Câu chuyện đầu tiên :
RICHMOND – POST CODE 3121
Ông Phan Cảnh Hưng sanh năm 1954 tại B́nh Định, Việt Nam
Ông Hưng là người con trai út của một gia đ́nh mất 3 c̣n 4 người con. Mẹ ông mất khi ông mới sanh ra chưa được 1 tuổi. Cha ông tái giá và trong khi mẹ kế của ông đang có bầu th́ cha ông lại đi tập kết ra Bắc. Mẹ kế của ông phải làm nghề bánh tráng để nuôi 5 người con nheo nhóc trong một hoàn cảnh vô cùng cơ cực và thiếu thốn. V́ nhà nghèo nên ngay khi c̣n nhỏ ông đă không được đi học và phải ở nhà phụ mẹ làm bánh tráng.
V́ thương hoàn cảnh của ông nên khi ông được gần 7 tuổi, một người bác của ông đă làm giấy tờ và giúp cho ông được đi học tiểu học. Ông vừa đi học vừa phụ giúp mẹ làm bánh tráng. Ông ở nhà nhiều hơn đi học, nhưng học rất khá và luôn đứng đầu lớp. Ông thi đậu vào trường trung học công lập nhưng lại phải ở nhà v́ mẹ ông không có khả năng cho ông học lên trung học. Ông tiếp tục ở nhà làm bánh tráng trong 3 năm. Thấy ông thông minh và hiếu học một vị thầy giáo đứng ra bảo trợ cho ông đi học lại. Ông học nhảy lớp 2 lần để kịp tuổi, ông đậu tú Tài 1 và Tú Tài 2 tại Nha Trang, ban B, môn Toán năm 1970.
Ông thi đậu vào Trường Đại Học Sư Phạm Sài G̣n năm 1971. Ông vừa ra trường năm 1975 th́ miền Nam thất thủ. V́ là sinh viên trước năm 75 ông bị chuyển đi dạy ở tận đảo Phú Quốc, nơi ông dạy môn Toán lớp 12. Năm 1979, ông lập gia đ́nh và người con gái lớn của ông ra đời năm 1980 tại Phú Quốc. Ông nói, cuộc sống thầy giáo của ông thật thiếu thốn và đói ăn đến độ phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của phụ huynh và học sinh.
Năm 1981, ông với vợ và con gái vượt biên bằng thuyền sang Thái Lan. Sau 3 tháng ở trại tỵ nạn Songkla và Panat Nikhom gia đ́nh ông được phái đoàn Úc nhận cho định cư. Ông và gia đ́nh đến Melbourne vào tháng 9 năm 1981. Lúc ấy ông chỉ mới 27 tuổi. Chỉ hơn 2 tuần đến Úc, ông đă đi làm farm tại Lilydale trong khi tiếp tục học tiếng Anh trong ṿng 4 tháng tại Nunawading Migrant Hostel.
Sau 1 năm ở trong hostel, năm 1982, ông và gia đ́nh xin được nhà chính phủ và dọn về ở khu Housing tại đường Elizabeth St, Richmond. Cũng trong năm này người con gái thứ nh́ của ông ra đời và ông xin được việc làm công nhân ở hảng xe Holden (từ năm 1982-1988). Tuy nhiên, vào cuối tuần ông vẫn tiếp tục đi làm farm (từ năm 1982-1988). Ông cố gắng dành dụm tiền để hy vọng sẽ đi học lại thay v́ đi làm hăng suốt đời.
Tuy nhiên, không may cho ông, cuộc hôn nhân của ông bị đổ vỡ vào cuối năm 1988. Lúc bấy giờ 2 con của ông chỉ mới có 7 và 5 tuổi đang theo học tại trường Richmond West Primary School. Khi việc này xăy ra, ông chọn đi ra khỏi nhà của Bộ Gia Cư để cho vợ và 2 con của ông ở lại đó, nhưng hai người con gái nhỏ của ông nhất quyết đ̣i theo ông, nên cả 3 cha con trở thành không nơi nương tựa. Sau khi ở nhà người em vợ qua đêm, ông và hai con được một người bạn cho tạm tá túc 1 tuần lễ, trước khi được một người bạn khác cho share pḥng tại vùng Richmond để ở.
Cuối năm 1989, ông bị đột quỵ tim trầm trọng, bị bán thân bất toại, mất trí nhớ và khả năng nói. Bác sĩ và nhà thương nghĩ rằng v́ t́nh trạng của ông quá nặng, ông có thể sẽ không sống quá 2 tháng và nếu sống sót ông sẽ trở thành tàn phế và không bao giờ đi lại được nữa. Khi hồi tỉnh lại, ông xin 2 con về ở tạm với vợ cũ của ông trong khi ông c̣n phải nằm bệnh viện. V́ quá lo lắng cho tương lai và hoàn cảnh của hai con, ông quyết chí phải hồi phục càng sớm càng tốt. Dưới sự kinh ngạc của bác sĩ và các nhân viên điều trị của bệnh viện, sáu tháng sau ngày nhập viện cấp cứu, ông đă đứng và đi được. Ông xin xuất viện sớm để về với 2 người con nhỏ của ông tại căn flat mà Bộ Gia Cư, qua sự can thiệp của nhà thương St Vincent, đă cấp cho ông và hai con tại Richmond.
Mất job, bị bán thân bất toại, nhưng v́ số tiền ông đă dành dụm trong suốt 5 năm đi làm hăng và farm của ông, Bộ An Sinh Xă Hội chỉ cấp cho 3 cha con ông $65/tuần để sống. Ông cắn răng chấp nhận tất cả miễn là con ḿnh không trở thành con của chính phủ hay mất cả cha lẫn mẹ. Với sự giúp đỡ của hai con, ông nhất quyết phải đi lại được không cần xe lăn, tập nói lại và tự chăm sóc lấy ḿnh và nuôi con ăn học đến nơi đến chốn.
Với một cố gắng và một ư chí phi thường, ông đă không hề sử dụng đến xe lăn sau khi bị đột qụy mà bác sĩ cho rằng ông sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa. Hơn thế nữa, chẳng những ông đă tự ḿnh đi lại, mặc dù thật chậm chạp và vô cùng vất vă, ông c̣n tự học thêm tiếng Anh để có thể dạy kèm Toán cho 2 con của ḿnh cho đến hết lớp 12. Không có tiền cho con học thêm, ông tự dạy kèm con của ông, kết quả là người con gái lớn đă vào được trường Camberwell High School và người con gái út đậu vào trường tuyển nữ Trung Học Mac Robertson. Nhưng v́ muốn hai chị em học cùng một nơi, con gái út của ông đă chọn đi học tại Camberwell High School thay v́ Mac Robertson.
Kết quả, người cha tật nguyền bán thân bất toại này, một disability pensioner, đă một ḿnh dạy dỗ, nuôi nấng, chăm sóc hai người con gái 7 và 5 tuổi đạt được kết quả như sau:
•Diana Phan - đậu VCE với số điểm 99.70 và tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa tại Đại Học Melbourne năm 2003.
•Mary Phan - đậu VCE với số điểm 99.40 và tốt nghiệp Bác sĩ Nha Khoa tại Đại Học Melbourne năm 2005.
Ngày nay, ông đă trở thành ông Ngoại của 2 người con của Bs. Diana Phan (5 tuổi và 9 tháng tuổi) và t́nh nguyện coi cháu cho con gái đi làm. Ông vẫn c̣n một phần bán thân bất khiển dụng, nhưng nhất quyết không dùng xe lăn hay chống gậy, tự lo lấy mọi việc cho ḿnh và chăm sóc, thương yêu con và cháu như ông đă làm trong suốt 25 năm qua.
Được hỏi, động lực nào và bí quyết nào đă giúp ông thành công trong việc vượt qua những khó khăn và trở ngại to lớn để cho ông và con cái ông có được ngày hôm nay. Ông nói:
“V́ tôi thương con tôi, tôi sợ mất con tôi và con tôi mất tôi. Tôi đă trải qua kinh nghiệm mất mẹ, mất cha, cực khổ v́ thế tôi phải cố sống, cố phấn đấu cho con tôi....bí quyết duy nhất tôi dùng để dạy con tôi là phải biết tự chủ, tự kỷ luật và cố gắng hết ḿnh, không bao giờ bỏ cuộc hoặc chào thua trước nghịch cảnh. Tôi là một người rất may mắn được sống sót và cưu mang bởi nước Úc giàu có và đầy ḷng nhân đạo này. Tôi mong các con tôi sẽ tiếp tục đóng góp khả năng của chúng nhiều hơn nữa cho nước Úc này”
Chờ xem câu chuyện thứ hai....
Bookmarks