Đầu năm 1979 tại khu vực biên giới Việt-Trung đă nổ ra một cuộc xung đột khốc liệt được nhà báo Mỹ Nayan Chanda gọi là «cuộc chiến tranh giữa những người anh em thù địch».
Nhưng chỉ 11 năm sau đó, vào tháng 10-1990, một bước ngoặt lớn đă được mở ra, đưa quan hệ Hà Nội-Bắc Kinh chuyển hẳn sang thời kỳ liên minh thân thiết, tiêu biểu bởi «16 chữ vàng» và phương châm «4 tốt».
Cái mốc chuyển từ kẻ thù truyền thống (như được ghi trong Hiến pháp Việt Nam) thành bạn thân thiết là cuộc gặp gỡ bí mật cấp cao Trung - Việt ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, vào 2 ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990, theo sáng kiến của đại mưu sĩ Đặng Tiểu B́nh. Đại diện cho phía Việt Nam tại cuộc gặp là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng, c̣n phía Trung Quốc là Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng.
Có rất ít thông tin chính xác về nội dung thật sự của cuộc gặp này được tiết lộ, nhưng ư đồ đen tối của những người lănh đạo Bắc Kinh đến phó hội đối với tương lai của đất nước ta đă không che mắt được ai. Đến nỗi ngoại trưởng Việt Nam lúc bấy giờ, ông Nguyễn Cơ Thạch, người bị gạt ra ngoài ŕa của cuộc họp lịch sử này, đă phải than thở: «Thế là một cuộc Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đă bắt đầu!».(*)
Rất nhiều diễn biến và sự kiện đă chứng minh sự chính xác của nhận xét có tính tiên tri đó của người đứng đầu ngành ngoại giao Hà Nội. Tính đến nay, «cuộc Bắc thuộc mới» đă kéo dài được 22 năm, với biết bao thiệt tḥi, tủi nhục cho đất nước và nhân dân ta trên tất cả các lĩnh vực - từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, từ lănh thổ, lănh hải, hải đảo đến tài nguyên và an ninh, chủ quyền. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta, mà những thành tựu kinh tế, đổi mới, xây dựng, phát triển khá cao vẫn không sao khỏa lấp được.
Đến nay, khi nhóm lănh đạo ở Bắc Kinh đă khống chế được gần như hoàn toàn những người cầm quyền ở Hà Nội, họ liền trở mặt, gây sự ở vùng Biển Đông của ta, với thái độ trịch thượng kẻ cả dùng sức mạnh áp đảo cùng với những thủ đoạn vừa ăn cướp vừa la làng.
Hiện nay Bộ Chính trị Đảng CS Việt Nam đang bị kẹt cứng giữa 2 gọng ḱm, một bên là sự chất vấn đầy phẫn nộ chính đáng và sự phản kháng của nhân dân, một bên là những hành động xâm lược cực kỳ ngang ngược của thế lực bành trướng hung hăn.
Nhóm lănh đạo Bắc Kinh là những người chưa hề chùn tay trước một thủ đoạn thâm độc nào. Ai có thể độc ác hơn những kẻ dám đem đương kim Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ ra đấu tố hạ nhục trên đường phố? Ai có thể tàn bạo hơn những kẻ mang đương kim Nguyên soái Bành Đức Hoài ra hỏi tội, bắt đội mũ lừa, bắt liếm bát mỳ sợi trong chảo, hành hạ cho đến khi chết không có một người thân vuốt mắt? Ai có thể bất nhân, phản dân tộc hơn những kẻ vui mừng khi đặt 200 tên lửa, rồi nay là 600 tên lửa đạn đạo chĩa thẳng vào đồng bào ruột thịt của ḿnh ở Đài Loan, dọa dẫm không chút hổ thẹn là sẵn sàng d́m trong biển máu cả 23 triệu dân mà họ từng leo lẻo là anh chị em chí thiết, c̣n là một nguồn đầu tư lớn cho lục địa.
Và mới đây ai ngang nhiên vu cáo ngược là «Việt Nam chiếm nhiều đảo nhất, tỏ ra hung hăng nhất, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu nhất trong vùng biển Trung Hoa thuộc chủ quyền không thể bàn căi của Trung Quốc», «bọn Việt Nam giết ngư dân Trung Quốc», «cần dạy cho Việt Nam vô ân bạc nghĩa một bài học lớn hơn trước đây». Vậy mà báo chí chính thức trong nước vẫn im lặng, không cất lên được một tiếng nói dơng dạc nào để bác bỏ những luận điệu vu khống trắng trợn của thế lực bành trướng và bảo vệ thanh danh dân tộc.
Khi Tân Hoa xă đưa tin là «Hai bên đă thỏa thuận không để nước thứ ba ở bên ngoài can thiệp vào vùng biển Trung Hoa», ngụ ư gạt hẳn Hoa Kỳ ra ngoài, báo chí Việt Nam cũng không dám cải chính. Cho nên việc giới trí thức, giới truyền thông lề trái và công luận quốc tế hoài nghi dai dẳng là 2 bên đă đi đêm với nhau là hoàn toàn có cơ sở.
Mong rằng những người lănh đạo Việt Nam sớm nh́n ra sự thật để chủ động thoát khỏi ách Bắc thuộc cực kỳ nguy hiểm đă kéo dài 22 năm, trước khi quá muộn. Mong rằng họ sớm tỉnh táo nhận ra sai lầm của lập luận cho rằng do vị trí địa lư và cũng v́ cùng chung chế độ XHCN, Việt Nam buộc phải gắn bó keo sơn với nước láng giềng Trung Quốc (xem các Nghị quyết Đại Hội đảng từ khóa VII đến khoá XI).
Họ hăy tỏ ra tự tin hơn để thấy rằng nương tựa hoàn toàn vào Bắc Kinh không phải là một kế tồn tại lâu dài, bền vững, an toàn và đáng tin cậy cho chính bản thân họ, và lại càng không phải cho tiền đồ của tổ quốc và dân tộc ta. Họ chớ nên quên rằng, theo đánh giá của nhiều chuyên gia quốc tế, Trung Quốc hung hăng nhưng không mạnh, kỹ thuật quân sự lạc hậu đến 20 năm so với Hoa Kỳ, chính trị cực yếu do chà đạp nhân quyền, kinh tế tài chính tuy có dự trữ ngoại tệ lớn nhưng rất bấp bênh, có nguy cơ đổ vỡ, dựa vào họ như dựa vào cột mục.
Gắn bó với thế giới dân chủ rộng lớn, hùng mạnh, văn minh, với các nước châu Á khác ở quanh ta như Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, với các nước Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, và giữ quan hệ b́nh đẳng với Trung Quốc là đường lối đối ngoại sáng suốt duy nhất hiện nay.
Điều quan trọng nhất là những người lănh đạo Việt Nam có đủ sáng suốt để nh́n ra bản chất độc ác của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hay không.
(*) Ông Thạch lập tức bị gạt ra khỏi cương vị phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng, và mất luôn chiếc ghế ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Trung ương Đảng.
Bùi Tín viết riêng cho VOA
Bookmarks