Page 2 of 3 FirstFirst 123 LastLast
Results 11 to 20 of 27

Thread: Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản

  1. #11
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 6 (tt)

    Năm 1926-1927, cơ-quan Guépou củng tích cực hoạt-động trong việc lùng bắt các người chống đối chế độ cộng-sản và gán cho các người này danh-từ thân Zinoviev hay là trốt-kít. Việc thực thi làm phiếu cá-nhơn để theo dỏi các người chống cộng đả được bắt đầu sớm hơn vào các năm 1921-1922. Tháng 9 năm 1923, Dzerjinski đả đề-nghị siết chặt lại ư-thức chủ-nghỉa của Đảng. Các người cộng-sản phải cam-kết báo cho cơ-quan cảnh-sát chính-trị mọi tin-tức mà họ biết về sự hiện-diện của các thành-phần sai-lệch, xét lại ở trong ḷng Đảng. Đề nghị này bị một sự phản đối của một số lảnh tụ, trong đó có Trotski. Nhưng thói quen cho canh chừng các người chống đối đả được phổ biến rộng rải các năm sau đó. Cuộc thanh-trừng ( purge ) của tổ-chức cộng-sản của thành-phố Léningrad, do Zinoviev chỉ huy ; xảy ra vào tháng Giêng và tháng 2 năm 1926 đả làm liên lụy nhiều vào cơ-quan Guépou. Các người chống đối không những bị đuổi ra khỏi đảng và vài trăm người trong số này bị bắt buộc đi lưu đày ở các thành-phố xa-xôi và số phận của họ rất là bấp bênh v́ không một ai giám cho họ một việc làm để kiếm sống. Đến năm 1927, cuộc lùng bắt các người bị liệt vào danh sách là trốt-kít, có độ vài ngàn người, đả huy động trong nhiều tháng vào một phần các cơ sở của cơ quan Guépou. Tất cả những người này đả bị ghi tên vào các phiếu cá nhơn, hàng trăm người trốt-kít đang hoạt động bị bắt đưa đi đày ở nơi khác bằng các biện pháp hành chánh. Vào tháng 11 năm 1927, các lănh tụ Bôn-sê-vít chống đối lại Staline là : Trotski, Zinoviev, Kamenev, Radek, Rakovski, đều bị khai trừ ra khỏi Đảng và bị bắt giam. Tất cả mọi người nào từ chối làm tờ tự kiễm thảo công khai, đều bị đưa đi lưu đày. Ngày 19 tháng Giêng năm 1928, báo Prava đả loan tin Trotski và một nhóm 30 người chống đối, bị đày đi Alma-Ata. Một năm sau Trotski bị trục xuất ra khỏi Liên-Bang Cộng-ḥa Sô-viết. Việc biến đổi một nhân vật chính tạo ra cuộc khủng bố Bôn-sê-vít , thành ra một người phản cách mạng là một chặn đường mới được vượt qua, với trách nhiệm của người hùng mới của Đảng : Staline.
    Đầu năm 1928, sau khi loại trừ phe Trotski chống đối lại chủ trương của phe Staline, đa số đảng viên của Bộ Chính-trị của Trung-Ương Đảng Cộng-sản Sô-viết đả quyết đînh chấm dứt cuộc hưu chiến chống lại toàn xă-hội Nga v́ xă-hội này trên con đường tiến-triễn đả đang đi khác với những kế-hoạch của người Bôn-sê-vít mong muốn đạt được.
    Củng giống như những ǵ đả xảy ra ở 10 năm về trước, kẽ thù chính vẫn là giới nông dân mà các người Bôn-sê-vít coi là một khối người không thể kiễm-soát được, chống đối họ và vô kỹ-luật. Và khởi điễm của cuộc nội-chiến thứ hai chống lại toàn khối các người nông dân như sử gia Andrea Graziosi đả nhận định và lần này các diễn tiến sẽ khác hơn lần trước. Tất cả các sáng kiến đều do nhà nước phát động, các thành phần xă-hội không c̣n có khả năng để phản ứng và các cuộc chống đối chỉ yếu dần đi không c̣n gây được một ảnh hưởng ǵ cả.
    Sau các tai biến xảy ra trong những năm 1918-1922, nên nông nghiệp đả có thể coi như là toàn thể phục hồi ; những người nông dân bị coi như là các kẻ thù của chế độ đang suy yếu toàn thể và nhà nước đả trở thành mạnh hơn vào những cuối năm của thập niên 20. Chính quyền đả nắm vững t́nh thế và hiểu biết những việc ǵ đả diển ra ở các làm xóm, việc thiết lập các phiếu cá nhơn các người bị xếp vào loại thành phần nguy hiễm cho xă-hội cư ngụ ngoài các thôn làng . Các yếu tố này đả cho phép cơ-quan Guépou hành động hữu-hiệu khi họ cho thi hành các cuộc bố ráp (rafles) đầu tiên trong chiến dịch giải thể người koulak , việc tiêu diệt lũy tiến và thực sự các người nông dân chống đối bị gán cho từ ăn cướp , tước đoạt các vũ khí của các người nông dân và việc trưng binh khi cần trong các cuộc hành quân. Với con số người phục ṭng chịu lịnh trưng binh và việc phát triễn một hệ thống bao vây và kiễm soát các trường học. Căn cứ trên các văn thư liên lạc giửa các người lảnh đạo bôn-sê-vít và các bài viết bằng chử viết tắt tóm tắc các lời phát biểu của các người này, dưới sự giám sát của Staline, và củng có khi với sự hiện diện của các người chống đối là : Kamenev, Rykov và Boukharine họ củng đả đo lường được các hậu quả mà xă-hội sẽ phải gánh chịu khi các cuộc tấn công đầu tiên được phát động vào năm 1928, vào toàn thể khối nông dân. Boukharine đả viết xong một văn thơ gởi cho Staline : Tôi báo trước cho đồng chí là sẽ xảy ra một cuộc chiến ở nông thôn. Nhưng Staline đả sẳn-sàng chấp nhận , dù phải trả với mọi giá và lần này chế độ sẽ chiến thắng.
    Việc thu mua các sản phẫm nông nghiệp vào năm 1927 đả gặp cơn khủng hoảng ; Staline viện cớ này và củng là điều ông mong muốn. Tháng 11 năm 1927, số lượng nông sản do các cơ-quan thu mua của nhà nước, đả ít đi quá mức và qua đến tháng 12 th́ số lượng này đả tụt xuống một cách thê thăm. Đến qua tháng Giêng năm 1928, mặc dầu được mùa, các cơ-quan thu mua chỉ thâu đạt được có 4.800.000 tấn nông sản thay v́ năm trước đả thâu đạt được 6.800.000 tấn. V́ giá mua quá hạ do nhà nước định giá, ngược lại giá các sản-phẫm kỹ-nghệ do nhà nước cung cấp lại quá cao và khan hiếm. Các cơ-quan thu mua của nhà nước bị xáo-trộn v́ có tin đồn là sẽ xảy ra nội chiến và toàn thể khối các người nông dân đều bất mản v́ cuộc khủng hoảng này. Với các diễn tiến trên Staline coi đó là cuộc đ́nh công của người koulak .
    Nhóm các lảnh tụ phe Staline viện cớ v́ các diễn biến ở trên, để lập lại các tổ trưng dụng và cho thi hành nhiều biện pháp đàn áp đả được thực-hiện vào thời chiến-tranh của cộng-sản đả xảy ra mấy năm về trước. Staline đích thân đi thăm vùng Sibérie. Các người lảnh tụ khác : Andreiev, Mikoian, Postychev hay Kossior, đi tham quan các địa phương sản xuất nhiều nông-sản, các vùng đất đen là vùng Ukraine và phía Bắc vùng Caucase. Một văn thơ của Bộ Chính-Trị của Trung-Ương Đảng Cộng-sản đề ngày 14 tháng Giêng năm 1928 gởi cho các chính-quyền địa-phương, ra lịnh cho họ phải bắt giam những người đầu cơ , các người koulak và các người phá rối thị trường cùng chính sách giá cả . Và củng giống thời-gian năm 1918-1922, chính-sách trưng dụng được áp dụng, các viên toàn quyền được phái đi, cùng các phân đoàn lảnh-tụ cộng-sản, về các vùng nông-thôn để thanh-trừng các chính-quyền địa phương bị coi là quá dể dải đối với các người koulak. Các vị toàn quyền này hứa với các người nông dân rằng nếu họ tố cáo các nơi cất giấu các nông sản, họ sẽ được thưởng cho một phần tư các nông-sản giấu diếm được tịch thâu từ các người nông dân đả dấu.
    Để trừng phạt các người nông dân cứng đầu nhiều biện pháp đả được nghỉ ra. Nếu họ không chịu giao nạp số nông-sản mà họ bị bắt buộc phải giao nạp cho các tổ thu mua và được trả rẻ hơn từ 4 đến 5 lần so với giá trên thị trường, th́ họ sẽ bị phạt như sau thay v́ phải nạp cho đủ số 1 tấn được chỉ định ; họ sẽ bị phạt là phải nạp từ 2, 3 hoặc 4 tấn. Điều 107 bộ H́nh-luật Sô-viết đả dự định là sẽ bị kết án ba năm tù giam mọi hành động làm giá cả gia tăng đả được áp dụng bừa bải. Và sau hết là các sắc thuế dành cho các người koulak đả được tăng lên gấp 10 lần trong ṿng 2 năm. Người ta ra lịnh cấm họp chợ , biện pháp này không có ảnh hưởng đến các người nông dân khá giả. Trong ṿng vài tuần lể, các biện pháp kể trên đả làm tan vở t́nh thế tạm ngưng đấu tranh được diễn ra từ các năm 1922-1923 để giảm đi các mối xung khắc giửa chế độ với các nông dân. Các cuộc trưng dụng và các biện pháp đàn áp chỉ tạo thêm các đổ vở cho cuộc khủng hoảng ; liền khi ấy chính quyền đả dùng vũ-lực và các tổ thu mua chỉ thu được một số nông-sản kém hơn một ít số nông sản đả thu mua được vào năm 1927. Để phản ứng lại, người nông dân đả tự giăm bớt diện tích canh-tác trồng các ngũ cốc.
    Cơn khủng hoảng thu mua đả xảy ra vào mùa Đông 1927-1928 đả đóng một vai tṛ quyết định cho các diển biến của đời sống xă-hội về sau : Và v́ thế, Staline sau khi đả nghiên cứu nhiều bài kết luận về việc phải cho thành lập các pháo đài của chủ-nghỉa xă-hội ở các vùng nông thôn, các hợp tác xă sản xuất nông-nghiệp ( kolkhozes ) và các nông trại lớn sản xuất nông nghiệp ( sovkhozes ) và tất cả đều là tài sản của nhà nước, thi hành tập thể hóa nền nông-nghiệp để dể bề kiễm soát các sản lượng nông sản sản xuất ra và kiễm soát các người sản xuất ra các nông sản để khỏi phải chịu các luật của kinh tế thị trường. Và sau hết là để trừ bỏ các người koulak và tiêu diệt họ như là một giai cấp.
    Năm 1928, chế độ củng chấm dứt t́nh-trạng tạm ngưng đấu tranh đối với một giai cấp xă-hội khác, các người spetzy các chuyên viên trung lưu trưởng giả xuất phát từ giới trí thức của chế độ củ, v́ vào các năm cuối thập niên 20, họ c̣n được lưu dụng ở các chổ quan trọng ở các xí-nghiệp quốc doanh và các cơ-quan hành chánh. Nhơn cuộc họp các lảnh tụ của Ủy Ban Trung Ương Đảng vào tháng 4 năm 1928, ủy ban này đả ra một thông báo là vừa khám phá ra một âm mưu phá hoại kỹ-nghệ ở trong vùng Chakhty, một vùng mỏ than ở Donbass, xảy ra tại đại xí nghiệp hổn hợp gan thép Donougol c̣n lưu dụng nhiều chuyên viên trung lưu trưởng giả và đại xí-nghiệp này c̣n có nhiều liên-lạc tài chính với các giới tài chính phương Tây. Vài tuần lể sau, năm mươi ba người bị cáo, phần lớn là các kỹ-sư và các chuyên viên điều-khiển xí-nghiệp, bị đưa ra trước ṭa án có sự hiện diện của công chúng và là phiên ṭa đầu tiên từ khi có những vụ xữ án các người xă-hội cách mạng vào năm 1922. Mười một người bị cáo bị lên án tử h́nh và 5 người đả bị hành quyết. Các cuộc xử án gương mẫu này, được các báo chí đăng đi, đăng lại rất lâu đả nêu lên các huyền thoại của chế độ, đó là các tên phá hoại, tay sai ăn lương của ngoại bang và huyền thoại này nó động viên các lănh tụ cùng các người điềm chỉ của cơ-quan Guépou. Để giải-thích mọi thất bại về kinh tế, và luôn để trưng dụng các chuyên viên mới cho các văn pḥng mới lập của ngành xây dựng đặc biệt của cơ quan Guépou được biết với danh xưng là : Charachki. Cả ngàn người kỹ-sư và chuyên viên bị kết án phá hoại đả thọ án của họ ở các nông trường và ở các xí nghiệp hàng đầu. Những tháng sau cuộc xử án ở Chakhty, ngành phụ trách kinh tế của cơ quan Guépou đả tạo ra nhiệm vụ xử án tương tự ở Ukraine. Riêng ở đại xí nghiệp luyện kim Iougostal ở vùng Dniepropetrovsk, đả có 112 người chuyên viên bị bắt vào tháng 5 năm 1928. Không riêng ǵ các chuyên viên điều khiển các xí nghiệp là nạn nhơn của các chiến dịch chống các chuyên viên được phát động vào năm 1928. Nhiều giáo sư và sinh-viên bị đuổi ra khỏi ngành giáo dục cao đẳng v́ họ thuộc thành phần xă hội ngoại lai trong nhiều đợt thanh-trừng được phát động tại các trường đại học để thăng trật trong một đợt các người trí-thức Đỏ và vô sản .
    Với lối hành sự cứng rắn hơn các cuộc đàn áp và các khó khăn về kinh tế của những năm sau cùng của chính sách NEP, thêm vào nạn thất nghiệp gia tăng, các tệ đoan xă-hội củng nhiều hơn khiến các khinh tội củng gia tăng. Các vụ tuyên án về tội phạm h́nh đả gia tăng một cách ngoạn mục : 578 000 vụ vào năm 1926, 709 000 vụ vào năm 1927, 909 000 vụ vào năm 1928 và 1 178 000 vụ vào năm 1929 !.. Các nhà tù bị đầy nghẹt các tù phạm v́ khả năng chứa các nhà tù này chỉ có thể chứa tối đa lối 150 000 người. Để giải tỏa các nhà tù và để thích ứng với số tù nhân gia tăng, vào năm 1928 chính phủ đả đưa ra hai quyết nghị quan trọng. Quyết-nghị thứ nhất là ban hành đạo luật ngày 26 tháng 3 năm 1928 : đối với các tội phạm nhẹ, các người bị án sẽ được giam trong một thời gian ngắn sau đó, phải đi phục vụ cải tạo không lănh lương ở các xí nghiệp, các công trường xây dựng hay là khai thác lâm nghiệp . Quyết-đinh thứ hai là đạo luật được ban hành vào ngày 27 tháng 6 năm 1929, và đả có nhiều kết quả rộng lớn : Tất cả các phạm nhơn bị kêu án trên ba năm tù giam, sẽ bị chuyễn đi phục vụ ở các trại tập trung lao động khổ sai ở các vùng phía Đông và các vùng nơi phía Nam để khai thác các tài nguyên thiên-nhiên của đất nước , ư đồ này đả được dự tính từ nhiều năm trước. Cơ quan Guépou đả hoạch định một chương-tŕnh lớn khai-thác cây gổ để xuất cảng ; v́ lẻ trên cơ-quan Guépou đả đ̣i hỏi nhiều lần Nha Đặc Trách các nhà tù phải cung cấp thêm các tù nhơn để chuyển qua các trại đặc biệt ở Solovki, v́ năm 1928 con số tù ở nơi này chỉ có 38 000 người, không đủ để đăm trách cho đạt được con số cây gổ mà cơ-quan Guépou đả đưa ra quá cao.
    Công việc sửa soạn cho kế hoạch 5 năm đả đặt lại trật tự vấn đề phân phối nhân công và khai thác các vùng hẻo lánh khó sống nhưng lại có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Dưới diện này các người nhơn công không dùng đang nằm trong các nhà tù, nếu được khai thác đúng độ có thể sẻ là một nguồn lợi tức mới nếu việc kiễm soát và quản lư đúng đắn là thêm một nguồn lợi tức, có ảnh hưởng cùng có thêm quyền lực. Các người lảnh đạo cơ-quan Guépou, và riêng Menjinski và viên phụ tá là Iagoda, được Staline ủng hộ đả đ̣ng ư thức được các thành quả của việc này. Qua mùa hè năm 1929, họ cho phát động một kế hoạch quá cao để khẩn hoang một vùng rộng lớn gồm có 350 000 cây số vuông . Các khu rừng ( taiga ) ở vùng Narym-Sibérie thuộc về miền Tây. Họ không ngừng đ̣i thi hành đạo luật ngày 27 tháng 6 năm 1929, và năm trong khuôn khổ các dẩn giải trên mới nảy sinh ra ư-nghỉa tạo ra cuộc giải thể các người koulak v́ theo quan niệm của các giới chính thức là các người koulak sẽ chống lại việc tập thể hóa nền nông nghiệp.
    Nằm trong khuôn khổ nội bộ của Đảng Cộng-sản Nga, Staline và các người đứng về phía của ông, đả cần một năm để thuyết-phục các thành viên khác hưởng ứng kế hoạch của ông. Chính sách cưởng bách tập thể hóa nền nông-nghiệp, chính sách giải thể các người koulak , gia tăng tốc độ phát-triển kỹ-nghệ, ba chính sách kể trên nằm trong một chương-tŕnh dính liền với nhau, để biến đổi một cách phủ phàng nền kinh tế và xă-hội. Chương-tŕnh này củng đưa đến việc dứt bỏ các cơ-cấu của nền kinh-tế thị-trường và việc khai-thác các tài nguyên thiên-nhiên ở các vùng hẻo lánh khó sống bằng sự cưởng bách lao động đối với cả triệu người bị phóng truất - bị đày , các người koulak bị giải thể, các cuộc tịch thâu điền địa của nông dân và các nạn nhơn khác của cuộc cách mạng thứ hai này.
    Các người chống đối đường lối của chính sách do Staline đề ra là Rykov et Boukharine. Hai người này coi việc tập thể hóa nền nông nghiệp là trở về thời bốc lột quân sự-phong kiến các người nông dân ; việc làm này sẽ đüa trở lại cuộc nội chiến phát động khủng bố, sự hổn độn sẽ xảy ra và sau đó là nạn đói kém sẽ xuất hiện. Sang đến tháng 4 năm 1929, các phe chống đối bị khai trừ ra khỏi Đảng. Trong mùa Hè năm 1929, các phần tử hữu huynh bị đả kích hàng ngày trên các báo chí và một chiến dịch báo chí mảnh liệt tố cáo rằng họ đả hợp tác với các phần tử tư-bản và thông lượng với các bọn trốt-kít. Bị hoàn toàn thất sủng, các đảng viên chống đối công khai đả làm bản tự kiễm thảo vào tháng 12 năm 1929 tại cuộc họp các lảnh tụ của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng-sản Nga.
    Trong lúc ở trên các lớp đảng viên đang bàn thảo để coi ai theo, ai chồng lại về vấn đề hủy bỏ chánh sách NEP do Lénine chủ xướng, th́ Sô-viết đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế mỗi ngày mỗi trầm trọng thêm lên. Các thu hoạch về canh nông của năm 1928-1929 đả giăm sút một cách thê thăm. Mặc dầu đả dùng nhiều biện pháp cưởng chế đối với đoàn thể các người nông dân như : phạt tiền rất nặng, bỏ tù những người nào từ chối bán các sản phẫm của họ cho chính quyền, chiến dịch thu mua các nông sản của mùa Đông 1928-1929 chỉ thu mua được một số lượng nông-sản ít hơn năm trước và v́ vậy đả tạo ra một bầu không khí căng thẳng ở các vùng nông thôn. Cơ quan Guépou để kiễm kê, từ tháng Giêng năm 1928 cho đế tháng 12 năm 1929, đả xảy ra trước khi có việc cưởng bách thu mua. Có 1300 vụ quần chúng biểu t́nh và bạo động đả xảy ra ở các vùng nông thôn tạo đến việc có cả chục ngàn người nông dân tham gia và bị bắt giam. Một con số khác đả nói lên t́nh h́nh của nước Nga vào thời ấy : năm 1929 vào tháng 2 đả có 3200 cán bộ của chế độ Sô-viết đả là nạn nhơn của các vụ bạo động ? Củng vào tháng 2 năm 1929, các thẻ tiếp tế lương thực đả lại được tái cấp phát . Các thẻ tiếp tế này đả được hủy bỏ khi nhà nước cộng-sản Sô-viết thi hành chính sách NEP v́ để đáp ứng với việc khan hiếm thực phẫm khi các Ủy Ban Sô-viết ra lịnh đóng cửa các cửa hàng tiểu thương và các nhà tiểu công-nghệ lại bị coi là xí-nghiệp tư-bản.
    Đối với Staline, t́nh h́nh nguy kịch của nền canh nông là do các hành động của các người Koulak, và các thành phần chống đối khác, họ đang Âm mưu-đánh bằng ḿn vào chế độ sô-viết. Sự việc đả rỏ ràng để chọn lựa : Các tên tư-sản nông-thôn hay các khu tập thể hóa nông-nghiệp tên gọi là Kolkhozes. Tháng 6 năm 1929 chính phủ cho phát động toàn diện một kế-hoạch tập thể hóa toàn bộ nông dân ; mục tiêu của kế-hoạch 5 năm này, là được xét lại để tăng lên, đả được Đại hội thứ 16 của Đảng Cộng-sản chuẩn y. Kế-hoạch này dự định sẽ tập thể hóa 5 triệu trung tâm, tức khoảng 20% các cơ sở sản-xuất, từ nay cho đến ngày kết thúc kế-hoạch 5 năm. Qua đến tháng 6 người ta loan báo riêng cho năm 1930 sẽ có 8 triệu trung tâm, rồi sang đến tháng 9 con số này lên đến 13 triệu trung tâm. Mùa Hè năm 1929, chính quyền đả động viên vài chục ngàn người đảng viên cộng-sản và các đoàn viên các nghiệp đoàn, các thanh niên cộng-sản ( les komsomols ), các công nhơn và các sinh-viên, tất cả đều được đưa đi về các vùng thôn quê, những nơi sản xuất ra lương thực và đặt tất cả dưới sự hướng dẫn của các đảng viên địa phương và cơ quan Guépou. Áp lực vào các người nông dân gia tăng lên ; các tổ chức địa phương của Đảng thi đua để tranh các thành tích kỷ lục về việc tập thể hóa . Ngày 31 tháng 10 năm 1929, báo Pravada loan báo đả hoàn thành toàn bộ việc tập thể hóa không giới hạn các phong trào. Một tuần lể sau, nhơn dịp kỷ niệm lần thứ 12 củ cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917, Staline đả viết một bài báo phi thường dưới tựa đề : Khúc quanh lớn căn cứ các điều sai lầm căn bản và nhận định : Các người nông dân đả quay trở về các khu Tập thể hóa khai thác nông-nghiệp Kolkhozes . Chính sách NEP của Lénine đă bị cáo chung.

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

  2. #12
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 7


    GIẢI TÁN QUY CHẾ ĐIỀN CHỦ Và CƯỠNG BÁCH CANH TÁC TẬP THỂ


    Căn cứ theo các tài liệu vừa mới công khai hóa trước quần chúng, người ta thấy rằng chính sách canh tác tập thể là một cuộc tuyên chiến của nhà nước cộng sản chống lại toàn thể nông dân trên toàn nước Nga.
    Riêng trong năm 1930, nhà nước cộng sản lưu đày 2 triệu nông dân. Qua năm 1931, chính quyền bắt thêm một triệu tám trăm ngàn nông dân. 6 triệu người chết đói v́ không có đủ lương thực. Trên đường chở đến các trại lao động khổ sai, có hàng trăm ngàn người chết thê thảm. Các con số người chết trên đây đă nói lên tấm thảm kịch của chiến dịch tấn công nông dân do nhà nước cộng sản chủ mưu.
    Ngoài các diễn biến xảy ra rong suốt mùa Đông 1929-1930, các cuộc đàn áp nông dân c̣n kéo dài thêm vài năm sau đó. Cao điểm của cuộc tàn sát diễn ra trong năm 1932 và 1933, với số người chết đói lên cao nhất. Đó là hệ quả của chính sách nhằm đánh tan âm mưu chống đối nhà nước của bọn nông dân . Chính sách đàn áp nông dân được coi như một thí điểm , lấy kinh nghiệm để sau này nhà nước áp dụng vào các thành phần xă hội khác. Học hỏi kinh nghiệm khủng bố là giai đoạn quyết định quan trọng trong chính sách khủng bố của Staline.
    Trong bản phúc tŕnh gởi cho Ủy ban trung ương đảng trong phiên họp hồi tháng 11 năm 1929, ông Viatcheslav Molotov tŕnh bày : Vấn đề tốc độ thi hành chính sách tập thể hóa không quan trọng. Nếu từ nay cho đến đầu năm tới các đế quốc không tấn công chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được thắng lợi về kinh tế và sẽ thành công trong chính sách tập thể hóa.
    Chính quyền thành lập một uỷ ban đặc biệt soạn thảo lịch tŕnh tập thể hóa với các chỉ tiêu gia tăng. Ngày 5 tháng giêng năm 1930 nhà nước cộng sản cho thi hành chương tŕnh tập thể hóa nông nghiệp . Vào mùa Thu năm 1930, các vùng Bắc Caucase, vùng trung và hạ lưu sông Volga sẽ đi vào nề nếp làm ăn tập thể. Các vùng sản xuất nông sản lớn lần lượt vào tập thể trong ṿng một năm sau.
    Tất nhiên các hành động thi hành theo chỉ thị sẽ dẫn đến sự lạm quyền. Phải định nghĩa cường hào, phú nông như thế nào cho đúng nghĩa của nó. Người nào bị xếp vào hạng 2 và ai thuộc hạng 3,.. ? Sau nhiều cuộc tranh luận giữa các lư thuyết gia và các kinh tế gia cộng sản, họ vẫn chưa t́m ra một tiêu chuẩn thích hợp nào cho tầng lớp nông dân này. Về sau, v́ phải đóng thuế càng lúc càng nhiều, các phú nông chẳng c̣n ǵ để gọi là phú nữa. Nhưng nhà nước vẫn căn cứ vào các lần thu thuế trước đây để gán cho các nông dân vốn đă bị cướp hết tài sản này là phú nông.
    Theo chỉ thị, nông dân phải làm tờ khai chính xác tài sản của ḿnh. Sau đó làm đơn chuyển nhượng tài sản cho hợp tác xă nông nghiệp. Tài sản của họ trở thành công quỹ. Nông dân không có quyền bán lại cho ai cả. Nhưng đối với các toán trưng thu, họ cho rằng đó là tài sản chung, cứ tự do xử dụng.
    Toán công an tỉnh Smolenk phúc tŕnh: Các toán trưng thu tịch thu cả áo lạnh của nông dân. Họ thích nhất là các quần áo lót, giày mang mùa đông và mùa hè, các đôi giày cao su, y phục phụ nữ, các cây cào than trong ḷ sưởi, các b́nh đựng nước,..Họ lấy luôn các chiếc gối của trẻ em, các chiếc bánh c̣n đang nướng trên bếp. Họ bóp nát các bánh và răi lên các tượng thánh trên bàn thờ .
    Tài sản tịch thu được coi là tài sản của điền chủ phú nông nên bị đập phá thẳng tay cho bán đău giá với một giá rất thấp. Các toán trưng thu coi đây như là cơ hội để trả thù cá nhân. Ở nhiều vùng nông thôn, 80 đến 90 % tầng lớp trung lưu bị ghép vào giai cấp phú nông. Các nông dân này, thay v́ bán nông phẩm thặng dư cho các toán trưng thu, trước đó họ đă bán ra ngoài dân chúng. Họ cũng bị bắt. Nông dân nào có thuê người làm trong ṿng hai tháng cũng bị bắt. Nhà nào có hai b́nh nấu nước cũng bị tịch thu. Kể từ tháng 9 năm 1929, giết heo làm thịt tức là không muốn bán heo cho các toán trưng thu, bị ghép vào tội cướp đoạt tài sản của xă hội để làm của riêng , cũng bị bắt.
    Sau đợt đầu bị các toán trưng thu lợi dụng t́nh h́nh để trả thù cá nhân, cướp đoạt tài sản, nông dân ở các vùng nông thôn quyết tâm kết hợp thành một khối chống lại chính sách cướp tài sản và chương tŕnh cưỡng bách tập thể nông nghiệp của nhà nước cộng sản.
    Tháng giêng, cơ quan t́nh báo địa phương ghi nhận 402 vụ nông dân biểu t́nh chống đối. Tháng sau, 1048 vụ và trong tháng ba xảy ra 6528 vụ.
    V́ bị chống đối quá mạnh, chính quyền cộng sản phải thay đổi kế hoạch.
    Ngày 2 tháng 3 năm 1930, Staline viết trên các báo Liên Xô bài viết lịch sử của ông ta. Trong bài báo, ông lên án các vi phạm vào cái mà ông ta gọi là sự t́nh nguyện tập thể hoá cuả nông dân trong các hợp tác xă. Ông đề cập đến sự thái quá trong công tác tập thể hoá. Bài viết gây chống động trong hàng ngũ nông dân.Chỉ trong ṿng 3 tháng, có 6 triệu nông dân rút ra khỏi hợp tác xă. Họ đ̣i lại dụng cụ, máy móc , trâu ḅ trong các khâu sản xuất. T́nh h́nh xă hội trở nên rối loạn. Suốt trong tháng 3, Trung ương đảng cộng sản liên tục nhận báo cáo của các quan t́nh báo địa phương về các cuộc biểu t́nh chống chính quyền xảy ra ở các vùng Tây Ukraine, vùng trung tâm đất đen, vùng Bắc Caucase, vùng Kazakhtan. Chính quyền phải đưa các đơn vị quân đội đến giải tán 800 vụ biệu t́nh ở mức độ lớn trong số 6500 cuộc biểu t́nh đă xảy ra trong các vùng này.
    Trên 1500 nhân viên nhà nước bị nông dân chống đối , gây thương tích. Con số thiệt haị về phía nông dân không được công bố. Qua tháng tư, nhà nước đưa ra một số điểm nhượng bộ nông dân. Trung ương gởi nhiều chỉ thị xuống cho các cơ quan chính quyền địa phương, buộc phải thi hành chậm lại chính sách tập thể hóa. Trung ương cũng nhấn mạnh, cuộc chống đối của nông dân có thể làm nguy hại đến chính quyền cộng sản và làm tiêu hao nhân công viên nhà nước địa phương. Cuối tháng tư vẫn c̣n 1992 vụ biểu t́nh. Đến mùa hè, mức độ chống đối giảm dần. Cuối tháng sáu có 886 vụ và trong tháng 8 chỉ c̣n có 618 cuộc biểu t́nh.
    Trong suốt năm 1930 có đến 2 triệu nông dân tham dự vào 14.000 cuộc biểu t́nh và nổi loạn bạo động chống lại chính sách trưng thu và cưỡng bách canh tác tập thể. Các cuộc chống đối thường diễn ra ở các vùng biên giới của Ba Lan va Lỗ Ma Ni, các vùng đất đen và vùng phía Tây Ukraine.
    Phụ nữ đă đóng một vai tṛ then chốt trong các cuộc biểu t́nh chống đối. Họ xung phong đi đầu các cuộc biểu t́nh, v́ họ nghĩ rằng các toán công an sẽ nương tay hay không đàn áp. Nông dân dùng kềm búa, gậy gộc, chĩa ba,.. xâm nhập vào các văn pḥng của nhà nước địa phương đập phá và gây thương tích nhân viên. Nông dân chiếm các Xô Viết trong vài giờ hay trong vài ngày. Họ đứng ra giải quyết một số vấn đề hằng ngày cho dân chúng trong vùng. Họ lập hồ sơ khiếu nại đ̣i lại các dụng cụ canh tác, gia súc,..của quần chúng đă bị trưng dụng trước đây. Quần chúng làm đơn đ̣i giải tác các nông trường, các hợp tác xă, đ̣i cho bán bán tự do và đ̣i trả tự do cho những người bị nhà nước cộng sản bắt giam . Họ đ̣i hủy bỏ chính quyền Bônsêvich và đ̣i lại độc lập cho Ukraine.
    Các cuộc chống đối của nông dân trong tháng ba và tháng tư đă làm đảo lộn chương tŕnh tập thể hoá của nhà nước. Nhưng nông dân chỉ thành công trong một khoảng thời gian rất ngắn. Điểm khác biệt với các cuộc nổi loạn của những năm 1920-1921 là lần này nông dân không có một cơ quan lănh đạo thực thụ để hướng dẫn các cuộc chống đối thống nhất, đồng bộ và liên kết. V́ nông dân thiếu tổ chức nên lực lượng chính phủ đàn áp họ dễ dàng. Các lănh tụ nổi tiếng của nông dân bị giết ngay trong các cuộc nổi loạn đầu tiên. Có đến 15.000 nông dân bị chính quyền bắt trong tháng ba năm 1930 tại vùng phía Tây Ukraine. Các toán công an địa phương bắt giam 26000 người và đem đi hành quyết 650 người trong nửa đầu tháng ba. Toà án đặc biệt kết án tử h́nh 20.200 người.
    Theo chỉ thị số 44/21 của G. Iagod, các toán công an bắt 60.000 người và xếp họ vào hạng 1 . Các bản phúc tŕnh hằng ngày của các toán công an địa phương gởi về cho Iagod cho thấy lịnh lùng bắt thi hành tốt đẹp. Bản phúc tŕnh đầu tiên đề ngày 6 tháng hai, báo cáo bắt giam 15.985 người. Ngày 9 bắt thêm 25.245 người. Bản phúc tŕnh mật đề ngày 15 ghi rơ đă thanh toán xong 64.589 ngừơi trong đó có 51.166 thuộc hạng 1 .
    Thừa cơ hội này, các toán công an thẳng tay quét sạch các phần tử xa lạ với xă hội chủ nghĩa. Đó là các cựu cảnh sát của chế độ cũ, các sĩ quan Bạch quân, các nhà lănh đạo tôn giáo, các thương gia, trí thức,..
    Trong bản phúc tŕnh đề ngày 15 tháng 2 năm 1930, Iagod viết : Các vùng Tây Bắc và thành phố Leningrad không hiểu hay không chịu hiểu chỉ thị của chúng ta. Chúng ta bắt họ phải hiểu. Chúng ta c̣n có nhiều th́ giờ để thanh toán các Linh Mục và các thương gia. Ngày nay trước mắt, chúng ta phải nhắm đúng vào mục tiêu là đánh vào các nông dân phản cách mạng.
    Cho đến giờ này chưa ai biết chính xác con số nạn nhân của chiến dịch Thanh toán cường hào địa chủ hạng 1 . Đó là các nông dân bị đày vào các trại lao động cưỡng bách chung thân. Mùa hè 1930, chính quyền cộng sản địa phương cho thành lập các trại lao động khổ sai . Toàn bộ các trại cũ ở Solovski được dùng lại cộng thêm một số trại mới dọc theo bờ Bạch hải , vùng Carelie và mở rộng đến Arkhangelsk. Ở phía Bắc, 40.000 tù nhân xây con đường Kem-Oukhta và khai thác gỗ xuất cảng tại bến tàu Arkhangelsk. 40.000 tù nhân khác xây dưng đường xe lửa dài 300 cây số chạy qua Oust, Sysolsk và Piniong. Một con đường xe lửa khác dài 290 cây số nối liền Oust , Sysolsk với Oukhta.
    Trong ṿng một năm rưỡi, từ cuối năm 1928 đến mùa hè 1930, con số tù nhân bị đưa đi lao động khổ sai tăng lên 3,5, tức là từ 40.000 lên đến 140.000. Kết quả của chính sách cưỡng bách lao động của tù nhân đă khuyến khích chính quyền cộng sản mở thêm các trung tâm cải tạo lao động khác. Tháng 6 năm 1930, chính quyền quyết định cho đào con kinh dài 240 cây số từ biển Baltiques qua vùng Bạch Hải. Phần lớn của con kinh phải đào qua vùng đá hoa cương. V́ thiếu phương tiện kỹ thuật cơ giới, nên nhà nước đă tung vào dự án này 120.000 tù nhân. Nhờ vào chính sách giải thể chế độ điền chủ vào mùa hè 1930 nên mới có đủ con số nông dân bị bắt lao động, cung cấp cho dự án đào kinh. Họ làm việc với các dụng cụ thô sơ như cuốc , xẽng, xe cút kít,..
    Trên thực tế, con số nông dân giải thể lên đến 700.000 người vào cuối năm 1930. Chính quyền không đủ nhân viên quản lư. T́nh h́nh trở nên hỗn loạn khi nhà nước mở chiến dịch bắt nông dân hạng 2 và hạng 3 . Họ bị bắt đưa đi lưu đày và bỏ quên ở đó. Nếu xét về mặt kinh tế, quả là con số không cho nhà nước. Chính quyền dự tính giải thể nông dân, khai thác sức lao động của tù nhân trong các vùng hoang dại phong phú tài nguyên, nhưng cuối cùng chẳng được ǵ cả.
    Vào các tuần lễ đầu tháng 2 năm 1930, Bộ chính trị Trung ương cộng sản chấp thuận kế hoạch khởi đầu chiến dịch lưu đày nông dân cấp hai. Đợt đầu tiên hoàn tất cuối tháng tư. 45.000 gia đ́nh đưa đi miền Bắc và 15.000 gia đ́nh đến vùng Oural.
    Ngày 16 tháng hai, Lenine gởi điện văn khiển trách Eikke, bí thư thứ nhất của Ủy ban nhân dân vùng Tây Siberie v́ lư do vùng này chưa sẵn sàng để tiếp nhận 15.000 gia đ́nh đến định cư.
    Trong thư trả lời, Eikke biện minh v́ số tiền dự tính chi tiêu để tiếp nhận định cư 40 triệu Rúp, cho đến nay ông ta chưa nhận được.
    Sự kiện trên cho thấy nhà nước tổ chức không ăn khớp với nhau. Nông dân bị bắt và bị nhốt khắp nơi. Họ bị nhốt tại các trại lính cũ, tại văn pḥng Xô Viết, tại nhà ga,..Do vậy có rất nhiều người trốn thoát. Công an dự tính chuyển đợt đầu phải cần đến 240 đ̣an xe lửa. Mỗi đoàn gồm có 150 toa trong đó có 44 toa dùng để chở súc vật, nay trưng dụng chở người, 8 toa chở lương thực và một ít dụng cụ riêng tư được phép mang theo và một toa chở lính hộ tống. Mỗi gia đ́nh được phép đem theo không quá 480 kg.
    Giữa mùa Đông, đoàn xe dừng lại chờ lịnh trên để biết là phải chở các gia đ́nh này đến nơi nào. Họ sống chật vật trên các toa xe lửa trong cái lạnh cắt da của mùa đông ở nước Nga. V́ thiếu vệ sinh và phải sống chật vật trong các toa xe nên bịnh truyền nhiễm phát sinh. Không biết bao nhiêu người chết trên con đường đi lưu đày.
    Khi đoàn xe đến nơi quy định, công an tách rời những người đàn ông c̣n khỏe mạnh ra khỏi gia đ́nh của họ, cho tập trung vào các cḥi lá xây cất vội vàng. Sau đó họ bị dẫn đi sâu vào trong các cánh rừng để khẫn hoang. Mùa hè, họ đi bộ hay đi bằng những chiếc xe , thay phiên nhau đẫy. Mùa đông họ đi bằng xe trượt tuyết. Nông dân hạng ba cũng cùng chung số phân với nông dân hạng hai. Nhưng vào chặng cuối, nông dân hạng ba được đưa vào vùng nội địa, vùng đất quen thuộc của họ. Họ coi đó như là một ân huệ. Các vùng này ở Siberie, Oural rộng bao la, hàng trăm ngàn cây số vuông.
    Trong bản phúc tŕnh đề ngày 7 tháng ba năm 1930 chính quyền địa phương Tomsk thuộc vùng Tây Siberie có đề cập đến toán nông dân hạng ba. Họ đến không có xe trượt tuyết, cũng không có ngựa. Thật ra nông dân hạng ba c̣n có quyền giữ gia súc của ḿnh. Nhưng những con ngựa khỏe mạnh của họ bị công an đổi các con ngựa yếu đuối, không thể nào c̣n sống sau đoạn đường dài 300 cây số. V́ không có ngựa cũng như không có xe trượt tuyết nên họ không thể mang theo nhiều lương thực và dụng cụ canh tác mặc dù họ được quyền đem theo.
    Ủy ban nhân dân vùng Siberie cũng gởi bản phúc tŕnh có nội dung như bản phúc tŕnh trên. Bản phúc tŕnh tŕnh bày sự phi lư và không thể thực hiện công tác định cư của 4921 gia đ́nh nông dân hạng ba tại một vùng thuộc tỉnh Novossibizsk. Bản phúc tŕnh ghi nhận : Việc chuyển vận trên con đường tồi tệ dài 370 cây số với số lượng thực phẩm 8560 kg, cùng với rơm rạ cho ngựa ăn, kéo dài trong hai tháng, phải cần đến 280909 con ngựa và 7227 ngân viên chăm sóc ngựa. Một khi hoàn tất kế hoạch chuyển người, chắc chắn sẽ làm chậm trễ vụ mùa v́ các con ngựa sau chặng đường dài , không c̣n đủ sức để kéo cày. Cho nên phải xét lại kế hoạch và giảm bớt lương thực đem theo .
    Và như vậy, các gia đ́nh nông dân sẽ không có đủ lương thực để sinh sống, không đủ dụng cụ để canh tác và khi đến nơi , họ không có nơi cư trú. Họ bị bắt buộc định cư với những cái không này.
    Tháng 9 năm 1930, Ủy ban nhân dân vùng Arkhangelsk cho biết chỉ có thể xây 7 căn trại trong số 1641 trại như đă dự tính. Gia đ́nh nào may mắn c̣n mang được theo các dụng cụ canh tác, họ đào lỗ, chặt cây phủ lên và chun vào đó sống qua mùa đông. Họ sống trong các cánh đồng cỏ hay ven bờ rừng. Một số người đưa đi canh tác ăn và ở tại các khu làm việc.
    Chính sách giải thể chế độ điền chủ và cưỡng bách canh tác tập thể trong những năm 1930-1931 đă chính thức đưa lưu đày 1.803.392 người. Biết bao nhiêu người chết trong các vùng kinh tế mới . Trong văn khố của tỉnh Novossibizsk c̣n lưu trự một bản phúc tŕnh rất quan trọng, gởi cho Staline vào tháng ba năm 1930. Bản phúc tŕnh do Ủy viên tuyên huấn đảng bộ Narym báo cáo. Ông tŕnh bày số phận của hai đoàn xe và người xuất phát từ Mạc Tư Khoa và từ St. Petersboug. Hai đoàn khởi hành trễ hơn dự tính. Họ không thuộc hạng nào cả. Họ là những người bị loại ra khỏi xă hội của cộng sản vào cuối năm 1932. Đó là thành phần đưa đi lưu đày và vứt bỏ luôn. Một đoạn kinh hoàng của bản phúc tŕnh ghi lại như sau : Ngày 29 và 30 tháng tư năm 1933, hai đoàn người bị xếp vào loại ngoại hạng, bị tống ra khỏi Mạc Tư Khoa và St. Peterbourg bằng xe lửa. Khi đến thành phố Tomsk, một toán 5070 người bị đưa xuống tàu để chuyển ra đảo Nazino vào ngày 18 tháng 5 và toán sau 1044 người đến ngày 26 tháng 5. Đảo Nazino nằm giữa cửa sông Ob và Nazina. Phương tiện chuyên chở thật kinh hoàng. Thức ăn thiếu thốn, không có chỗ chen chân, thiếu không khí. Người già và người bịnh , không chịu nổi. Hằng ngày con số người chết từ 35 đến 40. Tuy vậy, họ cho rằng vẫn c̣n sướng hơn khi đến đảo Nazino. Tại đảo, họ bị chia ra từng toán nhỏ, đưa đi định cư ở những vùng hẻo lánh ven sông Nazina. Nazino là hoang đảo hoang, không có dấu vết của sự sống. Họ đến, không đem theo hạt giống, không dụng cụ canh tác, và cũng không có lương thực để sinh sống qua ngày. Với điều kiện đó, họ bắt đầu một cuộc sống mới. Ngày hôm sau , trời băo tuyết. Vừa không có thức ăn, vừa không có chổ che thân, họ sống trong t́nh trạng tuyệt vọng. Họ t́m cách nhúm lửa ngồi hơ ấm. Qua đến ngày thứ tư, thứ năm, chính quyền mới cho tàu đem bột ḿ đến chia cho họ, mỗi người vài trăm gram. Họ dùng áo, nón đựng bột rồi chạy ra ngoài sông lấy nước trộn bột. Một vài người đói quá, ăn vội bột sống, nghẹt thở chết tại chỗ. Bột ḿ là lương thực duy nhất mà họ thỉnh thoảng nhận được của nhà nước. Số lượng bột chẳng bao lâu khô cạn. V́ đói, t́nh trạng người ăn thịt người đă diễn ra.
    Cuối tháng 6, nhà nước chuyển ho đến các làng khai hoang, cách đảo Nazino chừng 200 cây số. Làng khai hoang nằm về phía thượng lưu sông Nazina, giữa cánh rừng bao la Taiga. Đó là một vùng hoang dă. Công việc đầu tiên của họ là xây ḷ nướng bánh ḿ. Cái cảnh túng quẫn ngồi quanh bếp lửa lại diễn ra. Ở đây cứ 4 ngày, tù nhân được phân phối bột ḿ. Người chết vẫn tiếp tục xảy ra hằng ngày. Sau đó, v́ không thể tiếp tục sống ở khu vực này, nhà nước chuyển họ về phía hạ lưu sông Nazina.
    Trung tuần tháng 7, nhà nước phát dụng cụ xây cất doanh trại cho những người c̣n sống sót. Họ xây cất đơn sơ. Một phần chiều cao của trại nằm sâu dưới đất. Mặc dù cuộc sống tương đối khá hơn trước nhưng t́nh trạng ăn thịt người vẫn c̣n diễn ra.Họ bắt đầu canh tác. Sức khỏe của họ vẫn c̣n yếu. Người tiếp tục chết. Lúc khởi hành ra đi ở sân ga Tomsk hồi tháng 4 với con số 6100 người, thêm vào đó chừng 500 đến 700 dân địa phương hay ở những vùng khác đưa tới, đến tháng 8, chỉ c̣n sống sót có 2200 người.
    Nhiều vùng trên đất Nga xảy ra các cảnh tương tự như ở trên đảo Nazino.
    Bao nhiêu người bị lưu đày? Và bao người đă bỏ thây?
    Từ tháng 2 năm 1931 có chừng 1.800.000 nông dân bị cướp đoạt ruộng đất và bị lưu đày. Đến tháng giêng năm 1932, khi nhà nước kiểm kê lại, th́ chỉ c̣n có 1.317.022 người c̣n sống sót. Như vậy, con số người chết lên đến nửa triệu, tỉ lệ 30%. Thật ra trong số nửa triệu đó cũng có một số trốn thoát. Trong năm 1932, các toán công an địa phương kiểm tra thường xuyên những người c̣n sống sót. Công an chịu trách nhiệm chuyển từ nơi xuất phát và tiếp nhận tại các nơi đînh cư. Các cuộc điều tra của công an cho biết có tất cả 210.000 người trốn trại và có 90.000 chết. Trong năm 1933 xảy ra nạn đói lớn làm chết 151.000 người, trong trên tổng số 1.420.000 đi vùng kinh tế cưỡng bách. Tỉ lệ người chết là 6,8% trong năm 1932 và 13,2% trong năm 1933. Trước đó, con số người chết chỉ được kiểm kê từng vùng. Nhưng tỉ lệ người chết không ít. Trong năm 1931, ở Kazakhtan có 1,3% người chết. Ở vùng Siberie con số chết tăng lên mỗi tháng 0,8%. Trẻ em chiếm từ 8% đến 12%. Tại vùng Magnitogorsk, 15%.
    Tổng cộng trong 3 năm, con số người chết trong các vùng lao động cưỡng bách khổ sai là 300.000.
    Đối với chính quyền trung ương, kế hoạch thu lợi sức lao động của những người mà họ gọi là lưu đày đặc biệt mà qua năm 1932 họ đổi lại là những người lao động khai hoang , là chính sách đem con bỏ chợ. Chính quyền trung ương thờ ơ, nhân viên thuộc cấp làm việc lấy lệ. Ông N. Pouzitski, một trong những nhân viên đặc trách định cư người lưu đày nhận định rằng đó là một sự thờ ơ chết người , chỉ v́ chính quyền địa phương không ư thức ǵ về chính trị và không am tường khả năng khai hoang của những người lưu đày.
    Tháng 3 năm 1931, chính quyền thành lập một ủy ban đặc biệt dưới quyền lănh đạo của V. Andreiev và Iagoda, nhằm chận đứng sự phung phí nhân lực của những người lưu đày. Ủy ban chịu trách nhiệm trực tiếp với Bộ chính trị trung ương của đảng cộng sản Nga. Nhiệm vụ của ủy ban là quản lư hữu hiệu và hợp lư con số nhân công lao động khổ sai. Qua các cuộc điều tra sơ khởi, ủy ban nhận định năng suất lao động của lớp nhân công lưu đày chỉ là con số không. Chỉ có 8% trong số 300.000 người trong vùng Oural được chỉ định đi khai thác gỗ va đi lao động sản xuất. C̣n số người khỏe mạnh khác đi làm các công tác xây cất nhà ở hay làm các công việc khác cho có lệ. Một tài liệu khác cũng xác nhận chính sách giải thể nông nghiệp cá thể đă làm cho nhà nước thất thu rất nhiều. Giá trị trung b́nh tài sản tịch thu của nông dân vào năm 1930 chỉ tương đương với một số tiền là 564 Rúp cho mỗi cơ sở sản xuất. Đó là con số quá nhỏ, chỉ bằng nửa tháng lương của người thợ. Nhưng đối với nông dân lưu đày, số tiền này tương đối dễ chịu.
    Để có thể quản lư nhân công lao động hợp lư, Ủy ban đặc biệt tái tổ chức cơ cấu hành chánh. Vào mùa hè năm 1931, công an đứng ra chịu trách nhiệm quản lư hành chánh. Trước đó, công việc này trực thuộc chính quyền địa phương. Ủy ban cũng thành lập một cơ quan hành động và một cơ quan t́nh báo. Các cơ quan này được hưởng quyền bất khả xâm phạm và chịu trách nhiệm kiểm soát một vùng đất bao la và một số người khai hoang đông đảo. Ủy ban cho ban hành quy chế kiểm soát chặt chẽ. Họ chỉ định nơi định cư và phân phối công tác lao động ở các nông trường, xí nghiệp , hợp tác xă, công trường xây dựng, cơ sở bảo tŕ hay tu bổ và các trục lộ giao thông. Nhân công lưu đày làm việc theo chỉ tiêu lao động và được hưởng quy chế lương bỗng đặc biệt. Thường, chỉ tiêu này bằng 30% hay 40% so với nhân công b́nh thường. Cơ quan công an giữ lại 15% hay 20% tiền lương của nhân công để làm quỹ cho cơ quan.

    Tháng 3 năm 1933, tại vùng Tây Bá Lợi Á, chính quyền bắt đầu tái tổ chức lực lượng nhân công. Họ chia 203.000 nhân công ra làm 83 hệ thống chỉ huy dưới sự quản lư của 971 nhân viên nhà nước. Khi các xí nghiệp nhận nhân công, họ phải trả tiền cho cơ quan quản lư. Ngoài ra cơ quan quản lư c̣n ăn tiền theo tỉ lệ bách phân trên tiền lương của nhân công lao động cưỡng bách.
    Trên nguyên tắc, các công ty phải lo nơi ăn chốn ngủ cho công nhân lao động. Nhưng trên thực tế, các công ty coi thường . Họ đánh giá những người này chỉ là một nửa nhân công tự do và một nửa là miễn phí. Đúng là một nguồn nhân lực miễn phí. Thường các nhân công này không được lănh tiền. Và nếu có lănh, th́ chỉ lănh một ít. Số c̣n lại, bị khấu trừ vào tiền ăn, tiền cư trú, tiền sắm sửa các dụng cụ lao động, tiền quỹ nghiệp đoàn, tiền công khố phiếu nhà nước.
    Những người lao động khổ sai bị đối xử như những người vứt bỏ, phế thải. Họ thường bị bỏ đói, hành hạ, lạm dụng và khinh rẻ. Họ phải lao động với một chỉ tiêu vượt mức khả năng, làm việc không trả lương, bị đánh đập và bị nhốt trong các pḥng tối không có ḷ sưởi. Các ban quản lư có quyền trao đổi công nhân lao động khổ sai với nhau , hay trao đổi họ với hàng hóa. Một số ban giám đóc trại xử dụng công nhân phục vụ cho công việc riêng tư của họ. Nếu có công nhân nào chết th́ sẽ có các công nhân khác thế vào.
    Từ năm 1932, chương tŕnh định cư tại các vùng hoang dă giảm dần. Chính quyền đưa nhân công lao động cưỡng bách vào làm việc tại các đại công trường xây cất và các trung tâm kỹ nghệ , các khu hầm mỏ. Tại một số địa phương, công nhân lao động cưỡng bách làm việc chung với công nhân thường. Họ sống chung với nhau trong các căn nhà gỗ chật hẹp.
    Cuối năm 1933, có 41.000 nhân công lao động cưỡng bách phục vụ trong công trường hầm mỏ Kouzbass.
    Tại vùng Magnitogorsk, con số công nhân lưu đày lên đến 42462 người, chiếm 2/3 dân số trong vùng.
    Nhờ định cư trong các vùng đặc biệt và cũng nhờ làm việc chung với các công nhân b́nh thường, công nhân lưu đày cảm thấy giảm đi sự cách biệt. Và nhất là v́ lư do kinh tế, các nông dân trước đây bị giải thể , ngày nay bắt đầu hội nhập vào đời sống xă hội mới. Cái xă hội mà họ đă từng chịu đựng quá nhiều trừng phạt .
    Và ai biết được, người nào trong cái xă hội này sẽ bị khai trừ trong ngày mai.

  3. #13
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 8


    NẠN ĐÓI


    Một trong những vết đen trong lịch sử của Xô-Viết mà ai cũng biết đến đó là nạn đói lớn trong những năm 1932-1933. Ngày hôm nay với các văn khố vừa được cho dân chúng tham khảo, cho người ta biết có đến 6 triệu người chết v́ đói trong hai năm đó. Đây là con số không có ai có thể chối căi được.
    Thảm cảnh của nạn đói này không giống như những năm đói đă xảy ra trước đây theo chu kỳ của nền nông nghiệp dưới thời Nga Ḥang.
    Nạn đói lớn của năm 1932-1933 là hậu quả trực tiếp của phương pháp khai thác nông dân theo kiểu phong kiến quân sự , sáng kiến của một lănh tụ Bôn-sơ-vích chống Stalin, tên la Nikolai Boukharine. Phương pháp khai thác này được áp dụng khi thi hành chính sách cưỡng bách tập thể hóa. Kết quả của chính sách đă dẫn đến sự suy thóai trầm trọng đời sống xă hội.
    Điểm khác biệt với các nạn đói xảy ra vào những năm 1921-1922 là vào những năm đói này nhà nước Xô-Viết kêu gọi quốc tế trợ gíup. Nhưng nạn đói của những năm 1932-1933, Liên Xô muốn che dấu sự thất bại của ḿnh, không cho thế giới bên ng̣ai biết chỉ v́ nhu cầu tuyên truyền cái tốt của chủ nghĩa cộng sản.
    Nhiều quan sát viên ngọai quốc đă bị lường gạt khi họ đến thăm Liên Bang Xô Viết. Vào mùa hè năm 1933, Thượng nghị sĩ kiêm chủ tịch đảng cấp tiếng Pháp ông Edouard Herriot được mời đến viếng vùng Ukraine , đă tuyên bố : Tôi thấy các vườn rau của các hợp tác xă nông nghiệp được chăm sóc và hệ thống tưới nước rất đáng khen. Các vụ mùa thu họach rất khả quan . Ông kết thúc chuyến tham quan bằng câu nói quyết định : Tôi đă đi khắp suốt vùng Ukraine. Điều mà tôi thấy là cả vùng này đang ở trong thời kỳ sản xuất..
    Cái nh́n mù quáng này là kết quả của một vụ dàn cảnh dưới tài đạo diễn của công an. Cơ quan này mời các quan sát viên ngoại quốc đến và hướng dẫn họ đi thăm các hợp tác xă nông nghiệp đă được chuẩn bị trước. Công an cũng dẫn các nhà quan sát quốc tế đến các vườn trẻ kiểu mẫu.
    V́ nhu cầu chính trị của đảng ḿnh và nhất là v́ muốn thỏa hiệp với Liên Xô để quân b́nh hóa lực lượng quân sự ở Âu Châu trước mối đe dọa của Đức Quốc Xă, nên các nghị sĩ Pháp mới thóat ra những nhận định mù quáng trên.
    Nhưng cũng có một số chính khách khác biết rơ những ǵ đă xảy ra ở Liên Xô vào những năm 1932-1933. Đó là những chính khách cao cấp của Đức và Ư. Các bản phúc tŕnh của các ṭa sứ quán Ư tại các vùng Karkhov, Odessa và Novorosski mà sử gia người Ư, ông Andrea Graziosi gần đây đă cho đăng tăi trên một tờ nguyệt san cho biết Thủ Tướng Mussolini đă đọc và biết rất rơ t́nh h́nh của nạn đói ở Liên Xô. Nhưng Mussolini không bao giờ dùng các sự kiện này để chống lại cộng sản.
    Trái lai, vào mùa hè năm 1933 hai nước Ư và LiênXô đă kư hiệp ước thương mai và hiệp ước bất tương xâm. V́ quyền lợi của Ư, các nhà lănh tụ nước này đă làm lơ trước nạn đói của Xô Viết.
    Năm 1949 Kravchenko viết một quyển sách với tựa đề Tôi chọn tự do , trong đó ông mô tả nạn đói năm 19232-1933 đă làm hoang mang dư luận thế giới. Ông bị coi như là phần tử xuyên tạc chế độ cộng sản. Nhưng từ năm 1985 các công tŕnh nghiên cưú của các sử gia Tây phương cũng như của Xô Viết cho thấy những ǵ trong quyền sách Tôi chọn tự do là sự thật. Cũng đă có một số tài liệu do các người Ukraine tị nạn cung cấp nhưng vẫn c̣n rất ít, và rất ít người biết đến.
    Nguyên nhân của nạn đói này là do mối tương quan mới giữa nhà nước Xô Viết và cộng đồng khối nông dân sản xuất, phát xuất từ chính sách cưỡng bách tập thể diễn ra ở nông thôn.
    Tại các vùng này, sự tập thể hóa đă h́nh thành và các hợp tác xă nông nghiệp giữ một vai tṛ quyết định. Hợp tác xă phải cung cấp một số lượng nông sản nhất định và thường xuyên cho nhà nước. Vào những ngày mùa Thu khi vụ mùa gặt hái bắt đầu, hợp tác xă mở chiến dịch thu mua cưỡng bách. Đó là những thời điểm đấu sức giữa chính quyền và tập thể nông dân sản xuất. Những người nông dân muốn giữ phần nông phẩm của họ để họ có thể sống qua mùa đông, chờ vụ mùa năm tới. Đối với nhà nước, việc thu mua nông sản quyết định sự sống c̣n của chế độ. Ở những vùng càng ph́ nhiêu, càng bị thu mua gắt gao bây nhiêu.
    Vào năm 1930 chính quyền Xô Viết ấn định thu mua 30% tổng số thu hoạch vùng Ukraine ; 38% ở các vùng ph́ nhiêu Kouban và vùng bắc Caucase; 33% tại các vùng Kazakhstan.
    Qua năm 1931, các vụ mùa thu hoạch ít hơn nhưng nhà nước Xô Viết gia tăng số lượng thu mua. Tại Ukraine từ 30% tăng lên 41,5%. Vùng Bắc Caucase và Kouban từ 38% tăng lên 47%. Vùng Kazakhstan từ 33% tăng lên 39,5%. V́ số lượng nông phẩm bị tịch thu quá nhiều nên đă gây ảnh hưởng đến chu tŕnh canh tác tại các vùng này.
    Với kế hoạch trưng thu cưỡng bách này, nông dân chỉ có quyền bán ra thị trường từ 15% đến 20% sản phẩm. Họ chỉ để lại từ 12% đến 15% làm hạt giống cho vụ mùa năm sau. Họ phải trích ra 25% đến 30% để nuôi gia súc. Số c̣n lại họ mới được làm thưc phẩm riêng để sinh sống chờ vụ mùa năm tới. Về phía nông dân phải t́m cách cất giữ các sản phẩm nông nghiệp cho các nhu cầu thiết yếu của họ. Mặt khác, chính quyền t́m cách trưng thu càng nhiều càng tốt để cung cấp cho các chương tŕnh được coi là chẳng thực tế tí nào.
    Qua năm 1932, thuế đóng góp nông phẩm lại gia tăng hơm 32% kế họach thu mua cưỡng bách của năm 1931. V́ vậy các cuộc đụng độ giữa nông dân và nhân viên thu mua của nhà nước càng trở nên ác liệt.
    Ban đầu việc thu mua diễn ra chậm chạp. Khi đến vụ mùa, các nhân viên trong hợp tác xă nông nghiệp, là những nông dân gia nhập vào hợp tác xă, t́m cách đem các nông phẩm đi dấu. Hoặc ban đêm họ đi ăn cắp các phần vừa mới thu hoạch. Họ thông đồng với các thành viên khác trong hợp tác xă, thông đồng với đội trưởng, với kế tóan viên, với bí thư địa phương. Để chống lại sự thất thóat này, Trung Ương đă phải cừ các tóan xung phong xuống tận địa phương, tận các hợp tác xă. Tóan xung phong gồm những đảng viên trung kiên của đảng cộng sản ở các thành phố.
    T́nh trạng căng thẳng ở những vùng nông thôn lúc bấy giờ đă được một ủy viên chính trị đi công tác huấn luyện chính trị cho các Ủy Ban Hành Chành địa phương ở vùng hạ lưu sông Volga, một vùng sản xuất nông phẩm, gởi về trung ương với chi tiết như sau :
    Nhiều thành phần khác nhau đă thi hành các vụ bắt giam và lục sóat . Như các thành viên của uỷ ban hành chánh xă, thành viên của đội xung phong, và các thành phần đặc phái khác. Năm nay đă có 12% nông dân bị đưa ra ṭa án nhân dân, không kể những nhân viên trong hợp tác xă đă bị đưa đi lưu đày và một số nông dân bị phạt tiền. Theo ước tính của chủ tịch ṭa án nhân dân vùng này có chừng 15% là nạn nhân của các vụ truy lùng này. Nếu tính chung con số 800 người tham gia hay nhân viên sản xuất bị khai trừ ra khỏi hợp tác xă th́ chúng ta có thể ước lượng được hậu quả của các cuộc đàn áp. Nếu chúng ta không lưu tâm đến sự cần thiết của các cuộc đàn áp v́ t́nh h́nh, chúng ta phải nhận ra rằng các cuộc đàn áp đă không giảm bớt đi . Khi đến một mức nào đó, chúng ta khó mà chận đứng lại được. Các trại tù không c̣n chổ để giam người nữa. Số tù nhân của nhà tù Balachevo đă gia tăng gấp 5 trên con số dự định. Tại vùng Elan, mộ nhà tù thật nhỏ đă phải chứa 610 người. Trong tháng qua, nhà tù Balachevo đă chuyển qua Elan 78 tù nhân đă bị kết án.Trong số này có 48 tù nhân dưới 10 tuổi. 21 tù nhân được phóng thích tại chỗ. Với t́nh trạng quá đông tù nhân này, cai tù chỉ có thề dùng vỏ lực để quăn lư. Hai mệnh lệnh được thi hành ở đây là : Gieo hạt và sản xuất. Cho đến ngày nay công việc của chúng ta làm là chuyển hướng họ để thi hành hai hai mệnh lệnh trên. Thí dụ điển h́nh sau đây cho thấy mức độ khủng bố đối với nông dân. Tại Morsy, mỗi nông dân phải đóng 100% số nông sản. Một nông dân đă đến gặp đồng chí Formitchev bí thư xă, xin t́nh nguyện đi lưu đày chớ không thể nào sống được trong t́nh trạng thuế má như vậy. Một bằng cớ khác là một thỉnh nguyện thư của 16 người của hợp tác xă Alexandrov cũng t́nh nguyện xin đi lưu đày. Nói tóm lại, chính sách lao động tập thể đă trở thành chiến dịch đột kích ăn cắp hạt giống, gia súc, dụng cụ sản xuất. Người ta đột kích lao động. Không có việc ǵ mà người ta không đột kích. Họ bao vây từ 9 hoặc 10 ǵơ tối cho đến khi rạng đông. Các cuộc đột kích đă diễn ra như sau: Các đội phục kích đóng quân tại một căn nhà gỗ dùng làm pḥng làm việc. Họ cho người đi đến các nhà nông dân và ra lệnh từng người đến văn pḥng chấp vấn. Họ thuyết phục và ra lệnh nông dân phải thi hành chỉ thị nộp nông phẩm. Họ chấp vấn liên tục, lập đi lập lại suốt đêm .
    Vào thời điểm căng thẳng nhất của cuộc xung đột giữa nhà nước và nông dân, một đạo luật kỳ lạ đă được nhà nước cho ban hành vào ngày 7 tháng 8 năm 1932. Đạo luật này đóng vai tṛ quyết định. Theo đạo luật này, bất kỳ người nào ăn cắp hay biển thủ tài sản của Xă hội chủ nghĩa đều bị xử án 10 năm tu hay bị hành quyết. Dân chúng gọi đạo luật này là đạo luật hột lúa . Bởi v́ những người bị kết án là những người nông dân đang làm việc trên cánh đồng, ăn cắp vài hột lúa ḿ của hợp tác xă.
    Với đạo luật tàn ác này, chính quyền đă kết án 125000 người bị xử án 10 năm và kết án tử h́nh 5400 người trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1932 đến tháng chạp năm 1933.
    Mặc dù cho thi hành các biện pháp gắt gao nhưng số lúa thu họach hay bị cưỡng bách thu mua chẳng đạt được bao nhiêu. Đến tháng 10 năm 1932 kế hoạch thu mua tại các vùng sản xuất nông phẩm chính cũng chỉ được từ 15% đến 20%. V́ số lượng thu mua quá ít, Bộ chính trị đảng cộng sản Nga quyết định gởi hai phái đ̣an đặc biệt về hai vùng Ukraine và Caucase để đẫy mạnh công tác thu mua nông phẩm. Hai phái đoàn này do hai đảng viên cộng sản trung thành Viacheslav Molotov và Lazare Kaganovitch lănh đạo.
    Ngày 2 tháng 11 năm 1932 phái đ̣an Kazanovitch cùng với phụ tá Genrik Iagoda đến tỉnh Rostov trên sông Don. Bí thư đảng của các vùng thuộc Bắc Caucase đều có mặt trong phiên họp và cùng biểu quyết : V́ lư do thất bại trong chiến dịch thu mua lương phẩm , nay bắt buộc các cơ sở đảng địa phương phải bẽ găy các âm mưu phá hoại do các phần tử phản cách mạng trong các hợp tác xă, những đảng viên có tinh thần chống đối chủ trương, các tổ trưởng của các hợp tác xă đă tham gia vào các hoạt động phá hoại.
    Một số biện pháp sẽ được đem ra thi hành ,như : thâu hồi tất cả sản phẩm, nông sản hiện tại tồn kho; Các dịch vụ mua bán phải thanh toán ngay các tiền nợ; Phải đóng các thuế đặc biệt; Bắt giam tất cả những người lạ mặt, những người phản cách mạng, những kẻ phá hoại; Áp dụng thủ tục khẩn cấp dưới quyền giám sát của các toán xung kích. Nếu bị truy tố v́ tội phá hoại th́ tập thể dân chúng trong vùng sẽ bị đưa đi lưu đày.
    Tháng 11 năm 1932 là tháng đầu tiên áp dụng biện pháp chống phá hoại. 5000 đảng viên ở các vùng nông thôn bi truy tố trước toà án nhân dân về tội đă dễ dăi đối với các phần tử phá hoại ở nông thôn, lơ là trong công tác thu mua. Tại vùng Bắc Caucase , vùng sản xuất nhiều nông phẩm mang tính chiến lược, đă có 15000 nhân công của các hợp tác xă nông nghiệp bị bắt giam. Qua đến tháng chạp , chiến dịch đưa đi lưu đày lan tràn khắp nơi. Khởi đầu dân của vùng Cosaque. Hồi năm 1920 dân của vùng này cũng đă bị đàn áp nặng nề. Rồi đến những công nhân của các hợp tác xă. Chiến dịch mà họ gọi là đi khẫn hoang ở các vùng kinh tế mới đă lưu đày không biết bao nhiêu người ǵa, trẻ, trai, gái,.. Trong năm 1932 đă có 71236 người bi bắt đi. Đến năm 1933 con số này lên đến 268091.
    Ở vùng Ukraine , phái đoàn do Molotov cầm đầu cũng đă thi hành các biện pháp tương tự. Molotov cho ghi vào sổ đen tên các vùng không thu mua đúng chỉ tiêu. Ông ra lịnh thanh trừng và sa thải ra khỏi các đảng viên cộng sản không tích cực trong công tác thu mua. Bắt giam tất cả công nhân hợp tác xă kể cả các chủ tịch nếu có báo cáo đă làm giảm thiểu số lượng thực phẩm thu mua. Chẳng bao lâu, biện pháp này cũng được đem ra áp dụng trên khắp khu vực nông thôn sản xuất.
    Với biện pháp này, nhà nước có thể thắng được toàn khối nông dân sản xuất hay không ?
    Trong bản phúc tŕnh của viên lănh sự Ư ở tỉnh Novorossijk đă ghi rất rơ là không. Mặc dù lực lượng của chính quyền rất hùng hậu nhưng không đàn áp được ư chí chống lại của tập thể nông dân.Nông dân chia ra thành các toán nhỏ chống lại lực lượng của nhà nước. Dần dần lực lượng Xô Viết kiệt sức. Họ phải răi quân khắp nơi. Nơi này có cánh đồng lúa chưa chín. Nơi khác có vài tạ lúa cất giấu và được phát giác; chổ kia có chiếc máy cày không được sử dụng; Một máy cày khác bị phá hư và một chiếc th́ chạy rong chơi chớ không phải đang làm công tác,...Rồi họ nhận ra một kho nông phẩm bị đánh cắp. Sổ sách của các hợp tác xă không ghi đúng số lượng cũng như không ghi đúng ngày tháng; có nơi ghi giả mạo. Giám đốc các hợp tác xă hoặc v́ sợ hoặc v́ bất cẩn, đă báo cáo không đúng sự thật trong các bản phúc tŕnh.
    Chỉ c̣n có một cách duy nhất để thắng kẻ thù là tạo ra nạn đói. Hay nói đúng hơn là kế hoạch tuyệt lương .
    Trong các bản phúc tŕnh gởi về Mạc Tư Khoa vào mùa hè năm 1932 đă tiên liệu là nạn đói sẽ có thể xảy ra vào mùa đông 1932-1933. Tháng 8 năm 1932 Molotov báo cáo về MạcTư Khoa triển vọng chết đói có thể diễn ra ở các vùng vốn sản xuất nông phẩm nhiều nhất. Nhưng đồng thời ông cũng đă hứa là sẽ t́m đủ mọi cách để đạt cho kỳ được mục tiêu của kế họach thu mua.
    Cũng vào thời tháng 8, ông Issaev, chủ tịch ủy ban nhân dân vùng Kazakhstan bí mật báo cáo lên Staline về mức độ của cuộc khủng hỏang thực phẩm này. Vùng Kazakhstan đă ḥan tất chương tŕnh định cư tập thể. Chương tŕnh này đă làm xáo trộn đời sống của các nhóm dân du mục. Ngay cả hai nhân vật thân tín nhất của Staline là ông Stalinas Kossiloz, đệ nhất bí thư đảng cộng sản Ukraine và ông Mikhail, đệ nhất bí thư đảng cộng sản Dniepropetrovk cũng phải viết thư riêng cho Staline và Molotov xin giảm bớt chỉ tiêu quá cao của kế hoạch thu mua. Hai ông viết: Để cho tương lai công tác sản xuất nông phẩm đạt được chỉ tiêu, đáp ứng được nhu cầu của nhà nước Vô sản, chúng ta phải thỏa măn nhu cầu tối thiểu của các nông dân làm việc trong các hợp tác xă. Nếu không, chúng ta sẽ không c̣n đủ hạt giống để bảo đảm sản xuất trong vụ mùa tới.
    Molotov ,trong bức thư trả lời đă nói rằng các bí thư đă không nhận định đúng t́nh h́nh, sai với tinh thần Bôn-sơ-vích. Ông nói : Là những người Bônsêvích, chúng ta phải đặt nhu cầu của nhà nước vào ưu tiên một. Các nhu cầu này sẽ được đảng xác định bằng những quyết định của Đảng, và sẽ không được giảm một chút nào cả chớ đừng nói đến ưu tiên thứ hai.
    Vài ngày sau, Trung Ương Đảng gởi văn thư xuống các cơ sở Đảng địa phương yêu cầu các cơ sở phải ra lịnh cho các hợp tác xă nào chưa cung cấp đủ chỉ tiêu nông phẩm đă được ấn định, phải xuất ṭan bộ nông phẩm dự trử dùng làm hạt giống cho vụ mùa năm sau, đem nộp cho các toán thu mua. V́ bị cưỡng bách kể cả dùng vũ lực tra tấn cho nên nông dân cuối cùng cũng phải đen giao luôn các hạt giống cho nhà nước. Kết quả là mặc dù những nông dân đang sống trên các vùng đất ph́ nhiêu, màu mỡ nhưng họ cũng đành chịu chết đói v́ không có cách ǵ kiếm ra thực phẩm để sống qua ngày.
    Nếu họ muốn sống th́ chỉ c̣n có cách là phải đổ xô về thành phố. Nhưng nhà nước cộng sản đă chận đứng làn sóng người trở về thành phố này bằng một đạo luật ban hành ngày 27 tháng 12 năm 1932. Theo tinh thần của đaọ luật này, chính quyền thiết lập việc kiểm tra dân số cư ngụ trong thành phố. Nhà nước cấp thẻ thông hành nội bộ. Như vậy những người từ vùng kinh tế mới trở về sẽ không có giấy thông hành nội bộ và họ sẽ bị bắt, bị tống về trở lại vùng chết đói, nơi mà họ đă bỏ ra đi.
    Trước t́nh trạng làn sóng trở về thành v́ sự sống c̣n, ngày 22 tháng giêng năm 1933, Bộ chính trị trung ương đă cho ban hành một nghị quyết ác ôn , dẫn đến nạn chết đói cuả hằng triệu nông dân trong những ngày sắp tới. Chiếu theo nghị quyết do Staline và Molotov kư tên, họ ra lệnh cho các cơ sở đảng và công an địa phương bằng đủ mọi cách chận đứng những ngưới nông dân trở về thành phố. Nhất là nông dân của các vùng Ukraine và vùng Bắc Caucase. Nghị quyết nêu rơ : Nhà nước có đủ bằng cớ cho thấy các người trở về theo kế hoạch của các phần tử chống phá chính quyền , những người chống phá cách mạng, của những điệp viên hoạt động cho Ba Lan nhầm tuyên truyền phá hoại các hợp tác xă nói riêng, và nhà nước Xô Viết nói chung . Các toán công an địa phương thiết lập các nút chận tại các nơi đang xảy ra nạn đói, tại các nhà ga xe lửa, nhầm ngăn chận làn sóng người trở về thành phố.
    Đầu tháng 3 năm 1933, một toán công an báo cáo t́nh h́nh chính trị về Trung Ương. Bản báo cáo cho biết trong ṿng một tháng họ đă ngăn chận được 219460 .Trong số này họ đă trả lại 186588 người trở về lại nơi cư ngụ. Số người khác bị bắt giam và đưa ra ṭa án. Bản báo cáo không nói thêm chi tiết về những người bị trả trở lại. Nhưng viên lănh sự Ư thuộc vùng Kharkov, một vùng đă xảy ra nạn đói trầm trọng, báo cáo về chính phủ Ư những nhận xét như sau :
    Từ một tuần lễ nay người ta tổ chức một cơ sở để đón nhận trẻ em mồ côi. Bởi v́ cha mẹ của các em này đă kéo nhau trở về thành phố để kiếm cách sinh nhai, nhưng bị bắt buộc phải trở lại vùng chết đói. Họ bỏ con em ở lại với ước nguyện sẽ có người ra tay giúp đở. C̣n họ , họ trở về chịu chết trong những làng quê hẻo lánh.
    Từ một tuần lễ nay nhà nước huy động những người gác cỗng, các lao công của các công thự, cho mặc các chiếc áo choàng trắng đi truy lùng các trẻ em đem về nhốt tại các đồn công an khu vực. Nửa đêm, họ dùng xe nhà binh chở ra nhà ga Servodonetz. Tại đây cũng đă có một số người lớn c̣n sót lại trong thành phố và bị lùng bắt. Chuyên viên y tế sẽ khảm nghiệm sức khoẻ để phân loại. Người nào không phù thủng, có nghĩa là c̣n khoẻ sẽ được đưa về các gian nhà gỗ vùng Holadanaia Gora hay đưa về các gian trại sống chung với 8000 người khác đang nằm hấp hối trên đống rơm.
    Số người khác, bịnh hoạn, sẽ được xe lửa chở đến các vùng cách thành phố chừng 50 hoặc 60 km. Họ bị đuổi xuống dọc đường rồi bị lùa vào các làng hẻo lánh. Họ bị bỏ rơi ở đó, chờ chết, không ai hay biết ǵ đến họ cả.
    Và cũng tại những nơi được chỉ định, người ta cho đào những lỗ bên đường. Nhân viên trên xe lửa quăng các thây người chết xuống các lỗ đă đào sẳn này.
    Con số người chết đói đạt đến điểm cao nhất của nó vào mua xuân năm 1933. Cùng với nạn đói, các bịnh truyền nhiễm cũng bắt đầu lan tràn. Có những thị trấn trước kia với dân số vá chục ngàn người, ngày nay sau nạn đói chỉ c̣n sống sót lại vài ngàn . T́nh trạng ăn thịt người đă xảy ra ở một vài nơi. Trong các bản báo cáo của các cơ quan an ninh địa phương cũng như của các văn pḥng sứ quán Ư:
    Mỗi đêm người ta đi nhặt dọc theo đường phố khoảng 250 thây người chết v́ bịnh dịch. Các thây chết này bị mất lá gang. Dường như lá gang bị móc ra qua một lỗ nhỏ ở trên bụng. Sau cùng cơ quan công an được tin cho biết có một số người móc lấy lá gang rồi trộn vào thịt để làm nhưn bánh bao, đem ra chợ bán.
    Tháng 4 năm 1933, nhân chuyến viếng thăm vùng Kouban, nhà văn Mikhail Cholokhov viết hai lá thư gởi cho Staline. Trong thư ông viết từng chi tiết về những biện pháp tra tấn của công an đối với nông dân để buộc các nông dân này phải đem nộp nông phẩm dự trữ trong hợp tác xă của họ. Chính v́ thế mà phải lâm vào t́nh trạng chết đói. Ông đề nghi với Staline để cho ông gởi một số lượng lương thực để cứu những người nông dân này.
    Staline từ chối và nói thẳng rằng những người nông dân này bị trừng phạt v́ phạm vào cái tội đ́nh công và phá hoại. Họ đă mở trận chiến tiêu hao chống lại nhà nước cộng sản. Cũng vào năm 1933 này, trong lúc nạn thiếu lương thực đă giết hàng triệu người, th́ nhà nước Xô Viết cho xuất cảng ra ngoại quốc 1800000 tấn lúa ḿ để thu ngoại tệ cho công cuộc kỹ nghệ hoá.
    Các cuộc kiểm tra dân số của các phân khoa dân số học vào những năm 1937 và 1939 được giữ bí mật cho đến ngày hôm nay, giúp chúng ta biết thêm chi tiết về nạn đói năm 1933 .
    Theo các cơ quan thống kê này, nạn đói đă xảy ra tại các vùng đất đen Ukraine, vùng đất phù sa ven sông Don, vùng Kouban , vùng Bắc Caucase và một phần lớn vùng Kazakhtan. Đă có khoảng 40 triệu người là nạn nhân của nạn đói tại các vùng này. Con số thiệt hại lớn nhất là các vùng ở chung quanh thành phố Kharkov. Số người chết từ tháng giêng đến tháng sáu tăng lên gấp mười so với mức độ chết trung b́nh. Trong tháng 6 năm 1933 con số người chết đói lên đến 100.000 người so với 9.000 người của tháng 6 năm trước. Đó là chưa kể đến con số người chết không khai báo.
    Ở nông thôn con số người chết cao hơn ở thành phố. Trong một năm, thành phố Kharkov mất 120.000 người; thành phố Krasnodar mất 40.000 người và thành phố Stavropol giảm 20.000 người.
    Ngoài con số người chết tại các vùng xảy ra nạn đói, con số người chết ở các nơi thiếu ăn cũng không ít. Vùng nông nghiệp phụ cận thủ đô Mạc Tư Khoa số người chết gia tăng 50% trong ṿng từ tháng giêng đến tháng 6 năm 1933. Cũng trong khoảng thời gian nửa năm này con số người chết đói của thành phố Ivanovo gia tăng 35%.
    Trên toàn nước Nga , có trên 6 triệu người chết đói trong năm 1933 cao hơn các năm trước. Chỉ riêng vùng Ukraine con số ngừơi chết đă lên đến 4 triệu. Vùng Kazakhtan chết 1 triệu , phần lớn là dân du mục. Vùng Bắc Caucase 1 triệu.
    Trong bức thư gởi cho Staline vào ngày 4 tháng 3 năm 1933, nhà văn Mikhail Cholokhov, tác giả của tác phẩm Ḍng sông Don êm đềm viết :
    Thưa Đồng chí Staline,
    Việc phân phối thực phẩm không đạt đúng theo như kế hoạch đă chỉ định tại các khu vực Vechenski cũng như tại các vùng Bắc Caucase không phải v́ lư do có sự phá hoại cuả các nhân viêng trong hợp tác xă mà chính là v́ không biết cách quản trị của các cơ quan địa phương.
    Để đạt chỉ tiêu trong công tác thu mua nông phẩm, ủy ban địa phương của đảng cộng sản đă giao ṭan quyền quyết định cho đồng chí Ovtchinnikov. Ông ta đưa ra các biện pháp sau đây:
    Tịch thu tất cả nông sản, kể cả số lượng dự trữ của các hợp tác xă dùng làm hạt giống cho năm sau.
    Nhân viên hợp tác xă phải đến từng gia đ́nh thu mua một số lượng nông phẩm sao cho đủ chỉ tiêu để giao cho nhà nước.
    Thi hành các biện pháp trên sẽ đạt được ǵ ?
    Ngay từ đầu chiến dịch thu mua, nông dân đă t́m cách đem giấu cất số lương thực phẩm riêng tư của họ. Số thu được rất khiêm nhường : 593 tấn lúa ḿ. Trong số lúa ḿ này có một phần đă cất giấu từ năm 1918. Xin kể ra đây một số thủ đoạn thua mua.
    Thủ đoạn sức chịu lạnh . Họ bắt nông dân trong các hợp tác xă cỡi bỏ quần áo, đứng khỏa thân trong các nhà kho lớn giữa cái lạnh của mùa đông.
    Thủ đoạn sức chịu nóng . Họ thấm dầu lửa vào chân hay vào chiếc váy của phụ nữ rồi châm lửa. Khi lửa bốc cháy, họ cho cháy một chốc rồi dẹp tắt. Cứ như thế họ lập đi lập lại.
    Tại Napolovski, ủy ban địa phương bắt nông dân ôm lấy các ống khói của các ḷ sưởi đang đun nóng. Sau đó họ đem giam, khỏa thân trong các nhà kho lạnh buốt.
    Tại Lebiajenski, người ta bắt nông dân đứng xếp hàng như chờ hành quyết.
    Tôi có thể kể ra không biết bao nhiêu trường hợp khác đă xảy ra nhiều nơi. Đó không phải là những hành động lạm quyền. Nó là những phương pháp thông thường của các toán công an áp dụng để thu mua nông phẩm của nông dân.
    Nếu đồng chí Staline nhận thấy rằng bức thư này đáng đựơc Bộ chính trị lưu tâm, xin hăy biệt phái ngay một cán bộ cộng sản chơn chính về địa phương để điều tra. Cán bộ này phải có đủ can đảm lột mặt nạ các nhân viên địa phương. V́ chính những nhân viên này đă phá hoại chương tŕnh xây dựng các hợp tác xă nông nghiệp. Đồng chí là nguồn hy vọng lớn nhất của chúng tôi.
    Kư tên : Mikhail Cholokhov của đồng chí.
    [ Tài liệu của Phủ chủ tịch số 45/1/827/7-22].
    Ngày 6 tháng 5 năm 1933 Staline viết thư phúc đáp nhà văn Mikhail Cholokhov.
    Đồng chí Choloklov thân,
    Tôi đă nhận được hai bức thư của đồng chí. Đề nghị xin gíup đở của đồng chí đă được thực hiện. Tôi đă phái đồng chí Chkiziatov đi về các địa phương để giải quyết các vấn đề cuả đồng chí nêu ra. Xin đồng chí hăy tiếp tay Chkiziatov. Nhưng thưa đồng chí Cholokhov, không phải đó là những điểm mà tôi muốn nói. Thực ra thư của đồng chí viết tôi cho rằng không khách quan. Về vấn đề này tôi muốn nói thêm vài lời với đồng chí.
    Tôi cám ơn đồng chí đă viết thơ cho tôi. Bức thơ đă vạch ra một cơn bịnh nhỏ trong guồng máy của chúng ta. V́ muốn thực hiện tốt các chỉ thị, tức là giải giới kẻ thù cuả chúng ta , đă có một số cán bộ đảng va chạm đến những người bạn của chúng ta. Nhiều khi họ lám quá trớn. Nói thẳng ra là quá hung bạo. Nhưng với sự quan tâm của tôi, tôi không thể nói là tôi hoàn toàn đồng ư với đồng chí về mọi khía cạnh của vấn đề. Đồng chí đă nh́n cái dạng của vấn đề mà thôi. Nhưng tôi phải nh́n nhận là cái nh́n của đồng chí khá sắc bén. Nhưng đó chỉ là cái dạng bên ngoài của sự việc. Với cái nh́n chính trị, bức thư của đồng chí không phải là loại thư văn chương tả cảnh mà là một nhận xét chính tri. Nhưng chúng ta phải nh́n ở khía cạnh thực tế của vấn đề. Đó là những nông dân đáng kính của chúng ta ở các vùng mà đồng chí nêu ra trong thư. Họ đă đ́nh công và phá hopại. Họ sẵn sàng chấp nhận đ́nh công để cho thợ thuyền và Hồng quân không có bánh ḿ . Mặc dù họ không gây đổ máu, họ chỉ hoạt động trong êm lặng, nhưng trên căn bản họ cũng chính là thành phần phá hoại. Họ đang mở một cuộc chiến tranh tiêu hao, chống lại quyền lực Xô Viết. Đây là một trận chiến sống mái, xin đồng chí Cholokhov hiểu cho !
    Theo như nhận xét của đồng chí , quả thật những vi phạm của các cán bộ địa phương không thể nào chứng minh được đó là sự lộng quyền cả. Các thủ phạm sẽ phải chịu trách nhiệm về việc làm của họ. Nhưng có một điều rất rơ là những người nông dân đáng kính trọng của chúng ta chắc chắn không phải là những con chiên ngây thơ như người ta tưởng tượng khi đọc thư của đồng chí.
    Chúc đồng chí sức khỏe tốt. Chào đồng chí. Staline của đồng chí. .
    [ Tài liệu của Phủ chủ tịch số 3/61/549/194 ].
    Năm năm trước khi xảy ra cuộc tổng khủng bố với mục đích trước tiên là trừng phạt giới trí thức, các cán bộ Đảng, nhân viên bộ kinh tế, nạn đói năm 1932-1933 phải được coi là cao điểm của chiến dịch do nhà nước Xô Viết chủ trương khởi từ năm 1929, nhằm chống lại tập thể nông dân. Đó là một giai đoạn quyết liệt. Với kinh nghiệm này, chính quyền cộng sản sẽ đem áp dụng để đàn áp từng cá nhân, từng nhóm trong cộng đồng xă hội.
    Nạn đói đă làm suy sụp mọi mặt, từ chính trị cho đến xă hội.
    Tại các địa phương, con số người lộng quyền gia tăng. Họ sẵn sàng dùng bạo lực để cưỡng đoạt số lương thực cuối cùng của nông dân. Hành vi sách nhiễu, cướp bóc xảy ra hằng ngày. Trẻ em bị bỏ rơi. Hiện tượng ăn thịt ngướ xuất hiện, cùng với sự lan tràn các thứ bịnh truỳên nhiễm. Người ta cho thiết lập các trại tử thần . Những người đói lă sẽ được đưa vào trại đó để chờ chết. Nông dân ở trong giai đoạn này bị nhà nước hành sử giống như những nông nô của thời Trung cổ.
    Tháng giêng năm 1934, Sergo Ordjonikidze và Serguei Kirov đă điêên cuồng ca tụng các cán bộ cộng sản trong những năm đói kém như sau :
    Các cán bộ của chúng ta đă làm việc và chịu đựng trong cái hoàn cảnh đói kém của những năm 1932-1933. Phải thành thật thừa nhận rằng họ đă được trui luyện như là thép. Tôi nghĩ rằng với số cán bộ như vậy, chúng ta có thể xây dựng một nhà nước mà cho đến ngày hôm nay lịch sử chưa hề có được.
    Đối với các sử gia của ngày hôm nay, kể cả các sử gia của Ukraine, nạn đói vĩ đại này là một cuộc diệt chủng nhân dân Ukraine. Không ai có thể chối căi một sự kiện : nhân dân Ukraine là nạn nhân chính của nạn đói năm 1932-1933.
    Nạn đói này là một cuộc tổng tấn công của nhà nước sau các cuộc tấn công mở ra hồi năm 1929 nhằm vào tầng lớp trí thức. Họ bị buộc phải cái tội đă đi sai con đường khi chọn chủ nghĩa quốc gia.
    Andrei Sakharov đă định nghĩa việc làm của Staline là bài trừ và sợ người Ukraine . Định nghĩa này thật là chính xác. Nhưng không những chỉ Ukraine bị đói mà nạn đói lan tràn ra đến các vùng Bắc Caucase, vùng lưu vực sông Don, vùng Kouban và cả vùng Kazakhtan.
    Năm 1930 , Kazakhtan đă hoàn toàn vào quy chế làm ăn tập thể. Họ cưỡng bách đân du mục định cư. 80% gia súc của dân du mục bi chết trong ṿng 2 năm. V́ không thể sinh sống, hai triệu người Kazakhtan phải bỏ nước ra đi. Nửa triệu người lánh đói chạy qua các vùng đất Trung Á. Một triệu rưỡi người vượt núi rừng qua Trung Quốc.
    Trên thực tế, tại các vùng đất đen ,nơi sinh sống của giống dân Cosaque thuộc Ukraine cuộc chiến đă diễn ra giữa nông dân và nhà nước XôViết từ năm 1918-1922.
    Có một điều trùng hợp lư thú giữa các vùng chống đối mạnh mẻ của những năm 1918-1922 , những vùng bị cưỡng bách vào tập thể vào năm 1929-1930 với những vùng bị nạn đói .
    Năm 1934 cơ quan công an ghi nhận 14.000 vụ nổi loạn trong đó 85% các vụ nổi loạn này xaỷ ra tại các vùng bị trừng phạt v́ nạn đói. Đó là những vùng đất trù phú, dân chúng hiếu động. Các vùng này đă đóng góp rất nhiều mà cũng bị mất rất nhiều v́ chính sách cưỡng đoạt của nhà nước cộng sản.
    Nông phẩm sản xuất xuống rất thấp khi nhà nước cho thi hành chính sách cưỡng bách tập thể hóa nền nông nghiệp. Chính v́ thế các vùng này bị thiệt hai nhiều nhất và con số người chết đói lên cao nhất.

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

  4. #14
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 9


    THANH TOÁN CÁC PHẦN TỬ XA LẠ CỦA XĂ HỘI VÀ CHU KỲ ĐÀN ÁP


    Không phải chỉ có những người nông dân ở miền quê mới là nạn nhân phải cống hiến quá nhiều cho cuộc cách mạng rộng lớn thay đổi từ cội nguồn của xă hội. Các thành phần khác của xă hội cũng bị xếp vào những thành phần xa lạ đối với tân xă hội chủ nghĩa
    Những người này bị loại ra khỏi sinh hoạt xă hội. Họ bị tước quyền công dân; Họ bị đuổi ra khỏi sở làm; Họ bị đuổi ra khỏi căn nhà họ đang cư ngụ; Họ bị hạ thấp trong các bật thang của xă hội; Họ bị lưu đày.

    Đó là những thành phần trung lưu, trưởng gỉa, chuyên viên, trí thức, các ngành nghề tự do, thương gia, những vị lănh đạo tinh thần. Họ là nạn nhân của cuộc cách mạng chống tư bản, được phát động từ năm 1930. Tất cả những ai sống trong thành phố không thuộc thành phần vô sản, không phải là công nhân thợ thuyền hay không phải là những người đóng góp vào công cuộc xây dựng xă hội chủ nghĩa đều là những đối tượng phải chịu những biện pháp đàn áp. Họ bị cưỡng bách phải theo con đường xă hội chủ nghĩa, đúng như triết lư chính trị của nó là phải đi xuống để đi trở lại con đường tiến bộ.

    Bản án của một trí thức tên Chakkty đă kết thúc cuộc hưu chiến giữa nhà cầm quyền và những thành phần có học. Nó khởi đầu cho kế hoạch ngũ niên. Bài học chính trị rút ra từ bản án của Chakkty là : Nghi ngờ, lưỡng lự , thờ ơ với công cuộc cải cách do đảng chủ trương là những yếu tố phá hoại chính sách của đảng. Chưa dứt khoát tư tưởng là đồng nghĩa với phản bội.

    Những người Bôsêvich học nằm ḷng câu chuyên gia là những kẻ phá hoại . Bản án Chakkty đă đươc tất cả những người Bônsêvích học tập. Chuyên gia trở thành những con vật tế thần cho những thất bại trong chính sách kinh tế của nhà nước. V́ nhà nước tịch thu tất cả công cụ và phương tiện sản xuất cho nên mức sản xuất xuống rất thấp. Từ đó cuộc sống hằng ngày trở nên khó khăn hơn.

    Cuối năm 1928, tất cả chuyên viên kỹ thuật của các nhà máy, hăng xưởng , công ty sản xuất đều bị sa thải, bởi v́ họ bị ghép vào gíơi trung lưu, trưởng gỉa. Họ bị cắt phiếu tiếp tế thực phẩm, phiếu y tế sức khỏe và c̣n bị đuổi ra khỏi nhà của họ. Năm 1929, hàng ngàn nhân viên, công chức thuộc các cơ quan Kế hoạch trung ương, Bộ thương mại, cơ quan cố vấn tối cao kinh tế, Bộ tài chánh, Bộ canh nông bị sa thải . Họ bị kết tội là có tư tưởng hữu khuynh, phá họai hay thuộc thành phần xa lạ với xă hội chủ nghĩa. Trên thực tế, trong số nhân viên này có đến 80% là những người của chế độ cũ.
    Từ mùa hè năm 1930 , chiến dịch bài trừ các thành phần trung lưu trưởng giả bắt đầu thi hành triệt để tại các cơ quan hành chánh. Staline cũng như Thủ tướng chính phủ là lănh tụ Bônsêvích Rykov muốn dứt khóat với các thành phần hữu khuynh. Dưới con mắt của Staline họ là những thành phần phá hoại.

    Trong tháng 8 và tháng 9, cơ quan chính trị công an cho bắt những chuyên viên có tên tuổi, đang đảm nhận các chức vụ quan trọng trong các bộ, các sở , uỷ ban của nhà nước. Trong số người bị bắt có Giáo sư Krondratiev, cựu Bộ trưởng đặt trách tiếp tế trong giai đoạn lâm thời hồi năm 1917. Ông đă từng là trưởng ban điều hợp Ủy ban nhân dân của bộ tài chánh. Các nhà kinh tế học trên thế giới biết ông qua lư thuyết Chu kỳ phát triển kinh tế Krondratiev.

    Các Giáo sư Makarov, Tchaianov giữ các chức vụ quan trọng trong bộ canh nông, Giáo sư Sadyzine làm việc trong ban giám đốc ngân hàng , Giáo sư Ramzine, Groman là những chuyên gia của ngành thống kê thuộc ban kế hoạch trung ương và một số chuyên viên lỗi lạc khác.

    Nhận lệnh của Staline, cơ quan an ninh chính trị tiến hành thiết lập hồ sơ cá nhân của từng chuyên gia trung lưu, trưởng gỉa này. Hồ sơ nêu lên các chứng cớ về các tội móc nối các hoạt động có hệ thống nhằm lật đổ chính quyền Xô viết của Đảng nông dân lao động do Kondratiev lănh đạo và Đảng Kỹ thuật của Giaó sư Ramzine.
    Họ bắt những người này phải kư tên trong các tờ khai là họ có liên hệ với các lănh tụ Bônsêvích Rykov, Syrtsov và Boukhazine. Họ bi bắt buộc phải khai là có tham dự vào tổ chức Nhóm lưu vong chống Xô viết và có làm việc cho các cơ quan t́nh báo khác nhằm hạ bệ Staline và huỷ bỏ chính quyền Xô Viết.

    Nhóm an ninh chính trị c̣n bắt một huấn luyện viên cuả trường tham mưu thuộc Viện đại học quân sự, bắt ông ta phải khai báo là ông ta có liên hệ với Thống chế Tham mưu trưởng Hồng quân Mikhail Toukhatchevski trong một âm mưu chống Staline.
    Thời kỳ này xuất hiện không biết bao nhiêu kỹ thuật chụp mũ của các toán khủng bố nhằm lùng bắt những người cộng sản có âm mưu chống lại Staline. Đến năm 1930 th́ chiến dịch loại trừ các phần tử phá hoại coi như hoàn tất. Mục đích của Staline là chận đứng những người ở trong đảng có tư tưởng chống lại chính sách của Staline và đe dọa những phần tử lưng chừng .

    Tờ báo Sự Thật, số ra ngày 22 tháng 9 năm 1930 cho đăng bản tự khai của 42 nhân viên công chức phục vụ tại ủy ban nhân dân Bộ tài chánh và Bộ Thương mại. Họ tự nhận là đă gây khó khăn trong công tác tiếp tế của nhà nước và đă biển thủ các đồng tiền Rúp .

    Vài ngày trước đó, Staline có gởi cho Molotov một văn thư với các chỉ thị về vấn đề này. Trong thư Staline cho biết phải loại trừ những người cộng sản c̣n nghi ngờ trong các bộ tài chánh, ngân hàng trung ương, hay những người cộng sản phát biểu không tốt như Piatakov Brioukhanov. Cho xử bắn vài chục người đă xâm nhập vào các cơ quan này. Staline chỉ thị cho cơ quan an ninh chính trị dùng vỏ lực thu hồi các đồng Rúp c̣n đang lưu hành.
    Ngày 25 tháng 9, tất cả 42 người tự khai bị hành quyết.

    Những tháng sau đó, các vụ xử án và hành quyết do lối dàn cảnh tự khai như trên xảy ra liên tục. Có nhiều vụ phải xử kín. Như vụ án các chuyên viên làm việc trong Hội đồng tối cao kinh tế nhà nước hay vụ Đảng nông dân. Vụ án Đảng kỹ thuật xử công khai.Trong vụ này có 8 chuyên gia tự khai là có liên hệ với một tổ chức có trên 2000 chuyên viên tham dự. Họ tự nhận có nhận chỉ thị của các ṭa Đại sứ ngoại quốc làm xáo trộn nền kinh tế Xô Viết. Các vụ án này đă tạo nên cái huyền thoại về âm mưu và phá hoại . Nó là nền tản cho ư thức hệ chính trị của Staline.

    Trong ṿng 4 năm, kể từ năm 1928 đến 1931 đă có tất cả 130.000 nhân viên công chức bị sa thải ra khỏi các cơ sở chính quyền. Trong số này có 23.000 người bị kết án là kẻ thù cuả chế độ. Họ bị tước quyền công dân. Tại các xí nghiệp, công việc lùng bắt các chuyên viên diễn ra gay gắt. V́ thiếu chuyên viên nên số nhân công c̣n lại phải gia tăng giờ làm việc, làm cho nhanh . Đó là nguyên nhân sinh ra tai nạn trong lao động, hàng hoá không đạt chất lượng và làm hư hao máy móc.

    Từ tháng giêng năm 1930 đến tháng 6 năm 1931 có đến 48% chuyên viên, kỹ sư làm việc tại trung tâm mơ than Donbass bị bắt giam. Nửa năm đầu đă có 4500 phần tử phá hoại thuộc bộ phận chuyển vận bị phát giác .
    Chính sách lùng bắt chuyên viên, thiếu kế hoạch làm việc, không am tường về các định luật kinh tế là những nguyên do chính đă đưa mức sản xuất của các xí nghiệp bị phá hoại lâu dài.
    Đứng trước sự khủng hoảng trầm trọng của chính sách kinh tế đang áp dụng, chính quyền Xô Viết đă phải chấp nhận sửa sai .

    Ngày 10 tháng 7 năm 1931 , Bộ chính trị ban ra nhiều biện pháp để hạn chế các lạm quyền đă xảy ra từ năm 1928 mà nạn nhân là các người Spetzy. Bộ chính trị ra lịnh cho phóng thích hàng ngàn kỹ sư và chuyên viên; Ưu tiên cho các ngành hầm mơ và luyện kim. Băi bỏ nghị quyết cấm con cái của thành phần chuyên viên này vào các ngành đại học. Cấm các cơ quan công an bắt bớ những người này nếu không có lịnh của ủy ban nhân dân phụ trách ngành. Điều đó đă nói lên mức độ trầm trọng về sự kỳ thị và sự đàn áp của nhà nước kể từ vụ án Chakty. Đă có hàng chục ngàn kỹ sư chuyên môn của các ngành nghề bị đối xử tàn tệ.

    Thành viên của các giáo hội cũng bị gạt ra khỏi các sinh hoạt cuả Tân xă hội- xă hội chủ nghĩa.
    Trong năm 1918 và năm 1922 nhà nước cộng sản mở các cuộc tấn công vào các chủng viện lùng bắt những người tu hành. Đợt lùng bắt rộng lớn nhất xảy ra vào hai năm 1929-1930. Năm 1920 , mặc dù có rất nhiều tu sĩ phản đối, Giáo chủ Serge- người thừa kế Giáo Tộc Trưởng Tikhon- đă kêu gọi các Giáo sĩ cũng như giáo dân hăy trung thành với nhà nước. V́ thế Giáo Hội Chính Thống vẫn c̣n có ảnh hưởng lớn đối với chánh quyền.
    Tính đến năm 1914 nước Nga có 54.692 nhà thờ. Đến năm 1929 chỉ c̣n lại 39.000 nhà thờ mở cửa đón nhận giáo dân đến cầu nguyện và hành lễ.

    Ông Emelian Iaraoslavski đứng ra thành lập Mặt trận vô thần hồi năm 1925. Đă có trên 10 triệu người trên tổng số dân số 130 triệu của nước Nga thời bấy ǵơ ra khỏi giáo hội.
    Chiến dịch đàn áp tôn giáo trong hai năm 1929-1930 được chia ra làm hai giai đoạn . Giai đoạn đầu phát động vào mùa xuân và mùa hè năm 1929 bằng cách tái thi hành nghị quyết không tôn giáo của các năm 1918 và 1922. Như vậy, tất cả các hoạt động của Giáo hội vượt mức yêu cầu, sẽ bị hành xử theo điều 10 khoản 58 của bộ h́nh luật.
    Ngày 4 tháng 4 năm 1929 nhà nước cho ban hành một đạo luật đặc biệt , theo đó ủy ban nhân dân địa phương sẽ quản lư các cơ sở của Giáo hội. Nếu dùng các sinh hoạt của Giáo hội để tuyên truyền chống chính quyền sẽ bị trừng phạt ít nhất là 3 năm tù cho đến kết án tử h́nh.

    Ngày 26 tháng 8 năm 1929, chính quyền ra lịnh trong một tuần lễ làm việc 5 ngày và nghỉ 2 ngày. Ngày chúa nhật được coi như một ngày làm việc b́nh thường. Mục đích của những người cộng sản là ngăn chận con chiên đi nhà thờ vào ngày chúa nhật. Đó là một âm mưu tiêu diệt tôn giáo.
    Các đạo luật nói trên chỉ là một khởi đầu của chiến dịch thứ hai tấn công và bài trừ tôn giáo. Đến tháng 10 năm 1929 nhà nước cộng sản ra lịnh tịch thu các cái chuông của nhà thờ với lư do là v́ cái chuông gây ồn ào, phá rối sự yên tĩnh của đại đa số quần chúng ở nông thôn. Tu sĩ và các vị linh mục được xếp vào thành phần xa lạ với xă hội chủ nghĩa. Họ phải đóng thuế rất nhiều. Giá thuế tăng lên gấp 10 lần từ năm 1928 đến năm 1929. Họ bị tước quyền công dân. Tất nhiên họ không được cấp thẻ tiếp tế lương thực cũng như không được hưởng quy chế sức khỏe. Hầu hết các tu sĩ bị bắt và đưa đi lưu đày.

    Theo các bản thống kê chưa hoàn tất, có 13.000 tu sĩ bị bắt giam trong năm 1930.
    Tại các làng nhỏ ở nông thôn hẻo lánh, khi tiến hành chiến dịch tập thể hoá, chính quyền đóng tất cả các nhà thờ. Linh mục, tu sĩ cũng cùng chịu chung số phận như những người nông dân khi chính quyền giải thể chế độ điền chủ.
    Chiến dịch bài trừ tôn giáo đạt đến cao điểm vào mùa Đông năm 1929-1930.

    Tính đến ngày 1 tháng 3 năm 1930 có tất cả 6715 giáo đường bị đóng cửa hoặc bị phá hủy. Các cơ quan chính quyền địa phương tiếp tục đá kích trong công tác bài trừ và tiêu diệt tôn giáo. Họ đưa ra những lư do bịa đặt để đóng cửa các giáo đường : các giáo đường thiếu điều kiện vệ sinh; không tu bổ dễ gây đổ nát, gây thương tích cho giáo dân; không đóng bảo hiểm; không đóng thuế; đóng thuế chưa đủ. Các tu sĩ bi tước quyền công dân, không được đi làm trả lương cho nên các tu sĩ này bị ghép vào tội ăn bám vào xă hội. Một số tu sĩ không thể chịu đựng được nữa nên bỏ đi lan thang, sống ngoài ṿng pháp luật cộng sản. Từ đó phát sinh một phong trào tôn giáo dưới sự lănh đạo của Giáo chủ Serge chống lại chính quyền cộng sản tại hai tỉnh Voronej và Tambov. Tại hai tỉnh này đă xảy ra nhiều vụ chống chính quyền hơn những tỉnh khác.

    Tại tỉnh Voronej, giám mục Alexei Boui bị bắt giam v́ ông ta không chịu nhượng bộ trong các cuộc dàn xếp giữa Giáo hội và chính quyền. Tín đồ của ông đứng ra thành lập một Giáo hội tự trị, một giáo hội Chính Thống đúng với ư nghĩa của nó. Có cả hàng Giáo Phẩm, được thụ phong ở ng̣ai khuông viên nhà thờ của Giáo chủ Serge. Giáo hội này không có khu vực hành đạo riêng. Họ làm lễ bất cứ ở nơi nào họ thấy thuận lợi. Từ trong nhà tù cho đến trong các hang đá. Tín đồ của Giáo hội này tự nhận họ là tín đồ chân chính của Giáo Hội Chính Thống Giáo. Họ bị chính quyền cộng sản ngược đăi. Hàng chục ngàn tín đồ bị bắt và bị đưa đi lưu đày, đi khẫn hoang ở những vùng xa xôi hẻo lánh, bị đưa đi lao động khổ sai. V́ bị chính quyền liên tục đàn áp cho nên con số thánh đường cũng như con chiên mỗi lúc một ít dần. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 1936 trên ṭan nước Nga chỉ có 15.835 giáo đường c̣n hoạt động. Con số này chỉ bằng 28% con số giáo đường có trước cách mạng năm 1917. Về phía Hồi Giáo chỉ có 4830 giao đường mở cửa, tức là chỉ bằng 32% trước năm 1917.

    Trong năm 1914, tổng số nhân viên phục vụ cho Giáo hội là 112.629 người. Đến năm 1928 chỉ c̣n lại 70.000 người. Qua năm 1932 con số người ghi danh phục vụ chỉ c̣n 17.857. Với con số này, chính quyền cho rằng Giáo Hội đang ở trong giai đoạn hấp hối.
    Theo bản kiểm kê năm 1937, chỉ c̣n có 70% của tín đồ nói rằng họ c̣n đức tin.
    Tháng giêng năm 1930, chính quyền cộng sản lại mở chiến dịch tước đoạt tài sản của thành phần tư doanh.

    Họ nhắm vào các thương gia , các tiểu thương, các người làm thủ công nghệ và các ngành nghề tự do khác. Có tới hơn một triệu rưởi người đang hành nghề dưới các điều luật do Lenine chỉ định. Họ làm các công việc rất khiêm tốn. Vốn luyến của họ không quá 1000 Rúp. 98% số người này là họ tự làm lấy. Họ không mướn nhân công. Dưới chính quyền của Staline, những người bị buộc tội là những phần tử giàu có, ăn bám xă hội, những thành phần xa lạ với xă hội chủ nghĩa. Họ bị tước đoạt quỳên công dân. Họ bị coi là giai cấp trung lưu của bộ máy kinh tế thời Nga Hoàng.

    Ngày 12 tháng chạp năm 1930, cộng sản chia những người bị tước đoạt quyền công dân ra làm 30 loại :
    Cưụ địa chủ, Cưụ công chức Nga Hoàng, Cưụ điền chủ, Cưụ thương gia, Cưụ qúy tộc, Cựu tư bản, Cưụ sĩ quan bạch quân, những người phục vụ tôn giáo, tu sĩ, cưụ đảng viên các đảng phái chính trị,v.v.v.. Con số nạn nhân này kể cả gia đ́nh của họ lên đến 7 triệu người. Cũng như nạn nhân của các trường hợp khác, họ không được quyền đi bầu; Họ không có thẻ tiếp tế lương thực; Họ không được cấp phiếu khám sức khỏe; Họ bị đuổi ra khỏi thành phố ; Họ bị coi là những người sống ngoài xă hội.

    Chính sách cưỡng bách tập thể hoá nông nghiệp đă làm xáo trộn toàn cuộc sống ở nông thôn. Đồng thời chính sách phát triển nền công nghệ ở các thành phố đă là động cơ thúc đẫy những người sống ở nông thôn đang gặp khó khăn trong cuộc sống, bỏ quê làng chạy về thành phố. Nước Nga với đa số dân chúng sống bằng nghề nông nay bỏ chạy về thành phố trở thành những lớp người lan thang . Từ cuối năm 1928 đến cuối năm 1932, các thành phố Nga bị tràn ngập. Có đến 12 triệu người. Họ chaỵ trốn chính sách giải thể điền chủ và chính sách cưỡng bách tập thể hoá nông nghiệp đang được thi hành ráo riết ở nông thôn.

    Riêng tại hai thành phố Mạc Tư Khoa và thành phố Lenine đă ghi nhận có 3 triệu rưỡi người di cư. Trong số những người nông dân di cư này có những người có đầu óc kinh doanh. Họ tự giải thể h́nh thức điền chủ, đồng thời từ chối tham gia vào hợp tác xă nông nghiệp. Các năm 1930-1931 là những năm có nhiều nhà máy mọc lên đă thu hút họ vào làm trong các hăng xưởng. Họ được thu nhận vào làm v́ họ là những người ít đ̣i hỏi quyền lợi. Đền năm 1932, chính quyền cộng sản lo sợ t́nh trạng hỗn loạn có thể xảy ra v́ số người tràn về thành phố mỗi lúc một đông. Nó có thể làm đăo lộn chính sách tiếp tế lương thực cho các thành phố mà chính quyền đă mất bao công sức để thiết lập từ năm 1929.

    Vào đầu năm 1930, có tất cả 26 triệu người được cấp phát thẻ mua nhu yếu phẩm, tức là thẻ tiếp tế lương thực.
    Cuối năm 1932 con số này gia tăng lên đến 40 triệu.
    Công xưởng, xí nghiệp trở thành trung tâm định cư cho dân tản cư.
    Phải chăng những người di cư từ miền quê đến, đă gây nên các tệ nạn của xă hội như chính quyền gán ép ? Họ gây tại hại lâu dài cho công việc sản xuất ? Họ bỏ việc làm? Họ phá vỡ kỹ luật làm việc trong nhà máy ? Họ sinh ra nạn du đảng ? nạn nghiện rượu và gây ra tội ác..?

    Hai tháng cuối năm 1932, chính phủ đưa ra các biện pháp trừng phạt và đàn áp những người lao động. Các xí nghiệp đuổi tất cả các phần tử bị xếp vào loại xa lạ với xă hội chủ nghĩa ra khỏi thành phố.
    Đạo luật ban hành ngày 15 tháng 11 năm 1932 quy định bất kỳ công nhân nào vắng mặt tại sở làm sẽ cho nghỉ việc. Thẻ tiếp tế lương thực bị thu hồi; Họ bị đuổi ra khỏi nơi họ đang ở. Mục đích của đạo luật này là nhận diện những người mạo danh là thợ.
    Tiếp sau đó, ngày 4 tháng 12 một đạo luật khác ra đời cho phép các xí nghiệp cấp thẻ tiếp tế lương thực với chủ đích thanh lọc công tác tiếp tế đối với những người không làm mà cũng có ăn. Họ gọi những người này là nhân công ma, nhân công có tên trên danh sách mà không có mặt trong lúc lao động.

    Ngày 27 tháng 12, chính quyền áp dụng biện pháp gắt gao hơn nhằm thanh toán những phần tử ăn bám, hạn chế con số người bỏ thôn quê về thành phố và để bảo vệ sự trong sạch cuả thành phố. Họ áp dụng kế hoạch cấp phát giấy thông hành nôi bộ. Phần mở đầu của đạo luật mới này ghi rơ các điều kiện cần thiết để được cấp giấy thông hành nội bộ. Tất cả các người dân trong thành phố tuổi từ 16 trở lên không mất quyền công dân, công nhân viên hỏa xa, các công nhân viên thường trực tại các công trường xây dựng, công nhân viên phụ trách tại các nông trường nhà nước sẽ được sở công an cấp giấy thông hành nội bộ. Giấy chỉ có giá trị khi có con dấu xác nhận của công an . Với con dấu của công an, người có thẻ thông hành nội bộ được hưởng một số quyền lợi. Họ được cấp thẻ tiếp tế lương thực; Họ được hưởng quy chế an sinh xă hội. Họ có quyền xin một chỗ cư ngụ.

    Chính quyền chia các thành phố ra làm hai loại : Thành phố mở cửa và thành phố đóng cửa. Các thành phố đóng cửa la các thành phố Mạc tư Khoa, Lenine, Kiev, Odessa, Minsk, Kharkov, Rostov nằm trên sông Don, Vladivostok. Muốn được định cư và muốn được thẻ thông hành nội bộ ở các thành phố này, người dân phải có gốc cha mẹ ở lâu năm, lập gia đ́nh hay có công việc làm trong cơ quan nhà nước.
    Tại các thành phố mở , điều kiện xin cấp giấy thông hành dễ dăi hơn.
    Chiến dịch cấp phát giấy thông hành nội địa kéo dài suốt năm 1933. Nhà nước đă cấp 27 triệu giấy thông hành. Với biện pháp này, nhà nước cộng sản đă loại được một số người thuộc thành phần bất hảo.

    Trong tuần lễ đầu, bắt đầu từ ngày 5 tháng giêng năm 1933 , chính quyền đă nhận diện ra 3450 người thuộc cựu Bạch quân, cựu điền chủ, hoặc các phần tử đă có án, đang làm việc tại 20 xí nghiệp lớn. Tại các thành phố thuộc loại đóng cửa , có 385.000 người không được cấp giấy thông hành. Họ bị cưỡng bách rời khỏi thành phố trong ṿng 10 ngày. Họ không có quyền sinh sống ở thành phố kể cả các thành phố mở cửa.
    Trong bản phúc tŕnh của nhân viên cơ quan an ninh chính trị gởi về Trung ương đề ngày 13 tháng 8 năm 1934 ghi những điều như sau :
    Khi loan báo thi hành cấp giấy thông hành đă có nhiều người tự ư rời khỏi thành phố v́ họ biết rằng họ không đủ điều kiện để được cấp phát.
    Có 35.000 rời khỏi thành phố Magnitogorsk. Tại Mạc Tư Khoa, hai tháng đầu cấp phát giấy thông hành, dân số giảm 60.000 người. Thành phố Leningrad tháng đầu tiên có 54.000 ra đi.
    Tại các thành phố mở cửa, chúng tôi đă trục xuất 420.000 người.

    Các cuộc kiểm soát và bố ráp của công an đă bắt đưa đi đày hàng trăm ngàn người.
    Tháng 12 năm 1933, chỉ huy trưởng cơ quan an ninh chính trị Genzikh Iagoda ra lịnh cho các thuộc viên mỗi tuần phải quét sạch các nhà ga và các chợ trời cuả các thành phố đóng cửa. Trong ṿng 8 tháng đầu của năm 1934 có tất cả 630.000 bị bắt tại các thành phố đóng cửa v́ lư do vi phạm quy chế giấy thông hành nội bộ. Trong số này có 65.661 người bị bắt giam bằng biện pháp hành chánh. Họ bị đưa đi lưu đày. Họ bị xếp vào hồ sơ những người khai hoang đặc biệt . Có 3.596 người đưa ra ṭa án. 175.627 đưa đi khai hoang b́nh thường. C̣n một số người khác may mắn được thả ra sau khi nộp tiền phạt.

    Trong năm 1933 nhà nước mở rất nhiều chiến dịch tấn công đặt biệt.
    Từ ngày 28 đến ngày 6 tháng 7 nhà nước cộng sản bắt 5470 người thuộc sắc dân Tsigane gốc ở Mạc Tư Khoa đày ra vùng kinh tế mới Siberie.
    Từ 8 đến 12 tháng 7 có 4750 người gốc Kiev bị lưu đày.
    Trong tháng 4, tháng 6 và tháng 7 có 3 cuộc bố ráp nhằm lùng bắt những người xa lạ với xă hội chủ nghĩa thuộc hai thành phố Mạc tư Khoa và Leningrad. Tổng số người bắt trong 3 đợt lên đến 18.000 người. Đợt đầu những người này bị đưa ra ḥn đảo chết Nazino . Ngay trong tháng đầu có 2 phần 3 số người chết.

    Theo báo cáo của một đảng viên trong ban huấn luyện đảng ở Nazym phúc tŕnh t́nh trạng cuả những người này như sau :
    Thật là oan uổng cho những người xấu số này. Họ là những công nhân viên, là đảng viên cộng sản. Họ chết v́ không thể chịu đựng được các điều kiện sống ở trên đảo này. Trường hợp điển h́nh của anh Novojlov Vladamir, người gốc Mạc Tư Khoa. Anh là tài xế phục vụ tại cơ xưởng máy ép hơi. Anh đă được tuyên dương 3 lần về thành tích phục vụ. Anh có vợ và sanh được một con. Vợ chồng anh đang chuẩn bị đi xem hát. Anh bước xuống nhà dưới và băng qua đường đến một quán nhỏ ở gần nhà anh mua thuốc lá. Anh quên không mang theo giấy thông hành. Vừa đúng lúc ấy có bố ráp ngoài đường. Anh bị bắt.

    Một trường hợp khác. Anh Vinogradova công nhân của một hợp tác xă. Anh đi xe lửa đến thăm người anh đang là chỉ huy trưởng của một tóan quân tự vệ thành. Khi vừa bước xuống xe lửa, anh bị bắt v́ không đem theo giấy tờ chứng minh.
    Ở thành phố Voikine, anh Nikolai Vassilievitch đảng viên cộng sản, phục vụ tại hăng dệt Serpoukhov. Chiều chúa nhật anh đi xem đá banh. Anh bị bắt v́ không đem theo giấy tuỳ thân.

    Anh I.M. Matveev, công nhân xây dựng cao ốc công trường sản xuất bánh ḿ số 9. Anh được cấp phát giấy thông hành để đi làm việc ngoài mùa sản xuất nông sản. Giấy có giá trị đến tháng 12 năm 1933. Khi bị bố ráp, anh tŕnh giấy thông hành nhưng chẳng ai thèm đọc giấy của anh. Anh bi bắt đưa đi lưu đày.
    Các cuộc hành quân để đuổi sạch ra khỏi thành phố diễn ra nhiều lần và định kỳ, tại các cơ quan của nhà nước cũng như tại các xí nghiệp.

    Tại cục hỏa xa, một bộ phận thiết yếu cũng đă diễn ra các cuộc bố ráp do Andreiev và Kaganovitch chỉ đạo. Mùa xuân 1933 đă có 8% nhân viên, khoảng 20.000 bị sa thải và bắt đi lưu đày.

    Ngày 5 tháng giêng, một viên công an phụ trách ngành vận chuyển hỏa xa gởi bản phúc tŕnh với nội dung : Để loại trừ các phần tử phản cách mạng chống lại nhà nước cộng sản núp trong ngành hỏa xa, cơ quan vận chuyển vùng số 8 đă mở các cuộc truy lùng. Kết quả , 700 người bị bắt đưa ra ṭa án. Trong đó có 325 người ăn cắp các kiện hàng; 221 tên du đảng phá rối ; 27 tên ăn cướp; 127 tên phản cách mạng; 37 tên năm trong các băng đảng ăn cướp có tổ chức. Những tên này bị bắn ngay tại chỗ. Lần ráp bố cuối cùng đă bắt 300 người và cho sa thải theo quy chế hành chánh. Trong 4 tháng cuối cùng đă có 1270 ngườI v́ lư do này hay lư do khác đă bị loại ra khỏi cục hoả xa. Chúng tôi tiếp tục chiến dịch.

    Kể từ khi nhà nước cho thi hành chính sách cưỡng bách tập thể hoá nông nghiệp và giải thể điền chủ. Các mối tương quan giữa chính quyền với nhân dân và giữa nhân dân với nhau trở nên ngột ngạt và căng thẳng. Thêm vào đó, nạn đói đe dọa hằng ngày. Các tệ đoan xă hội gia tăng ở các thành phố. Xă hội suy đồi.

    Ngày 7 tháng 4 năm 1934 văn pḥng Bộ chính trị ban hành nghị quyết cho thi hành các biện pháp chống lại số đông thiếu niên phạm pháp. Các tội như ăn cắp, đánh phá, huỷ hoại thân thể, thuộc vào tội tiểu h́nh. Nếu giết người th́ đưa ra ṭa án đại h́nh.
    Vài ngày sau, Bộ chính trị gởi tiếp các văn thư yêu cầu ṭa án phải dùng các h́nh phạt nặng nề nhất tức là kết án tử h́nh để có thể bảo vệ xă hội. Như vậy bộ h́nh luật trong đó có điều khoản băi bỏ án tử h́nh kể như không c̣n giá trị nữa. Song song với các chị thị trên, nhà nước ra lịnh cho cơ quan an ninh chính trị tổ chức các trung tâm cải huấn thanh thiếu niên. Trước kia phần hành này thuộc trách nhiệm của ủy ban nhân dân phụ trách bộ giáo dục. Một hệ thống các trại được thành lập dưới danh nghĩa Trại lao động của vị thành niên . Nhưng các h́nh thức trấn áp này chẳng ngăn chặn được tuổi trẻ. Nạn du đảng, cướp phá cứ tiếp tục gia tăng. Một bản phúc tŕnh công tác thanh toán nạn du đảng của thiếu niên kể từ ngày 1 tháng 7 năm 1935 đến ngày 1 tháng 10 năm 1937 đă nh́n nhận : Mặc dù đă thi hành chỉ thị tái tổ chức các cơ quan tiếp nhận các trẻ em thuộc thành phần du đảng, trộm cướp, lang thang, nhưng chẳng cải thiện được một bước nào.

    Từ tháng 2 năm 1937 ở nông thôn nhận ra hiện tượng bỏ nhà đi bụi đời của lớp trẻ. Tại các vùng năm trước mất mùa này. Dân chúng không đủ ăn. Việc tổ chức ở các hợp tác xa quá tồi tệ. Quỹ tương trợ trong những lúc có thiên tai cũng chẳng có ǵ. Cơ quan chính quyền địa phương muốn tống khứ lớp trẻ này đi bằng cách họ cấp cho các em bé giấy chứng nhận là những người đi ăn xin. Đến lượt nhân viên an ninh chính trị tại các nhà ga cũng thi hành các hành động như vậy. Thay v́ họ đưa các em bé phạm pháp vào các trại lao động vị thành niên, họ muốn tống đi cho nhanh bằng cách lùa các em lên xe lửa , để chuyển qua vùng khác, khỏi vùng trách nhiệm của họ. V́ thế các em bé này cuối cùng tụ tập lại rất nhiều ở các thành phố lớn.

    Năm 1936 cơ quan an ninh chính trị tiếp nhận 125.000 trẻ em phạm pháp vào các trung tâm lao động vị thành niên. Tính từ năm 1935 đến 1939 có tất cả 155.000 trẻ em đưa vào trung tâm lao động và 92.000 các em từ lứa tuổi 12 đến 16 bị đưa ra ṭa án . Từ 1 tháng 4 năm 1939 có 10.000 vị thành niên bị đưa đi lưu đày.

    Trong ṿng 5 năm đầu của thập niên 30, Đảng và nhà nước cho thi hành các biện pháp chống laị các thành phần chống cách mạng. Mức độ và chu kỳ thi hành các biện pháp này thay đổi tuỳ theo t́nh h́nh. Khi thấy có sự chống đối và có cơ gây hỗn loạn, nhà nước cho ngưng khủng bố để tạo thế quân b́nh.

    Chu kỳ đầu tiên của cuộc đại khủng bố xảy ra vào cuối năm 1929 khi nhà nước cho thi hành chính sách giải thể quy chế điền chủ. Cuộc khủng bố đạt đến cao điểm vào mùa Xuân năm 1933. Chính quyền phải đương đầu với nhiều vấn đề nan giải chưa từng xảy ra. Vấn đề trước tiên là phải giải quyết các vùng bị nạn đói . Lấy người đâu ra để làm vụ mùa cho năm tới. Những người chịu trách nhiệm trực tiếp tại các hợp tác xă đă lên tiếng cảnh cáo, nếu không giải quyết một số nhu cầu căn bản tối thiểu cho nông dân của hợp tác xă th́ sẽ không c̣n ai để cày cấy, gieo hạt , đảm bảo công tác sản xuất.
    Hơn thế nữa, v́ các trại giam quá đông, nhân viên quản lư không thể nào trông coi được, không thể nào khai thác đúng mức sức lao động. Nó có ảnh hưởng không tốt đến tâm lư quần chúng. Nhiều thành viên của hợp tác xă đă đặt ra câu hỏi này từ tháng 3 năm 1933. Hai trăm người trong số thành viên hợp tác xă có ư kiến như trên bị bắt giam hơn 2 năm tù với cái tội phá hoại các vụ gieo hạt giống. Sau đó họ được thả trở về làm việc lại.

    Để giải quyết vấn đề thiếu nhân công cho công việc thu hoạch mùa màng ở các vùng bị nạn đói tàn phá, chính quyền mở nhiều cuộc bố ráp khắp nơi trong thành phố , bắt các người dân , chở về các vùng nông thôn, thay thế số nông dân bị bắt đi lưu đày oan ức.
    Trong bản phúc tŕnh của ṭa lănh sự Ư ở thành phố Kharkov gởi về nước đề ngày 20 tháng 7 năm 1933 viết như sau :
    Số người bị bắt rất nhiều. Trong tuần lễ này, có ít nhất 20.000 người bị đưa về các trại tập trung miền quê. Hằng ngày diễn ra như vậy. Hôm qua , nhà nước cho bao vây khu vực chợ trời. Họ bắt một số thanh niên nam nữ khỏe mạnh giải họ ra ga chở về các vùng quê.

    Việc chuyên chở các người thành phố về miền quê cũng gặp phải nhiều khó khăn, nhiều xung đột với dân quê địa phương. V́ tức dận, dân quê đốt phá các doanh trại chứa những người từ thành phố mới chuyển đến. Cán bộ cũng khuyên những người thành phố mới đưa về, đừng đi sâu vào làng mạc để tránh xung đột với ngưới bản xứ.
    Vụ mùa năm đó đạt được kết quả khả quan một phần nhờ thời tiết thuận lợi, một phần nhờ sự tổ chức chặt chẽ trong công tác đưa người từ thành phố về nông thôn. Phần quan trọng khác, v́ nông dân không c̣n cách nào sinh sống nên đă tham gia công tác trong hợp tác xă.

    Vấn đề thứ hai là làm thế nào để giải quyết làn sóng người ồ ạt tràn vào các trại giam. Nhà nước cộng sản giải quyết một cách thực tế : phóng thích một số ngưới bị bắt.
    Ngày 8 tháng 3 năm 1933, Bộ chính trị gởi văn thư riêng cho bộ nội vụ: Thi hành biện pháp điều lệ hóa các vụ bắt bớ. Cơ quan nào cũng có thể bắt giam người khác. Như vậy sẽ giải tỏa được sự tập trung tội phạm. Ngoại trừ trại giam lưu đày ở Siberie, tất cả các trại giam khác phải t́m các giảm phân nửa số tù nhân. Phải mất đi một năm mới phóng thích được 320.000 trong số 800.000 tù nhân trong các trại tù.
    Năm 1934, chính quyền ngưng chiến dịch đàn áp chính trị. Kết quả cụ thể là trong năm 1934 chỉ có 79.000 vụ án ra toà so với con số vụ án 240.000 trong năm 1933.
    Cơ quan an ninh chính trị được tổ chức trở lại.

    Theo chỉ thị của nghị quyết ngày 10 tháng 7 năm 1934 , cơ quan an ninh chính trị trực thuộc ủy ban nhân dân Bộ Nội vụ. Do vậy, cơ quan này giảm đi quyền hành . Nó hoạt động như các ngành công xưởng tự vệ, tự vệ nông thôn, tự vệ biên pḥng,.. Họ mang huy hiệu cũng giống như các Uỷ viên trong bộ Nội vụ. Cơ quan này mất đi phần trách nhiệm về tư pháp. Cơ quan này sau khi đ́êu tra, phải chuyển các tội phạm qua Biện lư cuộc để thụ lư. Cơ quan an ninh chính trị mới tái tổ chức không có quyền tuyên án nếu không có sự chấp thuận của Trung Ương.

    Tất cả các biện pháp trên nhằm để củng cố chính sách hợp lư hóa cơ cấu pháp lư của chủ nghĩa xă hội. Nhưng các biện pháp này cũng chỉ đem đến một số kết quả rất khiêm nhường. Việc kiểm soát cuả Biện lư cũng chẳng đi đến đâu. Như ông Biện lư Vichins đă để cho các cơ quan an ninh chính trị mới hoạt động tự do. Thêm vào đó, từ tháng 9 năm 1934 chính văn pḥng Bộ chính trị Trung Ương cũng đă làm những việc trái ngược với chỉ thị đă ban hành. Trung Ương cho phép các cơ quan thi hành bản án tử h́nh mà không cần thông báo về Trung Ương. Như vậy, chính sách đàn áp chỉ tạm ngưng trong khoảng thời gian rất ngắn.

    Ngày 1 tháng 12 năm 1934 ông Serge Kirov, đệ nhất phó bí thư thành ủy Leningrad, đồng thời cũng là ủy viên Bộ chính trị, bị ám sát. Thủ phạm là ông Leonid Nikolaieo. Ông ta là một thành viên của đoàn thanh niên cộng sản. Ông ta xâm nhập vào trụ sở của đảng cộng sản thành phố Leningrad để ám sát. Trong nhiều năm, dư luận cho rằng vụ ám sát ông Kirov có Staline nhúng tay v́ Kirov là đối thủ cua ông ta. Trong kỳ Đại hội thứ 20 của đảng cộng sản, đêm 24 tháng 2 năm 1956, chủ tịch nhà nước Nikita Kroutchev cũng đă xác nhận như vậy. Nhưng ngày nay các tài liệu của Alla Kirilina đă chứng minh trong tác phẩm của ông xuất bản vào năm 1995 rằng nguồn dư luận đó không đúng. Ông đă căn cứ vào số tài liệu mật vừa mới cho phép dân chúng tham khảo.

    Staline dựa vào cuộc ám sát ông Kirov để thực hiện mưu đồ chính trị của ông. Trên thực tế lúc nào Staline cũng có thể dùng các thủ đoạn để tạo ra t́nh h́nh căng thẳng hay nới lỏng tuỳ theo nhu cầu chính trị của ông. Để bao che sự yếu kém của chế độ, ông giải thích : Đáng lẻ ra đời sông phải được vui vẻ hơn và cuộc sống sung sướng hơn nhưng tại v́ vụ ám sát Kirov nên cuộc sống cứ tiếp tục rối loạn.
    Vài tiếng đồng hồ sau vụ ám sát, Staline cho thảo ra một đạo luật , được gọi là Đạo luật ngày 1 tháng 12. Hai ngày sau Bộ chính trị mới chấp thuận đạo luật này. Theo đạo luật này, lịnh xử các vụ khủng bố giết người phải thực hiện trong ṿng 10 ngày không cần phải có sự hiện diện của bị can và áp dụng ngay bàn án tử h́nh. Đạo luật này ra đời để kết thúc các đạo luật vài tháng trước đây. Nó mở màn cho giai đoạn Đại khủng bố.

    Một vài ngày sau, một số đảng viên cộng sản thuộc nhóm chống Staline bị bắt v́ t́nh nghi có tham gia các hoạt động khủng bố.
    Báo chí ra ngày 22 tháng 12 đăng tin : Một nhóm người khủng bố hoạt động ngầm đă gây ra tội ác kinh tởm gồm có Nikolaiev và 13 người thuộc nhóm Zinoviev dưới sự lănh đạo của một tổ chức gọi la Trung tâm Leningrad , đă ăn năn nhận lỗi. Nhóm này bị xử kín ngày 28 và 29 tháng 12. Cả nhóm bị kết án tử h́nh và bị hành quyết ngay sau đó.
    Ngày 9 tháng giêng năm 1935, nhà nước cộng sản lại cho xử vụ án huyền thoại nhóm người Znoviev và trung tâm Leningrad . 67 người bị kết án. Trong số đó có nhiền nhân vật nổi tiếng , trong quá khứ họ chống lại chính sách của Staline. Cả thảy 67 người bị bắt giam . Sau vụ Trung tâm Lenigrad đến vụ trung tâm Mạc tư Khoa . 19 người t́nh nghi bị bắt. Trong số này có hai đảng viên kỳ cưụ là Zinoviev và Kamenev bị bắt với tội danh Ṭng phạm ư thức hệ với thủ phạm trong vụ ám sát Kirov.

    Trong phiên toà xử hai ông vào ngày 16 tháng giêng năm 1935 hai ông thú nhận trong quá khứ có hoạt động chống lại chính sách đă làm cho xă hội băng hoại cơ nguyên sinh ra nhiều thủ phạm giết người; Hai ông cũng thú nhận có đồng lơa ư thức với cuộc ám sát. V́ ăn năn và v́ công khai từ bỏ nên hai lănh tụ tội phạm chỉ bị kết án một người 5 năm tù và người kia 10 năm.
    Từ tháng 12 năm 1934 đến tháng 2 năm 1935 đă có 6.500 ngừơi bị kết án theo h́nh thức tố tụng mới của đạo luật ngày 1 tháng 12 quy định về tội khủng bố.
    Sau ngày xử bản án của Zinoviev và Kemenev, Bộ Chính trị trung ương gởi văn thư mật đến các Ủy ban nhân dân địa phương. Nội dung của văn thư mật là bài học về các diễn biến quan trọng chung quanh cuộc ám sát ghê tởm đồng chí Kirov. Văn thư xác nhận hai trung tâm thân Zinoviev lănh đạo một tổ chức nguỵ trang của Bạch quân. Văn thư cũng nhấn mạnh, lịch sử của đảng cộng sản là cuộc đấu tranh thường trực đối với các nhóm chống đảng như bọn Troski, bọn trung tâm dân chủ, bọn chủ trương thân hữu.
    Đảng viên nào đă từng chống lại chính sách của Staline đều bị nghi ngờ. Cuộc lùng bắt các đảng viên cộng sản bắt đầu diễn ra.

    Tháng giêng năm 1935, tại thành phố Leningrad có 988 đảng viên thân Zinoviev bị bắt ra đày đi vùng Tây bá lợi Á. Trung Ương đảng ra lịnh cho các Ủy ban nhân dân địa phương thành lập hồ sơ tất cả các cưụ đảng viên cộng sản bị sa thải ra khỏi đảng hồi năm 1926-1928 v́ thân Troski và Zinoviev. Căn cứ trên danh sách này, nhà nước cộng sản sẽ truy lùng.
    Tháng 5 năm 1935 , Staline ra lịnh cho các cơ sở đảng cộng sản địa phương kiểm soát chặt chẽ thẻ đảng của từng đảng viên. Chiến dịch kiểm soát thẻ đảng kéo dài 6 tháng với sự tham gia của cơ quan an ninh chính trị. Cơ quan an ninh chính trị cung cấp hồ sơ đảng viên bị nghi ngờ cho Ban chấp hành đảng. Trái lại Ban chấp hành đảng cung cấp danh sách các đảng viên bị khai trừ cho cơ quan an ninh. Kết quả của chiến dịch này ghi dấu con số bị bắt lên đến 250.000 đảng viên . 9% đảng viên bị khai trừ.
    Trong cuộc họp toàn đảng của Uỷ ban trung ương vào cuối tháng chạp năm 1935, trưởng ban tổ chức trung ương đảng kiêm chỉ huy trưởng chiến dịch kiểm tra thẻ đảng , đồng chí Nikolaiev Iejov đưa ra một con số không đầy đủ : 15.218 đảng viên thuộc thành phần kẻ thù nhân dân, bị khai trừ ra khỏi đảng và bị bắt giam.

    Theo báo cáo của Iejov, chiến dịch khai trừ tiến hành không tốt và đă kéo dài thời gian gấp 3 lần so với kế hoạch. Theo ông dường như có thành phần hủ bại đang nằm trong cơ quan hành chánh nhà nước làm hỏng chiến dịch. Mặc dù có lời kêu gọi của Trung Ương về việc vạch trần bộ mặt của các phần tử thân Zinoviev, nhưng chỉ có 3% đảng viên bị khai trừ. Các cơ sở cộng sản địa phương không muốn làm việc chung với cơ quan an ninh chính trị nên không tích cực gởi danh sách của các đảng viên nghi ngờ lên trung ương. Iejov cho rằng trong chiến dịch này, cơ sở đảng cộng sản ở các địa phương thông đồng với nhau gây trở ngại trong công tác kiểm tra thẻ đảng. Sự kiện này không bao Staline quên.
    Sau vụ ám sát Kirov, làn sóng khủng bố lan tràn trong đảng. Viện lư do nhóm khủng bố Bạch quân hiện xâm nhập phía tây Cộng ḥa Liên Xô, ngày 27 tháng 12 năm 1934 Bộ chính trị ra lịnh cho lưu đày 2000 gia đ́nh của những người chống lại chính quyền Xô Viết tại các khu vực ranh giới Ukraine.

    Ngày 15 tháng 3 năm 1935 các biện pháp tương tự cũng diễn ra ở các vùng quanh Lenigrad, Cộng Ḥa Carelie. Các người này bị đưa về các vùng Kazakhtanvà vùng Tây Bá Lợi Á. Phần lớn thuộc gốc dân Phần Lan. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh giữa Nga và Phần Lan. Đầu tiên nhà nước đưa đi 10.000 dân phần Lan. Cuộc lưu đày lần thứ hai diễn ra vào mùa xuân 1936 với số lượng 15.000 người. Đă có 50.000 thuộc các giống dân Ba Lan, Đức cư ngụ tại Ukraine bị đày về Karaganda thuộc tỉnh Kazakhtan.
    Trong thời gian này cũng có một số biện pháp kinh tế dễ dăi được thi hành làm cho t́nh h́nh lắng dịu lại. Như băi bỏ các biện pháp áp dụng cho số ngưới xa lạ với xă hội chủ nghĩa; Ân xá cho một số tù nhân cuả các hợp tác xă, bị kết án dưới 5 năm . Phóng thích 70.000 người bị kết án theo đạo luật ngày 7 tháng 8 năm 1932. Khôi phục quyền công dân và đưa họ đi vùng kinh tế mới đặc biệt. Bỏ quy chế kỳ thị với con cái của họ khi thi vào các trường đại học.

    Các biện pháp trên nhiều khi rất mâu thuẫn. Nhiều tù nhân sau 5 năm được trả tự do, nhưng không được quyền rời khỏi nơi cư ngụ đă được nhà nước chỉ định. Nhưng khi trở về , họ phải ở đâu ? Nhà cửa , tài sản của họ đă bị nhà nước tịch thu rồi. Việc này lại sinh ra một số vấn đề liên hệ không giải quyết được.
    Mối tương quan giữa nhân dân và chính quyền lại trở nên căng thẳng khi chính quyền rầm rộ mở chiến dịch thi đua lao động vượt chỉ tiêu Stakhanov. Đó là tên của một công nhân hầm mỏ. Anh Andrei Stakhanov gia tăng thời gian làm việc để tăng năng gấp 14 chỉ tiêu đă đề ra. Tháng 11 năm 1935, Satline đưa chỉ tiêu của anh thợ mỏ Stakhanov lên thủ đô Mạc Tư Khoa mở cuộc hội thảo về kỷ lục sản xuất của người thợ mỏ tiên phong. Staline nhấn mạnh rằng tính cách mạng sâu rộng trong phong trào đă giải phóng được tính bảo thủ của người kỹ sư, của các chuyên viên kỹ thuật và các người lănh đạo trong các xí nghiệp.

    Trong t́nh trạng hoạt động của nền công nghệ Liên Xô thời bấy giờ, kèm theo với cách tổ chức làm việc gia tăng ngày đêm theo kiểu Stakhanov, chắc chắn sẽ làm xáo trộn chu tŕnh sản xuất. Máy móc hư ṃn, các tai nạn lao động gia tăng. Sau một thời gian đạt mức gia tăng, th́ nền sản xuất bắt đầu xuống dốc.
    Chính quyền lại tái diễn cái tṛ chạy tội như đă làm ở những năm 1928-1931. Họ quy lỗi những khó khăn của kinh tế là do sự phá hoại của những người đă xâm nhập vào các đội ngũ sản xuất, các chuyên viên kỹ thuật trong các nhà máy.
    Mỗi một lời nói xấu về phong trào Stakhanov, một hành động gián đọan sản xuất, một động tác làm hư phương tiện sản xuất đều bị kết tội là có âm mưu chống phá phong trào Stakhanov.

    Trong 6 tháng đầu của năm 1936 đă có 14.000 cán bộ các ngành công kỹ nghệ bị bắt v́ tội phá hoại.
    Staline đă dùng phong trào Stakhanov để phát động làn sóng khủng bố mới , làn sóng khủng bố vô tiền khoáng hậu này đă đi vào lịch sử đưới cái tên cuộc Đại khủng bố của thời đại .

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

  5. #15
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 10


    CUỘC KHỦNG BỐ VĨ ĐẠI TRONG NHỮNG NĂM 1936 – 1938


    Người Nga rất lấy làm xấu hổ khi nhắt tên từ Iejovschina . Cái tên Iejov đi đôi với các cuộc đàn áp trong những năm 1936-1938. Sách báo đă viết rất nhiều về sự kiện này.
    Nikolai Iejov, người đă từng là giám đốc cơ quan an ninh t́nh báo NKVD của Xô Viết từ tháng 9 năm 1936 đến tháng 11 năm 1938. Trong thời kỳ này, cơ quan an ninh t́nh báo NKVD đă mở các cuộc khủng bố rộng lớn đối với mọi tầng lớp trong xă hội Nga. Từ các nhân vật lănh tụ trong bộ chính trị của đảng cộng sản cho đến các thường dân ngoài đường phố. Cơ quan an ninh t́nh báo t́m cách bắt cho đủ chỉ tiêu con số phản cách mạng .

    Nhiều thập niên về sau, chính quyền cộng sản Xô Viết cấm tuyệt đối không được phép đề cập những ǵ có liên quan đến các cuộc khủng bố năm 1936-1938.
    Thế giới bên ngoài và nhất là tại Tây Âu biết đến ba vụ án chính ở Mạc Tư Khoa. Một vụ xảy ra trong năm 1936, vụ thứ hai vào tháng giêng năm 1937 và vụ thứ ba vào tháng 3 năm 1938. Can phạm của ba vụ án lại chính là những thủ lănh tên tuổi của đảng cộng sản Nga và đă từng là đồng chí thân cận của Lenine. Trong số này có Zinoniev, Kamenev, Kristinski, Rykov, Piatakv, Radek, Boukharine và một số đảng viên kỳ cựu khác. Một điều làm cho mọi người ngạc nhiên trong các vụ án này là tất cả các bị can điều thú nhận tội của ḿnh. Họ nhận là đă tổ chức các nhóm khủng bố có khuynh hướng thân Trotski và Zinoviev. Mục đích của họ là lật đổ chính quyền Xô Viết, ám sát các nhân viên chính phủ, phục hồi chủ nghĩa tư bản, thi hành các cuộc phá hoại, làm tiêu hao lực lượng Hồng quân, làm tan ră Liên Bang Xô Viết, tách rời các cộng ḥa Ukraine, Géorgie, Armenie và các vùng Viễn Đông Xô Viết để làm lợi cho thế lực ngoại bang.
    Nhưng trên thực tế, vụ án ở Mạc Tư Khoa là vụ án dàn cảnh ngoạn mục mà chủ đích là để đánh lạc hướng các nhà quan sát quốc tế khi họ được mời đến tham dự các vụ xử án. Các quan sát viên không hề đề cập đến chính sách giải thể nông nghiệp cá thể, chính sách đàn áp địa chủ, các nạn đói lớn trong những năm 1931-1932, và cũng không đề cập đến các trại tập trung lao động khổ sai.

    Hai năm 1936-1938 là giai đoạn chót của cuộc đấu tranh chính trị của Staline chống lại các lănh tụ đối lập trong đảng của ông ta. Và cũng trong giai đoạn này, Staline muốn dứt điểm những công chức, đảng viên trung thành của Lenine từ đầu cuộc cách mạng năm 1917, c̣n sót lại trong cơ cấu chính quyền.
    Trong một bài báo viết trên tờ Le Temps số ra ngày 27 tháng bảy năm 1936 dưới tựa đề Một cuộc cách mạng bị phản bội , Trotski viết:

    Cuộc cách mạng Nga giống như cuộc cách mạng Pháp, được biết đến dưới cái tên Thermidor. Staline đă nhận thức được cái tính hư không của chủ nghĩa Mác-xít và cái huyền thoại của cuộc cách mạng toàn cầu. Ông ta là một nhà xă hội tốt. Nhưng trước tiên, ông ta là một người yêu nước, ông phải biết rằng khi cho áp dụng cái tính hư không và cái huyền thoại của chủ nghĩa đó vào trong nước ông, nó sẽ đem lại biết bao nhiêu là thảm họa cho dân tộc ông. Giấc mơ của ông là giấc mơ của một nhà độc tài, nó khác với t́nh yêu của chủ nghĩa tư bản, lại càng không giống cái ảo tưởng của chủ nghĩa cộng sản.

    Trotski c̣n viết trên báo Echo de Paris, số ra ngày 30 tháng giêng năm 1937, những lời không được trịnh trọng về chân dung của một nhân vật lịch sử của nước Nga. Ông viết:

    Con người gốc dân Gégorie, có tầm vóc thấp, cho dù không muốn nhưng cũng đă đi theo vết chân của bạo chúa Ivan, Đại đế Pierre và Nữ hoàng Caterine đệ nhị.

    Phải đến 20 năm sau khi Krouchtches đọc bản báo cáo chính trị vào ngày 25 tháng hai năm 1956 trước kỳ đại hội đảng lần thứ 20 tố cáo tội ác của Satline, người ta mới biết các vụ vi phạm luật pháp xảy ra trong xă hội chủ nghĩa trong những năm 1936-1938.
    Sau đó vài năm, nhiều nhân vật lănh đạo đảng và một số quân nhân bị kết án trước đây, nay được chính quyền phục hồi danh dự. Nhưng chính quyền cộng sản không hề quan tâm đến các tội phạm thường dân.
    Măi đến kỳ đại hội toàn đảng lần thứ 22 vào tháng mười năm 1962, Krouchtches mới thú nhận là trong các cuộc khủng bố dưới thời Staline đă gây tổn thương cho rất nhiều thường dân. Nhưng ông không chịu xác nhận mức độ tổn thương, bởi v́ chính ông cũng là một trong những người thừa hành lịnh khủng bố .

    Vào cuối thập niên 60, sử gia Robert Conquest dựa vào các tài liệu viết thành văn bản cũng như lời khai của các nhân chứng thoát khỏi địa ngục Nga trong thời gian Krouchtches hạ bệ Staline, đă vẻ lại bức tranh của các cuộc đại khủng bố. Ông đă khui ra những quyết định cho thi hành lịnh khủng bố và ông cũng đưa ra con số chính xác nạn nhân của cuộc khủng bố này.
    Nhiều cuộc tranh luận về các trại tập trung, về vai tṛ của Staline và Iejev và về con số nạn nhân. Một sử gia Hoa Kỳ, thuộc trường phái xét lại, phủ nhận vai tṛ quyết định của Staline trong moị chính sách của những năm 1936-1938. Ông ta nhấn mạnh đến sự khác biệt trong phương thức hành động giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Ông cho rằng quyền hành của chính quyền địa phương càng lúc càng mạnh, trong khi đó chính quyền trung ương yếu dần. Trung ương không c̣n kiểm soát được chính quyền địa phương; Địa phương muốn chứng tỏ ḷng nhiệt thành với Trung ương cho nên thẳng tay đàn áp quần chúng và chống lại mọi kẻ thù, bất cứ từ đâu đến.

    Đề cập đến con số nạn nhân, sử gia Conquest xác nhận có 6 triệu người bị bắt giam, 3 triệu người bị hành quyết và 2 triệu người chết dần chết ṃn trong các trại tập trung cải tạo lao động. Nhưng theo sử gia Hoa kỳ thuộc trường phái xét lại, đó là con số thổi phồng.

    Ngày nay, nhờ vào các tài liệu được quyền tự do tham khảo trong các văn khố của chính quyền Bônsêvich, chúng ta có cái nh́n mới về cuộc đại khủng bố. Khó có thể tŕnh bày tất cả các diễn biến của cuộc khủng bố trên vài trang giấy. Lịch sử trong những năm 1936-1938 của Xô Viết là lịch sử của bi thảm, đẫm máu, mà chế độ cộng sản đă chủ trương. Với tài liệu được phép tham khảo, chúng ta sẽ đưa ra ánh sáng một số sự kiện để trả lời cho các câu hỏi của những năm vừa qua về các trại tập trung, về con số người chết, về các chiến dịch đàn áp.

    Tài liệu trong văn khố xác nhận vai tṛ quyết định của các lănh tụ chủ chốt của đảng cộng sản , của bộ chính trị và của Staline nói riêng. Từ việc tổ chức cho đến việc thi hành các chiến dịch đàn áp đẫm máu, các vụ thủ tiêu các đại điền chủ, các h́nh thức kết tội chống lại cách mạng, chống lại chính quyền Bônsêvich ,..phát động từ tháng tám năm 1937 cho đến tháng năm năm 1938 đều do chính quyền trung ương chủ xướng.

    Từ năm 1935, hằng ngày đều có lịnh bắt những cựu địa chủ đi cải tạo lao động. Và mặc dù có lịnh cấm các tù cải tạo cưụ địa chủ, trong việc quan hệ đến các công nhân b́nh thường, nhưng họ vẫn t́m cách sống móc nối.
    Tháng 8 năm 19386, ông Rudolf Berman, một trong những trưởng trại tập trung lao động khổ sai viết một báo cáo gởi về trung ương với nội dung : Lợi dụng sự canh pḥng lỏng lẻo, một số tù cải tạo thuộc loại khẩn hoang đặc biệt đă trốn ra khỏi nơi chỉ định định cư. Họ sống trà trộn với những người lao động b́nh thường. Rất khó bắt họ về trở lại. Họ đă học được một số nghề chuyên môn và các cơ quan đang dùng họ, rất muốn giữ họ lại để làm việc. Nhiều người đă chạy được giấy thông hành. Một số khác lập gia đ́nh với các công nhân tự do, xây cất nhà cửa riêng.

    Trong khi có một số nhân công lao động khổ sai trốn ra khỏi khu chỉ định sống trà trộn vào đám công nhân thừơng, một số khác bỏ trại trốn đi xa. Đám nhân công này gia nhập vào các băng đảng, quấy phá các khu vực quanh các thành phố lơn.
    Trong các cuộc kiểm tra vào mùa thu năm 1936, các toán công an phát hiện ra con số nhân công trốn trại rất là nhiều. Tại vùng Arkhandelsk, trong số 89.700 nhân công trên giấy tờ, bấy giờ chỉ c̣n có 37.000 người.

    Ngày 2 tháng bảy năm 1937, Bộ chính trị gởi văn thơ đến chính quyền địa phương, ra lịnh cho các cơ quan lùng bắt các nông dân cải tạo không thi hành lịnh của trại. Bắn tại chỗ các phần tử chống đối sau khi Ủy ban tam đầu chế xem xét hồ sơ hành chánh của tội phạm. Ủy ban tam đầu chế gồm có Đệ nhất bí thư đảng, một biện lư và một ủy viên của cơ quan t́nh báo công an NKVD địa phương. Công tác thanh lọc tập thể nông dân lao động khổ sai phải thực hiện hoàn tất trong ṿng 5 ngày.
    Đầu tháng 7 năm 1937, Staline quyết định mở chiến dịch khủng bố tập thể .

    Mỗi tuần, Trung ương đều nhận báo cáo của địa phương về con số phạm luật. Căn cứ theo các bản báo cáo này, ngày 30 tháng 7 năm 1937, Chỉ huy trưởng cơ quan t́nh báo, ông Iejov ra chỉ thị số 00447, cho hành quyết 72.950 nông dân và bắt giam 259.450 người. Đây chưa phải là con số chính thức, v́ c̣n một số địa phương chưa gởi đầy đủ về Trung ương. Cũng như các cuộc khủng bố trước đây, chính quyền địa phương nhận lịnh phải t́m bắt cho đủ con số tội phạm của từng loại do Trung ương ấn định. Loại một , tử h́nh. Loại hai, đưa đi lưu đày. Tội phạm thuộc loại một lần này bao gồm các thành phần chính trị rộng lớn hơn trước đây. Ngoài các phần tử cựu địa chủ, c̣n có cả các đảng viên của các đảng đối lập, các cựu công chức của chế độ Nga Hoàng và cựu quân nhân của Bạch Quân. Thật ra các toán t́nh báo có thể gán các danh xưng tử h́nh đó cho bất cứ người nào mà họ muốn thủ tiêu, kể cả đảng viên đảng cộng sản.

    Cơ quan t́nh báo NKVD hằng ngày ghi nhận, điều tra là lập danh sách các người t́nh nghi chống phá chính quyền để theo dơi.
    Ngày 30 tháng 7 năm 1937, Trung ương gở thêm danh sách bổ túc xuống chính quyền địa phương. Chiếu theo danh sách, chính quyền điạ phương phải bắt luôn cả thân nhân của các người bị kết án lưu đày tại các trại tập trung hay những người đă bị xử tử h́nh.
    Cuối tháng 8, con số bị xử bắn tăng thêm 22.500 người và bắt đi lưu đày tăng thêm 16.800 người.

    Tháng giêng năm 1938, theo đề nghị của cơ quan t́nh báo NKVD, chính quyền địa phương phải xử bắn 48.000 người và lưu đày 9.200 người trước ngày 15 tháng 3.
    Mặc dù bị đảng thanh trừng nhiều lần, nhiều đảng viên địa phương muốn bày tỏ ḷng trung thành với đảng, bằng cách đề nghị chỉ tiêu con số người bị đàn áp lên đến 90.000 trong thời gian từ ngày 1 tháng hai đến ngày 20 tháng 8 năm 1938. Như vậy chiến dịch khủng bố thay v́ phải kết thúc trong ṿng 4 tháng, nay kéo dài hơn một năm. Và con số dự liệu phải giết và phải lưu đày tăng lên gần 200.000 người. Nạn nhân của các vụ đàn áp khủng bố này gồm đủ hạng người trong xă hội. Từ những người cư ngụ dọc theo biên giới , những người có liên hệ với người ngoại quốc, cựu tù binh chiến tranh, các người có thân nhân sống ở nước ngoài cho dù họ không c̣n liên lạc,.. Những người chơi tem, xử dụng máy vô tuyến,..cũng có thể bị ghép vào tội gián điệp.

    Từ ngày 6 tháng 8 đến cuối tháng chạp năm 1937, dưới quyền điều khiển của cơ quan t́nh báo NKVD, có nhiều cuộc hành quân lùng bắt những người ngoại quốc đang sống trên đất Nga. Từ người Đức, Ba Lan, Nhật Bản, Lỗ ma Ni, Thổ nhĩ Kỳ cho đến người Lituanine, Estonie và Tettonie. Họ bị xếp vào các thành phần gián điệp. Trong ṿng một năm rưỡi, Công an bắt giam trên 1500 người với cái tội làm gián điệp.
    Con số nạn nhân nêu trên vẫn c̣n thiếu rất nhiều. Thật vậy, chúng tôi chưa được phép tra cứu các văn thư trong văn khố của cơ quan t́nh báo KBG, của Phủ chủ tịch đảng, v́ văn khố này thuộc loại kín và của riêng . Nó gồm có một số tài liệu như sau:
    Chiến dịch phát động ngày 20 tháng bảy năm 1937 nhằm thanh toán người Đức phục vụ trong các ngành kỹ nghệ quốc pḥng.

    Cuộc hành quân ngày 19 tháng 9 năm 1937 nhằm thanh toán các phần tử khủng bố, làm gián điệp cho Nhật.
    Cuộc hành quân ngày 4 tháng 8 năm 1937 nhằm thanh toán các đơn vị quân đội người Cosaque thân Nhật.
    Chiến dịch đàn áp thân nhân của những người bị bắt giam trong các trung tâm lao động hay những người đă bị xử bắn vào ngày 15 tháng 8 năm 1937.

    Nh́n toàn bộ các cuộc đàn áp trong những năm 1936-1938, chúng ta thấy, Bộ Chính Trị Trung Ương là đầu năo của kế hoạch và cơ quan t́nh báo NKVD là bộ phận thi hành.
    Sau khi kết thúc chiến dịch đại khủng bố, nhà nước chỉ gởi một ủy ban duy nhất đến vùng Turménistan để kiểm tra các việc làm quá trớn của phong trào mang cái tên Iejovchina. Trong suốt thời kỳ này, nước cộng hoà nhỏ Turménistan với dân số 1.300.000 dân, cơ quan t́nh báo NKVD bắt giam 13.259 người. Trong số này có 4037 người bị xử bắn. Nhưng theo chỉ thị của Trung ương , cơ quan địa phương chỉ có quyền bắt giam 6277 và xử bắn 3225 người chống chính quyền mà thôi. Điều đó cho thấy hành động quá trớn của chính quyền địa phương, không thi hành đúng chỉ thị của Trung ương.

    Một số tài liệu khác xác nhận quyết định của Bộ chính trị Trung ương và của Staline về các cuộc tàn sát tập thể. Bộ chính trị và Staline đưa ra một danh sách tội nhân qua Ṭa án. Nghĩa là một bộ phận đặc trách tư pháp của Bộ chính trị kết tội trước khi đưa qua Ṭa án quân sự, Hội đồng tối cao quân sự hay Ủy ban đặc biệt của cơ quan t́nh báo NKVD.

    Bộ chính trị đă kư 383 danh sách bắt giữ 44000 người bao gồm các lănh tụ của đảng cộng sản, của quân đội, và của bộ kinh tế. Có 39.000 người trong danh sách này bị kết án tử h́nh. Riêng Staline đă kư 362 ; Molotov, 373 ; Vorochilov, 195 ; Kaganovitch, 191; Jdanov, 177 và Mikoian, 62 danh sách.

    Vào đầu mùa hè 1937, các lănh tụ cộng sản vừa nêu trên đích thân về các địa phương để trực tiếp hướng dẫn các vụ thanh trừng. Kaganovitch về các vùng Donbass, Tchéliabinsk, Ivanovo, Smolenk. Lănh tụ Jdanov sau khi làm công tác thanh trừng ở Leningrad, ông được biệt phái về vùng Orenbourg, Bachkiri, Tatarstan. Lănh tụ Mikoian về vùng Arménie. Và Kroutchev đi về Ukraine.

    Mặc dù quyết nghị thành trừng các thành phần chống đối chính quyền được toàn thể Bộ chính trị biểu quyết, nhưng các tài liệu ngày nay cho thấy, hầu hết các quyết nghị đều do Staline đưa ra. Sau đây là một thí dụ điển h́nh. Ngày 27 tháng tám năm 1937, Trung ương nhận một điện văn của Mikhail Korotchenko, Ủy viên đặc trách vùng Tây Bá Lợi Á . Điện văn báo cáo vụ án xử các nhân viên nông nghiệp phạm tội tham nhũng và phá hoại. Sau khi nhận điện văn, hồi 17 giờ cùng ngày, Staline gọi điện thoại ra lịnh hành quyết ngay những người phạm tội và ra lịnh cho đăng tin hành quyết lên các báo.
    Tài liệu trong các văn khố cũng c̣n cho chúng ta thấy Staline kiểm soát tất cả các diễn tiến trong các cuộc thanh trừng. Chính Staline tự tay sửa đổi các văn thư, các lời tố cáo và bản án của cơ quan an ninh NKVD gởi đến. Ông ta là nhà đạo diễn chính trong tất cả các vụ xử án lớn.

    Trong thời gian điều tra và thẩm xét vụ án âm mưu của quân đội , tố cáo Thống chế Toukhatchevski cùng toàn thể sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng tham mưu Hồng Quân, Chính ủy cao và trung cấp, ..mỗi ngày Iejov đều đến gặp Staline để hội ư. Chính Staline viết thư ngày 25 tháng chín năm 1936, bổ nhiệm Iejov vào chức vụ Ủy viên đặc trách bộ Nội Vụ, trong khi Staline đang nghỉ hè ở Sotchi. Ông viết : Việc cần thiết và cấp bách là phải bổ nhiệm Iejov vào chức vụ Ủy viên đặc trách Bộ Nội Vụ. Đồng chí Iagoda thiếu khả năng làm công tác vạch mặt nạ các tên theo Trotski và Zinoviev. Cơ quan an ninh đă làm chậm mất 4 năm trong công tác này.

    Rồi cũng chính Staline ngày 17 tháng 11 năm 1938, ra lịnh cho NKVD tạm ngưng chiến dịch truy lùng các phần tử chống đối.
    Một tuần lễ sau, Staline cách chức Iejov và tiến cử Béria vào chức vụ ủy viên nhân dân phụ trách Bộ Nội Vụ.
    Tóm lại, mở đầu và chấm dứt cuộc khủng bố đều do quyết định của Staline.
    Một trong các nghị quyết của đại hội đảng cộng sản Liên Xô lần thứ 22 là đề cử ông Nicolai Chvernik phụ trách ủy ban điều tra các hành động đàn áp trong thời Staline.
    Ủy ban dựa theo các bản phúc tŕnh của các trung tâm lao động khổ sai , các bản văn trong các pḥng hành chánh của Ủy viên Bộ Nội Vụ, Bộ Tư Pháp và các ṭa án trên toàn nước Nga. Ngày nay dân chúng được phép tự do tham khảo các tài liệu này. Theo các tài liệu dẫn trên, cơ quan t́nh báo NKVD đă bắt giam 1.575.000 người trong năm 1937-1938. Tất cả đều bị hành quyết.

    Chính quyền cộng sản chia tội nhân ra thành nhiều loại. Với các vụ án của cán bộ chính trị, kinh tế, quân sự và các thành phần trí thức, thường được nhiều người biết đến. Họ bị đưa ra ṭa án quân sự hay ṭa án đặc biệt của cơ quan t́nh báo NKVD .
    Cuối tháng 7 năm 1937, v́ các cuộc khủng bố gia tăng, con số người bị bắt quá nhiều nên chính quyền cộng sản phải thành lập ở địa phương một loại toà án tam đầu chế- toà án gồm có 3 thành viên để giải quyết cho nhanh. Ṭa án tam đầu chế gồm có một biện lư, một nhân viên tính báo và một công an. Họ xét xử cấp bách và lấy lệ, miễn sao cho cung cấp đủ con số phải bắt giam do Trung ương yêu cầu. Trong quyển niên giám của thành phố Leningrad ghi lại từng tháng, bắt đầu từ tháng 8 ăm 1937, con số người bị kết án tử h́nh chiếu theo điều thứ 58 của bộ H́nh Luật. Thời gian từ lúc bắt, xử án cho đến khi xử bắn chỉ xảy ra trong ṿng từ vài ngày đến vài tuần lễ. Không hề có chuyện xét lại hay chống án.

    Ngày 30 tháng 7 năm 1937, Chính quyền cộng sản mở các cuộc hành quân đặc biệt nhằm truy lùng và thủ tiêu các thành phần bị ghép vào tội gián điệp, các thành phần chao đảo đường lối chính trị. Các cuộc hành quân đàn áp này cũng có tầm mức quy mô giống như các cuộc hành quân chống các địa chủ phú nông trước kia.
    Ngày 12 tháng 9, cộng sản lại mở thêm các cuộc hành quân khủng bố khác. Nạn nhân của các cuộc hành quân này là thân nhân của những người bị bắt trong các cuộc hành quân trước. Nếu trong các cuộc hành quân có bắt nhầm, th́ con số bắt nhầm cũng trở thành con số phạm tội cần thiết cho đủ chỉ số tù nhân của cấp trên quy định. Nạn nhân của các vụ bắt lầm thường là những người của các dân tộc sống dọc theo biên giới với lănh thổ Nga, v́ có liên hệ, hay có cùng tên với dân Nga. Để đáp ứng đủ chỉ tiêu con số người phải bắt, nhiều đơn vị địa phương phải t́m cách dàn xếp. Một thí dụ xảy ra ở tỉnh Turménine. Lấy cớ vụ cháy tại một xưởng máy, nhân viên t́nh báo NKVD bắt giam tất cả công nhân của xưởng với cái tội là họ đă nhúng tay vào vụ cháy. Nhờ thế chính quyền vùng Turmine mới giao đủ con số tội phạm của nhà nước đưa ra.

    Đó là bản chất của các vụ đại khủng bố trong những năm 1936-1938.

    Trong các vụ đàn áp, cũng có một số đảng viên đảng cộng sản bị thủ tiêu. Nhưng so với tổng số nạn nhân, con số đảng viên bị hành quyết rất khiêm nhường. Có tất cả 681.692 đảng viên đảng cộng sản bị xử bắn.
    Trong tháng 5 và tháng 10 năm 1937, chính quyền cộng sản bắt 172.000 dân Đại Hàn đày sang các vùng Kazakhstan và Oubékistan. Những người Nga gốc Đại hàn bỏ nước trốn qua Nga tị nạn trong thời kỳ nước của họ bị Nhật đánh chiếm.
    Vô số người chết trong lúc bị tra tấn tại các văn pḥng công an, trong nhà lao, một số khác chết trên đường chuyển vận đến trại lưu đày.

    Năm 1937 có 25.000 người chết. Qua năm 1938 con số người chết lên đến 90.000. Đó là chưa kể đến con số người chết, dân Nga gốc Đại hàn.
    Các tài liệu hiện nay chỉ cho chúng ta thấy con số người chết một cách tổng quát trong các trại tập trung cải tạo khổ sai trong những năm cuối của thập niên 30. Nó không cho chúng ta biết chi tiết của từng giống dân và cũng không phân biệt con số nạn nhân của cuộc đại khủng bố. Tài liệu đáp ứng từng phần những người bị bắt giam trong thời kỳ Iejov giữ vai tṛ Ủy viên nhân dân đặc trách Nội vụ.

    Trong số nạn nhân của Iejov trong cuộc đại khủng bố trong hai năm 1936-1938, giới trí thức chiếm 70%. Như vậy, rơ ràng mục tiêu của các vụ khủng bố cuối thập niên 30 là nhắm vào những thành phần ưu tú trong xă hội, có tŕnh độ học vấn cao. Quyết nghị đầu tiên về việc khủng bố trí thức được biểu quyết chấp thuận trong kỳ đại hội lần thứ 20 của đảng cộng sản Nga. Cũng trong cùng thời điểm này, đảng ra mặt thanh trừng thẳng tay các đảng viên có khuynh hướng chống đảng. Kroutchev, trong một phiên họp kín, đă nêu lên số phận của 5 đảng viên trong Bộ chính trị đă từng là những đồng chí trung thành và thân cận nhứt của Staline. Đó là các ông Postychev, Roudzoutak, Eikhe, Kossior, Tchoubar. 98 thành viên trong số 193 thành viên trong Ủy ban trung ương đảng bị thành trừng ra khỏi đảng. Trong số 1966 đại biểu dự đại hội đảng lần thứ 17 trong năm 1934, có 7780 đại biểu bị thanh trừng và bị đàn áp.

    Trong số 385 bí thư đảng bộ địa phương , có 319 người bị bắt giam. 2210 bí thư chi bộ cũng bị bắt trên tổng số 2750 bí thư chi bộ trên toàn quốc. Nói chung , tất cả đảng viên đảng cộng sản nằm trong các phân bộ hay chi bộ đều bị Trung Ương đảng ghi vào sổ đen và bị thanh trừng. Họ bị nghi ngờ là đă phá hoại các chỉ thị và các quyết định của trung Ương ở thủ đô Mạc Tư Khoa và họ cản trở sự kiểm soát của Trung Ương về những diễn biến đă xảy ra trong nước. Có thể nói, Staline đă thay toàn bộ cán bộ cộng sản trong các cơ cấu chính trị cũng như hành chánh.

    Trung Ương đảng nghi ngờ nhất là thành phố Leningrad. Zinoviev giữ chức bí thư thành ủy. Kirov đă bị áp sát tại thành phố này. Hai lănh tụ đảng của thành phố, ông Jdanov và Zakovski trực tiếp ra lịnh bắt giam 90% cán bộ đảng trong thành phố.
    Để khuyến khích các cuộc khủng bố thanh trừng, Trung Ương gởi các đảng viên trung tín cùng với các toán t́nh báo về các tỉnh với nhiệm vụ thiêu đốt và tiêu diệt các con rệp Phát xí -Trotski , theo như báo Sự Thật tường thuật.

    Có những vùng đă diễn ra các cuộc thanh trừng rất đặc biệt. Như ở Ukraine. Trong năm 1938, khi Kroutchev đắc cử vào vào tṛ lănh đạo đảng cộng sản Ukraine, số người bị bắt giam trên 106.000. Phần lớn họ bị xử bắn. Trong số 200 ủy viên của Trung Ương đảng cộng sản Ukraine chỉ có 3 đảng viên c̣n sống sót. Ở một số vùng khác trên toàn lănh thổ Nga cũng xảy ra các thanh trừng tương tự như vậy. Bên cạnh các vụ xử án kín của ṭa án tam đầu chế, các cuộc xử án thanh trừng trong đảng thường được xét xử công khai, cho dân chúng tham dự. Các cuộc xử án công khai mang tính chất tuyên truyền. Mục đích của các vụ án này là nhầm lôi kéo một số thường dân kém hiểu biết về với chính quyền Trung Ương, chống lại những người lănh đạo địa phương.

    Các Tân bạo chúa luôn luôn tự măn về các hành động vô nhân của họ là tạo ra sự bất măn giả tạo. Nhưng các hành động này, ngược lại, chỉ tạo thuận lợi thêm cho phe Trotski. Cũng như các cuộc thanh trừng ở thủ đô, các vụ xử án ở địa phương dân chúng cũng được quyền tham dự và cũng được báo chí hô hào rầm rộ. Cuộc diện đảo ngược trật tự trong xă hội. Lớp người có quyền thề nay trở thành những kẻ tử tội. Và lớp người kém hiểu biết lại được tung hô. Theo bà Annie Kriegel, các cuộc xử án công khai là liều thuốc ngừa bịnh cho xă hội.

    Nhưng các cuộc thanh trừng các cấp lănh đạo địa phơơng và các nhân vật chủ chốt của đảng chỉ là phần nổi của tảng băng trên nước biển. Thí dụ ở tỉnh Orenbourg. Tại tỉnh này chúng tôi có một bản phúc tŕnh đầy đủ của cơ quan t́nh báo NKVD về các biện pháp thanh toán nhóm Trotski hoạt động trong ṿng bí mật, các nhóm thân Boukhaine và các nhóm phản cách mạng khác. Các cuộc hành quân diễn ra từ ngày 1 tháng tư đến ngày 18 tháng chín năm 1937. Trước khi Idanov được bổ nhiệm, trong ṿng năm tháng, cơ quan t́nh báo NKVD bắt giam 420 cán bộ hàng đầu của của các ngành kinh tế và chính trị, thân Trotski. Họ bắt thên 120 người khuynh hữu, đang lănh đạo các cơ quan hành chính địa phương. Số người này chiếm 45% trên tổng số cán bộ địa phương được nhà nước ưu đăi. Khi Idanov đến, các cuộc thanh trừng gia tăng cường độ. Có thêm 598 khác bị bắt và bị xử bắn. Từ mùa Thu năm 1937, tất cả các cán bộ lănh đạo chính trị và kinh tế địa phương trên toàn lănh thổ Nga đều bị sa thải và được thay thế bởi một thế hệ cán bộ mới như các đảng viên Brejnev, Kossiguine, Outinov, Gromyko. Trong thập niên 70, các đảng viên này được đề cử vào bộ chính trị.
    Bên cạnh các đảng viên cốt cán bị thanh trừng, đa số nạn nhân của các cuộc khủng bố là đảng viên không tên tuổi và thường dân. Đọc tiếp bản phúc tŕnh của cơ quan t́nh báo tỉnh Orenbourg, chúng ta biết:
    Trong số 2000 bị bắt v́ t́nh nghi thành viên của nhóm quân sự Cosaque thân nhật, có 1500 ngườ bị xử bắn.
    Trên 1500 sĩ quan, công chức thời Nga Hoàng, từ thành phố Leningrad đưa đi lưu đày đến vùng Ornbourg vào năm 1953 v́ bị coi như những phần tử xạ lạ với xă hội. Sau vụ ám sát Kirov , họ bị chuyển đi đến nhiều vùng khác nhau.
    250 người bị bắt v́ có dính líu đến dân Ba Lan.
    95 người bị bắt v́ có liên hệ đến người gốc Kharbine.
    1290 người bị đàn áp trong khuôn khổ của chiến dịch thủ tiêu các cựu địa chủ cường hào.
    1399 bị bắt v́ bị ghép vào các phần tử gây tội ác...
    Nếu cộng thêm một số người bị bắt trong các quân trường, tổng cộng con số người do cơ quan NKVD bắt trước khi Idanov đến là 7500.

    Trong số các nạn nhân của các cuộc thanh trừng, thành phần chỉ huy và cán bộ ngành ngoại giao chiếm đa số. Họ buộc vào tội làm gián điệp, làm tay sai cho ngoại bang. Những đảng viên đă từng làm đại sứ ở các quốc gia khác cũng bị thanh trừng. Như các ông Krestinski, Sokolikov, Bogomolov, Ioureniev, Ostrovski, ..
    Một số đảng viên cao cấp đặc trách kinh tế và chỉ huy các khu công nghiệp, các nhà máy lớn cũng bị thanh trừng v́ bị ghép vào tội phá hoại.
    Trong một số Bộ của chính phủ, có thể nói là toàn thể nhân viên phục vụ trong các bộ bị sa thải. Bộ chịu đàn áp nặng nhất là Bộ phụ trách trang bị cơ giới cho các nhà máy lớn. Chỉ trừ hai giám đóc, c̣n lại đều bị bắt giam, kể cả chuyên viên kỹ thuật.
    Chiến dịch thanh trừng cũng diễn ra ở các ngành sản xuất phi cơ, sản xuất tàu thủy, sản xuất xe vận tải,.. Chúng tôi chỉ có một số ít và từng phần tài liệu về các ngành này.

    Sau cuộc đại khủng bố, nhân kỳ đại hội đảng lần thứ 18, vào tháng 3 năm 1938, lănh tụ Kagnovitch thừa nhận rằng trong hai năm 1937-1938, tất cả nhân viên phục vụ ngành kỹ nghệ nặng hoàn toàn bị thay thế.
    Thời kỳ các đảng viên bị thanh trừng mạnh nhất là thời Iejovchina. Vào lúc đó, các đại biểu của các đảng cộng sản trên thế giới và của Quốc tế cộng sản đang lưu trú tại khách sạn Lux ở thủ đô Mạc Tư Khoa. Trong số lănh tụ lớn của đảng cộng sản Đức bị bắt giam, người ta biết đến các ông: Heinz Neuman, Herman Remmele, Fritz Schulte, Herman Schubert, từng là ủy viên Bộ chính trị; Ông Leo Frieg Bí thơ Ủy ban Trung Ương; Heinrich Susskind và Werner Hirsch, tổng biên tập tờ Rote Fahne; Ông Hugo Eberlin đại biểu đảng cộng sản Đức tại hội nghị thành lập Quốc Tế cộng sản.

    Sau hiệp ước bất tương xâm giữa nước Đức và Nga kư hồi tháng 9 năm 1939, Cộng sản Nga trao 590 cộng sản Đức bị nhốt trong các trại tù ở thủ đô Mạc Tư Khoa, cho Đức quốc xă tại chiếc cầu biên giới Brest-Litovski.
    Đảng cộng sản Hung gia lợi cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc thanh trừng. Ông Bela Kun, người khởi xướng cuộc cách mạng năm 1919 cùng với 12 Ủy viên nhân dân của chính phủ cộng sản Budapest lánh chạy ra Mạc Tư Khoa. Ông và các Ủy viên đều bị bắt và bị xử tử.

    Gần 200 đảng viên đảng cộng sản Ư cũng bị bắt. Trong số này có Paolo Robotti, em rễ của lănh tụ đảng cộng sản Ư, Togliatti.
    Gần 100 đảng viên đảng cộng sản Nam Tư cũng bị bắt. Trong số này có nhiều đảng viên được thế giới biết đến. Như các ông Tổng bí thư Gorkie, Bí thư kiêm lănh tụ Binh đoàn Quốc Tế Vlada Copie; và 3/4 các thành viên của Ủy ban Trung Ương đảng cộng sản Nam Tư.

    Đại đa số nạn nhân của cuộc đại khủng bố là thường dân. Sau đây là một hồ sơ thường của một tội nhân của năm 1938.

    Hồ sơ số 24260.

    I.-Lư lịch cá nhân:

    1.- Họ : Sidorov.

    2.- Tên: Vassili Klementovitch.

    3.- Nơi và năm sinh: Setchevo vùng Mạc Tư Khoa, năm 1893.

    4.- Địa chỉ cư ngụ: Setchevo, quận Lolomenski , Mạc Tư Khoa.

    5.- Nghề nghiệp: Công nhân viên hợp tác xă.

    6.- Khuynh hướng nghiệp đoàn: Hội viên nghiệp đoàn hợp tác xă.

    7.- Tài sản khi bị bắt: Một căn nhà gỗ 8m * 8m, mái tôle, sân có mái che rộng 20m*7m; một con ḅ cái, 4 con trừu, 2 con heo và một số gà vịt.

    8.- Tài sản vào năm 1929: có thêm 1 con ngựa.

    9.- Tài sản vào năm 1917: căn nhà gỗ 8m*8m, sân có mái che rộng 30m*20m; hai kho chứa lúa, hai kho chứa rơm, 2 con ngựa, 2 con ḅ cái, 7 con trừu cái.

    10.- T́nh trạng xă hội khi bị bắt: công nhân.

    11.- T́nh trạng trong quân độI Nga: Binh nh́ thuộc trung đoàn 6 Bộ binh trong năm 1915-1916.

    12.- Trong quân đội Bạch quân : Không có.

    13.- Trong quân đội Hồng quân: Không có.

    14.- Nguồn gốc xă hội: Tôi tự coi là con của gia đ́nh nông dân hạng trung.

    15.- Quá khứ chính trị: Không có gia nhập đảng phái nào.

    16.- Quốc tịch: Gốc dân Nga, công dân của Liên Bang Xô Viết.

    17.- Có gia nhập đảng cộng sản Nga: Không.

    18.- Tŕnh độ học vấn: Tiểu học.

    19.- T́nh trạng quân sự hiện tại: Thuộc thành phần trừ bị.

    20. Quá khứ tư pháp: Không có tiền án.

    21. T́nh trạng sức khỏe: Bịnh sán khí.

    22.- Gia cảnh: Vợ tên là Anastia Fedorovna, 43 tuổi, con gái tên Nina, 24 tuổi.

    Cơ quan t́nh báo an ninh NKVD địa phương bắt giam ngày 13 tháng 2 năm 1938.

    II. Bản hỏi cung và lời khai của phạm nhân:

    Hỏi: Anh hảy giải thích tài sản của anh trước và sau 1917, từ đâu mà có ?

    Khai: Cha mẹ tôi làm nghề buôn bán. Năm 1904 cha tôi có một cửa tiệm nhỏ ở phố Zolotorojskaia , Mạc Tư Khoa. Theo lời cha tôi kể, chỉ có ḿnh cha tôi quản lư, không có mướn người làm. V́ không thể cạnh tranh với các tiêm buôn lớn, cha tôi phải dẹp tiệm. Cha tôi trở về vùng quê Sytchevo và thuê ở đó 6 mẫu đất làm ruộng và thuê 2 mẫu khác để trồng cỏ. Cha tôi có thuê một người giúp việc tên là Goriatchiev cho đến năm 1916. Qua năm sau chúng tôi vẫn quản lư sở đất nhưng mất hai con ngựa v́ lịnh trưng dụng của nhà nước. Đến năm 1925 cha tôi mất. Tôi và em tôi chia đôi cơ sở sản xuất.
    Tôi thấy tôi không có phạm tội ǵ và cũng không hề là thủ phạm của một tội ác nào.


    III. Bản buộc tội.

    Tên Sidorovđă có tư tưởng xấu đói với chính quyền Xô Viết nói chung và đối với đảng cộng sản nói riêng. Hắn thi hành có kế hoạch chống lại chế độ Xô Viết. Hắn viết rằng Staline và đồng đảng của ông ta không có ư muốn rời chính quyền. Staline đă giết nhiều người mà không chịu từ chức. Nhóm Bônsêvich muốn giữ chính quyền và cho bắt giam những thường dân lương thiện, mặc dù họ không hề nói điều ǵ. Nếu họ nói ra , người ta sẽ bắt họ lưu đày vào các trại lao động khổ sai trong ṿng 25 năm.
    Bị cáo Sidorov đă khai và không nhận tội. Nhiều nhân chứng tố cáo và đă lột mặt nạ của hắn. Nội vụ đă được đưa ra xử tại ṭa án Tam đầu chế.

    Kư tên: Galkine, Thiếu úy an ninh quốc gia,

    Trưởng toán an ninh quận Kolomenskoie.


    IV. Quyết định của ṭa án Tam đầu chế ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1938:

    Vụ Sidorov V.K. , cựu thương gia, cùng với cha khai thác một tiệm buôn.
    Bị cáo đă tuyên truyền chống cách mạng, đưa ra những lời phá hoại và hâm dọa đảng viên đảng cộng sản, những lời chỉ trích, chống lại chính sách của đảng và nhà nước.

    Tuyên án: Xử bắn tên Sidorov Vassili Klementovitch, tịch thu toàn bộ tài sản. Lịnh xử bắn thực thi ngày 3 tháng 8 năm 1938.
    Đă được phục hồi sau khi chết.

    Nguồn gốc tài liệu: Volia- số 2- 3 trang 45-46.

    Dân Nga gốc Ban lan cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều trong cuộc đại khủng bố. Nhất là đảng cộng sản Ba Lan. Đảng cộng sản Ba Lan xuất phát từ đảng Xă Hội Dân Chủ của Vương quốc Ba Lan và Lituaine. Năm 1906, đảng được hưởng quy chế tự trị khi gia nhập đảng công nhân Xă Hội Nga. Féliks Dzerjinski là liên lạc viên chính thức giữa hai đảng cộng sản Nga và Ba Lan. Nhiều đảng viên về sau vẫn c̣n hoạt động trong đảng Bônsêvich. Một số đảng viên tên tuổi, và đều giữ ngành t́nh báo công an, như Dzerjinski, Menjinski, Unschlikth, Radek,..

    Trong hai năm 1937-1938, toàn bộ đảng cộng sản Ba Lan đều bị thủ tiêu. 12 thành viên trong Bộ chính trị đảng cộng sản Ba Lan có mặt tại Mạc Tư Khoa cùng với các đảng viên đại diện thường trực cơ quan Quốc Tế cộng sản cũng chịu cùng số phận.
    Ngày 28 tháng 11 năm 1938, Staline kư nghị quyết ra lịnh tiêu diệt hoàn toàn đảng cộng sản Ba Lan. Phe lên thay là phe chống đối trong đảng cộng sản Ba Lan bấy lâu nay.

    Ngày 16 tháng 8 năm 1938, Ban chấp hành Cộng Sản Quốc Tế biểu quyết giải tán đảng cộng sản Ba Lan. Theo lời giải thích của Manouilski, các chức vụ then chốt của đảng cộng sản Ba Lan đều nằm trong tay của phe Phát-Xít Ba Lan.
    Về sau, các thành viên lănh đạo Xô Viết trong Quốc Tế Cộng sản cũng trở thành nạn nhân của cuộc thanh trừng. Đó là trường hợp của Korine, thành viên của ủy ban Trung Ương; Mirov Abramov, trưởng ban tuyên truyền nước ngoài; Alikhanov, trưởng ban tổ chức cán bộ; và vài trăm thành viên khác cũng bị thủ tiêu. Vài thành viên v́ hoàn cảnh liên hệ với Staline c̣n sống sót như Manouilski và Kuunisen.

    Vụ thanh trừng được biết chính xác nhất là vụ thanh trừng các tướng lănh. Ngày 11 tháng 6 năm 1937, báo chí loan tin ṭa án quân sự xử vụ Thống chế Toukhatchevski. Ông ta là phó Ủy viên đảm trách bộ Quốc Pḥng và là người có công trong kế hoạch canh tân quân đội Hồng quân. Ông bị ghép vào tội làm gián điệp và phản bội, bởi v́ ông không cũng quan điểm với Staline và Vorochilov trong cuộc chiến tranh với Ba Lan hồi năm 1920. Cùng với thống chế Toukhatchevski, có 7 tướng lănh cũng bị kết án tử h́nh. Đó là các tướng Iakir, Ouborevitch, Eideman, Kork, Poutna, Feldman, Primakov. Mười ngày sau đó, Staline ra lịnh bắt giam 980 sĩ quan cao cấp, trong số này có 21 Tướng cấp quân đoàn và 37 Trung tướng. Staline đă cho sắp đặc vụ án âm mưu quân sự do Thống chế Toukhatchevski cầm đầu từ mấy tháng trước đó. các bị cáo chính bị bắt từ tháng 5 năm 1937. Họ bị tra tấn rất dă man. [ 20 năm sau, danh dự Thống chế được phục hồi. Trên các tờ khai của Thống chế c̣n dính nhiều vết máu. ]. Đích thân Iejov điều tra Thống chế Toukhatchevski. Bị cáo đều thú nhận tội vài ngày trước khi đưa ra ṭa án quân sự xét xử. Staline tự tay kiểm tra các bản án. Ngày 15 tháng 5 năm 1937, đại sứ Liên Xô tại Tiệp Khắc chuyển một hồ sơ giả cho t́nh báo Đức Quốc Xă. Trong hồ sơ này có các bức thơ ngụy tạo danh nghĩa Thống chế Toukhatchevski gởi cho quân đội Đức. Đó là lư do Thống chế và một số Tướng Tá trong quân đội Cộng sản bị thanh trừng.

    Trong ṿng 2 năm, Hồng quân đă khai trừ :

    Ba vị Thống Chế trong năm Thống chế đang tại chức. Đó là các Thống chế Toukhatchevski, Tegorov và Blucher. Hai vị sau bị thanh trừng vào tháng 2 năm 1938 .

    13 Đại Tướng cấp quân đoàn trong số 15 vị đang tại chức.

    8 Đô Đốc trong số 9 vị đang tại chức.

    50 Đại Tướng cấp Phó quân đoàn trong số 57 vị đang tại chức.

    154 Trung Tướng cấp sư đoàn trong số 186 vị đang tại chức.

    16 Chính ủy cấp quân đoàn trong số 186 vị đang tại chức.

    25 Chính ủy cấp phó quân đoàn trong số 16 vị đang tại chức.

    Từ tháng 5 năm 1937 đến tháng 8 năm 1938 có tất cả 35.020 sĩ quan bị bắt giam hay sa thải khỏi quân đội. Con số sĩ quan bị hành quyết đến nay chưa được biết. Qua năm 1939-1941, có 11.000 sĩ quan được lịnh tái ngũ. Trong số đó có Tướng Rokossovski và Gorbatov. Tóm lại , cuộc thanh trừng trong hàng ngũ quân đội, có khoảng chừng 30.000 sĩ quan chỉ huy bị bắt hay sa thải trong số 178.000 vị đang tại chức.

    Về phương diện chiến lược, việc thanh trừng trong quân đội là một điểm bất lợi cho Hồng quân trong các cuộc chiến đương đầu với Ba Lan và quân Đức quốc xă trong năm 1940.

    Hai lănh tụ Boukharine và Litvinov khuyến cáo Staline về nguy cơ của quân Đức quốc xă dưới quyền lănh đạo của Hitler, nhưng Staline không lưu tâm. Việc thanh trừng các Tướng lănh mạnh miệng lên tiếng chống lại ư kiến của Staline, để thay bằng các đảng viên không có kinh nghiệm nào với Staline, đă tạo cơ hội cho Staline tự ư định đoạt về các chính sách chính trị và quân sự thân thiện với Đức vào cuối thập niên 30.

    Có rất nhiều tài liệu về nạn nhân thuộc thành phần trí thức. Từ khi thành h́nh một bộ phận được thừa nhận trong xă hội , lực lượng trí thức Nga từ giữa thế kỷ thứ 19 đă chính thức được coi là trung tâm chống lại chuyên quyền và các h́nh thức nô lệ tư tưởng. Cho nên khi có cuộc thanh trừng, th́ trí thức là đối tượng chính cần phải đàn áp. Lúc ban đầu, các cuộc đàn áp c̣n ôn ḥa, diễn ra từ năm 1922 đến các năm 1928-1931. Vào tháng 3 và tháng 4 năm 1937, báo chí mở chiến dịch lên án nhà nước về những điều sai lầm trong chính sách kinh tế, lịch sử và văn chương. Về lịch sử, sử gia Pokrovski đă chết vào năm 1932. Các môn đệ của ông đều bị bắt giam. Tư tưởng và tri thức sáng tạo phải làm theo chỉ thị. Mục đích của ư thức hệ chính trị đă bao che các tham vọng và sự tranh đua. Các vị giáo sư đại học thường hội thảo nhằm lôi kéo tầng lớp sinh viên, trở thành mục tiêu của các cuộc đàn áp. Chỉ cần một sơ hở nhỏ trong khi thảo luận, đủ cho một số sinh viên chỉ điểm được gài trong tập thể sinh viên, tố cáo các vị giáo sư này. Một số lớn giáo sư của các viện đại học, thành viên của các hàn lâm viện hay của các học viện đều bị sát hại.

    Tại Biélorussie, trong số 105 vị hàn lâm, có 78 vị bị hành quyết v́ bị tố cáo là làm gián điệp cho Ba Lan.
    Từ năm 1933, chiến dịch đàn áp các phần tử quốc gia trưởng giả - cái tên do chính quyền cộng sản gán cho tầng lớp trí thức- thực sự phát động nhắm vào hàng ngũ trí thức vùng Ukraine. Những người trí thức bị gán cho cái tội phá hoại các hàn lâm viện Khoa học, học viện Chevtchenko, hàn lâm viện canh nông, học viện Mat-Lenin. Và biến các nơi này thành các sào huyệt của những người phản cách mạng. Và những năm 1937-1938 là những năm kết thúc cuộc thanh trừng đă phát động từ 4 năm trước.
    Từ xưa, giới Khoa học đă có liên hệ mật thiết với chính trị, kinh tế, quốc pḥng và kinh tế. Chính quyền luôn luôn theo doĩ và đàn áp các giới này. Thí dụ như kỹ sư hàng không Tupolev và khoa học gia Korolev, người lănh đạo chương tŕnh không gian của Liên Xô bị bắt giam trong trại tập trung đặc biệt của cơ quan t́nh báo NKVD theo như nhà văn Soljenitsyne viết trong tác phẩm Ṿng đầu .

    Trong số 29 nhà thiên văn học phục vụ trong trung tâm nghiên cứu vũ trụ lớn ở Polkouvo, chính quyền bắt giam 27 người.
    Toàn thể nhân viên của Trung tâm thống kê trung ương sau khi làm xong bản thống kê trong năm 1937 , đều bị bắt nhốt. Nhà nước viện lư do, trung tâm thống kê đă vi phạm nguyên tắc căn bản sơ khai của môn khoa học thống kê và đă làm sai chỉ thị của nhà nước.

    Nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học chống lại lư thuyết của nhà ngôn ngữ Maxit được Staline thừa nhận là ông Marr, cũng bị bắt giam.
    Nhiều nhà sinh vật học tốt nghiệp và thành công trong nhiều lănh vực nghiên cứu sinh học đă vạch trần lư thuyết lừa bịp của nhà sinh vật học chính thức của chế độ cộng sản Lyssenko, cũng bị bắt. Theo ông Lyssenko, lúa ḿ cũng có thể trồng được trong mùa Đông. Trong số nạn nhân này, có nhà sinh vật học lừng danh là Giáo sư Levit, giám đốc viện nghiên cứu Y khoa Di Truyền Học, Giáo sư Toulaikov , giám đốc viện nghiên cứu Thảo Mộc, Giáo sư Ianata thuộc viện nghiên cứu Thực vật và là thành viên của hàn lâm viện nông nghiệp Lenine, bị bắt giam ngày 6 tháng 8 năm 1940 và chết trong tù ngày 26 tháng giêng 1943.

    Bị kết án bởi cái tội đă bảo vệ những tư tưởng ngoại lai, thù địch và muốn tách rời ra khỏi tiêu chuẩn thực tế của Xă hội chủ nghĩa, các nhà văn, các nhà diễn kịch, các nhà báo đă trả một giá quá đắc trong thời điểm Iejovchina.
    Có chừng 2000 nhà văn bị bắt giam mặc dù họ đă gia nhập vào hội văn bút của nhà nước.

    Một số bị xử tử, số khác bị đưa đi lao động khổ sai. Trong số các nhà văn bị bắt, có vị đă cho ra đời một số tác phẩm văn chương lớn. Văn sĩ Issak Babel, tác gỉa của hai tác phẩm Câu chuyện ở Odessa và Đoàn kỵ binh đỏ , bị xử bắn ngày 27 tháng giêng năm 1940.

    Các nhà văn Boris Pilniak, Iouri Olecha, Panteleimon Romanov và các thi hào Nikolai Kliounev, Nikolai Zabolotski, Ossip Mendelstam chết trong trại chuyển tiếp ở Siberie ngày 26 tháng chạp năm 1938, Gourgen Maari, Titsian Tabidze. Các nhà viết nhạc Jeleiev, nhạc trưởng Mikoladze cũng bị bắt cùng với các nhạc sĩ , nghệ sĩ sân khấu và nhà đạo diễn Vsevolod Meyerhold.

    Đầu năm 1938, chính quyền ra lịnh đóng cửa nhà hát lớn Meyerhold, với lư do là nó xa lạ với nghệ thuật Xô Viết. Nhà đạo diễn của nhà hát lớn không chịu tự kiểm thảo nên chính quyền bắt giam ông vào ngày 6 tháng 5 năm 1939. Sau một thời gian tra tấn, chính quyền cộng sản đem ông ra bắn vào ngày 2 tháng 2 năm 1940.
    Trong thời gian kể trên, chính quyền muốn thanh toán vĩnh viễn tàn dư của Giáo Hội. Bản thống kê năm 1937 cho thấy 70% dân chúng vẫn c̣n giữ Đức Tin mặc dù chịu nhiều h́nh thức áp lực của chính quyền. Trong cuộc phóng vẫn trong khi làm bản thống kê, khi được hỏi Anh có đức tin không?, họ trả lời có .

    Các nhà lănh đạo Xô Viết quyết mở trận tấn công cuối cùng vào sào huyệt của Giáo Hội. Tháng 4 năm 1937, lănh tụ Malenkov gởi cho Staline một văn thơ với nội dung cho rằng các luật lệ về hành đạo đă lỗi thời và đề nghị hủy bỏ đạo luật kư ngày 28 tháng 4 năm 1929. Ông viết: Chiếu theo đạo luật này, Giáo Hội cũng như các Giáo Phái khác được phép hành đạo. Giáo Hội có trên 600.000 giáo dân. Đó là một lực lượng thù địch đáng kể đối với chính quyền. Đă đến lúc chúng ta phải dứt khoát với Giáo Hội và các vị chức sắc trong trong Giáo Hội cũng như trong các Giáo Phái khác.

    Hàng ngàn Linh Mục, Giám mục bị bắt đưa vào các trại tập trung lao động khổ sai. Một số bị hành quyết. Trong tổng số 20.000 giáo đường c̣n cho phép hoạt động vào năm 1936, sang năm 1941, không c̣n quá 1000 nhà thờ hoạt động. Có 5665 Giáo sĩ chính thức đăng kư hoạt động vào đầu năm 1941. Phần lớn họ sinh hoạt trong các vùng Balte, Ba Lan, Ukraine và Moldavie , sát nhập vào Liên Bang Xô Viết năm 1939-1940. Đó là những người c̣n sống sót trên tổng số 24000 Giáo sĩ vào năm 1936.

    Như đă đề cập ở trên, cuộc đại khủng bố là do các lănh tụ cộng sản Nga mà nhất là do Staline chủ trương và thi hành. Staline thống trị trên các đồng chí của ông trong Bộ Chính Trị. Ông ta đạt được hai mục tiêu chính. Quan trọng nhất là ông đă thiết lập được một guồng máy hành chánh và quân sự dưới quyền kiểm soát của ông. Ông đưa lực lượng thanh niên trẻ vào đảm nhận các chức vụ trong các cơ quan . Họ là những thanh niên trẻ, đă chịu ảnh hưởng của Staline trong những năm 30.

    Theo lời khai của ông Kaganovitch trước đại hội đảng lần thứ 18 , lớp thanh niên trẻ nhận lănh và thi hành bất cứ công tác nào cuả Staline giao phó cho họ. Trước đây, nhân viên phục vụ tại các cơ quan nhà nước là một thành phần hỗn hợp giữa cán bộ Bônsêvich và các chuyên viên trí thức tiểu tư sản được đào tạo từ chế độ cũ. Thường, khả năng của cán bộ Bônsêvich kém hơn v́ họ không được đào đạo đúng đắn trong thời nội chiến. Nhưng họ quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng và công ăn việc làm hiện nay của họ. Phương pháp làm việc hành chánh của họ rất đơn giản . Họ làm việc tự trị, không thi hành các lịnh của Trung Ương đưa ra. Dưới con mắt của Staline, họ là những người Bônsêvich thoái hóa. Trong cuộc kiểm tra thẻ đảng viên năm 1935, các nhân viên kiểm tra gặp phải sự kháng cự thụ động của các cán bộ địa phương và sự bất hợp tác của các chuyên viên, đă dẫn đến một kết quả không tốt cho cuộc kiểm tra toàn quốc trong tháng giêng năm 1937. Điều này không phù hợp với nguyện vọng của Staline. V́ thế Staline ra lịnh khẩn cấp thay thế bằng những nhân viên dễ dạy hơn để có thể đạt nhiều hiệu năng trong các công tác.

    Mục tiêu thứ hai của cuộc đại khủng bố là hoàn thành một cách lũy tiến trong công tác loại bỏ các thành phần nguy hiểm cho với xă hội , một cụm từ mang ư nghĩa rộng lớn.
    Theo Bộ h́nh luật, thành phần nguy hiểm cho xă hội bao gồm những ai có một hành động gây nguy hại cho xă hội dù trong quá khứ hay đang xảy ra. Kể cả những người có liên hệ với các thành phần gây nguy hiểm. Nếu áp dụng các điều trong bộ H́nh luật, th́ các cựu địa chủ, cựu quân, cán, chính thời Nga Hoàng, cựu đảng viên đảng Mensêvich, đảng xă hội cách mạng,...đều là những người có tội. Và theo Staline, các thành phần này cần phải được thanh toán. Theo lư thuyết của Staline đưa ra trong kỳ đại hội Ủy ban trung Ương tháng 2 và 3 năm 1937, càng tiến lên xă hội chủ nghĩa, th́ cuộc đấu tranh với giai cấp đang hấp hối, càng gay gắt hơn.

    Và cũng trong kỳ đại hội này, Staline báo động: Cộng Ḥa Liêng bang Xô Viết đang bị chủ nghĩa tư bản bao vây. Liên Xô là quốc gia duy nhất đang xây dựng Xă hội chủ nghĩa, và đang bị các quốc gia lân cận bao vây. Các nước Phần Lan, Ba Lan, Lỗ Ma Ni, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản đang được các nước tư ban Pháp, Anh trợ giúp để phá hoại sự nghiệp xây dựng xă hội chủ nghĩa của Liên Xô.

    Liên Xô , được thánh phong , đi hàng đầu, lănh sứ mạng thiêng liêng chống lại kẻ thù đang túc trực ở bên ngoài. Trong t́nh trạng này, công tác thường xuyên phải truy lùng t́m bắt các tên gián điệp. Nói một cách khác, bất cứ người nào có liên hệ với bên ngoài, dù rất ít cũng phải bị kết tội và phải bị thủ tiêu. V́ vậy thủ tiêu kẻ thù có thế lực là huyền thoại của đạo quân thứ năm , là lư thuyết cơ bản cho tất cả các hành động của cuộc đại khủng bố.

    Qua việc phân tích và phân loại các nạn nhân của cuộc Đại Khủnh Bố, trong đó bao gồm cán bộ, chuyên viên, thành phần nguy hiểm cho xă hội, cựu địa chủ, gián điệp,.. chúng ta đă thấu hiểu tường tận cực điểm của cuộc hành quyết với gần 700.000 nạn nhân trong ṿng hai năm.

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

  6. #16
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản


  7. #17
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản

    Phần 1. Chương 11


    ĐẾ QUỐC NGỤC TÙ



    Phát động các cuộc đàn áp sâu rộng trong một xă hội dân chính sẽ đưa đến sự h́nh thành một chế độ cưỡng bách lao động quá sức rộng lớn. Sự kiện này chưa hề xảy ra trước đây.
    Ngày nay, với các văn khố về chế độ lao tù của những năm 30 mở cửa, cho phép các nhà nghiên cứu t́m hiểu tượng tận về tiến tŕnh thành lập trại tập trung, về cách thức đàn áp, con số người bị bắt giam, các nguyên nhân bắt người đi lao động cưỡng bách và các lư do kết án buộc tội. Mặc dù bộ phận hành chánh của các trại tù ghi chép chính xác con số tù nhân, nhưng vẫn không sao biết được con số người chết trên con đường đi đến các trại tù, hay chuyể từ trại này qua trại khác.

    Giữa thập niên 30, con số phạm nhân phỏng chừng 140.000 đang lao động cưỡng bách ở các công trường đào kinh từ biển Baltique đến Bắc Hải. V́ nhu cầu đào kinh cần con số nhân lực 120.000, cho nên chính quyền phải chuyển con số tội phạm từ các khám đường qua các trại lao động cưỡng bách. Con số nạn nhân trở thành tội nhân gia tăng rất nhanh. Năm 1929 công an bắt giữ 56.000 người. Qua đến năm sau con số này tăng lên 208.000. Ngoài ra, các cơ quan khác như Bộ Tư pháp, Nội vụ, và Quân đội cũng bắt đưa đi lao động khổ sai 1.178.000 người trong năm 1929. Hai năm sau tăng lên 1.238.000. Đến năm 1932 con số phục vụ khổ sai cho công tác đào kinh lên đến 300.000 người. Có chừng 10% tù lao động khổ sai chết.

    Tháng 7 năm 1934, sau khi tái tổ chức, cơ quan Guépou trở thành cơ quan Trung Ương quản lư các trại tập trung NKVD thuộc bộ Nội vụ. Cơ quan có trong tay 708 đơn vị hệ thống lao tù, bắt giữ 212.000 tội phạm. Năng xuất của các trại tù này rất thấp so với nhu cầu của Ủy Ban tư pháp nhân dân. Để đạt được chỉ tiêu cao như các nơi khác, hệ thống lao động khổ sai được tái tổ chức thành các đơn vị chuyên môn, các trại sản xuất chuyên nghiệp, với tầm mức rộng lớn. Các tổ hợp thành h́nh. Mỗi tổ hợp có chừng vài ngàn phạm nhân phục vụ. Chính các tổ hợp này là những đơn vị kinh tế căn bản của chính quyền cộng sản dưới thời Staline.

    Đầu năm 1935, chế độ trại tù tập trung lao động được tổ chức thống nhất, quy tụ 965.000 tù nhân. Trong số này có 725.000 tù của các trại khổ sai và 240.000 thuộc thanh phần khẩn hoang, tội nhẹ có án dưới 3 năm. Kế hoạch 20 năm đă được hoạch định. Tù nhân trên quần đảo Solovski bắt đầu công tác chặt cây ở bán đảo Carelie, ven biển Bắc hải trong vùng Volga. Tổ hợp lớn Svirlag quy tụ 43000 tội phạm có nhiệm vụ cung cấp củi cho toàn vùng thành phố Leningrad. Tổ hợp Temnincovo quy tụ 35.000 , phục vụ củi cho Thủ Đô Mạc Tư Khoa.Tại ngă tư chiến lược Kotlas, công tác xây các trục lộ giao thông, đường xe lửa để chuyển than củi và gỗ cho các khu hầm mỏ ở phía Tây Vym, Oukhta, Petchora và Vorkouta.

    Tỏ hợp Oukhpetchlag xử dụng 51.000 nhân công tù vào công tác thiết lập hệ thống giao thông cho các khu vực hầm mỏ ở phía Bắc. Một bộ phận được chỉ định đi vùng Bắc Oural. Các tổ hóa học làm việc tại Solikamsk và Berezniki. Tổng số tù lao động ở Tây và TâyNam Siberie là 63.000 phục vụ không công cho mỏ than Kouzbassougol.
    30.000 tù cải tạo đang phục vụ cho nền nông nghiệp ở Steplag thuộc cộng ḥa Kazakhstan được đưa đi làm thí điểm khai thác cánh đồng cỏ . Tuy vậy chế độ lao động ở vùng này tương đối ít cùng cực hơn các nơi khác. Công trường Dmitlag với con số tù 196.000, sau khi đào xong con kinh từ biển Baltique thông qua vùng Bắc Hải, nay được huy động đi đào con kinh lớn nhất trong thời Staline. Đó là con kinh nối liền Thủ đô Mạc Tư Khoa với vùng sông Volga. Một đại công trường khác có tầm vóc vị đại như Kim tự tháp của Ai Cập , đó là công trường BAM, viết tắc của Baikalo-Amourakaia Magistral. Đó là con đường xe lửa xuyên qua vùng Tây Bá Lơị Á, từ hồ Baikal đến sông Amon.
    Đầu năm 1935, 150.000 tù nhân lao động cưỡng bách trong vùng Bamlag được chia ra làm 30 sư đoàn, khởi công xây dựng phần đầu của con đường xe lửa này. Đến năm 1939, con số tù phục vụ cho công tŕnh đường sắt lên đến 260.000. Đó là con số tù lao động khổ sai kỷ lục trong một trại tập trung dưới thời cộng sản.

    Một công trường khác mang tính chiến lược cho nền kinh tế Nga là bắt tù cải tạo khai thác vàng ở vùng Tây Bắc nước Nga. Đó là tổ hợp Dal Stroi. Các mỏ vàng nằm trong vùng Kolyma, một vùng chỉ có thể liên liên lạc bằng đường biển, khí hậu vô cùng khắc nghiệt, nhất là cái lạnh của mùa Đông. Từ trung tâm này, tù cải tạo đă xây các con đường dẫn đến các trại tù khác . Văn sĩ Varlam đă diễn tả cuộc sống cùng cực của tù nhân và lối cai trị vô nhân đạo của cai tù trong các tác phẩm của ông. Từ năm 1932 đến năm 1939, với con số nhân lực 138.000 ,số lượng vàng được sản xuất từ 276 kư cho đến 48.000 kư, chiếm 35% tổng số vàng khai thác trên toàn nước Nga.

    Tháng 6 năm 1935, chính quyền cộng sản đưa tù nhân đi khai thác kim loại Nickel trong vùng Norilsk, Bắc Cực. Có 70.000 tù nhân bị đưa đến vùng lạnh chết người này.
    Nhà nước cho rằng lao động khổ sai là h́nh thức cải tạo. Do vậy, chỉ tiêu do nhà nước chỉ định không lệ thuộc vào các điều kiện vật chất, kinh tế hay địa dư. Các cơ quan quản lư tù nhân kư hợp đồng với các cơ quan khác rồi bắt tù nhân thi hành. Từ công tŕnh thủy điện, cục Hơa xa cho đến tổng cục Kiều lộ,.. các cơ quan này có thể trao đổi tù nhân lao động khổ sai với nhau như họ trao đổi hàng hóa.
    Vào thời kỳ thứ hai của kế hoạch ngũ niên, con số tù lao động khổ sai ở các trung tâm tăng lên gấp đôi. Đầu năm 1935, có 965.000 tù lao động. Qua năm 1941 tăng lên 1.930.000 người. Con số tù lao động tăng lên quá nhanh làm xáo trộn cơ cấu tổ chức trong các trung tâm lao động. Điều này dẫn đến hệ quả là năng xuất sản xuất giảm sút.

    Năm 1937 sản phẩm chỉ bằng 13% của năm 1936.
    Ngày 10 tháng 4, để cải tiến mức sản xuất, tân ủy viên bộ nội vụ, ông Lavrenti Beria cho thi hành một biện pháp mới, tái tổ chức các trại cải tạo. Không đặc nặng vấn đề truy lùng tù cải tạo, thay vào đó, ông cho thi hành chính sách lành mạnh quản lư kinh tế.

    Với tiêu chuẩn năng lượng trong phần ăn mỗi ngày dành cho tù lao động là 1400 calori, th́ chỉ đủ để cho họ ngồi không trong các nhà tù. Cho nên con số tù có khả năng lao động của những năm trước, nay trở thành bất lao động. Họ không c̣n đủ năng lực dùng cho lao động với khẩu phần ăn quá thiếu thốn. Con số tù bất khả lao động lên đến 250.000 tính từ ngày 1 tháng 3 năm 1939. Số tù cải tạo chết trong năm 1938 là 8%.
    Để đạt tiêu chuẩn do bộ Nội vụ đưa ra và để khai thác hợp lư và tối đa khả năng lao động, Beria đề nghị gia tăng khẩu phần ăn cho lao công, băi bỏ lịnh tạm tha trước thời hạn, trừng phạt các tù nhân bất măn để làm gương, gia tăng giờ làm việc mỗi ngày lên 11 giờ, và mỗi tháng được nghỉ 3 ngày.

    Theo các tại liệu trong các văn khố, việc luân chuyển tù nhân xảy ra thường xuyên. Hàng năm có từ 20% đến 35% tù nhân đựơc phóng thích. Đó là con số tù bị kết án dưới 5 năm. Con số tù loại này chiếm 57% trên tổng số tù vào đầu năm 1940.
    Nhưng đối với các tù chính trị bị bắt giam trong những năm 1937-1938, Bộ Nội Vụ có quyền bắt giam trở lại, cho dù đă đến ngày phóng thích. Cho nên , một khi bị bắt vào các trại lao động khổ sai là kể như không có ngày về. Nhưng cho dù được phóng thích, họ cũng không có quyền trở về quê quán cũ. Chính quyền chỉ định nơi cư ngụ, lại cũng chỉ là một h́nh thức lưu đày khác.

    Nhưng các trung tâm tù lao động không phải chỉ dành riêng cho các tù chính trị, phản cách mạng , hay phạm vào một trong 14 tội được ghi trong điều 58 của bản tân hiến pháp . Hàng năm, con số tù nhân gia tăng. Họ bị bắt và bị kết án đă vi phạm vào các điều luật đàn áp đối với tất cả các sinh hoạt b́nh thường hằng ngày. Như các tội phung phí tài sản xă hội chủ nghĩa, không có giấy thông hành, du đăng, đầu cơ tích trữ hàng hóa, bỏ sở làm, làm không đúng tiêu chuẩn,.. Những tội phạm này vừa không phải là tù chính trị, vừa không phải tù thường phạm. Họ chỉ là những công dân b́nh thường. Đó là kết quả của một thập niên đàn áp của đảng nhà nước đối với mọi thành phần càng ngày càng lớn trong xă hội. Kết quả này có thể gom lại trong bản thống kê tạm thời:
    Nạn đói năm 1932-1933 giết chết 6.000.000 người. Đó là hậu quả của chính sách cưỡng bách tập thể hóa nông nghiệp, chính sách trưng thu trưng dụng.

    Xử tử 720.0000 người. Trong số này có 680.000 bị hành quyết trong hai năm 1937-1938.

    300.000 giấy khai tử cấp phát trong các năm 1934 đến 1940. Đó là chưa kể đến những người bi giết chết, không được nói đến trong năm 1930-1934. Có thể tính trong tṛn 10 năm chết 400.000.

    600.000 người chết thuộc diện đi khai hoang.

    2.200.000 bị bắt buộc rời quê quán ra các vùng kinh tế mới .

    Từ năm 1934 đến năm 1941 có 7.000.000 người bị bắt vào các trại lao động khổ sai.
    Trong số 53 trung tâm lao động cải tạo vào đầu năm 1940, có 425 trại với con số tù lên đến 1.670.000 người. Bộ Nội Vụ cũng c̣n bắt giữ 1.200.000 người thuộc diện chờ đi vùng kinh tế mới.

    Cho dù có giảm bớt các con số tù nhân, các sử gia cũng phải thừa nhận rằng sự hiện diện của các tù lao động khổ sai trong các trung tâm lao động cưỡng bách là một bằng chứng hùng hồn của một chính sách đàn áp dân chúng vô cùng dă man của chính quyền cộng sản trong thập niên 30.

    Từ cuối năm 1939 đến mùa hè năm 1941 các trại khổ sai lao động, các tổ lao động khẩn hoang và các vùng di cư đặc biệt của Goulag đă tăng dân số rất cao. Con số người bị trục xuất do việc Xô Viết Hóa các vùng đất khác sát nhập vào Liêng Bang và do các hành dộng mà nhà nước cộng sản cho rằng bất chính trong khi chính những nạn nhân cho rằng đó là tự do.

    Ngày 24 tháng 8 năm 1939, thế giới lấy làm ngạc nhiên về hiệp ước Bất Tương Xâm lăng được kư giữa Liên Xô và Đức Quốc Xă. Hiệp ước này đă làm cho các nhà cầm quyền Tây Âu lúng túng v́ họ chưa chuẩn bị tinh thần cho dân chúng. Nó làm đảo ngược các hiệp ước đă có từ trước. Nhiều nhà chính trị lúc bấy giờ không thể hiểu được cái ǵ sẽ xảy ra do sự phối hợp hai luồng ư thức hệ trái ngược với nhau đó.

    Ngày 21 tháng 8 năm 1939, chính quyền cộng sản đă hoăn lại các cuộc thương thuyết với chính phủ Anh và Pháp khi hai phái đoàn này đến thủ đô Mạc tư Khoa vào ngày 11 tháng 8 năm 1939 với mục đích là thành lập thế tam giác để chống lại Đức Quốc Xă. Lănh tụ bộ ngoại giao Xô Viết ông Molotov, từ đầu năm 1939 đă có thái độ tránh né kư kết thỏa hiệp với Anh và Pháp. Ông ta nghi ngờ hai nước này đang t́m cách thông đồng với Đức Quốc Xă. Ông lo ngại Ba lan sẽ là nạn nhân cũng như Tiệp Khắc. Như vậy Đức sẽ rảnh tay về mặt trận phía Đông. Các cuộc thương thuyết giữa Liên Xô và Anh Pháp đang gặp khăn. Nếu như Hitler xua quân tấn công Pháp th́ Hồng Quân chỉ có thể can thiệp bằng cách kéo quân qua Ba Lan tấn công quân Đức. Đức đă tiến một bước lớn trên con đường ngoại giao khi cử bộ trưởng ngoại giao Đức Von Ribbentrop, ngày 14 tháng 8 qua Mạc Tư Khoa để hoàn tất thỏa hiệp. Qua ngày hôm sau Staline đặt tay kư hiệp ước song phương với Đức Quốc Xă.

    Từ đầu năm 1938, Đức và Liên Xô đă kư các hiệp ước về thương mại. Cho đến khi ngoại trưởng Von Ribbentrop viếng thăm Mạc Tư Khoa vào ngày 19 tháng 8 năm 1939, th́ Đức quyết định cho Liên Xô hưởng nhiều đặc lợi. Ngay chiều hôm đó, Liên Xô bằng ḷng kư hiệp ước bất tương xâm với Đức. Chính Liên Xô soạn thảo hiệp ước và trao chuyển trước về Bá Linh. Trong đêm 23 tháng 8, Von Ribbentrop chính thức kư hiệp ước và sáng hôm sau, 24 tháng 8, hai chính phủ cho công bố đến dân chúng của hai nước. Hiệp ước có hiệu lực trong ṿng 10 năm. Các chi tiết chia vùng ảnh hưởng ở khu vực Đông Âu được giữ bí mật. Măi cho đến năm 1989, các nhà lănh đạo Cộng Sản Liên Xô vẫn chối căi về nội dung chống lại ḥa b́nh của bản hiệp ước mà hai nước đă kư.
    Theo hiệp ước này, nước Lituaine thuộc vùng ảnh hưởng của Đức; Nước Estonie, Lettonie thuộc Phần Lan; Vùng Bessarabie thuộc Liên Xô. Trong khi đó phần đất Ba Lan chưa quyết định lệ thuộc nước nào. Sau khi Đức chiếm Ba Lan, Liên Xô mới đặt lại vấn đề chủ quyền của nước này.

    Tám ngày sau khi kư hiệp ước bất tương xâm với Liên Xô, Đức Quốc Xă xua quân chiếm Ba Lan. Một tuần lễ sau, ngày 9 tháng 9 năm 1939, trước sự thảm bại của quân đội Ba Lan, Liên Xô chính thức cho Đức biết là họ sẽ xua quân chiếm các khu vực như đă phân định bí mật trong hiệp ước. Ngày 17 tháng 9, Hồng Quân tiến vào Ba Lan với chiêu bài cứu giúp người anh em Ukraine và Biélorussie đang bị uy hiếp v́ Ba Lan tan ră. Khi Hồng Quân vào đến Ba Lan th́ quân đội của nước này gần như bị tiêu diệt. Hồng Quân không hề gặp một sự kháng cự nào. Hồng Quân bắt 230.000 làm tù binh, trong số đó có 15.000 sĩ quan. Ư định chọn Ba Lan làm vùng trái độn giữa hai nước đă không thành. V́ vậy vấn đề chia biên giới đă trở nên khó khăn. Trước kia hai bên chọn con sông Vistule chảy qua Varsovie làm ranh giới. Nhưng sau đó, vào ngày 28 tháng 9, Von Ribbentrop qua Mạc Tư Khoa quyết định chọn biên giới dọc theo con sông Bug ở về phía Đông. Đổi lại, Đức chịu nhường Lituaine cho Xô Viết.

    Việc phân chia phần đất Ba Lan đă tăng vùng đất ảnh hưởng của Liên Xô thêm 180.000 cây số vuông với một dân số trên 12 triệu người, gồm các sắc dân Ukraine, Ba Lan và Biélorussie. Ngày 1 và 2 tháng 11 năm 1939 đă diễn ra một cuộc trưng cầu dân ư trá h́nh về việc sát nhập hai nước Ukraine và Biélorussie vào Liên Bang Xô Viết.
    Trước khi mở cuộc trưng cầu dân ư, cơ quan an ninh của Liên Xô đă quét sạch tất cả dân chính gốc Ba Lan. Họ bị bắt đưa đi lưu đày đập thể v́ bị ghép vào tội phản động. Phần lớn những người này thuộc thành phần địa chủ, trí thức, kỹ nghệ gia, thương gia, công chức, những quân nhân ở vùng khẩn hoang. Những quân nhân này là các phần tử ưu tú của Ba Lan v́ họ đă có công dành lại độc lập cho dân Ba Lan trước khi trực thuộc Nga Hoàng. Theo thống kê của pḥng quản lư Goulag, từ tháng 2 năm 1940 đến
    Tháng 6 năm 1941 đă có 381000 dân Ba Lan bị sát nhập vào Cộng Ḥa Xô Viết Ukraine và Biélorussie và bị đüa đi khẩn hoang tại các vùng hẻo lánh của Liên Bang Xô Viết. Theo như sở gia Ba Lan, con số này c̣n cao hơn rất nhiều, có thể có đến 1 triệu người. C̣n con số người bị lưu đày từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 1 năm 1940 chưa được công bố.

    Chi tiết về ba vụ bố ráp vào ngày 9 và 10 tháng 2; ngày 12 và 13 tháng 4; ngày 28 và 29 tháng 6 năm 1940 được ghi lại trong các văn thư trong thư khố của nhà nước.
    Các xe tải phải mất ṛng ră 2 tháng trời để chở các tù binh Ba Lan đến các vùng đất Siberie, Kazakhstan và các vùng cực Bắc. Trong số tù binh Ba Lan 230.000 bị bắt vào mùa hè năm 1941 nay chỉ c̣n có 82.000 người c̣n sống. Con số dân Ba Lan bị đày đi lao động khổ sai c̣n chết nhiều hơn nữa. V́ thế, vào tháng 8 năm 1941, một thỏa ước được kư kết giữa chính phủ Ba Lan lưu vong và chính quyền Xô Viết để ân xá cho dân Ba Lan lưu đày kể từ tháng 11 năm 1939, người ta không t́m thấy tin tức của 243.100 người Ba lan khẩn hoang đặc biệt trong số 381.000 bi lưu đày từ tháng hai năm 1940 đến tháng sáu năm 1941.

    Tổng số 388.000 người Ba Lan được ân xá bao gồm các tù binh, các người bị quản thúc, và người bị lưu đày. Vài trăm ngàn người khác đă biến mất trong ṿng hai năm, trước tháng 8 năm 1941. Một số lớn bị hành quyết v́ bị coi là thành phần chống Xô Viết. Trong số này có 25.700 sĩ quan và thường dân Ba Lan.
    Lănh tụ công an nội chính, ông Béria, trong một điện văn gởi cho Staline đề ngày 5 tháng 3 năm 1940 đă đề nghị xử bắn các phần tử này. Một số hầm chôn tập thể đă được quân Đức khám phá hồi tháng 4 năm 1943, nằm trong khu rừng Katyn. Thời ấy, người ta đổ lỗi cho đuân Đức Quốc Xă là thủ phạm các vụ chôn tập thể người Ba Lan. Đến năm 1992, Boris Yelsine, Tổng Thống của Nga, trong một chuyến công du ở Varsovie đă thừa nhận là chính quyền Bônsêvich, và chính Staline ra lịnh thủ tiêu những người Ba Lan này.

    Sau khi sát nhập các phần đất của Ba Lan vào lănh thổ Liên Bang Xô Viết đúng theo tinh thần bản hiệp ước với Đức, Liên Xô đă đ̣i các nhà lănh đạo Lituanie, Estonie và Lettonie phải đến Mạc Tư Khoa tŕnh diện và buộc họ phải kư vào các hiệp ước tương trợ. Theo các hiệp ước này, họ bị bắt buộc phải để cho Liên Xô đặt các căn cứ quân sự trên nước họ. Ngay sau đó, Liên Xô đưa 25.000 quân vào Estonie, 30.000 quân vào Lettonie và 20.000 quân vào Lituanie. Quân số của Liên Xô chiếm đóng tại ba quốc gia này nhiều hơn quân số của chính nước họ. Sự hiện diện Hồng quân trên lănh thổ của các quốc gia này đă nói lên sự kiện các quốc gia này không c̣n độc lập nữa.

    Ngày 11 tháng 10 năm 1939, Béria ra lịnh: Tiệu diệt tận gốc các phần tử của các nước này có âm mưu chống lại Xô Viết . Và bắt đầu từ đó, các toán công an của Liên Xô bắt đầu lùng bắt các sĩ quan của quân đội địa phương. Kể cả công chức, trí thức bị coi là các phần tử phản động, không đáng tin, cũng trở thành mục tiêu đàn áp.
    Tháng 6 năm 1940, sau cuộc chiến thắng chớp nhoáng của quân Đức Quốc Xă đối với quân Pháp, Liên Xô quyết định thực thi các điều khoản bí mật trong hiệp ước bất tương xâm với Đức.

    Ngày 14 tháng 6 năm 1940, viện cớ quân đội của ba nước vùng Baltique chống lại Hồng Quân, chính quyền Xô Viết gởi tối hậu thư đến nhà cầm quyền của ba nước này, đ̣i họ phải thành lập một chính phủ mới để bảo đảm sự thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản đă kư trong thỏa ước tương trợ. Ngaysau đó, hàng ngàn Hồng Quân tiến vào lănh thổ của ba nước. Staline cử các đại diện đến ba nước này để hợp thức hóa vào Liên Bang Xô Viết. Ông biện lư Vyciski đến Riga; ông Jdanov đến Tallinn và viên chỉ huy công an Dekanozov đến Kaunas. Kể từ đó, cơ cấu chính trị của ba nước bị giải tán. Các nghị viên, viên chức,..bị bắt giam. Chỉ c̣n có đảng Cộng Sản là đảng duy nhứt được quyền đưa người ra ứng cử vào các cuộc bầu cử trong các ngày 14 và 15 tháng 7 năm 1940.
    Sau đây là văn thư tối mật của Béria gởi cho Staline.

    Văn thư của L. Béria, Bộ Trưởng Nội Vụ gởi đồng chí Staline, ngày 5 tháng 3 năm 1940.

    Tối mật.

    Gởi đồng chí Staline,

    Một số rất đông sĩ quan quân đội Ba Lan, nhân viên cảnh sát, nhân viên t́nh báo, đảng viên của các đảng phản động, các đảng phản cách mạng đă bị phát giác , những người bỏ trốn qua hàng ngũ địch, ..tất cả là những kẻ thù nguy hiểm của chính quyền Xô Viết. Chúng đă bị bắt nhốt trong các trại tù trong lănh thổ Liên Bang Xô Viết, dưới quyền kiểm soát của Bộ Nội Vụ và trong các khám đường ở phía Tây của cộng ḥa Ukraine và Biélorussie.
    Mặc dù bi bắt giam, các sĩ quan , nhân viên cảnh sát Ba Lan vẫn ngoan cố phản lại cách mạng và duy tŕ các hành động chống Liên Xô. Họ chờ ngày phóng thích để họ tiếp tục chống đối chúng ta.

    Các cơ quan công an nội chính ở phía Tây Ukraine và Bièlorussie đă phát hiện ra nhiều tổ chức phản cách mạng do các sĩ quan và cảnh sát cầm đầu. Trong số những người trốn qua hàng ngũ địch, trong số đó có người gốc Nga ở dọc biên giới đă bị quân ta phát hiện khi chúng t́m cách liên lạc với các ổ kháng chiến, làm nhiệm vụ gián điệp chống lại chính quyền Xô Viết.

    Hiện có 14.736 người bị giam . Trong đó gồm có sĩ quan, công chức, cảnh sát viên, quân cảnh, địa chủ, các nhân viên cai quản khám đường, các nhơn viên t́nh báo. 97% trong số người này là dân Ba Lan. Không có một người lính và hạ sĩ quan.

    Phân loại:

    * Cấp Tướng, Đại Tá và Trung Tá 259 người;

    * Thiếu Tá và Đại Úy 2080 -

    * Trung, Thiếu và Chuẩn úy 6049 -

    * Sĩ quan, ngành công an, quân cảnh 1030 -

    * Nhân viên quản lư khám đường, t́nh báo 5138 -

    * Công chức, địa chủ, Linh mục, 144 -

    Ngoài ra c̣n có 18.632 người bị giam ở các trại tù phía Tây Ukraine. Trong số này có 10.685 người dân gốc Ba Lan.

    Phân loại:

    * Sĩ quan 1207 người

    * T́nh báo, cảnh sát, công an, quân cảnh 5141 //

    *Gián điệp, phá hoại 347 //

    * Địa chủ, Chủ hăng xưởng, công chức 465 //

    * Thảnh viên các ổ kháng chiến 5345 //

    * Những người bỏ trốn qua hàng ngũ địch 6127 //

    Xét rằng những người này là những kẻ thù nguy hiểm, không thể cải tạo được, đă chống lại chính quyền Xô Viết. Cơ quan Nội Chính đề nghị:

    1. Đưa các tội phạm này ra xử trước các toà án đặc biệt:

    a. 14.700 sĩ quan, công chức, địa chủ, công an, cảnh sát hiện đang bị bắt giam trong các trại tù binh.

    b. 11.000 thành viên của các tổ chức phản cách mạng, các chủ hăng xưởng sĩ quan Ba Lan, những người trốn qua vùng địch,..hiện bị bắt giam trong các trại ở phía Tây Ukraine và Bièlorussie.

    Tất cả những phần tử này phải nhận h́nh phạt tối đa: Tử h́nh và bị bắn .

    Việc thụ lư hồ sơ cá nhân không cần phải qua thủ tục hỏi cung bị can và cũng không cần lên án buộc tội. Sau khi điều tra, các h́nh phạt sẽ được ghi nhận như sau:
    H́nh phạt dưới h́nh thức các chứng thư của cơ quan quản lư các trại giam các tù binh trực thuộc cơ quan An Ninh Nội Chính NKVD của Liên Bang Xô Viết về các tù binh chiến tranh hiện đang bị giam trong các trại tù binh.

    H́nh phạt dưới h́nh thức các chứng thư của các cơ quan Anh Ninh Nội Chính của các cộng ḥa Ukraine và Biélorussie đối với các phần tử phản động khác.
    một phiên ṭa gồm 3 ủy viên . Đó là các đồng chí Merkoulov, Koboulov Các hồ sơ đă được thụ lư và các bản án đă được tuyên án do và Bachtalov.

    Uỷ viên phụ trách Bộ Nội Vụ, L.Béria.


    Trong suốt các tuần lễ dàn cảnh này, viên Tướng Serov của sở An Ninh Nội Chính đă bắt giam từ 15.000 đến 20.000 người với cái tội chống đối chính quyền. Riêng tại nước Lettonie có 1480 người bị bắt và bị hành quyết vào đầu năm 1940. Quốc hội của các quốc gia này được thành h́nh từ các cuộc bầu cử bịp bợm do Cộng sản chủ mưu đă đồng thanh xin gia nhập vào Liên Bang Xô Viết. Dĩ nhiên Xô Viết hoan hô việc xin gia nhập. Vào đầu tháng 8, chính quyền Cộng Sản chính thức tuyên bố ba nước trở thành thành viên của Liên Bang.

    Trên tờ Sự Thật số ra ngày 8 tháng 8, một bài b́nh luận viết: Hào quang của Bản Hiến Pháp của Staline đă tỏa ra các tia sáng phúc lợi lên các lănh thổ của những công dân mới . . Từ đó dân tộc của ba nước này lâm vào cảnh tù tội, lưu đày và hành quyết.
    Tài liệu trong các văn khố c̣n lưu lại các chi tiết về diễn tiến của chiến dịch lớn nhằm lưu đày dân của ba nước bị coi là phản động ở các vùng phía tây Ukraine, Biélorussie và Moldavie. Chiến dịch lùng bắt phát động vào đêm 13 và 14 tháng 6 năm 1941 dưới quyền chỉ huy của Tướng Serov. Kế hoạch truy lùng do Béria phát họa từ ngày 16 tháng 5 năm 1941 và gởi về cho Staline với mục đích là quét sạch các phần tử chống Xô Viết và sát nhập ba nước này vào Liên Bang Xô Viết.

    Trong tháng 6 năm 1941 Có 85.716 người bị bắt lưu đày trong đó có 25.711 người thuộc dân của ba nước Lettonie, Lituanie và Estonie.

    Trong bản phúc tŕnh đề ngày 17 tháng 7 năm 1941, phụ tá của Béria, ông Merkoulov viết: Trong đêm 13 rạng 14 tháng 6 năm 1941 có 11.038 thân nhân của các gia đ́nh bị ghép vào loại Tư Sản; 3240 thân nhân của các cảnh sát công an; 7124 thân nhân của các điền chủ, kỹ nghệ gia, công chức; 1649 thân nhân sĩ quan; 2907 người thuộc thành phần khác. .. .

    Theo như bản văn này, chủ gia đ́nh bị bắt trước và bị hành quyết tại chỗ.
    Mỗi một gia đ́nh chỉ được phép mang theo 100 kí lô hành lư và lương thực đủ ăn trong một tháng. Cơ quan an ninh nội chính không cung cấp thực phẩm trong lúc di chuyển. Đến cuối tháng 7, các đoàn xe chở tù nhân mới đến nơi chỉ định. Phần lớn đến tỉnh Novossibirsk trong vùng Kazakhstan. Một số khác măi đến tháng 9 mới tới được vùng Altai. Có biết bao nhiêu người bị chết trên đoạn đường di chuyển suốt từ 6 đến 9 tuần lễ. Cứ 50 người cùng với lương thực và hành lư mang theo, bị dồn vào một toa xe lửa chật chội vốn dùng để chở súc vật.

    Một kế hoạch khác do Béria sẽ đưa ra thi hành trong đêm 27 rạng 28 tháng 6 năm 1941. Nhưng kế hoạch không thực hiện được v́ Quân Đức Quốc Xă đă mở chiến dịch Barbarossa tấn công vào lănh thổ của Liên Bang Xô Viết. V́ thế kế hoạch càng quét của Hồng Quân phải dời lại vài ba năm sau.

    Một vài ngày, sau khi Hồng Quân tiến chiếm ba quốc gia trên, Chính quyền Xô Viết gởi tối hậu thư cho chính quyền nước Roumania phải trả lại các phần đất của Bessarabie. V́ theo hiệp ước bất tương xâm Nga - Đức kư vào ngày 23 tháng 8 năm 1938, vùng này thuộc chủ quyền của Nga như trước năm 1918. Ngoài phần đất này, chính quyền Xô Viết c̣n đ̣i thêm phần đất phía Bắc tỉnh Bukovine. Phần đất này chưa bao giờ thuộc chủ quyền của Nga. V́ thấy Đức bỏ rơi, chính quyền nước Roumania đành phải chấp thuận các điều kiện trong tối hậu thư. V́ thế hai vùng, một phần Bukovine và một phần Bessarabie trở thành vùng đất của Liêng Bang Xô Viết. Một phần c̣n lại của Bessarabie tuyên bố thành lập Cộng Ḥa Moldovie vào ngày 2 tháng 8 năm 1940. Trong cùng ngày này, viên phụ tá của Béria là Koboulov đă ra lịnh lưu đày 31.699 người đang sống trong vùng Cộng Hoà Moldovia, bị coi là thành phần chống phá cách mạng. Một số khác, 12.191 người đang sống trong vùng Bessarabie của Roumania nay trực thuộc Cộng Ḥa Ukraine cũng bị đi tù. Với kỹ thuật thành lập sổ đen cố hữu, chỉ trong ṿng vài tháng, con số dân bị bắt lưu đày lên rất cao.

    Ngày 1 tháng 8 năm 1941, Bộ Trưởng Ngoại Giao Molotov đă hớn hở đệ tŕnh trước chính quyền Liêng Bang thành quỉa của hiệp ước bất tương xâm với Đức Quốc Xă: Trong ṿng một năm, Liêng Bang Xô Viết đă thu nhập thêm 23 triệu người.
    Nhưng nâm 1940 cũng là khởi điểm của một tiền đề khác. Trong năm này, con số tù bị bắt giam trong các trại tù Goulag ở Liên Xô đă lên đời điểm cao nhất của nó.
    Ngày 1 tháng 1 năm 1940, con số tù ở các trại giam Goulag là 1.930.000 người, tức là có hơn 270.000 người so với năm trước. Con số tù bị bắt trên các vùng với sát nhập vào Liên Bang là 500.000 người. Và trong năm trước đó đă có 1.200.000 người đang lao động chung thân ở các vùng hẻo lánh. Trên lư thuyết, các trại tù trên khắp Liên Bang chỉ có thể chứa 234.000 tù nhân. Nhưng trên thực tế, nhà nước Cộng Sản bắt giam 462.000 người. Và cuối cùng, con số phạm nhân bị kết án đă tăng từ 70.000 lên đến 2.300.000 người.

    Con số người thương vong trong các cuộc trừng phạt này lên rất cao. Trong kư ức của những người nông dân và những công nhân th́ các sự kiện xảy ra năm 1940 vẫn c̣n ám ảnh họ. Như Nghị Quyết kư ngày 26 tháng 8 ấn định công nhân làm việc suốt 7 ngày trong một tuần và mỗi ngày 8 tiếng. Công nhân không được tự ư ngừng tay; mọi sự vắng măt phải có chứng minh; Đi trễ giờ làm việc sẽ bị trừng phạt nặng. Ai vi phạm sẽ bị phạt 6 tháng tù cải tạo lao động. Và bị phạt 25% số tiền lương tháng. Và nếu trọng phạm, sẽ bị nhốt biệt giam từ 2 đến 4 tháng.

    Ngày 10 tháng 8 năm 1940, nhà nước Cộng sản ban hành điều luật trừng phạt 3 năm tù đói với các thành phần du đảng. Thành phần phá hoại máy móc sản xuất ở các cơ xưởng và các tội ăn cắp vặt. Trong t́nh trạng sản xuất nghèo nàn và thô thiển của nền công nghệ Xô Viết thời bấy giờ, bất kỳ công nhân nào cũng có thể bị ghép vào một trong các tội trạng kể trên.

    Các đạo luật này được duy tŕ cho đến năm 1956. Trong ṿng 6 tháng đầu khi cho thi hành đạo luật, đă có trên 1 triệu rưỡi công nhân bị kết án. 400.000 người trong số này bị bắt bỏ tù. Con số tù này giải thích tại sao tổng số tù nhân gia tăng vào mùa Hè năm 1940. Con số tù du đảng 108.000 người trong năm 1939 đă tăng lên 200.000 vào năm 1940.

    Sau cuộc đại khủng bố trước đây, đây là các cuộc tấn công mới chưa từng xảy ra. Các cuộc tấn công này nhắm vào các thành phần dân chúng chống lại lịnh các biện pháp kỹ luật hà khắc trong các trại lao động tập thể. Theo báo cáo của cơ quan an ninh nội chính, những vụ chống lại đạo luật bất nhân là do các công nhân có tư tưởng không lành mạnh. Nó phát sinh trong những ngày đầu khi quân Đức tiến vào nước Nga. Công nhân thợ thuyền công khai chống đói các người gốc Do Thái và các đảng viên Cộng Sản. Họ c̣n tuyên truyền rằng, một khi Hitler chiến thắng th́ Hitler sẽ chính thức công bố là người Đức sẽ không truy tố ra toà án những ai đi làm trễ như Chính Quyền Cộng sản đă làm. Các vụ tuyên truyền này xảy ra trên các chuyến xe lửa trong khoảng thời gian từ 22 tháng 6 đến 1 tháng 9 năm 1940. Trong một bản phúc tŕnh của một Ủy viên quân quản, th́ đă có 2524 vụ vi phạm tuyên truyền. Trong số này họ đă đem xử bắn 204 người. Có 412 vụ chống phá cách mạng . 110 nhân viên hỏa xa có hành động chống phá bị kết án tử h́nh.

    Dưới khẩu hiệu Tự do tư tưởng , một số tài liệu gần đây cho chúng ta thấy t́nh trạng rối loạn của nhân dân trong thành phố Mạc Tư Khoa trong những tháng đầu của cuộc tiến quân ào ạt của Đức Quốc Xă vào nước Nga từ mùa hè năm 1941.
    Dân Mạc Tư Khoa chia ra làm 3 thành phần. Các người yêu nước, các người không có tinh thần và những người chủ bại cầu mong cho Đức Quốc Xă thắng trận.
    Tháng 10 năm 1941 có nhiều vụ dân nổi dậy chống chính quyền Xô Viết tại tỉnh Ivanovo. Công nhân hăng dệt tháo gỡ máy móc chuyển sâu vào nội địa. Các hành động chủ bại đó đă nói lên t́nh trạng thất vọng của công nhân dưới chính sách lao động hung ác của chính quyền Cộng sản.

    Người dân Xô Viết lúc bây giờ bị coi là thứ dân. Nếu họ không bị tiêu diệt, th́ họ cũng sẽ trở thành những người nô lệ cho quân Đức Quốc Xă. Staline đă khéo léo tuyên truyền và kích thích ḷng tự ái dân tộc Nga, ca tụng tinh thần và giá trị của người Nga đứng lên chống quân Đức.

    Ngày 3 tháng 7 năm 1941, Staline cho phát đi trên đài phát thanh lời hiệu triệu : Cùng đồng bào, Tổ quốc đang lâm nguy .. Chính những lời này mà biết bao nhà chính khách Nga như Plekhanov, Lenine, Pouchkine, Tolstoi, Tchaikovski, Tchekov, Lermontov, Souvorov và Koutozov,..đă dùng để kêu gọi dân chúng đứng chung trong một trận Thánh Chíên và Trận Chiến Ái Quốc.

    Ngày 7 tháng 11 năm 1941 khi đi duyệt hàng quân t́nh nguyện trước khi ra trận tuyến, Staline đă yêu cầu họ nhất quyết chiến đău trong tinh thần chiến đâu vẻ vang của các bật tiền nhân như Alexandre Nevski và Dimitri Donkoi. Một người đă ra tay cứu các vị hiệp sĩ gốc Đức hồi thế kỷ thứ 13 và vị anh hùng thứ hai đă giải thoát nước Nga ra khỏi gông cùm của quân Thát Đát vào hồi thế kỷ thứ 14.

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

  8. #18
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 12


    MẶT TRÁI CỦA CUỘC CHIẾN THẮNG



    [ Trích lục các đạo luật của Chủ Tịch Đoàn Tối Cao Xô Viết ngày 28 tháng 8 năm 1941 về việc lưu đày đập thể những công dân Nga gốc Đức.]

    Theo các nguồn t́nh báo quân sự đáng tin cậy, đang có hàng chục ngàn người Nga gốc Đức hiện đang sống dọc theo con sông Volga làm gián điệp cho Đức. Những người này khi nhận ra dấu hiệu của Đức Quốc Xă sẽ tổ chức các cuộc phá hoại trong các khu vực mà họ đang sinh sống. Nhưng chẳng có ai chính tức khai báo với chính quyền Xô Viết sự hiện diện của nhóm người phá hoại này. Điều này chứng tỏ dân Nga gốc Đức đă nuôi dưỡng kẻ thù của nhân dân và của chính quyền Cộng Sản.
    Nếu quả thật có xảy ra các vụ phá hoại và các vụ làm gián điệp, trong các vùng họ đang định cư hay ở các vùng lân cận, th́ chính quyền Xô Viết sẽ thi hành biện pháp trừng trị áp dụng trong thời chiến. Từ đó, máu sẽ đổ, người sẽ chết.
    Để tránh t́nh trạng đổ máu xảy ra, Chủ Tịch Đoàn Tối Cao đă ra lịnh thuyên chuyển toàn thể cộng đồng người Nga gốc Đức đang sống dọc theo sông Volga di chuyển đến vùng khác. Nhà nước sẽ cung cấp các phương tiện căn bản sinh sống để họ tái lập nghiệp tại nơi định cư mới.
    Các vùng c̣n đất hoang như Novossibirk và Osmk thuộc lănh thổ Altai ở Kazakhstan và các vùng phụ thuộcsẽ là nơi định cư mới cho nhóm người này.
    Đă từ lâu trong lịch sử Xô Viết có nhiều tài liệu mật nói về các cuộc lưu đày các sắc dân mà chính quyền Cộng Sản cho rằng họ có tư tưởng và hành động sai lệch, làm gián điệp, cộng tác với đuân Đức trong thời gian xảy ra trận chiến tranh với Đức Quốc Xă.
    Măi cho đến thập niên 50, chính quyền Cộng Sản mới thừa nhận rằng những việc làm như vậy là hơi quá đáng. Và trong thập niên 60, một số quốc gia đă bị xoá tên v́ có hành vi hợp tác với Đức Quốc Xă, mới được thừa nhận trở lại. Và trên lư thuyết, kể từ năm 1972, những người bị lưu đày mới được quyền chọn nơi nào họ muốn đến định cư. Đến năm 1989 dân Tartare sinh sống ở bán đảo Crimeé mới được phục hồi quyền công dân của nước họ.
    Vào giữa thập niên 60, vẫn c̣n nhiều điều bí mật về việc băi bỏ các thủ tục trừng phạt các sắc dân. Nhưng cho đến năm 1964 các đạo luật băi bỏ trừng phạt này vẫn chưa được ban hành. Phải đợi măi đến năm 1989, Hội Đồng Xô Viết Tối Cao mới nh́n nhận tính bất hợp pháp của các đạo luật do Staline về việc lưu đày tập thể các sắc dân.
    Dân Nga gốc Đức là sắc dân đầu tiên bị lưu đày khi quân Đức Quốc Xă tấn công vào lănh thổ của Nga. Theo cuộc kiểm tra dân số vào năm 1939, có 1.427.000 dân Nga gốc Đức bi lưu đày. Những người này là nhóm con cháu của những người Đức bị đưa đi khai hoang dưới thời Nữ Hoàng Nga Catherine II. Bà ta cũng là người Đức sinh trưởng ở vùng Hesse.
    Năm 1924, chính quyền Cộng Sản cho thành lập Cộng Ḥa Đức tự trị trong vùng sông Volga. Dân Đức ở vùng này chỉ khoảng chừng 370.000 người tức là độ chừng 1/4 tổng số dân Đức sống răi rác trên khắp nước Nga, từ Saratov, Stalingrad, Voronej, Moscou , Leningrad, Ukraine cho đến các vùng Bắc Caucase., vùng bán đảo Crimeé,..
    Vào ngày 28 tháng 8 năm 1941, Chủ Tịch Đoàn Xô Viết Tối Cao đă quyết định đưa toàn thể dân Đức thuộc Cộng Ḥa tự trị Volga , vùng Sartov và vùng Stalingrad đến định cư ở các vùng Kazakhstan và Sibérie.
    Trong khi Hồng Quân thua trận và đang rút vào nội địa, hằng ngày đă phải bỏ lại hàng chục ngàn binh sĩ tử thương, th́ Béria, chủ nhiệm An Ninh Nôi Chính ra lịnh cho Tướng Serov điều động 14.000 quân nhân vào công tác lưu đày dân Đức.
    Từ ngày 3 đến ngày 10 tháng 9 năm 1941 đă có 446.800 người Đức bị đi lưu đày trên 230 đoàn xe lửa. Mỗi đoàn xe có 50 toa. Trung b́nh mỗi đoàn tàu chở 2000 người. Các đoàn xe chạy nối tiếp nhau, rất chậm. V́ thế phải mất tờ 4 đến 8 tuần lễ, đoàn tàu mới đến được các vùng được chỉ định ở Osmk, Novossibirsk, vùng Barnoul phía Nam Sibérie, vùng Krasnoiarsk Đông Sibérie.
    Cũng giống như các cuộc lưu đày dân của ba nước vùng Baltique trước đây, lần này những người bi lưu đày cũng chỉ được phép mang theo một số vật dụng và thực phẩm đi đường trong ṿng một tháng.
    Bên cạnh các cuộc hành quân chính là cho đưa đi lưu đày, Hồng quân c̣n mở ra các cuộc hành quân phụ, tùy theo t́nh h́nh trên chiến trường.
    Ngày 29 tháng 8 năm 1941 các lănh tụ Xô Viết như Molotov,Malenkov và Jdanov đề nghị với Staline cho quét sạch thành phố Léningrad và vùng phụ cận. Trong khu vực này có 96.000 dân gốc Đức và Phần Lan.
    Ngày 30 tháng 8 năm 1941, quân Đức tiến đến bờ sông Neva, cắt đứt đường hỏa xa nối liền Léningrad và các phần c̣n lại của nước Nga. Thành phố Léningrad bị đe dọa từng ngày. Nhà cầm quyền không đưa ra một kế hoạch di tản dân thành phố hay dự trữ lương thực cho dân.
    Mặc dù t́nh h́nh căng thẳng như vậy, vào ngày 30 tháng 8 năm 1941, Béria cũng tiếp tục ra lịnh lưu đày 132.000 người dân Đức và Phần Lan ra khỏi thành phố Léningrad. 96.000 người di chuyển bằng xe lửa và 36.000 người theo đường biển. Trong khi đó, sở an ninh nội chính chỉ có thể di tản 11.000 dân Nga ra khỏi Léningrad.
    Trong suốt mấy tuần lễ sau đó, các cuộc hành quân truy lùng bắt dân gốc Đức cho đi lưu đày vẫn tiếp tục diễn ra. Ngày 14 tháng 9 năm 1941, có 3162 vùng Gorgie. Tại Mạc Tư Khoa, ngày 15 tháng 9 năm 1941 có 9640. Vùng Toula, ngoại ô Thủ Đô Mạc Tư Khoa có 2700 người vào ngày 21 tháng 9 năm 1941. Tại vùng Rostov, từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 9 đă có 38.288 người. Từ ngày 15 tháng 9 đến 10 tháng 10 năm 1941, tại vùng Zaporojie có 31.320 người. Ngày 15 tháng 9 ở vùng Krasnodaz đüa đi 38.136 người và vùng Ordjonikidze, ngày 20 tháng 9 có 77.570 người.
    Trong suốt tháng 10 năm 1941 có cả 100.000 người dân Đức thuộc các vùng Georgie, Armenie, Azerbaidzan vùng Bắc Caucase và bàn đảo Crimee.
    Một bản tổng kết con số dân Đức bị lưu đày được thông báo vào ngày 25 tháng 12 năm 1941 đă lên đến 894.600 người. Nếu cộng thêm con số dân gốc Đức đi lưu đày năm 1942, con số này lên đến 1.209.430 người. Đó là kết quả đạt được trong một thời gian không đày một năm, kể từ tháng 8 năm 1941 đến tháng 6 năm 1942.
    Cũng cần nên biết là cuộc kiểm tra dân số vào năm 1939, trên toàn cơi nước Nga có tất cả là 1.427.00 dân gốc Đức. Như vậy có tới 82% dân gốc Đức bị lưu đày. Đáng lư ra trong thời gian chiến tranh, thay v́ quân đội được xử dụng vào chiến trường, nhà nước Cộng sản lại đem quân làm công tác lưu đày dân chúng vô tội. Ngoài ra một số dân gốc Đức đan phục vụ trong các binh chủng cũng bị rút về hậu tuyến thành lập thành các đơn vị trừng giới để canh chừng các dân lao động khổ sai. Tại các vùng Vorkouta, Kotlas, Kemerovo,.. có trên 25.000 dân Đức làm việc trong các tổ hợp luyện kim. Đời sống của các nhân công này cũng cùng cực như các tù nhân trong các trại tập trung Goulag.
    Có rất nhiều người biến mất trên con đường đưa đi lưu đày. Nhưng không hề có một biên bản báo cáo nào c̣n sót lại. V́ đang ở trong thời kỳ chiến tranh nên việc kiểm soát hành chánh không được thi hành rơ ràng. Và trong mùa Thu 1941 đă có biết bao chuyến xe chở dân Đức đi lưu đày không bao giờ đến điểm hẹn?
    Theo kế hoạch, vào tháng 11 năm 1941 sẽ có 29.600 người đến vùng Kardazanda. Nhưng than ôi! Măi đến ngày 1 tháng 1 năm 1942 chỉ có 8.304 người đến nơi. Vùng Novossibirk dự trù 130.998 người th́ chỉ có 116.612 người. Vùng Altai dự trù 110.000 người nhưng chỉ c̣n có 94.799 người. Con số c̣n lại nằm ở đâu? Họ chết dọc đường? Hay họ bi đưa đi nơi khác? Cơ quan An Ninh Nội Chính chỉ báo cáo đơn giản là do tính toán sai lầm của các nhân viên hành chánh .
    V́ lư do phải giử bí mật cho nên chính quyền địa phương chỉ được biết trước vài ngày con số người tới định cư. Họ không có th́ giờ để chuẩn bị. V́ vậy khi dân lưu đày đến nơi, không có nhà có cửa để lưu trú. Họ phải tự t́m cách tạm trú bất cứ nơi nào họ t́m được. Từ các chuồng ḅ, chuồng heo cho đến các kho chứa lúa. V́ con số người đến quá đông cho nên nhiều người không c̣n chỗ để trú ẩn. Họ phải sống ở ngoài trời lạnh buốc. Nhưng nhờ vào kinh nghiệm của những năm 30 trong các trại tập trung Goulag, ban tổ chức của nhà nước cũng đă thành công trong việc xử dụng các thợ chuyên môn trong đám dân lưu đày. Trong ṿng vài tháng dân lưu đày được phân chia hạt giống để canh tác. Họ cũng chịu cùng số phận như những người đi khai hoang, nghĩa là cũng phải thi hành đúng các điều kiện lao động trong các hợp tác xă, hay khẩu phần lương thực như các công nhân trong các xí nghiệp.
    Sau chiến dịch chuển dân gốc Đức ra khỏi thành phố, lần lược đến các sắc dân thiểu số khác.
    Từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 6 năm 1944, các sắc dân Tchechene, Ingouche, Tartare, Karatchais, Balkar và Kalmouk bị bắt di dân về vùng Siberie, vùng Kazakhstan, vùng Ouzbekistan, vùng Kirghise v́ họ bị ghép vào tội đă tiếp tay quân Đức. Đợt di dân lớn nhất khởi đi từ tháng 7 năm 1944 với tổng số trên 900.000 người. Sau đó là các đợt di chuyển các giống dân thiểu số khác sống quanh bán đảo Crimee và quanh vùng Caucase. Đó là người Hy Lạp, Thổn Nhĩ Kỳ, Bảo Gia Lợi, Armenie..Các sổ sách hành chánh c̣n lưu trữ trong văn khố không ghi rơ các chi tiết về các hành động hợp tác của các dân thiể số này với quân Đức Đuốc Xă. Thật ra chỉ có một vài trường hợp hợp tác lẻ tẻ xảy ra ở bán đảo Crimee, ở vùng Kalmoukie nằm trong lănh thổ Karatchai và trong vùng Kabardino-Balkazie. Không thể coi một vài hành động hợp tác này là chính sách hợp tác của dân thiểu số.
    Sau ngày quân Đức Quốc Xă chiếm đóng Rostov nằm dọc theo sông Don và vùng Caucase kể từ tháng mùa hè năm 1942, dân của các vùng này cũng có các hành động hợp tác với quân Đức. Thật ra điều đó cũng chẳng lạ ǵ. Khi Hồng Quân bỏ chạy, quân Đức Quốc Xă vào, một số nhân sĩ địa phương đứng ra thành lập các Ủy ban nhân dân. Như ở vùng Mikhoian- Chakhar, vùng tự trị Kabardino-Kalbarie và ở Elista thuộc vùng tự trị Kalmouk. Quân Đức thừa nhận chính quyền mới của dân bản xứ. Chỉ trong ṿng vài tháng sau, các Ủy Ban Nhân Dân này có quyền tự trị về việc điều hành tôn giáo, chính trị và kinh tế. Sự kiện tự trị ở vùng Caucase đă làm nứt ḷng đạo Hồi Giáo ở Berlin, và dân Tatare ở bán đảo Crimee. Tại các nơi này, Đức Quốc Xă cho phép họ thành lập Ban Điều Hành Trung Ưưng Hồi Giáo và có trụ sở đặt tại Simferspol.
    Nhưng khi các sắc dân đ̣i tái lập phong trào nói tiếng Thổ và tiếng Mông Cổ, nhà cầm quyền Đức không cho phép. Cho nên dân Tatare ở Crimee không được quyền tự trị như người Kalmouk, người Karatchais và người Balkar. Những người này được hưởng quyền tự trị trong vài tháng. Để có thể hưởng được quyền tự trị lâu dài, chính quyền địa phương phải quy tụ một lực lượng quân sự để thanh lọc các phần tử thân Nga c̣n ẩn nấu trong thôn xóm. Có 6 tiểu đoàn lính bộ binh dân Tatare và một đơn vị kỵ binh dân Kalmouk.
    Từ đầu tháng 9 đến tháng 11 năm 1942, quân Đức chiếm đóng một phần đất của Cộng Ḥa Tchechine-Ingouchie. Nơi này không có xảy ra các vụ hợp tác. Nhưng trên thực tế trong nhiều thập niên qua, ngưới Tchechine đă âm thầm chống lại ảnh hưởng của Nga. Họ chỉ đầu hàng người Nga vào năm 1859 và được coi là giống dân bất phục tùng. Năm 1925, Hồng Quân đă mở nhiều cuộc tảo thanh để tịch thu khí giới mà họ vẫn c̣n cất giữ.
    Trong ba năm, 1930-1932, dân Tchechie nổi dậy chống chính sách tập thể hóa của chính quyền Liên Xô . Hồng Quân phải nhờ pháo binh dội vào các để dẹp các cuộc nổi loạn. Dân Tchechine luôn luôn chống lại sự bảo hộ của Mạc Tư Khoa.
    Từ tháng 11 năm 1943 đến thán 5 năm 1944 đă diễn ra 5 cuộc di dân. Nhưng chính quyền cộng sản đă học được nhiều kinh nghiệm về các trại tù Goulag nên việc di chuyển có vẻ thành công hơn. Beria nh́n nhận là hiệu năng khá cao. Việc tổ chức tiếp vận được nghiên cứu cẩn thận từ nhiều tuần trước. Chính Beria và hai phụ tá của ông, ông Ivan Serov và Bogdan Koboulov đích thân đến thám sát đoàn xe lửa chuyển người. 46 đoàn xe , mỗi đoàn 60 toa để di chuyển 93.139 người Kalmouk trong ṿng 4 ngày, từ 27 đến 30 tháng 6 năm 1943. Tiếp theo đó, từ ngày 23 đến ngày 28 tháng 2 năm 1944, 194 đoàn tàu, mỗi đoàn 65 toa di chuyển 521.247 người Tchechine và Ingouche.
    Để yễm trợ cho công tác di chuyển, cơ quan An ninh Nội Chính NKVD phải xử dụng mọi phương tiện chuyển vận cần thiết. Và để lùng bắt người Tchechine, nhà cầm quyền phải trưng dụng 119.000 nhân viên thuộc các toán an ninh nội chính đặc biệt, ở vào thời điểm đang diễn ra trận chiến với quân Đức trên đất Nga.
    Kế hoạch được thực hiện theo từng chi tiết như đă thảo hoạch. Trước tiên là lùng bắt các phần tử được coi là nguy hiểm. Con số người này chỉ chiếm độ 1% hay 2% dân số c̣n lại lúc bấy giờ. Phần đông dân chỉ là những đàn bà , trẻ con. Số lớn đă bị bắt ra chiến trường. Theo các báo cáo gởi về Mạc Tư Khoa th́ các cuộc hành quân lùng bắt diễn ra rất nhanh. Như vụ bố ráp bắt người Tatare ở vùng Crimee chỉ diễn ra trong ba ngày, từ 18 đến 20 tháng 5 năm 1944. Hai phụ tá Serov và Loboulov gởi báo cáo về cho Beria : Ngày hôm nay, vào lúc 20 giờ, chúng tôi bắt và cho di chuyển 90.000 người như đă dự tính. Đă có 17 đoàn xe chở 48.400 người đi và số c̣n lại đang lùa lên 25 đoàn xe khác. Các cuộc tảo thanh không hề gặp sự chống đối nào. Hiện cuộc hành quân đang c̣n tiếp diễn. Đă có 165.515 người đang tập hợp ở sân ga và 136.412 người lên các đoàn xe vận tải đang tiến về các khu định cư như đă được chỉ định trước. Qua đến ngày thứ ba, Serov và Kaboulov gởi tiếp điện văn về cho Berie và báo cáo: chiến dịch di chuyển dân kết thúc vào lúc 16 giở 30. Tổng số có 63 đoàn tàu xe lửa chở 173.287 người đang trên đường đến nơi chỉ định. 4 đoàn xe vận tải chở 6.727 người sẽ khởi hành chiều nay.. .
    Trong mỗi bản phúc tŕnh, ngời ta đọc thấy các nhân viên An Ninh Nội Chính luôn luôn ca tụng thành quả của họ là thành công hơn, năng suất cao hơn, tiết kiệm nhiều hưn,..so với các lần chuyển vận trước. Ông Milstein, một nhân viên An Ninh báo cáo : Các kinh nghiệm học được trong các chuyến lưu đày người Karatchais và người Kalmouk đă giúp chúng ta giảm được con số toa xe lửa. Thay v́ mỗi toa trước kia chở 40 người, nay có thể chở 45 người.
    Dưới con mắt của cơ quan An Ninh th́ các cuộc di dân diễn ra rất thành công. Nhưng trên thực tế t́nh trạng của dân lưu đày trên các toa xe kinh hoàng như thế nào? Sau đây là lời khai của một vài người dân Tatare c̣n sống sót vào cuối thập niên 70: Phải mất 24 ngày, xe lửa mới chở dân lưu đày đến nhà ga Zeraboulak trong vùng Samarkand. Từ đó, người ta đüa chúng tôi về nông trường tập thể Pravda. Họ bắt chúng tôi phải sửa chửa các xe ngựa hư cũ lâu đời. Chúng tôi làm việc rất nặng và luôn luôn thiếu ăn. Nhiều người của chúng tôi lâu ngày kiệt sức. Họ đi đứng không được. Có 30 gia đ́nh trong làng tôi bị đüa đến đây. Một số gia đ́nh bây giờ chỉ c̣n sống một hay hai người. Những người khác chết v́ đói hay đau bịnh..
    Một người khác kể lại:
    Trên các toa xe đóng kín, người ta chết v́ đói và v́ thiếu không khí để thở. Người ta lăn ra chết như con ruồi v́ thiếu nước uống. Khi xe di chuyển qua các thôn làng, dân chúng chạy ra chửi bới chúng tôi. Họ gọi chúng tôi là những bọn phản quốc. Họ ném đá vào các toa xe, làm cho chúng tôi đâu đầu. Khi xe chúng tôi đến các cánh đồng cỏ ở Kazakhstan, họ mở cửa các toa xe và cho chúng tôi ăn các khẩu phần của quân đội nhưng không cho chúng tôi nước uống. Họ ra lịnh cho chúng tôi ném các xác người chết xuống lề đường, rồi cho xe chạy tiếp. Họ không cho chúng tôi chôn cất những người chết này..
    Khi đến các vùng Kazakhstan, Kirghizie, Oubekistan, Siberie, dân lưu đày được phân chia vào các trung tâm lao động tập thể, các xí nghiệp. Các chi tiết về lao động, nhà cửa, ăn uống của dân lưu đày c̣n lưu lại trong các văn khố về việc di dân đặc biệt của các Goulag.
    Tháng 9 năm 1944, từ vùng Kirghizie cơ quan An Ninh gởi về trung ương một bản báo cáo cho biết trong số 31.000 gia đ́nh lưu đày chỉ có 5.000 gia đ́nh có được chỗ ở. Tại vùng Kameniski, chính quyền địa phương bắt ép 800 gia đ́nh vào ở trong 18 căn nhà. Tính ra 50 gia đ́nh phải sống lúc nhúc trong 1 căn nhà. Họ không nói kích thước của căn nhà. Ở nơi khác, như tại vùng Caucase, v́ không đủ chỗ, trẻ em phải thay phiên nhau, một toán ngủ trong nhà và toán kia ngủ ngoài trời giữa mùa Đông giá lạnh.
    Tháng 11 năm 1944, một năm sau chiến dịch lưu đày dân Kalmouk, ông Beria gởi một văn thư đến Mikoian, thừa nhận: Các người Kalmouk sống trong điều kiện vệ sinh thiếu thốn và sự sinh sống cũng vô cùng khó khăn. Họ không có quần áo, giày dép..
    Hai năm sau, một bản phúc tŕnh khác ghi nhận chỉ c̣n có 30% dân Kalmouk c̣n có thể lao động được. Nhưng họ không thể đi làm việc v́ thiếu giày dép. V́ không thích nghi được với khí hậu khắc nghiệt, thiếu ăn, không nói và hiểu tiếng địa phương, cho nên lưu dân Kalmouk sống trong đau khổ. V́ xa nhà, v́ đói kém, v́ bệnh tật, v́ không được huấn nghệ.. những người Kalmouk được coi như là những công nhân hạng tồi. T́nh trạng dân lưu đày Kalmouk ở Siberie quá thê thảm. Đó là lời nhận xét của ông D.P. Piourveriev, cựu lănh tụ Cộng Ḥa Kalmoukie gởi về cho Staline. Họ đến đây chẳng mang theo dụng cụ để sinh sống nào cả. Họ là người gốc dân du mục. Họ không thể thích nghi với lối sống tập thể để trở thành người sản xuất, trở thành con người máy móc. Số lợi tức mà họ nhận được qua sức lao động không đủ để trả bù số tiền phạt v́ họ làm hư máy móc.
    Chúng tôi đưa ra một vài con số tử vong của lưu dân để thấy được t́nh cảnh của họ.
    Tháng 5 năm 1946, một cuộc kiểm tra dân Kalmouk trong vùng. Chỉ c̣n có 70.360 so với ngày mới đến cách đây hai năm là 92.000 người.
    Cuộc kiểm tra ngày 1 tháng 7 năm 1944 có 35.750 gia đ́nh người Tatare với tổng số 151.424 dân đến sống trong vùng Ouzbékistan. Rồi sáu tháng sau có 818 gia đ́ng với tổng số 16.000 người đến cư trú.
    Trong vùng Caucase, dân số lưu đày là 608.749. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1948 có 146.892 nười chết. Như vậy tính ra cứ 4 người th́ có một người chết. Trong khoảng thời gian này sinh ra thêm 28.120 trẻ em.
    Tại vùng Crimee, dân số ban đầu là 228.392 người. Sau 4 năm có 44.887 người chết và có thêm 6564 em bé ra đời.
    Số tử vong của trẻ em dưới 16 tuổi rất cao, chiếm 40% - 50%. Nhưng có tương lai nào cho các em bé c̣n sống sót không?
    Bốn năm sau, tức là vào năm 1948, chỉ có 12.000 trong số 89.000 trẻ em mới được đi học. Trường học chỉ dạy tiếng Nga, đó là thứ tiếng rất xa lạ đối với dân du mục Kalmouk.
    Các cuộc lưu đày vẫn cứ tiếp tục diễn ra trong khi chiến tranh đang mở rộng trên đất nước họ.
    Ngay sau khi kết thúc chiến dịch lưu đày dân Tatare ở bán đảo Crimee, ngày 29 tháng 5 năm 1944, Beria gởi một điện văn cho Staline, ông nói rằng Cơ quan An Ninh Nội Chính NKVD phải trục xuất dân Bảo Gia Lợi [ Bulgare], Hy Lạp và Armenie ra khỏi Crimee. Người Bảo Gia Lợi đă cung cấp bánh ḿ cho quân Đức Quốc Xă. Và họ cũng hợp tác với quân Đức truy lùng các toán Hồng Quân và du kích Nga đang hoạt động trong vùng..Người Hy Lạp th́ làm ăn, buôn bán hàng hóa với người Đức. Người Armanie sống trong vùng Simferopol th́ hợp tác với Đức do Tướng Dro, một người Armenie lănh đạo. Tướng Dro cho thành lập các cơ sở lo về Tôn giáo, chính trị và thương mại. Theo Beria, tổ chức của Tướng Dro cũng cung cấp tiền bạc cho quân Đức và cũng thành lập một đạo quân người Armenie hợp tác với quân Đức.
    Bốn ngày sau đó, ngày 2 tháng 6 năm 1944, Staline kư một nghị quyết của Ủy ban quốc pḥng ra lịnh trục xuất 37.000 dân Tatare, Bảo Gia Lợi, Hy Lạp và Armenie ra khỏi bán đảo Crimee. Và cũng như các cuộc chuyển dân của mấy lần trước, các toán người lưu đày được phân phối riêng rẽ về các vùng hẻo lánh. T́nh Gouriev của Kazakstan nhận 7000 người; T́nh Sverdlov nhận 10.000; tỉnh Molotov trong vùng Oural 10.000; tỉnh Kemerovo 6000 và tỉnh Bachkirie 4000 người.
    Ngày 27 và 28 tháng 6 năm 1944, một toán 41.854 người rời khỏi Crimee. Cho đến nay con số di dân đă đạt được 11% theo kế hoạch dự trù.
    Sau chiến dịch lùng bắt và lưu đày ở đảo Crimee, nhà nước Cộng sản mở chiến dịch lưu đày dân ở vùng biên giới lănh thổ Georgie. Các cuộc hành quân tảo thanh được thực hiện có kế hoạch với chủ đề là chống lại các tổ chức gián điệp như Cộng sản đă làm vào những năm 1937-1938.
    Ngày 21 tháng 7 năm 1944, một nghị quyết của Ủy ban quốc pḥng do Staline kư, đă ra lịnh cho lưu đày 86.000 người gốc Thổ Nhĩ Kỳ thuộc bộ lạc Meskhète, các người Kurde và các người thuộc sắc dân Khemchine đang sinh sống ở vùng biên giới Georgie.
    Nếu xét về địa h́nh, vùng này có nhiều núi non hiểm trở, là nơi định cư của các dân du mục thuộc Đế Quốc Ottomane từ trước năm 1918. Dân vùng này thường di chuyển qua lại dọc theo biên giới của Xô Viết và Thổ Nhĩ Kỳ. Các cuộc hành quân lùng bắt các sắc dân này v́ thế cần có nhiều th́ giờ so vơi các nơi khác. Nó kéo đài từ ngày 15 đến đến ngày 25 tháng 9 năm 1944. Nhà nước huy động 14.000 nhân viên an ninh và trưng dụng 900 xe vận tại hiệu Studebaker do Mỹ chế tạo để người Nga mượn với mục đích là giúp chiến cụ cho đồng minh trong cuộc chiến chống quân Đức Quốc Xă.
    Ngày 28 tháng 11 năm 1944, Beria gởi cho Staline một bản phúc tŕnh và bày tỏ hài ḷng về công tác lưu đày 91.095 người hoàn tất trong ṿng 10 ngày trong điều kiện vô cùng khó khăn. Trong số này, trẻ em dưới 16 tuồi chiếm 49%. Beria gọi họ là những điệp viên người Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi v́ số đông họ sống ở gần biên giới và có liên hệ thân nhân trong nước Thổ. Họ thường đi buôn bán qua các vùng dọc theo biên giới, tổ chức chuyển người Nga qua Thổ và cung cấp tin tức về t́nh h́nh nước Nga cho chính quyền Thổ. Con số di dân đến vùng Kazakhstan và Kirghizie lên đến 94.955 người.
    Từ tháng 11 năm 1944 đến tháng 7 năm 1948 có 19.540 người Thổ gốc Meskhete, Kurde và Khemchine chết trong lúc lưu đày, tỉ lệ 21%.
    Với chính sách lưu đày dân thiểu số, con số người đi khẫn hoang v́ thế tăng lên rất cao. Từ 1.200.000 người lên đến 2.500.000 người. Đối với các điền chủ, con số bị bắt lưu đày trước chiến tranh là 936.000 người đến tháng 5 năm 1945 chỉ c̣n lại 622.000 người.
    Đối với những gia đ́nh có con ra mặt trận, nhà nước coi họ như là những công dân tự do, có nghĩa là không có tên trong danh sách đi khẫn hoang. Nhưng v́ đang ở trong thời chiến cho nên họ cũng không được phép rời khỏi nơi họ đang sống.
    Cuộc sống của dân lưu đày lâm vào t́nh trạng khốn khổ nhất từ trước đến nay là ở vào những năm 1941-1942. Thiếu ăn, bịnh truyền nhiễm, thiếu vệ sinh, lao động quá mức là những ǵ những người tù lao động, gọi tắt là ZEK, phải chịu đựng hằng ngày. Ngoài ra, họ c̣n bị các tên điềm chỉ báo cáo gian để lấy điểm. Người nào bị chỉ điểm, là người đó sẽ bị tử h́nh.
    V́ sợ tù nhân và công nhân khẫn hoang rơi vào tay quân Đức, cho nên nhà nước Cộng Sản phải liên tục chuyển các trại về phía sau trước khi quân Đức tràn vào. Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1941 có 210 trung tâm khẫn hoang, 135 khám đường và 27 trại lao động cưỡng bách với tổng số 700.000 người phải di chuyển về hướng Đông.
    Để ca tụng chính sách lao động khổ sai trong thời gian xảy ra cuộc chiến, lănh tụ Bônsêvich, ông Nassedkine đă viết: Nói một cách chung chung, các cuộc di chuyển trại đă thực hiện rất tốt.. V́ thiếu phương tiện, cho nên các tội phạm phải đi bộ trên các lộ tŕnh dài cả ngàn cây số.. Làm sao tưởng tượng nổi sự thống khổ của những người tù lao động này.
    Trong những tuần lễ đầu của cuộc chiến, v́ không đủ th́ giờ để di chuyển, chính quyền đem họ ra xử bắn. Đó là trường hợp xảy ra ở vùng Tây Ukraine vào cuối tháng 6 năm 1941. Tại Lviv, Cơ quan An Ninh đă giết 10.000 người ; tại Loutsch 1200 người, tại Stanyslaviv 1500 người và tại Doubno, 500 người..
    Khi tiến chiếm thành phố Lviv, vùng Jitomir và Vinnitsa, quân Đức t́m thấy rất nhiều hầm chôn tập thể. Quân Đức dưới quyền chỉ huy của Sonderkom cho rằng thủ phạm của những hầm chôn này là người Do Thái gốc Nga, cho nên quân Đức Quốc Xă ra tay tàn sát những người Nga gốc Do Thái đang sống trong vùng này.
    Trong thời gian chiến tranh, những người tù không c̣n chỗ để nhốt. Họ bị nhốt trong các pḥng chật chội từ 1,5 mét vuông cho mỗi người, giảm c̣n 0,7 mét vuông. Họ phải thay phiên nhau kẻ ngủ người thức. Chỉ có những người có công tác lao động nặng mới có giường riêng để ngủ. Năng lượng cho mỗi khẩu phần ăn giảm 65% calorie mỗi ngày so với tiêu chuẩn trước khi xảy ra chiến tranh. Riêng bịnh dịch tả đă làm cho 19.000 người chết trong năm 1941. Tổng số người chết là 109.000 chiếm 8% trong năm 1941. Qua năm 1942, con số người chết lên đến 18% tức là 249.000 người và trong năm 1943 con số người chết là 167.000 , tỉ lệ 17%. Ngoài ra con số người chết v́ bị hành quyết trong các khám đường hay trong các trại lao động khổ sai trong năm 1941 đến 1943 lên đến 600.000 người.
    Nếu không chết th́ số phận của người c̣n sống cũng chẳng hơn ǵ người chết. Họ sống trong đau khổ và bị hành hạ, coi thường. Theo thống kê của các nhân viên quản trại, trong năm 1941 chỉ c̣n có 19% người đủ sức làm các công việc nặng; 17% làm các công việc b́nh thường và con số c̣n lại 63% được coi như tàn phế, không c̣n đủ sức để làm việc.
    Sau đây là bản phúc tŕnh của viên vụ tá Ban Hành Động của trại lao động cưỡng bách Siblag viết ngày 2 tháng 11 năm 1941:

    Theo tin nhận được của Ban Hành Động thuộc cơ quan An Ninh Nội Chính vùng Novossibirsk, th́ con số tử vong gia tăng ở các vùng Akhloursk, Kouznetsk và vùng Nossibirk Siblag.
    Lao động quá nặng, thời gian làm việc trong ngày quá dài, không được cung cấp lương thực, thiếu ăn, chăm sóc y tế quá tồi tệ là các nguyên nhân đă làm gia tăng người bịnh và từ đó gia tăng con số người chết. Chứng suy tim cũng là một trong những nguyên nhân.
    Nhiều người chết chỉ c̣n da bọc xương, óm yếu gầy ṃn. Người khác chết v́ bịnh truyền nhiễm do sự thuyên chuyển các công nhân mang bịnh, từ trung tâm phân phối chuyển qua các trại lao động khổ sai.
    Ngày 8 tháng 11 năm 1941, từ trung tâm phân phối Novossibirsk thuộc vùng Marinski có 539 phạm nhân gầy óm và trong người đầy chí rận cùng với 6 người chết chuyển về các trại lao động. Đêm 8 rạng ngày 9 tháng 11 có thêm 5 người trong toán này chết.
    Một số phạm nhân chuyển về trại khác th́ người nào cũng đày chí rận và không một ai có quần áo lót trong người.
    Sau này người ta phát hiện các nhân viên y tế, hay các tù nhân được phái vào công tác y tế đă t́m cách phá hoại. Một nhân viên y tế của trại Ahjer thuộc vùng Taiginski đă bị kết án theo sắc luật 58-10 v́ tội đă cùng với 4 người khác phá hoại công tác sản xuất của trại. Họ đă đưa các tù nhân đau yếu vào các khâu lao động quá nặng và không chịu săn sóc bịnh nhân đúng lúc, với mục đích là làm giảm chỉ tiêu sản xuất.
    Phụ tá Ban Hành Động của trại lao động cưỡng bách,
    Đại Uư lực lượng an ninh,
    Kogenman.
    Các bản báo cáo của nhân viên quản lư các trại về t́nh trạng suy yếu của các tù nhân để giảm thiểu công tác lao động, đă không làm giao động các cơ quan chịu trách nhiệm sản xuất. Các cơ quan này vẫn tiếp tục ra lịnh cho các tù nhân bịnh yếu làm việc cho đến khi kiệt sức.
    Từ năm 1941 đến năm 1944, giá trị sản phẩm do sức lao động sản xuất gia tăng từ 9 đồng Rúp lên đến 21 đồng Rúp. Đó là gia trị trung b́nh một ngày lao động của tù nhân.
    Một số vài trăm ngàn tù nhân đă làm việc trong các nhà máy sản xuất vũ khí thay cho các công nhân bị động viên ra chiến trường. Nhờ thế mà vai tṛ của các cam phạm trại lao động khổ sai này trở nên quan trọng. Theo ước lượng của các quản lư trại, tù nhân đă đóng góp một phần tư tổng số vũ khí, kim loại và sản phẩm hầm mỏ trên toàn quốc.
    Mặc dù các tù cải tạo lao động có nhiều hành động tốt, và hơn 95% tù lao động tham gia tích cực vào công tác thi đua lao động Xă hội chủ nghĩa, nhưng các biện pháp đàn áp v́ lư do chính trị đối với tù nhân cũng không được gia giảm.
    Áp dụng điều luật 58 về việc trừng phạt các tù nhân chính trị do Trung Ương ban hành, cho dù tù nhân đă măn hạn, họ vẫn c̣n bị giữ lại cho đến khi hết chiến tranh. Các quản lư trại nhốt biệt giam các tù nhân chính trị có liên quan đến các tổ chức của Trotski, các tổ chức thiên hữu, các toán gián điệp, khủng bố hay phản cách mạng. Rồi họ bị đưa về các vùng có khí hậu quá khắc khe như vùng Kolyma gần Bắc Băng Dương. Con số người chết hằng năm v́ thế tăng lên 30%.
    Ngày 22 tháng 4 nhà nước ra lịnh cho thiết lập trại lao động khổ sai cưỡng bách gia tăng. Trại này c̣n có tên là trại tử thần. Bất kỳ tù nhân nào bị chuyển về trại này đều không có hy vọng sống sót. Tù nhân bị bắt buộc làm việc 12 tiếng đồng hồ trong một ngày trong các mỏ kim loại như mỏ vàng, mỏ ch́, mỏ radium, mỏ than đá nằm trong vùng Kolyma và Vorkouta.
    Trong ṿng 3 năm, từ tháng 7 năm 1941 đến tháng 7 năm 1944, các toán đặc biệt đă gia tăng án phạm nhân lên đến 148.000 người. Trong số này có tới 10.858 tù nhân bị hành quyết, gồm có 208 người bị kết tội làm gián điệp, 4307 tội phá rối, 6016 tội âm mưu nổi loạn.
    Theo tin của Anh Ninh Nội Chính, có 603 tổ chức phản động của tù phạm bị phát hiện và phá vỡ. Điều này chứng tỏ công tác tốt của cơ quan an ninh. Nhờ đó, các toán an ninh này được gởi đi làm công tác khác như đi lùng bắt và lưu đày các tôi phạm.
    Trong suốt thời gian chiến tranh có rất nhiều vụ trốn trại và nổi loạn xảy ra trong các trung tâm lao động cưỡng bách.
    Và cũng có nhiều sự thay đổi đáng kể. Sau khi thi hành điều luật kư ngày 2 tháng 7 năm 1941, đă có 577.000 các tù nhân có tội nhẹ như ăn cắp vặt, trốn làm việc,.. đă được phóng thích và được bổ xung vào các đơn vị Hồng Quân. Trong suốt thời kỳ chến tranh, đă có 1.068.000 tù nhân của các trại lao động cưỡng bách được ân xá qua được thu nhận vào quân đội, đưa ra chiến trường.
    Từ đó tù nhân trong các trại lao động khổ sai, trong các trung tâm khẫn hoang thưa dần. Chỉ c̣n lại các tù nhân ĺ lợm và trọng phạm. Tỉ lệ các tù phạm do sắc luật 58, bị kết án trên 8 năm tù đă giảm từ 27% đến 43%. Lúc đầu khi chiến tranh bùng nổ, con số tù gia tăng. Vào những năm 1944-1945, sau một thời gian tạm giảm xuống, c̣n số tù tại các trại lao động cưỡng bách bỗng nhiên gia tăng rất nhiều, trên 45% ở vào tháng giêm 1945 dến đầu năm 1946.
    Trước năm 1945, người ta chỉ biết mặt trái mạ vàng của cái mề đay Liên Bang Xô Viết. Cái vẻ vang thắng trận chỉ là sự che đăy sự tàn phá trong nước. Người ta không biết hoặc không muốn biết mặt trái của một sự thật được che giấu rất kỹ. Theo các tài liệu c̣n lưu lại cho ngơời ta thấy chính năm chiến thắng của Liên Xô cũng là năm truy lùng và bắt giam người cao độ nhất. Tuy có hoà b́nh với thế giới bên ngoài nhưng bên trong nước không gia giảm khủng bố, bắt bớ. Chính trong thời chiến đă làm gia giảm các cuộc kiểm soát lùng bắt. Cho nên trong năm 1945 khi chiến tranh chấm dứt, nhà nước mở lại các cuộc kiểm soát để sát nhập vào Liên Bang Xô Viết những vùng đất, những sắc dân trước đây vẫn c̣n sống ngoài ṿng pháp luật của Liên Xô.
    Những vùng đất một thời thoát khỏi vùng kiểm soát của Liên Xô là các vùng đă bị sát nhập vào những năm 1939-1940. Như ba nước vùng Baltique, Vùng phía Tây Bielorussie, vùng Moldavie, vùng Tây Ukraine. Các vùng này một lần nữa bị sát nhập vào Liên Bang. Những cuộc chống đối chính sách Liên- Xô- hoá do các lực lượng quốc gia của các dân tộc tổ chức đă nổi lên và bị đàn áp thẳng tay. Ở vùng Tây Ukrine và tại ba nước Baltique, phong trào kháng chiến chống thuộc địa Nga nổi lên rất mạnh. Cuộc chiếm đóng đầu tiên xảy ra vào tháng 9 năm 1939 đến tháng 6 năm 1941. Hồng quân cho tổ chức một lực lượng quân đội ch́m lấy tên là OUN : Tổ chức các sắc dân Ukraine. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều thành viên của lực lượng này đă gia nhập vào quân Đức Quốc Xă, chiến đău chống lại Cộng Sản Nga và chống lại người Do Thái.
    Vào tháng 7 năm 1944, khi Hồng Quân tái chiếm, tổ chức OUN trở thành Hội Đồng Tối Cao Giải Phóng nước Ukraine, lănh tụ là ông Roman Choukhovitch. Ông ta đă từng là viên chỉ huy của lực lượng kháng chiến ngưới Ukraine UPA, với một số quân trên 20.000 người trong năm 1944.
    Vào ngày 31 tháng 3 năm 1944, Béria ra lịnh lùng bắt cho lưu đày đất cả thân nhân của các quân kháng chiến thuộc hai tổ chức OUN và UPA. Đă có 100.300 thường dân bị bắt lưu đày, mà đa số là đàn bà, người ǵa và trẻ em, trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1944. Đồng thời cũng có 37.000 kháng chiến quân bị bắt và bị đưa đi lao động khổ sai.
    Sau khi Giáo Chủ Chteheptitski của giáo hội Uniate của Ukraine qua đời, chính quyền Xô Viết bắt giáo hội này phải gia nhập vào Giáo Hội Cơ Đốc Chính Thống.
    Để phá huỷ các lực lượng chống lại chính sách Liên-Xô-hóa, các nhân viên An Ninh Nội Chính đích thân đến các trường học trong các vùng phía Tây Ukraine là vùng trước kia thuộc Ba Lan có khuynh hướng tư bản, điều tra danh sách học sinh và các sổ học bạ. Các học sinh giỏi đều bị bắt giam v́ nhà cầm quyền Cộng Sản cho rằng chính các em học giỏi sẽ có khả năng chống đối chính sách của nhà nước. Theo bản phúc tŕnh của viên phụ tá Beria là ông Koboulov, th́ từ tháng 9 năm 1944 đến tháng 3 năm 1945 cơ quan an ninh nội chính đă bắt trên 100.000 người v́ tội đă hợp tác với quân Đức trong vùng phía Tây Bielorussie, được coi là vùng có nhiều phần tử chống chính quyền Xô Viết.
    Trong khoảng thời gian từ 1 tháng giêng đến 15 tháng 3 năm 1945, nhà nước mở 2257 chiến dịch lùng bắt trên lănh thổ Lituanie. 6000 người bị hành quyết và 75.000 khác bị bắt. Trong năm 1945 có 38.000 thân nhân các người chống đối nhà nước bị trục xuất ra khỏi Lituanie. Chính v́ vậy mà con số tù lao động khổ sai trong các trại tập trung gia tăng trong năm 1945. Tăng từ 140% đến 420%. Nhưng qua năm 1946, con số này lại hạ xuống một ít. Người gốc Ukrine giảm 23%, người gốc ba nước vùng Baltique giảm 6% so với các sắc dân khác trong Liên Bang Xô Viết.
    Một số tù nằm trong các trại thuộc các vùng do Hồng Quân giải phóng được đưa về các trại lao động khổ sai Goulag đă có từ năm 1941 cũng đă giải thích một phần nào con số tù gia tăng vào năm 1945. Các tù nhân này phần đông là các cựu tù binh bị t́nh nghi là làm tay sai cho quân Đức Quốc Xă trong thời chiến. Các trại này cũng tiếp nhận các thanh niên đến tuổi động viên đang sống trong các vùng Đức chiếm đóng. Nhà cầm quyền nghi ngờ các thành phần này đă tiêm nhiễm tư tưởng chống chính quyền Cộng Sản. Theo sổ sách chính thức, từ tháng giêng năm 1942 đến tháng 10 năm 1944 có tất cả 421.000 người bị bắt đưa vào trại thanh lọc.
    Khi tiến quân tái chiếm các vùng đất bị quân Đức Quốc Xă chiếm như vùng ba quốc gia ở eo biển Baltique, lănh thổ Bulgarie [ Gia Bảo Lợi] và Romaie [Lỗ Ma Ni], Chính quyền Cộng Sản đă giải thoát hằng triệu quân Nga và các người lao công lưu đày. Công việc tổ chức hồi hương và làm thủ tục giải ngũ cho một số đông thường dân và quân lính đă tạo nên nhiều khó khăn cho nhà nước.
    Tháng 10 năm 1944, nhà nước Cộng Sản thành lập một Tổng Nha chuyên trách công tác hồi hương dưới quyền chỉ huy của Tướng Golikov. Ngày 11 tháng 11, Tướng Golikov họp báo và tuyên bố : Chính quyền Xô Viết rất lo âu về số phận của dân chúng chẳng may bị sống dưới ách nô lệ của Đức Quốc Xă. Họ đă được giải phóng và nay trở về trong ṿng tay đón nhận của Tổ Quốc... Nhà nước đánh giá rằng những người này v́ bị sức ép của quân Đức cho nên đă phải làm những điều chống lại chính quyền Xô Viết. Họ sẽ không chịu trách nhiệm những ǵ họ đă làm, nếu họ thật sự sẵn sàng thi hành bổn phận công dân khi họ trở về trong ḷng Tổ Quốc.
    Lời tuyên bố của Tướng Golikov đă được phổ biến rộng răi và đă đánh lừa được Đồng Minh. Các nước Đồng Minh thi hành đúng các điều khoản của hội nghị Yalta và đă giúp Nga một cách nhiệt t́nh trong công tác hồi hương các công dân Xô Viết hiện đang sống ngoài Liên Bang. Theo thỏa ước Yalta, những người dân Xô Viết đă từng đầu quân và đang phục vụ trong quân đội Đức Quốc Xă và những người đă từng hợp tác với Đức đều bị cưỡng bách hồi hương. Dân chúng sống ngoài lănh thổ Liên Bang cũng được chuyển về giao cho nhân viên An Ninh Nội Chính quản lư.
    Ba ngày sau khi kết thúc trận chiến, ngày 11 tháng 5 năm 1945, chính quyền Xô Viết ra lịnh thiết lập một trăm trại kiểm soát và thanh lọc. Mỗi trại có thể chứa 10.000 người. Tất cả tù binh chiến tranh đều phải qua sự kiểm soát của cơ quan SMERCH, một tổ chức đặc trách phản gián. C̣n thường dân th́ do cơ quan An Ninh Nội Chính thanh lọc.
    Trong ṿng chín tháng, từ tháng 5 năm 1945 cho đến tháng hai năm 1946, có đến 4.200.000 dân và lính được chuyển về nước. Trong đó có 1.545.000 tù binh chiến tranh c̣n sống sót trong số 5.000.000 quân bị Đức bắt; 2.655.000 thường dân bị bắt lưu đày cộng thêm với con số thường dân bỏ trốn trong thời chiến tranh.
    Sau một thời gian kiểm tra và thanh lọc, nhà nước cho trẻ em và phụ nữ trở về quê quán. Con số này chiếm 57%. Một số quân nhân , 19% trở lại quân đội và cho đi trừng giới. 14% được bổ xung vào các đơn vị tái lập. Và c̣n lại 8% , lối chừng 360.000 người, bị chuyển vào các trại lao động khổ sai. Phần lớn số này bị ghép vào tội phản quốc và tuỳ theo nặng hay nhẹ, sẽ phải bị tù từ 10 năm đến 20 năm và bị đưa đi lao động khổ sai tại các trung tâm Goulag, đặt dưới quyền quản lư của An Ninh Nội Chính.
    Nhóm quân nhân , mệnh danh là nhóm Vlassovtsy là những quân nhân đă theo Tướng Andrei Vlassov chỉ huy quân đoàn II, đă bị quân Đức bắt làm tu binh vào tháng 7 năm 1942. Chính nhóm này có ư chống lại Staline và đă chấp nhận hợp tác với Đức để giải phóng Liên Bang Xô Viết. Tướng Vlassov đă thành lập Ủy Ban Quốc Gia Nga và kêu gọi một số quân nhân thành lập hai sư đoàn quân giải phóng Nga. Sau khi chiến tranh kết thúc, các nước Đồng Minh đă giao trả Tướng Vlassov và các sĩ quan cho Hồng Quân. Tất cả đều bị hành quyết. Quân lính của ông th́ được hưởng luật ân xá được ban hành tháng 11 năm 1945. Họ bị đưa đi lưu đày trong 6 năm về các trại lao động ở vùng Siberi, vùng Kazakhstan và các vùng cực Bắc.
    Vào đầu năm 1946 đă có danh sách 148.079 người thuộc nhóm Vlassovtsy được Nha Quản Lư chuyển qua nơi khác để đi khẩn hoang, trực thuộc Bộ Nội Vụ. Cả ngàn hạ sĩ quan bị ghép vào tội phản quốc b́ đày vào các trại lao động cưỡng bách chung thân.
    Trong năm chiến thắng này, tổng số các trại di dân đặc biệt, các trung tâm lao động cưỡng bách khổ sai , các trung tâm khẩn hoang đặc biệt, các trại kiểm soát và thanh lọc, các khám đường trên lănh thổ Liên Bang Xô Viết đă đạt đến con số kỷ lục. Con số tù lên đến 5 triệu người. Thành tích con số tù vĩ đại này đă bị che mờ bởi các cuộc liên hoan mừng chiến thắng được nhà nước Cộng Sản tổ chức liên tục trên toàn lănh thổ Xô Viết. Chính vào lúc này, hơn lúc nào hết, Liên Xô đă mê hoặc hàng triệu dân nước khác.
    Liên Bang Xô Viết đă trả một giá quá cao về con số người chết cho cuộc chiến thắng quân Đức Quốc Xă. Sự kiện này đă che giấu tính chất độc tài của Staline.
    Ở vào thời điểm đó, chiến thắng đă giúp cho chế độ vượt qua những nghi ngờ.
    Và ngày nay, các vụ án ở Mạc Tư Khoa và hiệp ước của Đức Quốc Xă kư kết với Liên Bang Xô Viết hồi tháng 8 năm 1938 đă trở thành dĩ văng.

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

  9. #19
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 13


    CAO ĐIỂM CỦA CÁC KHỦNG HOẢNG TRONG CÁC HỢP TÁC XĂ NÔNG NGHIỆP


    Vào những năm cuối cùng của Staline, ở Nga không c̣n xảy ra các vụ án do ṭa án nhân dân xử công khai có quần chúng tham dự. Các vụ khủng bố cũng không c̣n. Tuy nhiên, không khí kinh hoàng của những năm trước vẫn c̣n đè nặng và bao trùm người dân vào những năm sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.
    Các vụ phạm pháp và tệ nạn xă hội đă diễn ra với mức độ cao nhất của nó. Những ước mơ cho một cuộc sống b́nh thường trong xă hội đă tan biến theo chiến tranh. Sự chờ đợi để hưởng một chút hơi thở tự do chỉ là những giấc mơ không bao giờ hiện thực.
    Thi hào lừng danh Ilia Ehrenbourg đă viết trong tập hồi kư của ông , đề ngày 9 tháng 5 như sau:
    Nhân dân đă quá đau khổ. Không thể để tái diễn những ǵ đă xảy ra trong quá khứ.
    Ông ta là một người biết rất rơ bản chất của chế độ và guồng máy cai trị của nó. Ông vẫn thường lo âu cái ǵ sẽ xảy ra. Và nó đă xảy ra đúng như ông ta đă nghĩ.
    Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1945, Bộ Chính Trị Trung Ương đă gởi nhiều phái đoàn thanh tra về địa phương để khảo sát t́nh h́nh. Các bản báo cáo gởi về Trung Ương cho thấy nhân dân đang sống trong thất vọng. Họ đang sống trong khó khăn và họ hy vọng sẽ có cái ǵ đó để thay đổi cuộc sống. Theo các bản phúc tŕnh th́ đất nước đang lâm vào thời kỳ hỗn loạn.
    Trong thời kỳ chiến tranh, các nhà máy phải dời về phía Đông để tránh rơi vào tay quân Đức Quốc Xă. Sự kiện này đă kéo theo hàng triệu nhân công phục vụ trong các nhà máy. Chính t́nh trạng này đă tạo một khoảng trống khó phục hồi lại mức sản xuất. Các cuộc đ́nh công hàng loạt đă xảy ra tại các nhà máy luyện kim ở Oural. Sự kiện này chưa hề xảy ra trước đây. Trong nước đă có 25 triệu người dân không gia cư. Những người lao động nặng, hằng ngày nhận khẩu phần bánh ḿ không quá một cân Anh.
    Cuối tháng 10 năm 1945, các Ủy Viên của các Ban Chấp Hành địa phương vùng Novossibirsk đă đề nghị hủy bỏ các cuộc diễn hành và lễ kỷ niệm cuộc cách mạng tháng 10 v́ dân chúng không có quần áo và giày để đi diễn hành. Trong cuộc sống khốn khổ đó, nhiều tin đồn đưa ra là sẽ giải tán các hợp tác xă nông nghiệp v́ các tổ chức này không đủ tiền và lương thực để trả cho các thành viên và nông dân cho dù họ chỉ trả một vài kư lúa ḿ cho mỗi nông dân trong một vụ mùa lao động.
    Giới nông nghiệp bị thảm bại nặng nề. Chiến tranh tàn phá ruộng vườn ở nông thôn. Thêm vào đó, nạn hạn hán, thiếu phương tiện cơ giới, thiếu nhân công, đă làm cho vụ mùa tháng 10 thất thu trầm trọng. Nhà nước phải kéo dài t́nh trạng phân phối lương thực hạn chế, trái với lời hứa của Staline là sẽ chấp dứt t́nh trang hạn chế lương thực này.
    Tháng 2 năm 1946, Staline đọc một bài diễn văn với những hứa hẹn lạc quan. Nhưng những ǵ ông nói đều trái ngược với những ǵ đă diễn ra trong thực tế. Ông cho rằng nông dân chỉ thấy mối lợi trên mảnh đất nhỏ mà họ tự canh tác, không qua sự kiểm soát của chính quyền. Chính những người này đă không thi hành nghĩa vụ sản xuất tập thể theo chính sách của nhà nước. Do vậy, nhà nước phải ra tay thanh trừng những ai vi phạm vào quy chế của các hợp tác xă nông nghiệp. Nhà nước sẽ truy tố những ai đă phung phí tài sản, ăn cắp tài vật , phá hoại máy móc và ngăn chận các vụ thu mua nông phẩm.
    Ngày 21 tháng 9, Staline ra lịnh thành lập một ủy ban chuyên lo các nghiệp vụ về các hợp tác xă nông nghiệp dưới quyền chỉ huy của một cán bộ cao cấp của đảng Cộng Sản là ông Andreiev. Ủy ban có nhiệm vụ thu hồi lại tất cả các phần đất nhỏ mà dân chúng đă chiếm đoạt bất hợp pháp làm của tư trong thời kỳ đang xảy ra chiến tranh. Chính các phần đất canh tác nhỏ này đă giúp cho nông dân rất nhiều bởi v́ khẩu phần do các hợp tác xă nông nghiệp phân phối không đủ nuôi sống họ để chờ đến vụ mùa tháng 10.
    Ngày 25 tháng 10 năm 1946, chính phủ ban hành một nghị quyết bảo vệ các nông sản. Bộ Tư Pháp sẽ mở cuộc điều tra trong 10 ngày về các vụ thất thoát lương thực. Nhà nước cũng cho thi hành một đạo luật đă lỗi thời được ban hành vào ngày 7 tháng 8 năm 1932.
    Chỉ trong ṿng hai tháng, tháng 11 và tháng 12 năm 1946, nhà nước kết án 53.300 thành viên của các hợp tác xă nông nghiệp về các tội ăn cắp lúa và bánh ḿ. Những người này bị đày đi lao động khổ sai tại các trại lao động cưỡng bách. Hàng ngàn chủ nhiệm các hợp tác xă cũng bị kết án là đă phá hoại chiến dịch thu mua lương thực. Nhờ đó mà việc thu mua trong hai tháng này đă tăng từ 36% lên đến 77%. Nhưng phải trả với cái giá nào? Chính quyền Cộng sàn lấy sự kiện chậm trễ việc thu mua để che giấu một thảm cảnh kinh hoàng đó là nạn chết v́ thiếu ăn.
    Nạn chết đói trong mùa Thu và mùa Đông 1946-1947 đặc biệt đă xảy ra v́ hạn hán trong các tỉnh Koursk, Tambov, Voroneij, Orel và Rostov. Có ít nhất là nửa triệu người chết. Cũng giống như các nạn chết đói vào năm 1932, lần này chính quyền cũng giữ êm lặng. Nhà nước vẫn giữ mức thu mua 250 kư lúa trên một mẫu canh tác kể cả các vùng hạn hán này. Cho nên dân chúng của trong vùng vốn không đủ lương thực v́ mất mùa lại càng thêm thiếu lương thực. Đó là lư do con số người chết đói gia tăng. Chỉ c̣n có một cách là phải ăn cắp nông sản của hợp tác xă để sống qua ngày. Con số nhân viên ăn cắp này lên đến 44% trong ṿng một năm.
    Ngày 5 tháng 6 năm 1947, báo chí đă đăng tải hai đạo luật do chính phủ ban hành vào ngày hôm trước. Đạo luật nhấn mạnh là mọi vi phạm tài sản của nhà nước, của hợp tác xă nông nghiệp, cá nhân hay tập thể, đều bị trừng phạt từ 5 năm cho đến 25 năm lao động cưỡng bách. Ai biết được người nào đó ăn cắp hay có ư đồ ăn cắp mà không truy tố cũng sẽ bị trừng phạt từ 2 đến 3 năm đi lao động cưỡng bách. Các văn thư riêng trong giới Tư Pháp cho biết các tội ăn cắp vặt tài sản của Tổ Hợp Nông Nghiệp cho đến nay chỉ bị phạt mất quyền tự do trong ṿng một năm, bây giờ được lịnh phạt theo sắc luật ban hành ngày 4 tháng 7 năm 1947.
    Vào cuối đệ nhị lục cá nguyệt của năm 1947, đă có 380.000 người bị kết án, trong đó có 21.000 thanh niên ở tuổi vị thành niên tức là dưới 16 tuổi. Chỉ cần ăn cắp vài kí lô khoai ḿ cũng đủ để bị kết án từ 8 đến 10 năm đi lao động cưỡng bách.
    Sau đây là bản án do ṭa án quận Souzdal thuộc tỉnh Vladimir tuyên án ngày 10 tháng 10 năm 1947:
    Hai tên N.A và B.S tuổi 15 và 16, được lịnh đi gát chuông ngựa tại một công tŕnh tổ hợp nông nghiệp, bị bắt quả tang ăn cắp 3 trái dưa chuột trong vườn rau của tổ hợp nông nghiệp. Nay tuyên án hai đương sự N.A và B.S 8 năm mất quyền tự do và đưa đi lao động theo chế độ thường ở các trại lao động tập trung.
    Trong ṿng 6 năm đă có 1.300.000 người bị kết án. 75% trong số này phải đi lao động cưỡng bách trong 5 năm theo sắc luật ngày 4 tháng 6 năm 1947.
    Đến năm 1951, con số thường phạm chiếm 53%. Và tính trên toàn quốc, con số thường phạm ở tù lao động cưỡng bách với tỉ lệ 40%.
    Vào những năm cuối của thập niên 40, do áp dụng chặt chẽ sắc luật ngày 4 tháng 6 năm 1947, con số bản án kết tội trên 5 năm lao động cưỡng bách đă tăng từ 2% vào năm đầu cho đến 29% vào những năm cuối của thập niên 40.
    Ở vào thời điểm cai trị cao độ nhất của Staline, các cuộc khủng bố và đàn áp đă diễn ra hằng ngày. Ṭa án nhân dân một h́nh thức chuyển tiếp của cái Ṭa án siêu pháp lư của cơ quan An Ninh Nội Chính NKVD rất nổi tiếng trong những năm 1930-1940.
    Trong số những người bị kết án có rất nhiều quả phụ của các quân nhân đă bị tử thương trong cuộc chiến vừa qua. Những quả phụ này sống với đám con nhỏ mà chồng họ đă bỏ lại, không đủ sức nuôi con nên phải đi ăn cắp, đi ăn xin. Vào cuối năm 1948, nhà nước Cộng Sản bắt giam 500.000 phụ nữ, tức là hai lần nhiều hơn so với năm 1945. Con của các quả phụ này dưới 4 tuổi đều phải được chuyển vào nhà trẻ tập thể cũng nằm trong các trại giam. Đến năm 1953, con số trẻ em tăng lên 35.000 em.
    Để tránh cho các trung tâm lao động cưỡng bách trở thành các trung tâm giữ trẻ vĩ đại v́ con số phụ nữ bị bắt quá nhiều bởi chính sách đàn áp tàn bạo ban hành năm 1947, nhà nước Cộng Sản phải ban hành sắc luật kư hồi tháng 4 năm 1949, ân xá cho 84.200 phụ nữ trẻ có trẻ em nhỏ tuổi. Nhưng đồng thời nhà nước Cộng sản vẫn tiếp tục kết án con số phụ nữ khác v́ tội ăn cắp. Đến năm 1953, con số phụ nữ bị bắt giam trong các trại lao động cưỡng bách chiếm từ 25% đến 30% trên tổng số can phạm.
    Trong hai năm 1947-1948 nhà nước c̣n gia tăng các vụ đàn áp qua các Đạo Luật biểu tượng t́nh cảnh xă hội thời đó. Như đạo luật ban hành ngày 15 háng 2 năm 1947, cấm người Nga kết hôn với người ngoại quốc. Một đạo luật khác ban hành ngày 9 tháng 6 năm 1947 quy định trách nhiệm về việc loan tin hay làm thất thoát các vấn đề bí mật của nhà nước. Đạo luật ban hành ngày 21 tháng 2 năm 1948 kết án các thành phần thuộc nhóm Xă Hội thiên hữu, Mensevich, nhóm Xă hội có khuynh hướng Quốc Gia, nhóm Trotski, nhóm vô chính phủ, nhóm quân nhân Bạch Nga,..là các phần tử gián điệp chống lại nhà nước. Những người này sau khi măn tù hay sau khi hết thời gian lao động khổ sai sẽ bị đưa đi lưu đày ở các vùng Kolyma thuộc tỉnh Novossibirsk và vùng Krasnoiarsk hay các vùng hẻo lánh ở Kazakhstand.
    Để canh pḥngvà kềm chế những người nay, nhà nước Cộng Sản thường gia tăng thời gian tù thêm 10 năm mà không cần có một phiên ṭa nào phán xét. Những người tù bị bắt vào những năm 1937-1938, thường được đặt cho cái tên là những người tù 58. Có nghĩa là họ chỉ được phóng thích vào năm 1958, tức là phải ở tù 20 năm.
    Vào cùng ngày 21 tháng 2 năm 1948, Hội Đồng Xô Viết Tối Cao cho ban hành một sắc luật trục xuất ra khỏi lănh thổ Cộng Ḥa Ukraine, tất cả các phần tử nào không chịu lao động trong một thời gia tối thiểu trong các trung tâm lao động hợp tác xă cưỡng bách. Họ bị coi là những phần tử ăn bám xă hội. Qua đến ngày 2 tháng 6 th́ đạo luật này có giá trị trên toàn lănh thổ Liên Xô.
    T́nh trạng sinh sống ở các trại lao động cưỡng bách hợp tác xă nông nghiệp tập trung th́ hầu như không đủ trả tiền cho nhân công, kể cả phân chia sản phẩm. V́ thế, có rất nhiều công nhân không thực hiện đủ số ngày lao động do nhà nước ấn định. Như vậy đă có hàng triệu công nhân không đạt đúng tiêu chuẩn ngày lao động, trở thành phạm nhân. Chính quyền địa phương nhận rằng, nếu áp dụng đúng theo các điều luật của Trung Ương th́ sẽ gây ra xáo trộn. Cho nên họ áp dụng một cách lơ là, làm cho có làm. Tuy vậy cũng đă có 38.000 người bị bắt đi lưu đày trong năm 1948.
    Mặc dù án tử h́nh đă được băi bỏ theo như đạo luật kư ngày 26 tháng 5 năm 1947, nhưng các đạo luật đàn áp đẫm máu nêu trên đă làm lu mờ đạo luật băi bỏ án tử h́nh.
    Ngày 12 tháng giêng năm 1950, nhà nước Cộng Sản cho thi hành lại đạo luật tử h́nh, để xử các vụ án Leningrad.
    Trong những năm của thập niên 1930, việc cho hồi hương những phần tử bị đưa lưu đày đă không được thi hành thống nhất và không liên tục trong các cơ quan của nhà nước. Măi cho đến thập niên 40 th́ vấn đề này mới được gỉai quyết trắng đen. Theo đó, các tù nhân bị kết án trong những năm 1941-1945, th́ trở thành những tên tù vĩnh viễn. Con cái của họ sau này cũng trở thành những người dân khẩn hoang đặc biệt.
    Trong những năm 1948-1953 con số người đi khẩn hoang gia tăng không ngừng. Đầu năm 1946, con số dân khẩn hoang là 2.342.000 người. Qua tháng giêng năm 1953, lên đến 273.000 người. Tại Lituanie, dân chúng nổi lên chống chính sách lao động cưỡng bách đă bị cơ quan công an nội chính lùng bắt vào hai ngày 22 và 23 tháng 5 năm 1948. Công an mở chiến dịch hành quân mùa xuân, trong ṿng 48 tiếng đồng hồ, đă bắt 36.932 thanh niên và thiếu niên bỏ lên 32 đoàn xe chở đi lưu đày. Tất cả bị kết án là các phần tử ăn cướp, những người có tư tưởng quốc gia. Các đoàn xe chở họ đi trong suốt 4 hay 5 tuần lễ. Họ bị đưa về các vùng cực Đông của Siberie và đặt dưới quyền kiểm soát của các toán xung kích thuộc Bộ Công An Nội Chính. Họ phải làm việc cực nhọc và khổ sai tại các trung tâm khai thác lâm sản.
    Trong một bản phúc tŕnh của cơ quan an ninh nội chính vùng Krasnoiarsk cho biết các gia đ́nh người gốc Littuanie được phân phối đến lao động ở tổ hợp khai thác lâm sản Igara. Họ phải sống trong các căn nhà dột nát, cửa sổ không có kính để chận gío lạnh. Họ không có giường , nên phải nằmh ngủ trên nền đất với vài đống rơm. Không bàn, không ghế. V́ sống chen chúc nhau trong các gian nhà nhỏ và v́ không có tiêu chuẩn vệ sinh cho nên đă sinh ra các bịnh truyền nhiễm, kiết lỵ, rận chí,..Con số người chết mỗi lúc một gia tăng.
    Trong năm 1948 có trên 50.000 dân Lituanie lưu đày khẩn hoang đặc biệt. Con số khác 30.000 dân lưu đày trong các trung tâm khổ sai. Theo bộ nội vụ, có đến 21.259 người bị giết chết trong các cuộc hành quân b́nh định v́ nước Cộng Ḥa này cương quyết chống lại chính sách cưỡng bách lao động của nhà nước Liên Xô. Mặc dù bị nhà nước Cộng Sản áp bức, nhưng tính đến cuối năm 1948, chỉ có 4% đất đai của vùng Baltique là vào tập thể.
    Đầu năm 1949, nhà nước Cộng Sản cương quyết tập thể hóa và sát nhập ba nước vùng Baltique bằng cách khai trừ các phần tử có tư tưởng quốc gia của các nước này.
    Ngày 12 tháng giêng năm 1949 Hội Đồng Bộ Trưởng Xô Viết ban hành đạo luật trục xuất ra khỏi lănh thổ ba nước Baltique, tất cả gia đ́nh của các phần tử điền chủ và các người có tư tưởng quốc gia đang sống bất hợp pháp và gia đ́nh của các người bị giết trong cuộc hành quân b́nh định mùa xuân trước đây. Các cuộc truy lùng diễn ra từ tháng 3 cho đến tháng 5 năm 1949 đă đưa 95.000 dân ba nước Baltique ra vùng Siberie.
    Trong bản phúc tŕnh của Krouglovgởi cho Staline đề ngày 19 tháng 5 năm 1949, báo cáo rằng trong số dân lưu đày đó có đến 27.084 trẻ em dưới 16 tuổi; 1785 trẻ thơ không có gia đ́nh; 146 người tàn phế và 2850 người ǵa gần đến ngày chết.
    Vào tháng 9 năm 1951 lại diễn ra các cuộc bố ráp. Cộng Sản bắt thêm 17.000 người đưa đi Siberie. Tính từ năm 1940 đến năm 1953, đă có trên 200.000 dân vùng Baltique bị bắt đi lưu đày ở vùng Tây Bá Lợi Á. Trong đó có 120.000 dân Lituanie, 50.000 dân Lettonie và 30.000 dân Estonie.
    Trong năm 1953, người ta cũng thấy có 75.000 dân ba vùng này bị giữ trong các trại tù chính trị khổ sai, chiếm 1/ 5 trên tổng số tù trong các trại này, và bằng 1/10 con số dân trưởng thành của ba nước này bị đưa đi lưu đày.
    Một trong các dân sắc tộc bị ép vào Liên Bang Xô Viết là dân xứ Moldave. Dân này rất bướng bĩnh, chống lại chính sách lao động tập thể của nhà nước Xô Viết.
    Cuối năm 1949, chính quyền quyết định thi hành lịnh bố ráp để bắt đi lưu đày các phần tử được coi là xa lạ với Chủ Nghĩa Xă Hội. Cuộc hành quân do Đệ Nhất Bí Thư đảng Cộng Sản Moldave chi huy. Đó là ông Leonid Ilitch Brejnev, sau này trở thành Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Xô Viết.
    Ngày 17 tháng 2 năm 1950, Kroulov gởi về Staline một bản phúc tŕnh cho biết có tắt cả 94.792 dân Moldave bị lưu đày như là dân khẩn hoang đặc biệt.
    Trong các cuộc lùng bắt khác trong năm 1949, đă có 57.680 dân Hy Lạp, Armenie, Thổ Nhỉ Kỳ và các người sinh sống quanh vùng Hắc Hải bi đưa đi lao động ở các vùng Kazakhstand, vùng Alta.
    Trong ṿng 5 năm sau thế chiến thứ hai, các du kích quân vỏ trang chống Xô Viết, mang tên là UPA và OUN đă bị bắt và bị đưa đi lưu đày biệt xứ. Từ tháng 7 năm 1941 đến tháng 12 năm 1949 nhà nước Cộng Sản đă 7 lần lên tiếng kêu gọi các quân du kích bỏ súng đầu hàng sẽ được ân xá. Nhưng các lời kêu gọi này không đạt được kết qủa. Quân du kích hoạt động ven ben giới của các nước Ba Lan và Tiệp Khắc. Quân du kích hành quân đánh phá liên tục và khá mạnh cho nên nhà nước Cộng Sản đă phải kư hiệp ước vào tháng 5 năm 1947 với hai nước Ba Lan và Tiệp Khắc để phối hợp với hai quốc gia này mở các cuộc hành quân thanh toán quân du kích gốc người Ukraine. Để có thể tiêu diệt các căn cứ du kích, chính quyền Ba Lan đă cho toàn thể dân Ukrane di chuyển về vùng Đông Bắc Ba Lan.
    Nạn đói xảy ra vào cuối năm 1947 và đầu năm 1948 đă buộc hàng chụ ngàn nông dân sống ở vùng phía Đông Ukraine chạy qua vùng Tây Ukraine. Vùng này tương đối có ăn. Chính do nhóm di dân v́ đói này, du kích quân đă tuyển thêm được một số quân.
    Ngày 30 tháng 12 năm 1949, trong bản đề nghị ân xá cuối cùng do Bộ Trưởng Nội Vụ kư cho các toán quân nổi loạn không thuộc thành phần du kích. Họ là nông dân, các người bỏ trốn các công xưởng, học sinh các trường công nghệ. Măi đến cuối năm 1950, các vùng phía Tây Ukraine mới được ổn định. Sau khi cho thi hành lịnh cưỡng bách lao động tập thể, đă có 300.000 dân Ukraine bi bắt giam và bị lưu đày. Theo bản thống kê của Bộ Nội Vụ, từ giửa năm 1944 đến năm 1952 có tất cả 172.000 quân kháng chiến UPA và OUN cùng với gia đ́nh của họ bị đưa đi lưu đày thuộc toán khẩn hoang đặc biệt ở các vùng Kazakhstand và Siberie.
    Theo các tin tưc từ Bộ Nội Vụ, các cuộc lưu đày dân vẫn diễn ra tiếp tục cho đến khi Staline qua đời. Từ năm 1951-1952, con số dân lưu đày định kỳ tương đối nhỏ. 11.685 người gốc Mingrélien, và 4707 dân Ba Lan gốc Iran đang sống trong vùng Georgie, 4356 giáo dân Jehovah, 4431 dân điền chủ sống trong vùng Tây Biélorussie, 1145 điền chủ sống trong vùng Tây Ukraine, 1415 điền chủ của vùng Pskov, 995 Tín đồ Chính Thống Giáo, 2795 gốc Basmatchi và 591 thuộc những người vô gia cư. Những người này được hưởng một quy chế khá đặc biệt. Họ không bị lưu đày vĩnh viễn mà chỉ ở tù trong ṿng 10 hay 20 năm.
    Các văn kiện vừa mới cho nhân dân tham khảo xác nhận rằng vào các năm đầu thập niên 50 là những năm có con số lưu đày cao nhất từ trước đến nay.
    Vào đầu năm 1953, các trại Goulag giam giữ 2.750.000 phạm nhân, và được sắp xếp thành ba loại:
    Độ chừng 500 khu trại lao động khẩn hoang được dựng lên rải rác trong các khu rừng. Mỗi khu chứa chừng 1000 đến 3000 phạm nhân. Họ thuộc vào nhóm tội nhân thường phạm. Một nửa phạm nhân này bị kết án dưới 5 năm.
    Độ chừng 60 khu lớn, tổng hợp các trại lao động, thiết lập ở vùng cực Bắc và ở về phía Đông của Liên Bang Xô Viết. Mỗi khu quy tụ chồng vài chục ngàn tù phạm, cùng với tù chính tri và thường bị kết án tồ 10 năm tù trở lên.
    15 trại có chế độ đặc biệt, được thiết lập theo chỉ thị mật của Bộ Nội Vụ duyệt kư vào ngày 7 tháng 2 năm 1948. Đây là trại giam những người tù chính trị đặc biệt. Con số tù chính trị ở các trung tâm này lên đến 200.000 người.
    Ngoài con số nhân nhân trên, c̣n có cả 2.750.000 dân bị đưa đi khẩn hoang, trực thuộc ban giám đốc các trung tâm Goulag.V́ con số tù nhân và dân lao động cưỡng bách quá lớn cho nên công việc quản lư và kiểm soát hiệu năng kinh tế vô cùng khó khăn.
    Năm 1951, Tướng Krouglov, đương kiêm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ đă bắt đầu lo âu v́ con số sản lượng xuống quá thấp. Các ban kiểm soát các trung tâm tù Goulag phát giác một số sự kiện quan trọng. Khởi đầu, quy chế của các trại thuộc quy chế đặc biệt dành cho các tù chính trị bị bắt vào năm 1945. Đó là các thành phần quốc gia thuộc dân Ukraine và dân vùng Baltique đă từng tham dự vào lực lượng du kích, cùng với các phần tử xa lạ với Xă Hội Chủ Nghĩa của một số quốc gia vừa mới bị cưỡng ép sát nhập vào Liên Bang Xô Viết, những người đă từng hợp tác với kẻ thù của nhân dân, các người thuộc diện phản quốc, phản động bị đày trong thập niên 30, những cán bộ đảng viên cũ,..
    Các tù phạm chính trị bị kết án trên 20 năm biết rằng họ không bao giờ được thả trước thời gian ấn định cho nên chẳng sợ mất mát ǵ nữa cả. Họ bị giam cô lập. Như nhà văn Alexandre Soljenitsyne của Nga đă phải ở tù 7 năm chỉ v́ ông đă cả gang chỉ trích đường lối lănh đạo độc tài của Staline. Ông cho rằng sự hiện diện các thường phạm bên cạnh các tù nhân chính trị đă là một trở ngại cho việc thành lập các phong trào thống nhất của Tù Nhân. Ở các trại đặc biệt không có thường phạm sống chung, thường xảy ra các ổ kháng cự chống lại chính quyền Cộng Sản. Các mạng lưới kháng cự được bí mật thành lập lúc c̣n chiến đău ở trong rừng của các người gốc Ukraine và người gốc Baltique. Các tổ kháng cự này đă tái hoạt động và rất là mạnh. Họ từ chối lao động, tuyệt thực, vượt ngục từng nhóm, chống đối bạo động và thường diễn ra đồng loạt.
    Mặc dù người ta chưa kiểm chứng tất cả tài liệu, nhưng cũng có vài văn thư cho thấy vào năm 1950-1952 đă xảy ra 16 vụ nổi loạn quan trọng. Mỗi cuộc nổi loạn có cả hàng trăm tù nhân tham dự.
    Các viên thanh tra của Bộ Trưởng Nội Vụ Krouglov báo cáo hồi năm 1951 t́nh trạng suy đồi ở các trung tâm Goulag v́ kỷ luật không được thi hành nghiêm khắc. Trong năm 1951 ban giám đóc trại tù đă làm mất 1.000.000 ngày lao động v́ các tù nhân từ chối làm việc. Đồng thời trong trại xảy ra nhiều cuộc va chạm giữa cán bộ quản giáo và tù nhân. Năng xuất sản xuất suy giảm rất nhiều. Theo nhận xét của Ban quản trại, các vụ xung đột thường xảy ra giữa các băng đảng. Một bên chống lại lịnh lao động và bên kia là các phần tử tù nhân chịu thi hành lịnh lao động. Các nhóm tù gia tăng thù địch và thường thanh toán nhau. T́nh h́nh ở các trại v́ thế trở nên rối loạn. Con số chết v́ thế không phải chỉ do bệnh tật hay đói khát mà v́ do hai bên giết nhau.
    Vào tháng 12 năm 1951, một cuộc họp giữa các nhân viên quản trại đă được tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Trong phiên họp, họ thừa nhận là cho đến nay họ đă khéo léo đạt được những thắng lợi do sự xung đột giữa các phe nhóm tù nhân mà họ dần dần mất quyền quản lư. Ở một vài trung tâm, một số băng đảng đùng ra nắm quyền điều hành trại. Để tiêu diệt các băng đảng, họ phải thuyên chuyển một số tù phạm từ trại này qua trại khác và thường xuyên tái tổ chức các toán phạm nhân trong các trung tâm lao động. Con số tù phạm lao động trong các trung tâm này rất đông, từ 40.000 đến 60.000 người.
    Bên cạnh sự náo loạn của các băng đảng đă làm khó khăn cho giới hữu trách, c̣n có một số vấn đề cần phải thay đổi đó là cải tổ chế độ lao tù, cơ cấu giam cầm và quy chế lao động sản xuất đối với tù nhân.
    Theo các bản phúc tŕnh củaTướng Dolguikh, chỉ huy trưởng các khu Goulag vào đầu năm 1952 và của Đại Tá Zverev, chỉ huy vùng Norilsk nơi có tất cả 69.000 tù nhân, người ta thấy có một số biện pháp sau đây:
    1./ Cô lập các thành viên của băng đảng. Nhưng v́ các băng đảng có quá nhiều thành viên nên chỉ có thể cô lập các thành phần chủ chốt.
    2./ Giải tán các vùng sản xuất rộng lớn v́ không đủ nhân viên quản lư tù nhân.
    3./ Tổ chức các đơn vị sản xuất nhỏ để ban quản giáo dễ theo dơi và kiểm soát.
    4./ Xin gia tăng quản giáo nhưng nhà nước không thể cung cấp đầy đủ. Hiện con số nhân sự đang thiếu 50%.
    5./ Đề nghị tách rời công nhân không bị kết án ra khỏi công nhân tù bị kết án. Nhưng v́ nhu cầu sản xuất tập trung của vùng Norilsk, ban quản trị trại không thể có nhà đủ để hai nhóm này cư ngụ khi tách rời.
    Nói một cách tổng quát, muốn có hiệu suất lao động tăng cao, th́ phải phóng thích trước thời hạn 15.000 tù nhân với điều kiện là họ không được phép rời khỏi nơi mà họ đang lao động.
    Đề nghị cuối cùng của Đại Tá Zverev không được coi là hợp lư trong bối cảnh lúc bấy giờ.
    Vào đầu tháng giêng năm 1951, Bộ Trửơng Bộ Nội Vụ Tứơng Krouglov đă xin Béria cho phóng thích 6000 tù nhân trước thời hạn và cho phép họ trở thành công nhân tự do, rồi chuyển họ đến làm việc ở các công trường lớn như trung tâm thủy điện Stalingrad. Nơi đây hiện có 25.000 tù nhân đang lao động khổ sai, nhưng không gia tăng mức sản xuất.
    Hiện tượng phóng thích trước thời hạn các tù nhân có tay nghề giỏi thường xảy ra vào các năm đầu của thập niên 50.
    Vấn đề kiểm soát hiệu năng kinh tế trong các trại tù với số lượng to lơn như vậy thật là khó khăn cho ban quản trại.
    Với con số 208.000 nhân viên quản trại, nhà nước không thể nào kiểm soát được bộ máy hành chánh này. V́ thế có rất nhiều báo cáo ma về năng suất lao động của tù nhân.
    Để giải quyết vấn đề này, cơ quan quản trại có hai biện pháp để thi hành:
    Hoặc là khai thác triệt để con số nhân công tù, không sợ thất thoát v́ thương vong hay bệnh yếu.
    Hoặc chỉ khai thác một cách hợp lư con số công nhân tù c̣n đầy đủ sức khỏe.
    Cho đến cuối năm 1948, người ta đă áp dụng giải pháp đầu. V́ thế đến cuối thập niên 40, con số nhân công tù c̣n sống sót để lao động rất thấp. Và v́ chiến tranh đă làm tiêu hao dân số, cho nên nhà nước buộc ḷng phải khai thác một cách tiếc kiệm nhân công. Để khuyến khích họ gia tăng sản xuất, nhà nước phát phần thưởng, tăng lương và tăng khẩu phằn ăn cho nhân công. Nhờ đó mà con số tử vong của nhân công tù giảm từ 2 đến 3%.
    Vào cuối thập niên 50, các cơ cấu hạ tầng cơ sở của nhà nước hoàn toàn tê liệt. Không có ngân sách canh tân cơ sở. Hàng chục đơn vị trại tù giam giữ hàng chục ngàn tù phạm trên một phạm vi quá rộng lớn. Các đơn vị này được thành lập từ những năm 1930 và 1940 với mục đích là để khai thác triệt để nguồn nhân lực của các tù nhân. Mặc dù sau đó có lịnh cải tổ từ năm 1949 nhưng phải đến năm 1952 với biện pháp thành lạp các đơn vị lao động nhỏ mới đạt được chỉ tiêu quy mô.
    Công nhân tù nhận lương hàng tháng vài trăm Rúp. Số tiền nay rất là nhỏ, 14 hay 15 ít hơn so với các công nhân tự do có cùng việc làm. Sự kiện này đă làm cho nhân công tù chán nản trong lao động, cho nên năng suất không được gia tăng. Từ đó lại nảy sinh băng đảng trong nhóm công nhân tù, gây rối loạn trong các trại lao động.
    Nếu tổng kết các sự kiện trong các bản phúc tŕnh của hai năm 1951 và 1952, người ta nhận thấy t́nh h́nh ở các trại tù Goulag trở nên bất trị. Các công tŕnh xây dựng vĩ đại như công tŕnh thủy điện ở Stalingrad, kinh đào Turkménistan và Volga-Don vào thời cuối của Staline đều tiến hành chậm trễ so với kế hoạch đă dự trù.
    Để thực hiện đúng chỉ tiêu, nhà nước phải chuyển một số công nhân tự do đến các đại công tŕnh này, đồng thời phải phóng thích trước thời hạn măn tù, những tù nhân nhân công tỏ ra siêng năng, làm việc tốt.
    Sau ngày Stalin qua đời, ngày 27 tháng 3 năm 1953, Beria ra lịnh ân xá 1.200.000 tù nhân. Điều này đă nói lên sự khủng hoảng trong chính sách lao tù Goulag.Ngoài các nguyên nhân chính trị và kinh tế, những người kế thừa Staline phải hiểu rằng t́nh trạng bắt giữ quá nhiều tù nhân cũng là một trong những nguyên nhân của sự khủng hoảng. Do vậy họ chấp thuận cho thi hành biện pháp ân xá.
    Trong lúc các cơ quan quản lư các trại tù Goulag đ̣i giảm tù nhân và giảm nhân viên quản giáo, th́ Staline ngày càng kiêu căng, nghi ngờ và ích kỷ. Staline đang chuẩn bị một cuộc đại thanh trừng, một cuộc đại khủng bố.
    Những ngày cuối cùng của Staline, t́nh h́nh trở nên căng thẳng. Sự chống đối mỗi lúc một gia tăng và mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng.

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

  10. #20
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 14


    ÂM MƯU CUỐI CÙNG


    Nhựt báo " Sự Thật" số ra ngày 13 tháng giêng năm 1953 loan tin:
    Khám phá một âm mưu của bọn Bác Sĩ y khoa khủng bố.
    Lần thứ nhất chỉ nêu lên 9 Bác sĩ nhưng sau đó con số Bác sĩ tăng lên 15 người. Họ là những chuyên gia y tế giỏi, đa số gốc người Do Thái. Họ bị truy tố v́ đă lợi dụng chức vị cao cấp làm việc trong điện Cẩm Linh, âm mưu làm giảm tuổi thọ của Andrei Idanov, một thành viên của Bộ Chính Trị Trung Ương, chết ngày 8 tháng 5 năm 1948 và Alexander Chtcherbakov, chết vào năm 1950, và âm mưu ám sát các tướng lănh cao cấp của Hồng Quân theo lịnh của cơ quan t́nh báo Anh và của Ủy Ban Bảo Trợ Người Do Thái.
    Người đă đùng ra tố cáo là Bác sĩ Timachouk. Nhà nước đă tặng cho ông ta giải thưởng Lenine là một trong những giải thưởng cao quư nhất của Xô Viết.
    Trong các lần điều tra, các Bác sĩ đă khai lời thú tội. Và cũng như thời kỳ 1936-1938, bên ngoài nhà giam là những đám biểu t́nh đ̣i hỏi phải trừng trị các Bác sĩ phạm tội, phải tiếp tục điều tra và phải lưu tâm đến thành phần Bônsêvich.
    Sau khi phát hiện âm mưu của các vị lương y áo trắng, liên tục trong nhiều tuần lễ, báo chí loan tin về những diễn biến của thời kỳ đại khủng bố. Báo chí lên tiếng phải thanh toán dứt khoát các thành phần đầy tội ác nằm trong hàng ngũ Đảng. Báo chí tung ra các âm mưu rộng lớn của tập hợp trí thức, của các người Do Thái, của các quân nhân, các đảng viên cao cấp đang ở trong các ngành kinh tế, hành chính nhà nước của các Cộng Ḥa không thuộc gốc người Nga. Và báo chí cũng báo động là các âm mưu này đang gia tăng. Nó giống như cái thời điểm tệ hại nhất của thời Iejovschina.
    Các văn khố cho tham khảo các tài liệu cho thấy đó là thời kỳ quyết liệt nhất của chế độ Staline sau thế chiến thứ hai. Giai đoạn này ghi lại thành quả của chiến dịch chống lại các ảnh hưởng của ngoại lai. Có nghĩa là chiến dịch chống lại người Do Thái, phát xuất từ năm 1946-1947 và chính thức công bố vào năm 1949. Đây chỉ là một kế hoạch sơ khởi, mở đầu cho một chiến dịch Đại Khủng Bố mới. Nhưng vài tuần lễ sau khi Staline qua đời, những người thừa kế đă hủy bỏ chiến dịch khủng bố.
    Vào thời điểm này cũng đă xảy ra các cuộc tranh quyền giữa cơ quan thuộc Bộ Nội Vụ và Bộ An Ninh. Hai Bộ này tách rời ra từ năm 1946. Các cuộc tranh quyền diễn ra ác liệt để đưa người của ḿnh vào các chức vụ lănh đạo đảng. Cao điểm là vụ công khai hóa về các trại diệt chủng dân của Đức Quốc Xă. Một bên cho rằng đó là kế hoạch của Nga Hoàng có tính bài Do Thái, trong khi đó nhóm người Bônsêvich chống lại. Như vậy âm mưu này là trái với chủ trương của Staline ở trong giai đoạn cuối cùng của nó.
    Chúng tôi không muốn đi vào chi tiết về cái âm mưu đó, nhưng chuyện ǵ đă xảy ra trong giai đoạn cuối cùng?
    Vào năm 1942, chính quyền Cộng Sản muốn làm áp lực với người Mỹ gốc Do Thái hầu mong những người này làm áp lực chính quyền Mỹ để mở mặt trận thứ hai ở Âu Châu chống Đức Quốc Xă. Nhờ đó mà một lực lượng chống Đức Quốc Xă ở Nga dưới quyền lănh đạo của giám đốc nhà hát lừng danh Yiddish là ông Salomon Mikhoels.
    Hàng trăm nhà trí thức có tên tuổi gốc Do Thái tham gia vào lực lượng chống Đức. Như văn hào Illia Ehrenbourg, thi sĩ Samuel Marchak và Peretz Markish, nghệ sĩ dương cầm Emile Guilels, nhà văn Vassili Grossman, nhà vật lư học Piotr Kapitza,...
    Từ vai tṛ tuyên truyền, lực lượng này đă trở thành trung tâm sinh hoạt của người Nga gốc Do Thái.
    Tháng hai năm 1944, một số lănh tụ như Mikhoels, Fefer và Epstein đă gỡi cho Staline một văn thư đề nghị Staline cho thành lập một Cộng Ḥa lấy tên là Cộng Ḥa Do Thái Tự Trị ở bán đảo Crimee. Mục đích là để thay thế vụ thí nghiệm thất bại trong năm 1930 khi chính quyền Cộng Sản đưa 40.000 dân Do Thái vào vùng hẻo lánh Birobidjan, thuộc vùng biển đông Siberie, giáp với Trung Quốc.
    Ủy Ban người Do Thái tiến hành thu thập các dữ kiện và nhân chứng về các vụ tàn sát tập thể người Do Thái dưới thời Đức Quốc Xă. Thực ra đó chỉ là những h́nh thức để ám chỉ các vụ biễu t́nh chống người Do Thái, hiện vẫn c̣n đang diễn ra ở Ukraine và một vài vùng khác.
    Ở các vùng phía Tây, nơi mà Nga Hoàng chiếm ngự, nhiều người Do Thái cũng được sinh sống ở vùng này. Từ khi các cuộc chiến tranh mới khởi diễn và lúc mà Hồng Quân bắt đầu thua trận, dân chúng đă nổi lên chống sự hiện diện của người Do Thái.
    Cơ quan An Ninh Nội chính đă tung ra raất nhiều tin cho rằng ở hậu tuyến có rất nhiều phần tử nhiều tầng lớp nhân dân đă tuyên nhiễm các lời tuyên truyền của quân Đức Quốc Xă. Theo đó, th́ quân Đức chỉ tiến đánh người Do Thái và người Cộng Sản mà thôi.
    Tại các vùng bị quân Đức chiếm đóng như Ukraine dân Do Thái bị tàn sát khủng khiếp trước mặt người dân, nhưng không tạo ra một xúc động nào cả. Quân Đức thu nhận thêm 80.000 Ukraine vào quân đội Đức để tiêu diệt người Do Thái. Nhà nước Cộng Sản đă mở nhiều chiến dịch kêu gọi hậu phương chống lại cuộc xâm lăng của Đức để bảo tồn đất nước. Nhưng họ không đề cập đến sự tàn sát độc ác của quân Đức đối với người Do Thái. Sự êm lặng này của chính quyền Xô Viết đă tạo ra thêm ư thức câm thù người Do Thái từ trên thượng tầng Trung Ương Đảng.
    Vào tháng 8 năm 1942, Ủy Ban người Do Thái đă gởi cho Bộ Nội Vụ tŕnh bày vai tṛ nồng cốt của người Do Thái trong các lănh vực nghệ thuật, văn chương và truyền thông. Chính quyền Cộng Sản tỏ ra không hài ḷng về các hoạt động của Ủy Ban người Do Thái.
    Năm 1945, thi sĩ Peretz Markish bị cấm phát hành tập thơ của ông ta. Các tài liệu do Ủy Ban Do thái sưu tầm về tội ác của Đức Quốc Xă đối với Người Do Thái cũng bị hủy bỏ. Lư do là tài liệu chỉ lên án Đức Quốc Xă gây chiến tranh trên đất Nga chỉ nhằm mục đích duy nhất là tiêu diệt người Do Thái.
    Theo như văn thơ đề ngày 12 tháng 10 năm 1946 do Bộ Trưởng An Ninh Nội Chính Abakoumov gởi cho Bộ Chính trị, th́ Ủy Ban Do Thái có khuynh hướng Quốc Gia khi mở mặt trận chống Phát xít Đức.
    Nhưng v́ nhu cầu cần phải có một chính sách đối ngoại thuận lợi cho việc thành lập một nước DO THAI , cho nên Staline không có phản ứng. Chỉ sau khi Liên Hiệp Quốc và Liên Bang Xô Viết bỏ phiếu chấp thuận chia các phần đất Palistine, diễn ra ngày 29 tháng 11 năm 1946, Abakoumov mới được ủy quyền rộng lớn để giải tán Ủy Ban của người Do Thái.
    Ngày 14 tháng 12 năm 1947, các thành viên của Ủy Ban Do Thái bị bắt giam. Vài tuần lễ sau, ngày 13 tháng 01 năm 1948, Solomon Mikhoels bị giết chết trong thành phố Minsk. Theo như lời tuyên bố chính thức của nhà nước, ông ta tử nạn trong một tai nạn lưu thông.
    Vài tháng sau, ngày 21 tháng 11 năm 19489, Ủy Ban Do Thái chính thức bị giải tán với lư do tổ chức này là trung tâm chống Xô Viết. Cơ quan ngôn luận của tổ chức Do Thái là tờ Einikait viết bằng tiếng Yiddish, tiếng Do Thái cũ, bị tịch thu và cấm phát hành. Nhiều thanh niên gốc Do Thái bị bắt giam.
    Tháng 2 năm 1949, nhà nước mở chiến dịch chống tư tưởng ngoại lai của người Nga gốc Do Thái. Báo chí lên án ngành sân khấu của các người Nga Gốc Do Thái. Họ cho rằng kịch nghệ không phản ảnh được tinh thần người Nga.
    Trên tờ báo Sự Thật của đảng Cộng Sản, số ra ngày 2 tháng 2 năm 1949, các kư gỉa đặt câu hỏi ông Gourvitch hay ômg Iozovski có biết ǵ là tinh thần người dân Nga không?
    Và từ đầu năm 1949, có hàng trăm người Do Thái sống trong các thành phố Mạc Tư Khoa và Leningrad bị bắt giam.
    Tờ Neva loan các tin về vụ kết án ở Lenigrad vào ngày 7 tháng 7 năm 1949. Các ông Archille Grigorievitch Leniton, Illia Zeilkovitch Serman, Rulf Alexandrovna Zevina bị kết án 10 năm tù chỉ v́ các ông ấy đă nhận xét tư tưởng của Marx cùng với tư tưởng phản cách mạng, về tội ca ngợi các tư tưởng ngoại lai và có luận điệu xuyên tạc về vấn đề quốc tịch. V́ lư do chống án, họ bị toà án Tối Cao Sô Viết gia tăng thêm thời gian ở tù từ 10 năm lên đến 25 năm. Ṭa án Tối cao khuyến trách ṭa án Lenigrad là đă không nghiêm chỉnh kết án các bị can. Họ là các phần tử phản cách mạng, có nhiều định kiến và cho rằng các nước khác hay hơn tốt chính quyền Liên Bang Sô Viết.
    Chính sách sa thải các cán bộ gốc Do Thái được thi hành có phương pháp, nhất là trong các ngành thông tin, báo chí, văn hóa, trung tâm xuất bản, trung tâm y tế. Đó là các ngành nghề then chốt mà người Do Thái đang điều hành. Các cuộc lùng bắt diễn ra liên tục và nhắm vào mọi giới. Nhiều chuyên viên kỹ thuật bị ghép vào tội phá hoại bị bắt ở các khu hầm mỏ kim loại Stalino bị hành quyết vào ngày 12 tháng 8 năm 1952.
    Vợ của ngoại trưởng Molotov là người Nga gốc Do Thái, tên là Paulina Jemtchoujina, giữ vai tṛ chính trong ngành kỹ nghệ dệt, bị bắt giam vào ngày 21 tháng 1 năm 1949 v́ bị kết án về tội đánh mất tài liệu bí mật của nhà nước. Bà bị kết án 5 năm tù lao động khổ sai.
    Một người khác, vợ của ông Alexandre Polskrebychev, thư kư riêng của Staline, cũng là người gốc Do Thái , bị bắt và bị xử bắn hồi tháng 7 năm 1952 v́ tôi làm gián điệp. Trong khi đó Molotov và ông Alexandre vẫn tiếp tục phục vụ cho Staline, như không có chuyện ǵ xảy ra.
    Các cuộc thẩm tra các bị can trong tổ chức chống phát xít của người Do Thái vẫn tiếp tục kéo dài. Các cuộc xử án kín bắt đầu từ đầu tháng 5 năm 1952, tức là gần hai năm rưỡi sau khi những người Do Thái bị bắt. Tại sao phải cần thời gian quá lâu vậy?
    Ngày nay, nhờ một số tài liệu, mặc dù chưa đầy đủ cho lắm, cũng cho chúng ta thấy có hai lư do để giải thích cho việc kéo dài xử án người Do Thái.
    Thứ nhất là Staline vẫn chủ trương các vụ án phải được xử trong ṿng bí mật. Ông ta coi phong trào chống Phát Xít của người Do Thái có liên hệ đến một âm mưu khác, gọi là âm mưu Leningrad, một cuộc thanh trừng vĩ đại cuối cùng.
    Song song với mục đích đó, Staline cho cải tổ sâu rộng các cơ quan an ninh. Ông ra lịnh cho bắt ông Bộ Trưởng Nội An Abakoumov vào tháng 7 năm 1951. Ông cũng nhắm vào một nhân vật rất có quyền lực lúc bấy giờ là ông Beria, phó chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng và cũng là Ủy viên Trung Ương Đảng.
    Vụ án Ủy ban chống Phát Xít của người Do Thái chỉ là cái cớ trong chiến dịch thanh trừng nội bộ Đảng Cộng Sản đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến cuộc đại khủng bố lần thứ hai, nhắm vào những người mà Staline gọi là Âm mưu của các vị choàng áo trắng , các vị trong ngày Y dược.
    Trong cuộc thanh trừng về vụ Âm mưu Leningrad đă có rất nhiều nhân vật lănh đạo cao cấp trong Đảng Cộng sản bị giết mà cho đến ngày hôm nay vẫn c̣n nằm trong bí mật.
    Ngày 15 tháng 2 năm 1949, văn pḥng Bộ chính trị ra một nghị quyết: Các đảng viên Kouznetsov, Rodinov và Popkov, Voznessenski và Gosplan, chủ tịch đảng tại thành phố Leningrad, v́ có hành động chống đảng nên bị sa thải ra khỏi đảng. Staline luôn luôn nghi ngờ tổ chức đảng của thành phố Leningrad, là thành phần chống đối ông ta. Vào tháng 8 và 12 tháng 9 năm 1949, Staline ra lịnh cho bắt giam tất cả các đảng viên cao cấp ở thành phố Leningrad về tội có liên lạc với t́nh báo của Anh nhằm chống lại đảng.
    Ông Abakoumov c̣n phát động cuộc lùng bắt các lănh tụ đảng cộng sản đang giữ các chức vụ quan trọng trên khắp lănh thổ Nga hay trên các Cộng Ḥa khác. Hàng trăm đảng viên trong thành phố Leningrad bị bắt. Có trên 2000 đảng viên bị loại ra khỏi đảng và bị đuổi ra khỏi sở làm.
    Tháng 8 năm 1949, nhà cầm quyền ra lịnh đóng cửa Viện Bảo Tàng Pḥng Thủ thành phố. Nơi đây là dấu vết của cuộc tử thủ oai hùng của quân Nga chống lại các cuộc tấn công của quân Đức Quốc Xă. Vài tháng sau, ông Mikhail Sonlov, Ủy Viên đặc trách Tư Tưởng của Bộ Chính Trị, được bổ nhiệm thành lập Tiểu Ban Giải tán Viện Bảo Tàng. Tiểu Ban này làm việc cho đến cuồi tháng 2 năm 1953 th́ giải thể.
    Các thủ phạm chính bị buộc tội trong vụ án Âm mưu Lenigrad gồm có:
    Kouznetsov, Rodionov, Popkov, Voznessenski, Kapoustine, Lazoutine,.. đều bị xử kín vào ngày 30 tháng 9 năm 1950. Ngày hôm sau, tất cả đều bị tử h́nh, một giờ sau khi đọc bản án. Sự việc xảy ra trong ṿng bí mật. Không một ai hay biết. Một bà vợ của bị can là con gái của vị chánh án, con dâu của Bộ trưởng Anastase Mikoian và cũng là Ủy viên Trung ương đảng cũng không hay biết ǵ. Qua đến tháng 10 năm 1950, các vụ án tương tự lại diễn ra. Hàng ngàn cán bộ lănh đạo đảng bị kết án v́ có liên hệ đến Âm mưu Lenigrad. Như ông Soloviev, đệ nhất bí thư thành phố Crimee; ông Badaviev, đệ nhị bí thư của Ủy Ban hành chánh Leningrad; ông Verbitski, đệ nhị bí thư vùng Mourmanski; ông Bassov, đệ nhất phó chủ tịch Hội đồng các Bộ trưởng Nga....
    Phải chăng những vụ án này là cuộc thanh trừng nội bộ của đảng cầm quyền hay là khởi điểm của một chiến dịch đại khủng bố cuối cùng nhằm vào giới thầy thuốc?
    Có nhiều chứng cớ cho thấy lư do thứ hai là hợp lư hơn.
    Bản án Âm mưu Leningrad có thể là giai đoạn cuối cùng của một dự án chuẩn bị cho cuộc đại thanh lọc. Nhân dân Nga đă nhân ra dấu hiệu của của đại thanh lọc vào ngày 13 tháng 1 năm 1953. Những người bị kết án trong vụ Âm mưu Leningrad thật ra có liên hệ đến các vụ án vào những năm 1936-1938.
    Tháng 10 năm 1949, nhân kỳ đại hội cán bộ toàn đảng vùng Lenigrad, viên đệ nhất bí thư Andrianov đọc một bản báo cáo, trong đó ông cho biết các vị cựu lănh tụ đảng đă cho phát hành các tài liệu do Trostki và Zinoviev viết. Mục đích của ông ta là cố t́nh cho thấy các cựu lănh tụ đă có liên hệ đến các phần tử phản đảng, có tội với nhân dân như các ông Trostki, Zinovie, Kamenev,..Ông ta muốn nói rằng những vị cựu lănh tụ này đang âm mưu khơi dậy thời kỳ 1936-1938.
    Tháng 10 năm 1950, sau khi hành quyết các thủ phạm trong vụ Leningrad, các vụ chống đối và dàn cảnh chống đối diễn ra liên tục trong hai bộ Nội vụ và Công an.
    Nạn nhân đầu tiên là ông Beria. Staline bày ra một âm mưu thâm độc. Ông cho sát nhập vùng Mingrelic, một vùng thuộc Cộng Ḥa Georgie. Đó là quê hương của Baria. Trước kia vùng này thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ. Với vụ sát nhập này, Staline hy vọng ông Baria sẽ ra tay tàn sát các đảng viên cộng sản đồng hương của ông và thành trừng luôn đảng cộng sản Georgie.
    Vào tháng 10 năm 1951, Staline lại t́m cách gài bẫy Beria lần nữa. Staline ra lịnh cho bắt các cán bộ lăo thành trong bộ Công an. Trong số này có cả Trung Tá Eitingon, một cận vệ của Beria trong chiến dịch ám sát Trostski vào năm 1940; Tướng Leonid Raikhman, người đă tham dự vào vụ án Mạc Tư Khoa vào năm 1938; Đại tá Lev Schwarzmann, người đă từng tra tấn các lănh tụ cộng sản Babel và Meyrhold; Viên thẩm phán Lev Cheinine, cánh tay mặt của Vychinski, biện lư viên của các vụ án 1936-1938. Tất cả đều bị lên án là đă nhúng tay vào âm mưu lớn của người Do Thái mà người cầm đầu là Abakoumov, bộ trưởng đặc trách nội an, một nhân vật thân cận của Beria.
    Trước đó vài tháng, vào ngày 12 tháng 7 năm 1951, Abakoumov bị bắt và giam bí mật. Ông ta bị kết án v́ đă thủ tiêu ông Jacob Etinguer, một bác sĩ nổi danh, gốc người Do Thái. Ông bác sĩ này bị bắt vào tháng 11 năm 1950 và bị chết trong tù. Bác sĩ Etinguer đă từng trị bịnh cho nhiều các bộ cộng sản cao cấp như các ông Serge Kirov, Sergo Ordjonikidze, thống chế Toukhatchevski, lănh tụ đảng cộng sản Ư Palmiro, TiTo và Georges Dimitrov.
    Lư do mà ông Abakoumov thủ tiêu bác sĩ Eitinguer là để ngăn cản việc lột mật nạ một số người Do Thái phạm tội ác, đă xâm nhập vào các chức vụ cao cấp trong guồng máy Công an.
    Vài tháng sau, Abakoumov bị kết án là đầu năo của cuộc âm mưu của nhóm người gốc Do Thái.
    Vụ bắt giam Abakoumov là khởi điểm của một chính sách nhằm thủ tiêu và giải thể các tổ chức của người Do Thái và tổ chức của nhóm y giới, mở đầu cho cuộc đại thanh lọc.
    Như vậy vào mùa hè 1951, chớ không phải là vào năm 1952, chiến dịch đại thanh trừng đă bắt đầu.
    Từ ngày 11 đến ngày 18 tháng 7 năm 1951 đă diễn ra các vụ án bí mật xét xử những thành viên của Ủy ban chống phát xít của người Do Thái. Có 13 ủy viên nồng cốt của ủy ban bị kết án tử h́nh và bị hành quyết ngay.
    Ngày 12 tháng 8 năm 1952, 10 kỹ sư gốc Do Thái đang làm việc trong xưởng sản xuất xe hơi Staline, cũng bị kết án tội phá hoại và bị hành quyết.
    Tính chung, có tất cả 125 vụ án, trong số đó có 25 bản án tử h́nh và số c̣n lại bị kết án từ 10 đến 25 năm tù và bị đưa đi lao động cưỡng bách.
    Tháng 9 năm 1952, nhà nước cộng sản hoàn tất bản cáo trạng nhóm người Do Thái. Việc thi hành bản án được dời lại vài tuần v́ lúc đó là thời gian đảng cộng sản tổ chức đại hội đảng cộng sản thống nhất lần thứ 19, vào tháng 10 năm 1952.
    Khi đại hội kết thúc, tất cả cá bác sĩ người gốc Do Thái đều bị bắt giam bí mật.
    Đến ngày 22 tháng 11 năm 1952, một vụ án xét xử cựu tổng bí thư đảng cộng sản Tiệp Khắc là ông Rudolf cùng với 13 lănh tụ khác. 11 người trong số này bị kết án tử h́nh và bị treo cổ. Nó diễn ra giống như vụ án đă xảy ra ở Mạc Tư Khoa. Các đạo diễn của vụ án cũng chính là do cố vấn Nga., với mục đích là thanh toán các lănh tụ cộng sản Tiệp gốc Do Thái. 11 trong số 14 bị can là người gốc Do Thái. Họ bị buộc tội nhúng tay trong tổ chức nhóm khủng bố Trotski-Tito và Do Thái . Đó là vụ án mở đầu cho cuộc thanh trừng người Do Thái ở các nước Đông Âu.
    Ngay sau khi hành quyết 11 người, ngày 4 tháng 12 năm 1952, Staline đề nghị Hội Đồng Trung Ương ra lịnh cho Bộ Công an phải thông báo đến các đảng viên cộng sản hăy chấp dứt các việc làm không thể kiểm soát được. Như vậy là Bộ Công an bị khiển trách và bị loại bỏ ra ngoài v́ đă không kiểm soát được việc xâm nhập của những bác sĩ người Do thái vào trong các tổ chức quan trọng của chính quyền. Như vậy là Staline đă thắng thêm một bước nữa khi ông ta dùng những vị choàng áo trắng để chống lại các lănh tụ của ngành công an, tức là chống lại lănh tụ Beria. Bởi v́ ông Beria trong tư thế của người đứng đầu bộ an ninh, không thể bào chửa là ông không biết ǵ về chuyện xâm nhập phá hoại này.
    Cho đến bây giờ chưa ai biết chuyện ǵ đă xảy ra trong khoảng thời gian vài tuần lễ trước khi Staline chết. Người ta chỉ được biết là phải thận trọng , người bênsơvich phải đău tranh chống lại các h́nh thức thụ động.Trong các cuộc họp quần chúng đều nêu ra các khẩu hiệu trừng phạt, và các vụ bắt giam và tra khảo các bác sĩ người Do Thái vẫn tiếp tục diễn ra.
    Ngày 19 tháng 2 năm 1953, Phó bộ trưởng ngoại giao Ivan Maiski, cánh tay mặt của Bộ trưởng ngoại giao Molotov, là cựu đại sứ tại Luân Đôn bị bắt giam. Ông này thú nhận là đă được thủ tướng Anh Winston Churchil dùng làm gián điệp cùng một lúc với ông Alexandre Kollontai. Ông này là một trong những lănh tụ cao cấp Bônsơvich đă cầm đầu phong trào thợ thuyền vào năm 1921.
    Bà Kollontaii cũng đă từng là đại sứ của Liên Sô tại Thụy sĩ cho đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc.
    Mặc dù đă diễn ra rất tốt đẹp trong việc thụ lư hồ sơ Âm mưu , người ta không thể không nhận thấy có một cái ǵ đó khác hẳn với các vụ án đă xảy ra trong những năm 1936-1938.
    Không có một viên chức cao cấp nào của chế độ tham dự công khai vào các diễn tiến đă xảy ra trong suốt thời gian từ ngày 13 tháng 1 năm 1953 cho đến khi Staline chết.
    Theo lời tiết lộ của Thống chế Boulganine vào năm 1970, chỉ có 4 lănh tụ cao cấp đă tham gia vào Âm mưu này . Đó là các ông: Malenkov, Soulov, Rioumine và Ignatiev. Những lănh tụ khác đều thấy rằng ḿnh bị đe dọa.
    Theo lời của Boulganine, vụ án của những người bác sĩ gốc Do Thái sẽ được khởi xử vào ngày 15 tháng 3 và sẽ tiếp diễn và sẽ đưa đi lưu đày một số lớn người gốc Do Thái ra vùng Birobidjan.
    Ngày nay, người ta chỉ có thể tham khảo một phần các văn kiện của Phủ Chủ Tịch. Nơi này c̣n lưu trữ một số hồ sơ tối mật và rất là nhạy cảm. Người ta chưa biết sự thật về kế hoạch đưa một số lớn người Nga gốc Do Thái; Nhưng có một điều chắc chắn : Cái chết của Staline đă xảy ra đúng lúc để ngăn chận một sự kiện là sẽ phải có thêm một danh sách của hằng triệu nạn nhận của chế độ độc tài Staline.

    _________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng cướp non sông Hồng Lạc"
    YTKCPQ

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •