một Chánh Phủ mới được ..."

    Tướng Khiêm cười, Tổng Thống Thiệu nói lại:

    - " Xét kỹ lại tại sao ta phải nói lư do ? Tôi sẽ thông báo tên của người kế vị Anh, nếu không th́ người ta đâm ra suy luận. Ở đất nước nầy cái ǵ họ cũng suy luận được hết. Bây giờ chúng ta hảy xem coi là ai sẽ thay thế Anh được đây ...

    Tổng Thống Thiệu lấy ra một bản danh sách các nhân sĩ, dĩ nhiên do tướng Khiêm đă lựa chọn.

    - Trước hết có Bác sĩ Trần văn Đỗ. Ông ta chắc chắn sẽ nhận ngay. Tướng Kỳ sẽ bằng ḷng lắm đây, bởi v́ anh ta muốn thay vào chỗ của tôi lắm.. Và khi ông Đỗ trở thành Thử Tướng th́ ông ta sẽ giúp đở ứng cử viên Kỳ trong cuộc bầu cử sấp tới. Họ liên kết với nhau lắm. Không, không có ông Đỗ.

    Tổng Thống Thiệu biết rơ là tướng Kỳ và Linh mục Thanh thường họp ở Câu lạc bộ sĩ quan Không Quân trong ṿng 10 ngày nay. Họ đ̣i hỏi một Chánh Phủ quốc gia cứu quốc.. Rất khéo léo, ông ta không đứng tên vào ủy ban được thành lập trong dịp nầy, mà chỉ lo việc liên lạc với các chánh trị gia mà thôi.

    - C̣n Giáo sư Huy th́ sao ? Tổng Thống lên tiếng hỏi. Ông ta là một lư thuyết gia giỏi nhưng không có kinh nghiệm. Ông chưa từng giữ một Bộ nào th́ không thể là một Thủ Tướng khá được

    Ông Lắm (Chủ Tịch Thượng Viện) được không ? Ông nầy làm việc được lắm đó, nhưng trong chuyến du hành sang Hoa Kỳ vừa rồi, người Mỹ đă có nói nhỏ với ông ta điều ǵ đó. Khi về đến nhà, ông đă làm cách nào đó mà Thượng Viện đă chấp thuận một nghị quyết bất tín nhiệm tôi. Có thể chức vụ Thủ Tướng sẽ dọn đường cho ông ta ra tranh cử Tổng Thống kỳ nầy. Tôi không có dại ǵ đâu.. C̣n lại ông Cẩn, Được lắm, Ông nầy thanh liêm, lại có kinh nghiệm, đă điều hành Hạ Viện trong 2 năm, một nhiệm vụ không dễ dàng đâu. Và ông đă được huấn luyện nhiều về hành chánh trong nhiệm vụ tỉnh trưởng. Để tôi đi giọi ông ta."

    Tổng Thống Thiệu bước qua pḥng bên cạnh và lúc trở lại ông tươi cuời nói :

    - Ông Cẩn rất kinh ngạc, thật sự ! Ông sẽ tới ngay.

    Một lát sau, sĩ quan tùy viên bước vào thông báo :

    -" Có Chủ Tịch Hạ Viện tới"

    Ngay chiều hôm đó, Tổng Thống Thiệu thông báo bổ nhiệm tân Thủ Tướng ông Nguyễn bá Cẩn, một nhân vật không ai ngờ tới, một nhân vật vô danh.

    Cũng trong tuyên bố được trực tiếp truyền thanh truyền h́nh nầy, Tổng Thống Thiệu "hứa sẽ "tái chiếm lại các tỉnh đă mất về tay Bắc Việt " . Không bao giờ ông chấp nhận một Chánh Phủ Liên Hiệp với cộng sản . Chỉ có một giải pháp duy nhất để có được ḥa b́nh: đó là tổng tuyển cử theo đúng Hiệp Định Paris 1973. Các thất bại quân sự trong những tuần lễ vừa qua là do tinh thần chủ bại trong quân đội, có sự không trung thành của binh sĩ người thượng, do âm mưu phá hoại của bọn nằm vùng cộng sản và do các buỗi phát thanh của đài BBC và VOA. Và nhất là do Hoa Kỳ v́ họ không thi hành những cam kết của họ"

    Đúng hai giờ 15 phút sau phiên họp giữa Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Khiêm, một biến cố nghiêm trọng đă làm cho việc cải tổ nội các phải bị lùi lại ở hành thứ yếu.

    Một trong những bức thư chánh thức cuối cùng mà tướng Khiêm nhận được trong cương vị Thủ Tướng là một bức thư của Bác sĩ Phan quang Đán, một trong những vị Phụ Tá của Thủ Tướng đặc trách về Y tế. Nội dung bức thư như sau :

    Đề tài: Cuộc di tản của 1400 trẻ mồ côi sang Hoa Kỳ

    Kính thưa Thủ Tướng,

    Ở Sài G̣n hiện có 1400 trẻ mồ côi, được các tổ chức từ thiện quốc tế bảo trợ. Các trẻ nầy đang đợi để được đưa sang ngoại quốc, nơi đó sẽ có các cha mẹ nuôi sẵn sàng nhận nuôi chúng. Tổng trưởng Y tế và Ủy Ban Quốc Tế Cứu Người muốn giải quyết ngay vấn đề nầy để c̣n lo cho một số vấn đề khác quan trọng hơn. Hơn thế nữa, vấn đề di tản các trẻ mồ côi sẽ gây ra một xúc động lớn trên thế giới, nhất là ở Hoa Kỳ và là một hành động từ thiện rất tốt cho Việt Nam Cộng Ḥa .

    Hiện giờ hai chiếc phi cơ Boeing 727 của hàng không World Airways đang sẵn sàng. Ông Daly, chủ tịch của công ty hàng không nầy là một người có tiếng tăm trong giới chánh trị . Ông có lưu ư chúng ta là cuộc di tản của trẻ mồ côi nầy và hàng triệu dân chúng đă bỏ chạy khỏi những vùng bị cộng sản đánh chiếm sẽ là một sự tuyên truyền (cổ xúy) rất thuận lợi cho Việt Nam , nhất là khi được các đài truyền h́nh và báo chí Hoa Kỳ khai thác về chiều sâu.

    Do vậy, tôi trân trọng xin Thủ Tướng chấp nhận đề nghị nầy"

    Trên phương diện pháp lư, không một vị thành niên, một trẻ em hay một hài nhi Việt Nam nào được quyền rời khỏi đất nước mà không có chiếu khán xuất ngoại. Do đó cần phải có một quyết định tập thể và đặc biệt cho nhóm trẻ mồ côi . Nản ḷng v́ sáng kiến của ông Daly đề nghị, Đại sứ Martin sấp xếp để đưa tới một chiếc phi cơ Galaxy, chiếc C-5 A của quân lực Hoa Kỳ, một loại phi cơ vận tải lớn nhất thế giới. Chiếc Galaxy nầy khi đến Tân sơn Nhứt sẽ đổ xuống một số vũ khí và đạn duợc.

    Tại phi trường Tân sơn Nhứt, trên những chiếc xe buưt quá nóng, 243 trẻ mồ côi trong đó có một số bị tật nguyền,đang ngồi chờ quyết định chánh thức cho phép chúng ra đi. Các chức trách đều nghĩ rằng bức thư của Bác sĩ Phan quang Đán gởi cho Thủ tướng có giá trị như là một chiếu khán tập thể. Báo chí được gọi tới. người ta bốc vũ khí đạn dược xuống, và cho các em lên phi cơ : đẹp quá ! Một đề tài quá tốt cho báo chí: đúng là một cuộc hành quân di tản để bốc trẻ mồ côi ! Đại sứ Martin c̣n cẩn thận cho đi theo nhóm trẻ mồ côi nầy nhân viên y tế Hoa Kỳ và những bà vợ của các viên chức Ṭa Đại sứ nữa. Để đưa các gia đ́nh đi một cách kín đáo, người ta t́m mọi lư do như bệnh, đi phép v.v.. và như thế là có hơn 60 người nữa đă lên thêm trên chiếc Galaxy. Một trăm sáu chục em chiếm hết từng trên của phi cơ cứ từng hai đứa một nịch vào một ghế ngồi. C̣n các em khác th́ ngồi chen chúc nhau dưới khoang hành lư, trùm kín trong mền. Phi cơ chưa cất cánh nên nóng quá làm mấy đứa nhỏ khóc lên. Các người có phận sự đi theo trông chừng các em tháo vác lăng xăng dỗ dành. Các máy quây phim tha hồ mà làm việc, quay gần quay xa đủ các góc cạnh.Phi cơ cất cánh lên nặng nề. Mười phút sau người ta nghe một tiếng nổ lớn. Một nhân viên phi hành đoàn cho biết là các cánh cửa sau bị rớt ra khỏi phi cơ. Chiếc Galaxy mất cao độ bay thấp xuống, lượn một ṿng trên mặt biển. Các ống thở dưỡng khí từ trên trần rơi xuống, nhưng làm sao đủ cho các đứa trẻ ? Hơn nữa làm sao các em bé hài nhi biết tự xử dụng được ? Phi trường gần nhất lúc đó là phi trường Vũng Tàu, nhưng phi cơ trở về Sài G̣n và rớt xuống một miếng ruộng.. Các bờ đê cứng như xi măng đă bóc đi gần nửa chiếc phi cơ. Một chiếc trực thăng đang bay trên vùng phi trường đă báo động sự việc cho căn cứ. Các trực thăng khác bay ngay lại nơi xảy ra tai nạn. Một số trẻ bị hất tung xuống bùn. Người ta t́m lại được trên sáu mươi, c̣n th́ đều bị tử nạn hết.

    Tại Tân sơn Nhứt, ông Jim Eckes, giám đốc hàng không Continentai Air Services hỏi anh phi công phụ của chiếc Galaxy:

    - "Tại sao các anh không đáp xuống Cap Saint Jacques ở Vũng Tàu ?

    - Vũng ǵ ? người phi công đáp lại ....

    Nhiều bà y tá chuyền tay nhau các đứa trẻ đầy bùn śnh, rửa sạch cho chúng nó:

    - Đứa nầy chết nè, đứa nầy sống.. C̣n đứa nầy..?

    Đại sứ Martin điện thoại cho Eckes:

    - Jim, anh thử xem đă có bao nhiêu người trên chiếc Galaxy ?

    Ông Eckes đă chạy khắp các văn pḥng dân sự và quân sự , t́m danh sách . Không có danh sách nào giống danh sách nào. V́ vào giờ chót người ta c̣n cho một số những người đi theo trẻ mồ côi mà tên tuổi th́ không thấy ghi... Ông ta gọi ông Martin:

    - " Tôi không thể cung cấp cho ông một danh sách nào được cả"

    Văn pḥng của Eckes nằm ngay trong phi trường, gần Câu lạc bộ hàng không Pháp. Cũng như các chuyên viên khác, ông tự hỏi.

    "Tại sao phi hành đoàn của chiếc Galaxy không biết là có một phi trường ở Vũng Tàu ? Tại sao phi công trưởng lại chấp nhận chở các trẻ em nầy trong những điều kiện quá xấu như thế ? Tại sao người ta không cho một phi cơ Boeing của Hàng Không Pan Am đến Sài G̣n để đảm trách việc chuyên chở nầy ?. Trong khi một chiếc 707 đang sẳn sàng với trang bị hoàn toàn tốt đang chờ đợi ở Guam với phi hành đoàn và các tiếp viên tự nguyện ?

    Phải chăng "chiến dịch bốc trẻ" nầy có một đường hướng tượng trưng, nếu được thực hiện bằng các chuyến bay quân sự như chiếc Galaxy nầy ? Qua tin tức được chiếu trên các hệ thống truyền h́nh trên khắp Hoa Kỳ, người Mỹ được thấy một cảnh tượng đau ḷng. Sau đó họ cũng thấy được Tổng Thống Ford đă có mặt ở phi trường San Francisco để tiếp đón những đứa trẻ mồ côi khác khi các chuyến bay đem chúng đến Hoa Kỳ . Thật hết sức là khó chịu khi ông Ford tiếp nhận đứa trẻ do chuyến bay đầu tiên thuộc "chiến dịch bốc trẻ" mang đến.

    Tại Sài G̣n một người Việt Nam đă nói với người Mỹ bằng một giọng chua chát, thất vọng hay trách
    - Các trẻ em đó hả, Thật là một kỷ niệm tốt, Cũng giống như các "con voi sành sứ" mà các anh thích vậy.Rất tiếc là có nhiều con bị gảy bể. Các anh đừng lo, c̣n các con khác nữa không sao!"

    Tướng Khiêm họp Hội đồng Nội các lần chót. Sau đó ông đến dinh Độc Lập để dùng cơm với Tổng Thống và một số đông quan khách được mời. Tổng Thống Thiệu có vẻ thoải mái, vui nữa là khác!

    Ông già Hương, Phó Tổng Thống nóng giận:

    - "Phải treo cổ những anh đại tá hay tướng lănh nào đă bỏ nhiệm sở trong thời gian mấy tuần qua "

    Tổng Thống Thiệu trả lời một cách lạnh lùng,

    - Ngay như họ đào ngũ, chúng ta cũng không thể xử họ như vậy được . Ḿnh c̣n phải điều tra, và đưa họ ra ṭa án xử họ chớ "

    Bác sĩ Nguyễn lưu Viên đề nghị là ḿnh phải công khai hóa dự tính của Chánh Phủ trừng phạt những người có trách nhiệm trong các cuộc lui quân liên tiếp đó. Có thể lập một tiểu ban có sự tham gia của các nghị sĩ và dân biểu của những tỉnh bị mất.

    Tổng Thống Thiệu có một phản ứng của một quân nhân không thích thấy những người dân sự chen vào công việc của quân đội , nên ông trả lới :

    - " Đó là bài toán của Bộ Tổng Tham Mưu. Họ đang tiến hành một cuộc điều tra...

    Thật ra đă có nhiều cuộc điều tra đang được tiến hành, nhưng các cuộc điều tra nầy đều nhắm vào các sự mất mát hơn là t́m ra những người có trách nhiệm hay có tội trong sự sụp đổ nầy.

    Bửa cơm kết thúc. Một vài quan khách đi theo Tổng Thống . Ngoài hiên của tầng dưới ,trước một lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng với ba sọc đỏ Tổng Thống Thiệu dừng lại, chỉ vào lá quốc kỳ:

    - " Các ông thấy không ? Tất cả đều được viết lên đây. Tôi không biết người nào đó đă có ư để ba sọc đỏ vào lá quốc kỳ. Có lẽ ta sẽ phải có 3 nước Việt Nam .

    Khi nói điều nầy, tướng Thiệu chắc không nghĩ đến "Ba Kỳ" là Nam, Trung, Bắc ....

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Tháng Tư Nghiệt Ngă 1975 - Sài g̣n Thất Thủ
    » Tác giả: Olivier Todd
    » Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa




    17. Chương 14 - Màng chi một cây kim, một sợi chỉ ?

    - "Chưa có lệnh của tôi th́ không có ai được di tản đi đâu hết !"

    Đó là lời ông Graham Martin nói với ông Jim Eckes.

    Mặc dầu đă có chỉ thị như thế của ông Đại sứ Martin,...đă có hàng chục đường dây hoạt động tấp nập, do một số quân nhân hay dân chính Hoa Kỳ tổ chức. Một số người ước tính rằng, với lư do là tránh sự hoảng loạn, Đại sứ từ chối không gánh lấy trách nhiệm.

    Đứng cạnh các kho của công ty dịch vụ Continental Air Services, ông Eckes nh́n thấy một xe vận tải nhỏ màu đen đang muốn băng ngang qua khu đất của công ty. Nh́n là biết ngay đó là xe của cơ quan CIA. Ông Eckes chận xe nầy lại. Ngồi ở băng trước là một đại úy Không Quân Mỹ, mạnh dạn nói:

    - " Tôi có giấy phép muốn đi đâu cũng được ".

    - " Nhưng h́nh như ông đang đi vào nhà kho của tôi ." Ông Eckes nói.

    Hai người căi nhau, ông Eckes lấy tên của đại úy nầy. Rồi ông theo dơi, thấy xe chạy đến một phi cơ C-130 đậu ở gần một phi đạo. Một số khoảng hai chục phụ nữ, ăn diện đúng cách , cho thấy không thể xuất thân từ Nhà Ḍng , nhảy xuống xe và lên hết trên chiếc C-130 đó.

    Được báo cho biết sự việc, ông Martin trách vị tùy viên Không quân của ông. Ông nầy trước th́ chối. nhưng người ta đưa ra bằng chứng. Và người tùy viên nầy được chánh thức cho rời khỏi Việt Nam, theo lời yêu cầu của ông đại sứ.

    Ông Alexandre Casella, một công dân Thụy sĩ, vừa công chức của LHQ vừa nhà báo, là Cố vấn của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ (UNHCR) ở thủ đô Bắc Việt .

    Hà Nội có vẻ yên tĩnh, gần như đ́u hiu.

    Dù ở trong Nam hay ở ngoài Bắc, Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ vẫn lo giúp dân chúng sống rải rác trở về làng mạc của họ. Họ mua các máy cày của Liên Xô, vải sồ của Trung Quốc và trao hết cho người dân Việt Nam . Họ đă có sẵn một mục tiêu: sẵn sàng giúp đỡ tất cả những người dân tỵ nạn nếu Miền Nam sụp đổ. Ông Casella lo về phân bón, gà và những xe chuyên chở hai bánh loại nhỏ để có thể giúp các nông dân gầy lại sự nghiệp của họ.

    Tại Hà Nội, ông Casella thường lui tới với nhân viên của Bộ Ngoại Giao và Bộ Canh Nông, và đại diện của CPLTCHMN. Không ai dự đoán trước được ǵ cả, nhưng Casella để ư tới một biểu ngữ được dán trên tường ở khắp thủ đô: "nước Việt Nam là lương tâm của nhân loại". Đây là câu nói của Sartre. Casella không bao giờ gặp được ông Trần đức Thảo ở Hà Nội , ông này là một thầy giáo, một nhà triết học, một hiện tượng của Mác Lê mà các du khách người Pháp muốn gặp lắm nhưng chánh quyền, nhất là Thủ Tuớng đều t́m cách từ chối khéo: "nhà hiền triết hôm nay ốm, hay ông ở quá xa, đường xá bị hư v́ lụt ngập không thể đi đến nhà ông được, mà ông nầy lại không có xe đạp v.v.. các ông sẽ gặp ông ta vào một dịp khác, hay trong chuyến tới...."

    Tại khách sạn Thống Nhất, một phóng viên người Liên Xô của tờ Pravda nói với đại diện của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ:

    -"Các người Việt Nam ở đây điên hết rồi. Họ đang khiêu khích người Hoa Kỳ đó. người Mỹ sẽ trách cứ chúng tôi , họ sẽ đổ lỗi cho chúng tôi là đă xúi dục người Việt Nam !"

    Không biết cái ông Liên Xô nầy muốn dở tṛ ǵ đây? thành thật hay đang phản thông tin một cách quá sơ đẳng đây ?

    Không khi chánh trị ở Sài G̣n đang sôi sục. Ông Thủ tướng vừa được chỉ định, không ai có ấn tượng tốt với ông hết. Ông đang bỏ ra 10 ngày để thành lập nội các. Trong 10 ngày đó Miền Nam Việt Nam chỉ có Tổng Thống chớ không có Thủ tướng. Trong khoảng trống chánh trị đó, các tay đối lập, những nhà chánh trị già dặn được các trường Pháp đào tạo hoặc mới bị ảnh hưởng của Hoa Kỳ gần đây, sẽ gặp nhau để bàn căi với nhau về những dự án gần như bất khả thi ngay cả trong thời b́nh . Họ thành lập ban nầy ban nọ, mưu tính đủ thứ nhưng không có khả năng lập một hạt nhân cho một liên hiệp. Hăy lấy thử hai chánh trị gia Miền Nam thôi, và chúng ta đă thấy là đă có đến 3 ư kiến mâu thuẩn khác với nhau, chống đối nhau công khai rồi ! Bây giờ ta hăy lấy 100 người có trách nhiệm ở Miền Bắc, và chánh thức họ chỉ sẽ có một ư kiến, đó là đường lối của đảng !

    Đối lập của Tổng Thống Thiệu, dù họ có muốn thành lập một lực lượng thứ ba hay không th́ họ cũng là một nhóm người mà Tướng Dương văn Minh là đầu năo. Dĩ nhiên là họ thuộc thành phần tư sản hay tiểu tư sản của các đô thị. Vào giờ phút nầy Miền Nam Việt Nam c̣n có bao nhiêu đô thị đâu ? Sài G̣n và Tây Ninh th́ đang bị Bắc Việt uy hiếp, Cần Thơ, và Mỹ Tho... Lực lượng đối lập chỉ thấy có một số nhóm nhỏ không có ảnh hưởng ǵ nhiều ở các tỉnh. Có một vài đảng mới đang nộp đơn xin thành lập trong những ngày gần đây.

    Trong số những người đối lập với Tổng Thống Thiệu, th́ những tín đồ công giáo là những người thật sự chống cộng, lại nghi ngờ lực lượng thứ ba. Theo họ nghĩ th́ lực lượng thứ ba đang về hùa chơi với cộng sản. Từ lúc Đức Tổng Giám Mục Địa phận Sài G̣n ngỏ ư muốn Tổng Thống Thiệu ra đi, th́ tín đồ công giáo có một số ngă về phía đối lập. Nhưng hầu hết các tín đồ Phật Giáo không thích chánh trị đều rất là cẩn thận, chờ.... Các phần tử đối lập hăng say khác th́ quy tụ ở chùa Ấn Quang chung quanh thầy Thích Trí Quang. Một vị sư khác, thầy Thích Tâm Châu, trước th́ ủng hộ tướng Thiệu, nhưng bây giờ cũng muốn Tổng Thống ra đi. Linh mục Thanh, người lập ra phong trào chống tham nhũng th́ lúc nào cũng nặng lời chỉ trích, nhưng ông không ngả theo nhóm Dương văn Minh; Lực lượng thứ ba không làm cho Tổng Thống Thiệu e ngại, nhưng một số thành viên như nghị sĩ Vũ văn Mẫu ít ra cũng làm cho Tổng Thống bực tức.

    Dưới nhăn quan của Tổng Thống Thiệu th́ nhân vật đối lập nguy hiểm nhứt và có thế lực nhất là cựu Tư Lệnh Không Quân Việt Nam , đă từng là Phó Tổng Thống và Thủ Tướng của Thiệu, là thiếu tướng Không Quân Nguyễn cao Kỳ. Đó mới là một đối thủ quan trọng.

    Tướng Kỳ ở ngay căn cứ Tân sơn Nhứt. Nơi đây ông có một biệt thự gần Trung Tâm Hành Quân của Không Quân. Mỗi ngày đều có các phi công đến chơi với ông, uống một ly rượu với ông. Ông ta giữ tất cả liên lạc với các tướng lănh và chánh trị gia người Bắc, sinh quán ở Bắc Việt . H́nh như tướng Kỳ rất dè dặt thận trọng trong ư định đảo chánh. Từ tháng giêng, ông ta hơi khó chịu.Trong lúc Bắc Việt tấn chiếm Ban mê Thuột th́ ông đang ở trong một đồn điền thử nghiệm của ông ở gần đó. Không làm ǵ hết sau một thời oanh liệt trong quá khứ, ông vẫn có một trực thăng riêng cho ḿnh. Ông đă đến gặp tướng Phú ở Nha Trang, ông đă đi gặp tướng Viên ở Sài G̣n . Sặc sỡ như một tài tử ci nê, ông đă nói thẳng với Tổng Tham Mưu Trưởng rằng :

    - "Giao cho tôi 20 chiến xa M.48, 2 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến hay Biệt động quân, với sự yểm trợ của pháo binh và Không quân, tôi sẽ đích thân giải tỏa Ban mê Thuột cho"

    Tướng Viên không thể tự ḿnh quyết định được nên điện thoại cho Tổng Thống Thiệu. Ông nầy gởi lời khen tướng Kỳ và nói thêm là:

    - "Tôi sẽ xem lại việc đó nhưng tôi nghĩ là tôi cần phải bàn lại với các cố vấn của tôi đă ". Một sự hợp tác và một sự đối đầu lẫn nhau về mục đích đă cột hai tướng Thiệu và Kỳ lại với nhau. Tướng Kỳ đă làm việc với tướng Thiệu. Ham hoạt động, can đảm, nhưng đôi khi hơi bướng một chút, (người ta không quên là tướng Kỳ đă có lúc đ̣i phải có một Hitler cho Việt Nam), tướng Kỳ cũng không tin tưởng người ngoại quốc c̣n hơn tướng Thiệu nữa, trong lúc người vợ trước của ông là người Pháp. Ông được đào tạo ở Pháp và ở Maroc, nên ông có một tinh thần chống Mỹ giống như kiểu De Gaulle hay cộng sản vậy, và ghét cả người Mỹ lẫn tính kiêu căng phách lối của họ khi họ thật sự hay giả vờ gạt bỏ ư định đem chiến tranh ra đất Bắc của ḿnh.

    Đối với các tướng lănh nổi bật trong Đệ Nhị Thế chiên, tướng Kỳ thích nghe người ta đánh giá ông ta là một người có khả năng nhất về quân sự, và một người khôn lanh nhất về chánh trị . Ông Thiệu có riêng cả một danh sách đủ mọi thành phần trong xă hội Việt Nam . Trước tiên là tên của tướng Kỳ đúng đầu trong đẳng cấp quân nhân. Ông Thiệu tin dị đoan, c̣n tướng Kỳ th́ không .

    Tướng Kỳ được cho nghỉ hưu và ông cho như thế là khôn ngoan. Diễn viên không c̣n có khán giả nữa rồi. Ông không c̣n mặc bộ đồ lễ trắng sặc sở đă từng chọc cười các kư giả ngoại quốc nữa, nhưng cũng từng lôi cuốn được nhiều cử tri lắm trong các cuộc vận động ứng cử của ông.

    Liên hệ gia đ́nh là điều rất cần thiết để gắn bó hai người Việt Nam , nhứt là các sự liên kết chánh trị và quân sự hay sự kết hợp giữa giữa quân nhân và chánh trị gia với nhau thường được thiết lập từ các mối liên hệ của gia đ́nh. Trong hiện tại, những người đang có một vai tṛ ở Sài G̣n , hay muốn có được một vai tṛ nào đó, nhất định phải có một sự hợp tác với nhau trong quá khứ, hay trong một toan tính chung lúc nào đó để kết hợp họ lại với nhau, mặc dầu vẫn có sự nghi kỵ hay hiềm khích lẫn nhau. Tướng Thiệu và tướng Kỳ, tướng Khiêm và tướng Đôn, tướng Minh và một số người khác... tất cả đều đă từng hợp tác với nhau trong việc lật đổ ông Diệm 12 năm trước . Những người nầy vẫn nắm tay nhau . Hồi năm 1963, có đủ thông minh nhưng chưa có đủ hiểu biết, tướng Kỳ được tướng Minh giao cho chức vụ Tư Lệnh Không Quân. Nóng nảy, bực ḿnh v́ đang bị đứng ngoài ŕa của thời cuộc, đôi khi tướng Kỳ nghĩ rằng các tướng lănh làm chánh trị nhiều quá. Nhưng trong thâm tâm ông nghĩ rằng làm một cuộc đảo chánh cũng là làm cách mạng đấy.

    Vào những ngày đầu tháng 4/75, ông ước tính là muốn có được một cuộc kết hợp chánh trị nào đó, trước hết là phải thắng trận giặc nầy hay phải ổn định được trận tuyến đă . Nhưng ông chỉ vỏn vẹn có một số vốn: đó là tinh thần chống đối người Mỹ. Trong thời gian gần đây, khi được tin xác nhận là ông Thiệu phải ra đi, th́ ông thăm ḍ anh em quân nhân. Tổng Thống Thiệu biết mà không sao ngăn chặn được . Các sự liên lạc giữa những quân nhân trong cuộc đảo chánh 1963 đều dùng mật ngữ . Tổng Thống Thiệu cảnh giác tướng Kỳ bằng hành động bắt giam một vài người thân cận của ông nầy trong Không Quân, vài sĩ quan cấp tá và ông Nguyễn thiện Nhơn, dân sự. Ông cũng bắt hay cho theo dơi một vài nhân vật như Huỳnh thành Vị, Chủ Tịch Hội các nhà báo, và cả ông Nguyễn văn Ngân, một cố vấn của Phủ Tổng Thống và đảng viên đảng Dân Chủ của ông. Không có một cuộc nắm lại t́nh h́nh nào mà không có sự thanh lọc hàng ngũ, không có sư thanh lọc nào mà không có những sự bắt bớ tù đày. Tại Bộ Nội Vụ, người ta giải thích về những chuyện bắt bớ nầy rằng :

    - "Có một số phần tử xấu đă lợi dụng t́nh trạng tranh tối tranh sáng để nhảy ra xúi dục dân chúng, gây mất trật tự ở hậu phương, hỗ trợ cho một mưu toan đảo chánh quân sự để thỏa măn tham vọng cá nhơn. Các phần tử nầy đă bị cơ quan an ninh bắt giữ. Cuộc điều tra đang được tiến hành."

    Hơn thế nữa, bản tuyên bố nầy đă tiết lộ ư định của một cuộc lật đổ chánh quyền . Tướng Kỳ không sao tiến tới theo dự tính của ông được nữa. Các tướng tá bạn bè của ông cũng chạy luôn. Ngoài ra ông cũng ngửi thấy là người Mỹ không ủng hộ việc nầy. Có quá nhiều nhân viên t́nh báo khắp nơi, việc ǵ người ta cũng biết được hết., có tưởng thưởng hay không cũng vậy. Được bộ phận ở Sài G̣n báo cáo, ông William Colby, giám đốc cơ quan CIA ở Hoa thạnh Đốn đă cho chỉ thị rơ ràng ngày 6 thánh 4:

    - "Cơ quan không muốn thấy ông Thiệu bị lật đổ. Nếu cơ quan CIA dính vào chuyện gây bất ổn cho ông Thiệu, th́ đó là một sự thảm hại cho chế độ và cho quốc gia . Tuy nhiên cũng phải đề pḥng trường hợp xấu nhất: là Tổng Thống Thiệu bị thanh toán."

    Ông Colby c̣n cho lịnh:

    - "Nếu t́nh h́nh diễn tiến quá phức tạp th́ công việc của cơ quan là phải giúp khuyến cáo". Lời dặn ḍ và gởi gấm của tôi là nếu có ǵ xảy ra th́ chúng ta phải làm đủ mọi cách để Tổng Thống Thiệu và gia đ́nh ông được đưa đi trong một sự an ninh tuyệt đối."

    Tất cả các Tổng Giám Đốc CIA từ năm 1963 đều bị h́nh ảnh cái chết của ông Diệm ám ảnh. Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ đă bật đèn xanh cho hành động gây bất ổn chánh trị nầy.

    T́nh h́nh hiện nay coi như quá trầm trọng, cho dù Hoa Kỳ có muốn vi phạm phần nào Hiệp Định Paris hay có ư định cố vấn trở lại vấn đề quân sự cho Việt Nam . Những sĩ quan thân cận với tướng Homer Smith đă hăng hái đưa ra những kế hoạch để giúp cho Miền Nam Việt Nam tái tổ chức các đơn vị lại. Một sự tranh luận của năm nào được đem ra bàn căi lại: người Mỹ muốn phối hợp các quân nhân thiện chiến với tân binh. Họ nghĩ là họ có thể tái vơ trang cho 18 tiểu đoàn bộ binh và 3 pháo đội 105 ly từ nay đến 15 tháng 4. Họ in ra những sơ đồ cho ngày 20 tháng 5 và 30 tháng 9. Miền Nam Việt Nam hy vọng thành lập một số tiểu đoàn, trung đoàn, và lữ đoàn hoàn toàn mới. Đại tướng Viên đă trao cho Tùy viên Quân lực Hoa Kỳ một dự án (có tên là KBC 4002) vừa vô vọng vừa không thực tiễn. Trên giấy tờ coi như một sự phát sinh tự nhiên : lữ đoàn 3 Nhảy dù, sư đoàn 22 bộ binh , binh đoàn 7 Biệt Động Quân, các đại đội Quân Cảnh, các tiểu đoàn công binh, và các trạm quân y lưu động. Các nhu cầu được biến thành phương tiện. Tướng Viên b́nh thản viết : Phải giải thể các đơn vị Nhân Dân Tự Vệ và Địa Phương Quân của Vùng I và Vùng II Chiến Thuật để bù vào quân số đang thiếu của các sư đoàn bộ binh mới thành lập". Hầu hết các đơn vị nầy đă bị giải tán từ lâu rồi trong chiến dịch triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku và các cuộc tháo chạy từ Huế và Đà Nẳng ! Đơn vị nào chạy thoát được th́ cũng đang sống răi rác quanh Sài G̣n với gia đ́nh họ. Tài liệu KBC 4002 ước định là ở cấp tiểu đoàn công tác tái tổ chức phải "hoàn tất trong hai tuần lễ" Thử hỏi quân số thiếu hụt lấy người ở đâu ra ? "Họ sẽ được thay thế sau, hoặc tự tuyển mộ lấy" Các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận lên những kế hoạch làm như họ sẽ không cần phương tiện chuyển vận mà vẫn tuyển mộ tân binh một cách b́nh thường, với thời gian đem họ đi vất vào các tiểu đoàn. Bởi v́ mặc cho ai đánh tiếng là có thương lượng, là có điều đ́nh, các sư đoàn Bắc Việt vẫn tiếp tục tiến quân dù đôi lúc cũng phải có dừng quân. "Trong khu vực lănh đạo quân sự của Miền Nam Việt Nam h́nh như người ta đang mơ ngũ" phe đối lập với Chánh Phủ thường hay nghĩ như vậy..

    Bộ Tổng Tham Mưu phải trả giá quá đắt hai chục năm sai lầm tai hại của họ cũng như của đồng minh Hoa Kỳ . Tướng Viên thường có thói quen chấp nhận những kế hoạch do người Mỹ soạn thảo. Bây giờ th́ đă quá muộn để mà thay đổi.

    Phải chăng binh sĩ của Miền Nam Việt Nam thiếu cái mà Clausewitz gọi là "đức tính chiến đấu" ? Chắc chắn là không phải như vậy. Từ năm 1960 đến năm 1974 đă có 250.000 binh sĩ Miền Nam tử trận và hầu hết đều không ai bị trúng đạn từ sau lưng. Báo chí quốc tế thường nhấn mạnh đến các chiến thắng của họ hơn là những tật xấu hay những cuộc tháo chạy trước quân thù. Clausewitz gọi đó là "đức tánh chiến đấu", khác với ḷng can đảm và sự hăng say chiến đấu v́ lư tưởng của cuộc chiến.. Đúng thế, tánh can trường là một điều cần thiết, nhưng ngay như sự gan dạ đó là một đức tính sẳn có của con người , th́ đối với một chiến binh là thành viên của quân đội có thể do v́ thói quen và sự tập luyện mà có được , th́ tánh can trường nầy phải hướng người chiến binh vào một hướng đi khác hơn với một người thường, không c̣n theo bản tánh cá nhơn tự lập hay làm theo ư riêng của ḿnh nữa mà phải có thêm sự phục tùng, trật tự, kỷ luật, và phương pháp hành sự. C̣n "hăng say phục vụ cho lư tưởng" chỉ nuôi dưỡng ngọn lửa chiến đấu của một quân đội, nhưng không phải là một yếu tố cần thiết."

    Các bộ đội của Miền Bắc và các binh sĩ của Miền Nam phần lớn đều là nông dân. Nh́n chung th́ tinh thần của họ rất khác biệt nhau. Các binh sĩ Miền Nam đều biết đại khái là họ chiến đấu chống ai ? và chống cái ǵ ? nhưng ít khi được biết chiến đấu cho ai ? cho cái ǵ ? C̣n cán binh Bắc Việt th́ bị nhồi sọ; ngay nếu như tất cả không được biết thế nào là cái tốt cái đẹp của một xă hội xă hội chủ nghĩa , th́ ít nhất tất cả đều tin là giải phóng đất nước là một điều cần thiết.

    Người cộng sản biết khai thác vấn đề bài ngoại một cách tự nhiên âm thầm, căn cứ trên một chuyện có thực: Phải đánh đuổi bọn quỷ dữ ngoại quốc. Các cán binh Bắc Việt và Việt Cộng đều tin tưởng cấp chỉ huy của họ, bất cứ ở cấp nào cũng vậy, thấp nhất từ dưới chi bộ tam tam chế là phần căn bản của kim tự tháp quân sự cho đến cấp cao nhất trên đỉnh tháp. C̣n ở Miền Nam Việt Nam th́ không có vậy. Binh sỉ biết rất rơ về sự lạm quyền trong vấn đề thăng thưởng.

    Ở Miền Bắc th́ các tướng lănh không bao giờ cho thấy là họ nghi ngờ về đường lối của cuộc chiến hoặc nghi ngờ lẫn nhau. Họ giữ kín sự hiềm khích hay sự ganh đua giữa họ với nhau. Chuyện không bao giờ có ở Miền Nam . Cho tới phủ Tổng Thống - ông Thiệu là tổng tư lệnh - các cuộc bất đồng đụng chạm xảy ra công khai. Từ tháng giêng tới nay, có bao nhiêu binh sĩ đă tự hỏi xem Tổng Thống và Thủ tướng của họ có thỏa thuận được với nhau điều ǵ chưa ? Không nói tới Tổng Tham Mưu trưởng. Khủng khoản ở lănh đạo cấp cao xem chừng như rất trầm trọng.

    Ở Bắc Việt sự chuyên chế hoàn toàn của chế độ là yếu tố tăng cường cho kỷ luật nội bộ.

    Từ năm 1965 đến 1973, các tướng tá ở Miền Nam trong tất cả mọi cuộc hành quân từ nhỏ tới lớn, từ việc đi tuần tiểu, đi mở đường, nằm đường, đến các cuộc hành quân t́m và diệt địch, chạm súng , chiều ngang hay chiều sâu, nhảy dù hay trực thăng vận v.v.. tất cả đều có nhu cầu được hỏa lực pháo binh, trực thăng vơ trang hay oanh tạc cơ yểm trợ tối đa, nếu không được các pháo đài bay B.52 từ Thái Lan, đảo Guam hay từ Phi luật Tân qua trải thảm trước .... Họ quá tùy thuộc và c̣n đang tùy thuộc vào hỏa lực yểm trợ của phi pháo và không trợ. Họ không nghĩ là người ta vẫn có thể chiến đấu mà không có một sự yễm trợ nào như vậy hết. Cán binh Bắc Việt vào chiến đấu đâu ở Miền Nam không hề có được một không trợ nào .

    Quen theo những cách suy nghĩ, hay không cần suy nghĩ cũng thế, với một thói quen là cứ áp dụng đúng từng chữ những kế hoạch tấn công hay pḥng thủ đă được các sĩ quan Hoa Kỳ soạn sẵn - sau khi được dịch ra - nên Bộ Tham Mưu Miền Nam Việt Nam không có một sáng kiến nào hết. Đó là điều làm người Do Thái ngạc nhiên khi họ đến quan sát Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Tướng Viên nh́n nhận là Bộ Tổng Tham Mưu chỉ có nhiệm vụ tư vấn mà thôi. Người ta có thể nói là các sĩ quan Miền Nam Việt Nam có 2 mặc cảm tự ty, một là đối với người Mỹ , hai là đối với bộ đội Miền Bắc .

    Mặc dầu các con số vẫn có đầy đủ trên giấy tờ, tại sao QLVNCH vào năm 1975, cũng như năm hay mười năm trước có thể thiếu hụt quân số tác chiến đến như vậy ?

    Vào thời điển năm 1975, có thể nào QLVNCH thiếu vũ khí và đạn dược đến mức độ như Tổng Thống Ford, ông Thiệu, ông Viên và những người khác đă đ̣i hỏi ? Cũng như ông Frank Snepp, một số nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ đă không tin như vậy. Sự thật có vẻ hơi phức tạp. Các kho dự trữ rất quan trọng, - bộ đội Bắc Việt lần hồi khám phá ra trên đường tiến quân của họ- nhưng các kho dự trữ nầy không có ǵ thích hợp cho cuộc chiến hết. Vào đầu tháng 4 / 75, số lượng cơ phận thay thế (cơ phận rời) cho Thiết giáp và phi cơ th́ quá thiếu, trong khi có một trữ lượng vô ích các máy truyền tin rất tối tân và quá đắt . Từ hai năm nay, quân đội bị hạn chế trong việc xử dụng đạn bách kích pháo và pháo binh. Trong các trận đánh lớn hồi năm 1972, pháo binh 105 ly trung b́nh xử dụng 180 quả đạn trong ngày, và trong 3 tháng nay mỗi ngày chỉ cho phép xử dụng có 10 (mười). Các Bộ chỉ huy đơn vị và các tiểu khu đều muốn giữ chặt đạn dược của họ tồn trử ở các kho nằm rải rác khắp nơi . Sự phân phát rất là tồi tệ và có quá nhiều sự mất mát. Từ tháng giêng 1975, đây đó quân dội thiếu xăng dầu. Nhưng trong tất cả các thành phố, ở các góc

    đường, người ta đều thấy bọn trẻ bán xăng của quân đội, một loại xăng màu đỏ rất dễ nhận ra ngay để tránh bị ăn cắp và bán ra ngoài. Và ở khắp nơi, người dân c̣n có thể mua nhiều vật dụng của quân đội như b́nh điện của quân xa hay của trực thăng, cơ phận thay thế của quân xa, vỏ ruột xe, mền, mùng màu kaki, áo mưa, giày cao cổ đi rừng, quần áo trận, quần lót, giày và có khi cả nón sắt nữa. Tất cả các thứ nầy đều thất thoát từ các kho của quân đội hay từ sự đồng lơa của các cấp trong quân đội ..

    Tướng Trần văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Pḥng, ước tính là có khoản 1/3 tướng lănh và sĩ quan cao cấp là c̣n liêm khiết sạch sẽ, một cách nói khéo để cho thấy là 2/3 kia là có tham nhũng và hối lộ. Linh mục Thanh, người đang cầm đầu chiến dịch chống tham nhũng, đoan chắc rằng đă có sĩ quan nhượng mỗi cây súng trường M.16 cho lực lượng bán quân sự Ḥa Hảo ở Miền Tây với giá 20.000 đồng. Ít nhất th́ vũ khí nầy cũng c̣n nằm trong tay của người quốc gia. Từ năm 1973, đă không thấy có báo cáo là các loại vũ khí nhẹ được bán cho Việt Cộng một cách gián tiếp nữa. Binh sĩ của Miền Nam Việt Nam có một số lương quá thấp không đủ sống . Một binh sĩ chỉ được lănh có 20.000 đồng /tháng, một tướng 3 sao lănh 5 lần hơn. Do đó họ thường ngả theo cám dỗ là mưu toan đánh cắp các cơ phận rời để bán lại kiếm thêm tiền. H́nh như có cả một hệ thống tổ chức.

    Trong t́nh trạng đó, kỷ luật quân sự và ḷng yêu nước chỉ có thể bị giảm đi mà thôi. Đă quá muộn để có thể sửa chửa nếu muốn thay đổi được t́nh h́nh, nói cách khác là không thể nào cho các quân xa đă mất chạy được v́ t́m không ra xăng dầu !

    Những yêu sách của tướng Viên và Bộ Tham Mưu của ông đưa ra xem chừng như rơi vào khoảng không vô vọng.

    Đại sứ Martin nghĩ rằng nếu QLVNCH được chấn chỉnh kịp thời th́ chẳng những có thể giữ vững chiến tuyến mà c̣n có thể phản công lại được nữa. Nhưng các sĩ quan Hoa Kỳ của tướng Smith th́ tỏ ra rất là bi quan. Đại tá William le Gro, trưởng Pḥng T́nh Báo, ước tính rằng, nếu Quốc Hội có chấp thuận một ngân khoản viện trợ bổ túc, th́ "mọi việc coi như đă quá muộn rồi". Ông đă tŕnh bày quan điểm của ông với tướng Weyand . Ngay như các pháo đài bay B.52 dù có tái can thiệp th́ cũng không làm chậm được sức tiến quân của Bắc Việt . Họ đang tiến trên các trục lộ lớn, băng qua các thôn xă, các thị trấn, và các thành phố. Nếu Không Quân Chiến Lược can thiệp, th́ họ sẽ tàn sát hàng chục ngàn dân chúng Miền Nam . Các pháo đài bay B.52 đă trở thành biểu tượng rồi. Các quân nhân Hoa Kỳ và Miền Nam Việt Nam có kinh nghiệm, đều không quên rằng từ lâu rồi các pháo đài bay nầy không bao giờ thành công trong việc cắt đứt đường ṃn Hồ chí Minh để bẻ găy con đường tiếp vận của Bắc Việt được .

    Cũng giống như tướng Thiệu, quân đội Bắc Việt chiến đấu cả trên ba mặt trận quân sự, chánh trị và ngoại giao, nhưng vẫn vững vàng và mạnh mẽ hơn QLVNCH. Chiến lược Hà Nội rất đơn giản : Phải giành chiến thắng quân sự trước khi gió mùa tới, và đồng thời phải cho người ta có cảm tưởng là Hà Nội vẫn sẵn sàng đàm phán.

    Yếu tố ngoại giao dường như quan trọng hơn yếu tố quân sự . Chủ trương trong chiến dịch "tấn công ngoại giao" thực sự đang tiến hành. Đó là phải đặt CPLTCHMN lên hàng đầu. Mặt trận quân sự th́ ở Việt Nam nhưng mặt trận ngoại giao th́ ở trên toàn thế giới, trước hết là ở ngay Ba Lê, tại Pháp.

    Trong những ngày nầy, khó có thể khẳng định rằng "lực lượng cách mạng" , trên thực tế gồm toàn các sư đoàn Bắc Việt, là công cụ của "ḥa b́nh". Do đó, đối với đài truyền h́nh Pháp và trong nhiều bài phỏng vấn báo chí đă soạn sẳn, Bà Nguyễn thị B́nh, ngoại trưởng của CPLTCHMN, đă quả quyết rằng "đối thủ của Sài G̣n (Bắc Việt) hiện đang ở thế ...."pḥng ngự" :

    - " Nếu bây giờ mà chúng tôi tấn công Miền Nam Việt Nam (sự thật ít khi được chấp nhận), th́ chúng tôi bắt buộc phải ở vào thế vi phạm Hiệp Định Paris, đối với Hoa Kỳ và Chánh Phủ của Tổng Thống Thiệu. Chúng tôi chỉ muốn Hoa Kỳ chấm dứt sự can thiệp của họ vào chuyện nội bộ của Miền Nam Việt Nam mà thôi."

    Và như thường lệ, bà vẫn đ̣i hỏi một Chánh Phủ " ḥa b́nh, độc lập và dân chủ" v v ..., ở Sài G̣n .

    Trong cơ chế dân chủ ở Miền Bắc, người ta áp dụng dân chủ kiểu cộng sản . Ngày 6 tháng 4, "nhân dân" bầu Quốc Hội . Có 529 ứng cử viên cho 499 ghế dân biểu. Gần như chỉ có 2 trường hợp ngoại lệ, c̣n tất cả các ứng cử viên đều thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, nơi tập trung đảng cộng sản, đảng Dân Chủ và đảng Xă hội . Trên lư thuyết th́ các ứng cử viên nầy đều thuộc thành phần trung lưu và trí thức. Phương thức dân chủ dự trù trong Hiệp Định Paris và phương thức "dân chủ tập trung" của Bắc Việt với tính ưu việt tuyệt đối của đảng cộng sản, không bao giờ đi chung với nhau được .

    Nhật báo của đảng cộng sản ở Hà Nội đă giải thích tinh thần của cuộc bầu cử đó như sau :

    - " Mỗi người cử tri phải tỏ thái độ tin yêu và tín nhiệm vào sự lănh đạo của đảng và chế độ xă hội chủ nghĩa ". Chuyện nầy không bao giờ làm cho người dân ở Miền Nam Việt Nam nói chung và nhất là dân Sài G̣n nói riêng được yên ḷng. Nói cách khác, người dân Miền Nam Việt Nam gắn bó với tự do tôn giáo hơn là tự do chánh trị . Được tờ Chính Nghĩa, một nhật báo "Công Giáo Cấp Tiến" ở Hà Nội phỏng vấn, ông Xuân Thủy, một trong các bí thư của đảng cộng sản đă phát biểu là:

    - "đảng của những người lao động tôn trọng tự do tín ngưỡng", nhưng lại nói tiếp là : " "Chúng tôi chống lại sự mê tín dị đoan và những người lợi dụng đạo giáo để làm phương hại đến quyền lợi của dân tộc và của đất nước, làm cản trở sự xây dựng xă hội chủ nghĩa "

    Tại Hà Nội, ngày 15 / 3 chi bộ đặc biệt có nhiệm vụ cho tiến hành chiến dịch "tấn công ngoại giao" đă ấn định đường lối như sau: Các vị đại sứ của Bắc Việt và các đại diện của CPLTCHMN phải nói thẳng thừng rằng chương tŕnh nghị sự bây giờ là một Chánh Phủ Liên Hiệp . Họ phải cho biết luôn là Chánh Phủ Liên Hiệp nầy sẽ ở ngay Sài G̣n và sẽ có một mức độ độc lập nào đó. Chiến dịch phải được mở rộng và phải hữu hiệu.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    17. Chương 14 - Màng chi một cây kim, một sợi chỉ ?
    P2



    Ngày 5 tháng 4, tại Paris, đại sứ Bắc Việt và đại diện CPLTCHMN đă riêng lẻ gặp ông Francois de Laboulaye, giám đốc chánh trị sự vụ ở Quai d'Orsay (Phủ Thủ Tướng Pháp). Nhà ngoại giao Pháp và đại diện CPLTCHMN đă đồng ư là : Phải có một Chánh Phủ Liên Hiệp mà CPLTCHMN là thành phành chủ động. Chánh Phủ Pháp đă coi như ông Thiệu không c̣n được bao lâu nữa. Họ đă liên lạc với ông Phó Lănh Sự của họ ở Đà Nẳng và đă cho lệnh ông nầy nên liên lạc với người của CPLTCHMN. Viện trợ về quân dụng sẽ được trao tay cho họ.

    Ông De Laboulaye nói rằng nước Pháp mong sao Chánh Phủ Liên Hiệp sẽ phát triển giống như ở Nam Tư, có được độc lập phần nào, mà không nên hoàn toàn giống như Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ở Bắc Việt .

    Xuyên qua sự trao đổi nầy, chúng ta thấy rơ là dường lối ngoại giao của Pháp từ nhiều năm qua đă dựa trên 4 giả thuyết sau đây :

    (1) cộng sản Bắc Việt tiên khởi cũng là những người quốc gia , sau đó mới trở thành cộng sản .

    (2) Hà Nội được coi như đại diện cho phong trào "cộng sản quốc gia kiểu Tito" ở Đông Nam Á.

    (3) CPLTCHMN là một thực thể riêng biệt, mặc dầu (4) biết hay không biết th́ hầu hết các nhân vật quan trọng của Chánh Phủ nầy đều là cán bộ cộng sản có tuổi đảng cao.

    Trong Chánh Phủ nầy người ta thấy có đủ các thành phần tư bản, trí thức... không thuộc hàng ngũ mác xít hay xă hội, những người công giáo, phật giáo v.v.....

    Trong những tuần lễ sau đó, các cuộc tiếp xúc loại nầy được tiến hành chánh thức hay bán chánh thức khắp nơi ở Hà Nội và cả ở Sài G̣n , ở Stockholm, ở Đông Bá Linh, Varsovie, Prague, Alger.... Hoặc ngay trong tư gia của họ, bên tách trà nóng, hoặc trong các quán ăn Việt Nam , các nhân viên ngoại giao, các nhà báo của Hà Nội và của CPLTCHMN, tiếp tục đóng sâu một cây đinh tương tự, nhắc đi nhắc lại những ǵ mà họ muốn phổ biến và những ǵ mà người đối thoại của họ muốn nghe. Với một gịong nửa kín nửa hở coi như một đặc ân, họ rỉ tai :

    - "Chúng tôi vẫn biết là có những khác biệt lớn giữa Miền Nam và Miền Bắc mà chúng tôi phải quan tâm....

    Và một đôi khi làm như vô t́nh, các đại diện của CPLTCHMN thở dài :

    - " Chúng tôi và các bạn của chúng tôi ở Miền Bắc đâu có hoàn toàn dồng ư với nhau trên tất cả mọi việc đâu ?

    Trong một vài trường hợp, thấy cũng có đúng phần nào. Ông Phạm văn Ba, một đại diện của CPLTCHMN ở Paris, một người ít học nhưng có rất cương nghị và thành thật , khi ông nói về những khác biệt giữa Miền Nam và Miền Bắc hay giữa CSBV và CPLTCHMN .

    Trong khi chiến dịch tấn công ngoại giao quan trọng nầy đang được tiến hành rộng răi khắp mọi nơi trên thế giới và ngay tại Việt Nam , th́ ở Hà Nội lănh đạo đảng quyết định là đă đến lúc phải nói thẳng cho các cán bộ đảng viên một cách rơ ràng rằng :

    - " Các bài diễn văn nói về việc thành lập một Chánh Phủ Liên Hiệp chỉ là một "đ̣n hỏa mù". Vấn đề chính là phải chiếm lấy chánh quyền bằng bạo lực cách mạng".

    Chính ông Churchill cũng đă từng nói là: trong thời chiến, sự thật rất là quư đến độ cần phải được che dấu kỹ bằng một hàng rào tin vịt".

    Tại Sài G̣n , một vài người Mỹ nhận được tin tức về "đ̣n hỏa mù" của Bắc Việt . Frank Snepp đă được một nhân viên t́nh báo của ḿnh cho biết nhiều lần từ ngày 7 tháng 4. Nguồn tin nầy v́ được cấy ngay trong Bộ Tư Lệnh Cộng sản ở Miền Nam nên đưa nhiều tin rất chính xác. Rất là minh bạch và dứt khoát trong mọi trường hợp : "cộng sản Bắc Việt không đàm phán" . Nhưng từ ông Polgar trưởng cơ quan CIA cho đến ông đại sứ Martin đều không chú ư tới tin tức nầy. Người Mỹ cũng không chịu lưu ư tới những bất đồng quan điểm giữa hai đại sứ Pháp ở Sài G̣n và Hà Nội . Cơ quan t́nh báo CIA có tất cả các dữ kiện trong tay, không phải chỉ v́ các bạn bè nhân viên ngoại giao thông báo tin tức cho họ, mà cũng nhờ họ biết được mật mă của Pháp nên họ mở được một số lớn các công hàm và điện tín. Một số "sư tổ" ở Phủ Thủ Tướng Pháp c̣n hơn cả ông Mérillon, đều tin là họ có thể chơi lá bài Dương văn Minh : "đưa vào quỹ đạo một Chánh Phủ Liên Hiệp" là chủ trương đă được ông Tổng Thống Pháp Valéry Giscard d'Estaing hoạch định.

    Ông Philippe Richer, đại sứ Pháp ở Hà Nội không có nhăn quan như vậy. Mặc dầu có nhiều bản tuyên bố cố ư muốn làm dịu bớt mùi mác-xít của chính Thủ tướng Phạm văn Đồng cũng như của một số viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao Bắc Việt , nhưng ông Richer vẫn khẳng định rằng đảng cộng sản lúc nào cũng là lực lượng chánh trị chủ yếu trong cái Chánh Phủ Liên Hiệp tương lai nầy. Chuyện không có ǵ vui vẽ lắm, nhưng nó đă là như vậy từ lâu rồi: "Chỉ có một tảng đá duy nhất để chánh trị dựa vào: đó là đảng CSVN", công điện của ông Richer đă viết rơ như vậy.

    C̣n theo ước tính của ông Mérillon th́ người ta c̣n có thể tránh được một thảm họa.

    Âu cũng là một hiện tượng b́nh thường thôi : một ông Richer, có nghiêng về cánh xă hội thực đấy, nhưng không bao giờ tin vào lời lẽ dịu giọng của người cộng sản, và một ông Mérillon thuộc cánh trung hữu lại nghĩ rằng người ta cũng có thể lợi dụng họ được.

    Ngày 8 tháng 4, Phạm văn Đồng tiếp ông Richer. Thủ Tướng Bắc Việt tỏ ra đồng ư với những ǵ mà người Pháp "đang làm ở Miền Nam Việt Nam". Dĩ nhiên là họ muốn "bứng" Tổng Thống Thiệu ra khỏi chánh quyền . Phạm văn Đồng đă dùng miệng lưỡi, tán tỉnh, gợi lại những liên hệ t́nh cảm đă được thiết lập giữa Paris và Hà Nội. Nhân danh quá khứ chung sống thời thuộc địa và cùng chung ngôn ngữ Pháp, ông Đồng cho ông Đại sứ Pháp uống một ly sữa ngọt:

    - " Chúng ta có thể làm nhiều việc lắm trong tương lai."

    Thủ Tướng c̣n giải thích là các kỹ thuật gia và các nhà đầu tư người Pháp có thể giúp BắcViệt khai thác các mỏ dầu. Ông nghĩ là điều nầy sẽ làm cho Quai d'Orsay (Phủ Thủ Tướng Pháp) thích thú . Người ta tưởng tượng là các công ty của người Pháp sẽ thay thế các công ty của người Mỹ, khoan dầu ở ngoài khơi của Miền Nam Việt Nam . Phạm văn Đồng lại c̣n tiếp tục mở rộng chân trời cho vấn đề kinh tế. Nhưng Richer đâu có phải là người dễ bị mắc mưu cộng sản nhưng ít nhất ông cũng nghĩ rằng ông Đồng nói được tiếng Pháp lưu loát, và ông thực sự có mối liên quan về văn hóa với nước Pháp.

    Được khắp nơi cung cấp dữ kiện, nhất là của chi bộ đặc trách chiến dịch "tấn công ngoại giao" từ Hà Nội , giả thuyết về nhiệm vụ mà CPLTCHMN phải đảm nhiệm và sẽ đảm nhiệm.. cũng được tung ra ở Sài G̣n . Một giả thuyết có tánh cách vớt vát ! Dĩ nhiên người ta cũng dựa trên những mối bất ḥa truyền thống giữa người Miền Nam và người Miền Bắc , đúng hơn là giữa Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Người cộng sản Bắc Việt đâu có ngu dại ǵ mà nói là sẽ hợp tác hóa nông nghiệp hay xă hội hóa nền công nghiệp ở Miền Nam như họ đă thực hiện ở Miền Bắc ?. V́ trước khi biến thành CPLTCHMN , th́ MTGPMN đă có dự trù chương tŕnh tư hữu hóa công nông nghiệp rồi. Sài G̣n sẽ trở thành một đặc khu kinh tế như Hong Kong, một loại Tân gia Ba với tất cả những đặc quyền tư bản của nó. Thêm một luận cứ chót nữa để giúp cho mọi người hy vọng: chúng ta đều ở Á Châu, đều là anh em một nhà, xa lâu rồi nhau bây giờ mới đoàn tụ lại với nhau. Ngay như một vài thành viên trong cộng đồng người Pháp ở Sài G̣n có phương tiện vẫn c̣n có thể ở lại tại chỗ kia mà !. Không hẳn là vĩnh viễn , mà có thể là 5 năm, 10 hay 20 năm không chừng. Đă có nhiều bằng chứng cho thấy những người ở Hà Nội thông minh và có thiện chí, như Phạm văn Đồng lúc nào cũng nhắc với các nhà báo hay nhân viên ngoại giao người Pháp rằng "đặc điểm và chuyên ngành của người Miền Nam" sẽ được tôn trọng. Hơn nữa tất nhiên là cấp lănh đạo của nước Việt Nam thống nhất hoặc tốt hơn nữa là của 2 nước Việt Nam cũng vậy, đều rất cần tín dụng của Tây Phương, cần sự giúp đở về tài chánh và kỹ thuât của Âu Châu . Các anh biết không , dân Hà Nội không muốn hoàn toàn tùy thuộc vào Mạc tư Khoa và Bắc Kinh. Quyền lợi của cộng sản Việt Nam là muốn bắt một nhịp cầu với các quốc gia Đông Phương, do đó mới biểu lộ một sự ḥa hoản ở Miền Nam Việt Nam trong tương lai.....

    Những bằng chứng về thiện chí của người cộng sản - dù là cộng sản ở Mạc tư Khoa hay cộng sản ở Hà Nội , tất cả đều là những lời nói suông.....

    Ở điện Élysée, nơi mà đường lối chánh trị đối ngoại luôn luôn là lănh vực riêng của Tổng Thống Pháp, cũng như ở Phủ Thủ Tướng (Quai d'Orsay), người ta thường nghe theo ṭa đại sứ ở Sài G̣n hơn là ṭa đại sứ ở Hà Nội . Ông Valéry Giscard d'Estaing thường có cảm tưởng rằng sẽ có một cuộc dàn xếp nào đó giữa những người lănh đạo của Việt Nam Ông có nói rơ như thế cho cả ông Tổng Thống Ford và Kissinger, hồi cuối năm rồi, trong cuộc họp thượng đỉnh ở Antilles. Có nhiều chỉ dấu cho thấy giả thuyết của CPLTCHMN trong một chừng mực nào đó đang được vận động ráo riết. CPLTCHMN đang thành h́nh. Tại Paris, ông Phạm văn Ba hủy bỏ một chuyến du lịch dự trù vào giữa tháng 4 , mà theo lời một phụ tá của ông th́ Chánh Phủ của ông muốn "khẩn" bàn căi sâu rộng với Chánh Phủ Pháp 3 vấn đề :

    - trước hết là nghiên cứu chi tiết của vấn đề viện trợ kinh tế cho CPLTCHMN

    - Kế đó là duyệt xét thật kỹ vấn đề truyền thông giữa nước Pháp và những vùng được CPLTCHMN chánh thức kiểm soát.

    - chót hết, quan trọng nhất là xem xét quy chế và nhiệm vụ của CPLTCHMN ở Paris. Làm thế nào để cấp chiếu khán thông hành ? Dù sao th́ vấn đề nầy cũng thuộc chủ quyền của một quốc gia. Ông ta nghĩ tối thiểu CPLTCHMN cũng phải có một ṭa lănh sự ở Paris. Chánh Phủ Hà Nội đă có một ṭa lănh sự, th́ CPLTCHMN cũng phải có một ṭa lănh sự nữa để đại diện cho Chánh Phủ ḿnh chớ

    Nhưng người của Phủ Thủ Tướng Pháp th́ lại đặt nặng vấn đề pháp lư. Họ không tin là cái gọi là CPLTCHMN có được một sự độc lập hoàn toàn trong những năm tháng sắp tới, nhưng họ cũng mong rằng Chánh Phủ Liên Hiệp sẽ có một quyền tự trị tối thiểu nào đó. Những tin tức về một sự tương đối độc lập của cái gọi là CPLTCHMN được nhiều nơi nói đên, đặc biệt là từ Thụy Điển, một quốc gia chuyên binh vực cho Hà Nội . Ông Olof Palme, Thủ Tướng Thụy Điển đă từng tham gia các cuộc tuần hành "chống chiến tranh của Hoa Kỳ". Ở thủ đô Stockholm, các nhà ngoại giao Tây Phương và Đông Phương đều có tiếp xúc với một trưởng phái đoàn khác của CPLTCHMN là ông Trần hữu Khá. Đối với tất cả mọi người ông Khá nầy đă tỏ ra vô cùng ngạc nhiên về sự tiến quân quá nhanh của "quân đội cách mạng". Nhưng khi người ta gọi đó là những sư đoàn Bắc Việt th́ ông Khá không chấp nhận cũng không phản đối, mà ông chỉ cười trừ. Có nhiều sự hiểu lầm về cái cười nầy của ông ta lắm. Nếu người ta nói với ông về lực lượng thứ ba và ông Dương văn Minh .. th́ ông cũng chỉ cười.. Ông chỉ nhấn mạnh có một điểm:

    - " Chúng tôi cần các bạn bè người Âu Châu ".

    Mục tiêu của CPLTCHMN là không phải tiến chiếm Sài G̣n bằng vũ lực, ông Khá cũng nhấn mạnh ở điểm nầy; Ông Thiệu phải ra đi. Ông Thiệu nên ra đi.... Sau đó, với lực lượng thứ ba, CPLTCHMN sẽ thành lập một Chánh Phủ Liên Hiệp độc lập đốivới Hà Nội Các nhà ngoại giao, các nhà báoTây Phương đối chiếu các tin tức, các bản tuyên bố và các buổi trao đổi chuyện tṛ, sau đó th́ họ gởi công hàm hay các bài tường thuật về cho cho Bộ hay cho báo chí.

    Những người có chút lạc quan th́ tự hỏi rằng dù muốn dù không, các tư tưởng "hai màu" của các đại diện CPLTCHMN có thật sự đúng với thiện chí và ư muốn của lănh đạo Hà Nội hay không ? C̣n quá nhiều người bi quan , nhất là người Mỹ, th́ cho đó chỉ là những cuộc vận động chánh trị mà thôi.

    Tại Hà Nội, CPLTCHMN cho ra môt bản "tuyên bố 10 điểm" liên quan đến đường lối chánh trị của họ trong các vùng mới chiếm. Từ lâu rồi, các bản tuyên bố của Hà Nội và của CPLTCHMN thường có 10 điểm, một con số vừa ư nhất và dĩ nhiên gần như là con số mầu nhiệm của cộng sản . Trong đó điểm số 10 là "bảo đảm sanh mạng và tài sản của người ngoại quốc". Tất cả các tài sản đó là tài sản của tư nhân. ... Phần c̣n lại là chánh trị thống nhất, ḥa hợp ḥa giải v.v... b́nh đẳng giữa người Kinh và dân tộc thiểu số..., nam nữ b́nh quyền, tự do tín ngưỡng nhưng đừng quên là không có thờ cúng. CPLTCHMN sẽ giúp đỡ nông dân, và ngư dân, "những thợ rừng và những người sản xuất muối" . Những sĩ quan và binh sĩ Miền Nam Việt Nam nào "rời bỏ hàng ngũ địch để trở về vùng giải phóng hay tự nguyện ở lại vùng giải phóng" th́ phải đến tŕnh diện với chánh quyền cách mạng. "họ sẽ được giúp đỡ để t́m việc làm", theo đó người ta có thể diễn dịch rằng họ sẽ không bị đưa đi tù. Theo cách xử trí mà không có người quân nhân Miền Nam nào lại tự nguyện ở lại các vùng giải phóng, người ta có thể hiểu ngay là bản tuyên bố của CPLTCHMN chỉ nhằm "xóa bỏ bộ máy hành chánh mà họ gọi là ngụy quyền để thành lập một chánh quyền cách mạng" mà họ cho là "chánh quyền của nhân dân" ở khắp mọi nơi, mọi cấp. Không hơn không kém.

    Tất cả các nơi đều chỉ biết dựa trên các tin tức loại nầy, từ các công hàm và các tài liệu của Hà Nội và của CPLTCHMN để mổ xẻ và phân tích t́nh h́nh.

    Chiến dịch tấn công ngoại giao của cộng sản cũng được tung ra ngay tại Sài G̣n . Ở đây, ông Trần văn Du, giám đốc pḥng phân chất và bào chế thuốc, đă xác nhận là ông ta nhân danh CPLTCHMN để gặp một đại diện của tướng Trần văn Đôn Tổng Trưởng Quốc Pḥng. Ông nói: "CPLTCHMN muốn đàm phán. Nhưng "không thể có đàm phán được" v́ c̣n sự hiện diện của Tổng Thống Thiệu.". Ông c̣n nói tiếp :

    - "CPLTCHMN mở rộng cửa đón mọi đề nghị. Tuy nhiên, chỉ có thể nói chuyện được với một phái đoàn của chánh quyền mới. Chánh quyền mới nầy phải do một "nhân vật trung lập" lănh đạo, trong đó phải có thành phần của lực lượng thứ ba, cũng có thể có một số "chánh trị gia thân Mỹ".

    Nhưng những người nào th́ ông Du không thể cung cấp danh tính được .

    Tại Câu lạc bộ thể thao, người ta xác nhận là đại tá Vơ đông Giang, người đại diện của CPLTCHMN ở trại Davis, đă có thử liên lạc với tướng Dương văn Minh để thương thảo về việc thành lập một Chánh Phủ Liên Hiệp. Đúng hay Sai ? Một ước vọng khả tín ?? Không ai biết được hết ! Không phải người dân Sài G̣n nào cũng đến chơi ở Câu lạc bộ thể thao nầy, nhưng có thể họ có đón nghe đài giải phóng.. Đài nầy kêu gọi buông súng xuống, đừng giết nhau nữa , nhưng chỉ kêu gọi một phía là QLVNCH mà thôi !

    "- Bởi v́ chúng ta cùng là người Việt Nam cả..... CPLTCHMN sẽ không đụng tới một cây kim hay một sợi chỉ của đồng bào !"

    Có nhiều gia đ́nh ở Miền Nam có con em "tập kết" ra Miền Bắc . Thông thường họ chỉ kháng chiến ở Miền Nam trước 1954, khi tập kết ra Bắc họ không phải là cộng sản . Và có thể họ không bao giờ là cộng sản . Có thể một số đông những người tập kết sẽ trở về Miền Nam mà vẫn không phải là đảng viên cộng sản .

    Những lời nói của ông Giám Đốc Pḥng thử nghiệm h́nh như có tiếng vang thuận lợi. Ông đă minh xác là "trong hiện tại, chiến lược của CPLTCHMN là cô lập Sài G̣n với các nơi khác trong nước..... CPLTCHMN không muốn tấn công vào Sài G̣n " Chỉ cần cô lập thủ đô để buộc Sài G̣n phải thay đổi Chánh Phủ . Giải pháp cuối cùng sẽ là giải pháp chánh trị . Ông ta c̣n tuyên bố là: "sẽ không có tổng nổi dậy, cũng không có tắm máu trong thủ đô"

    Tướng Đôn nói với người nầy người khác là ông sẽ ở lại trong Chánh Phủ để chuẩn bị đàm phán vời địch quân. Ông rất tiếc là không có đủ can đảm để xin với Tổng Thống Thiệu cho ông từ nhiệm. Thật là vừa khôn ngoan vừa ích kỷ, vừa thủ đoạn lại vừa thành thật. Con nhà khá giả, năm nay 58 tuổi, sanh ở Bordelais (Pháp), nói tiếng Pháp thật là tuyệt, ông Đôn là một sĩ quan cấp tướng được Pháp hóa nhất trong hàng tướng lănh Việt Nam, và là một người gương mẫu trong số các quân nhân hăng say hoạt động chánh trị ở Sài G̣n . Ông đă từng đảm nhiệm chức vụ Quân đoàn trưởng, tổng trưởng, dân biểu và nghị sĩ. Ông thấy ḿnh có thể giữ ghế Thủ Tướng hay Tổng Thống nếu cần. Nghịch cảnh khuyến khích ông, thành công không làm ông quá phấn khởi. Giống như tướng Kỳ, ông có nhiều rắc rối với Thiệu, ông biết Tổng Thống Thiệu lúc ông nầy c̣n là đại tá trong khi ông ta đă là tướng ba sao rồi. V́ là người lịch lăm nên Tổng Thống Thiệu đă dùng ông đi du thuyết ở ngoại quốc. Đă từ lâu ông Đôn nghĩ rằng người quốc gia nên t́m một thỏa thuận nào đó với CPLTCHMN . Nhưng ông Tổng trưởng Quốc Pḥng của một tân Chánh Phủ nầy không thể thuyết phục được ai để củng cố được chế độ khi ông nói với người ta là Chánh Phủ nầy chỉ tồn tại được có 15 ngày mà thôi .

    Tại Đàlạt, linh mục Jean Mais chờ đợi.. Một cán bộ Bắc Việt khoản 50 tuổi, người nhỏ thó, gầy, đen đúa và đầu húi cua, mặc một cái quần rộng thùng th́nh... buớc vào cửa Đại Học, chào linh mục, cố gắng nói một vài câu bâng quơ bằng tiếng Pháp nặng ch́nh chịt rồi đi ra.

    Thành phố Đàlạt được ổn định lại nhanh chóng. Một anh thợ cắt tóc cầm đầu Ủy Ban Quân Quản Thành Phố đóng tại rạp chiếu bóng trên chợ ở ngay khu trung ương thành phố. V́ linh mục Mais nói được tiếng Việt nên ông Hiệu trưởng trường Trung Học Pháp đến nhờ ông liên lạc với Ủy Ban Quân Quản.

    Một nữ sinh viên lớp đệ tứ , nhân viên của Ủy Ban đă trả lời cho linh mục:

    - "Chúng tôi c̣n rất nhiều việc phải làm"

    Thôi th́ các Hội đua nhau nở rộ, nào là "Hội Các Phụ Nữ Giải Phóng", "Hội Trí Thức Yêu Nướcc".. v.v.... Nếu người nào không chịu vào một Hội nào th́ người đó bị coi như "thành phần chống đối" . Ông viện trưỏng Dương tham gia soạn thảo bài diễn văn chào mừng các chiến sĩ cách mạng. Theo truyền thống trong tiếng Việt th́ người ta thường ghép danh từ "hân hoan" đi đôi với danh từ "chào đón". Nhưng ông viện trưởng thay v́ dùng danh từ "hân hoan" lại nói là "không hân hoan". người ta chỉ trích ông dữ dội, nhưng ông giải thích: - - " Tôi có rất nhiều bạn bè trong số các sĩ quan VNCH. Tôi chào đón cách mạng trong hoàn cảnh một đất nước bị chia rẽ." Người ta bắt ông ngay sau khi mắng chửi ông thậm tệ.

    Ủy Ban Quạn Quản tiếp xúc với Đức Giám Mục Lam, địa phận Đà lạt. Ông nầy nhờ linh mục Mais thiết lập một bản kê khai tài sản của trung tâm Huấn Luyện Nông Nghiệp Công Giáo ở ngoại ô Đàlạt.. Linh mục Mais dùng chiếc xe Land Rover cùng với một linh mục khác đi vào nông trường. Đi ṿng một con suối có cây cầu bị phá sập, gần đến nông trường, hai người gập một đoàn khoản 60 chiếc xe tăng đang ngụy trang dưới các lùm cây. Các bộ đội Bắc Việt ngồi dưới đất dường như chẳng ai thèm để ư ǵ đến hai ông hết. Đến nông trường, linh mục Mais gặp những người của Ban Quân Quản. Họ hỏi ông để lấy một số vỉ sắt trong công xưởng, nói rằng : "mượn để lót cho xe tăng qua suối "

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 24-07-2012, 11:58 PM
  2. Chuyến hải hành sau cùng của Hải Quân VNCH Tháng 4-1975
    By anlocdia in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 1
    Last Post: 10-04-2012, 08:03 PM
  3. Bản Tin Tức Cuối Cùng Của Đài Phát Thanh Sàig̣n Tháng 4-1975
    By anlocdia in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 0
    Last Post: 07-04-2012, 05:55 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 25-04-2011, 09:26 PM
  5. Những ngày của tháng 4 – 1975 & trọn bộ DVD phim VƯƠT SÓNG
    By nguoibatcao in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 7
    Last Post: 19-04-2011, 01:50 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •