Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 13

Thread: Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

  1. #1
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Tiểu sử của tác giả thiên hồi kư Thép Đen - Đặng Chí B́nh
    Sinh ngày 20 Tây tháng 2, 1933.

    Tên thật là Châu, c̣n có tên là Lê Viết Hùng, gián điệp Việt Nam Cộng Ḥa. Bị bắt khi đột nhập miền Bắc, bị tra tấn và tù đày 20 năm. Tác giả tập hồi kư Thép Đen đă được tái bản nhiều lần.

    Thép Đen tập I, nhà xuất bản Đông Tiến, 1987
    Thép Đen tập II, nhà xuất bản Đông Tiến, 1987
    Thép Đen tập III, nhà xuất bản Đại Nam, 1991
    Thép Đen tập IV, 2005


    - Tâm Sự Người Viết -

    Trước đây tôi chưa bao giờ nghĩ tới lại có một ngày ngồi viết câu chuyện của đời tôi. Từ bối cảnh của đất nước, do những xô đẩy của gịng đời, tôi đă nhận một nhiệm vụ nhỏ bé để xâm nhập vào đất địch, và tôi đă rơi vào tay kẻ thù. Như vậy, trước sau ǵ tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có ǵ đáng kể lại cho người khác. Hơn nữa, một số bạn bè thân quen c̣n ngăn cản tôi đừng viết.

    “Anh hăy lo cho cuộc đời của anh trước đă, đời anh đă khổ nhiều rồi. Vả lại, dù anh có cặm cụi viết ra, tác phẩm của anh rồi cũng chung số phận như bao nhiêu tác phẩm khác, của những người đă đi tù về viết lại. Người ta thờ ơ, không thèm đọc. Trên xứ người, lớp trẻ c̣n phải lo học hành, lớp lớn phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày và lo cho tương lai, họ đâu c̣n quan tâm đến những chuyện đă qua của quê hương dân tộc. Anh nên đi t́m một công việc làm nào đó, là thực tế nhất.”

    Nh́n vào thực tế, rồi nghĩ lại hoàn cảnh tỵ nạn của ḿnh, tôi thừa nhận những lời khuyên của bạn bè là xác đáng, và tôi đă xông vào cuộc đời mưu sinh. Nhưng rồi nhiều đêm nằm khắc khoải, tâm sự trĩu nặng, vơi đầy với bao niềm quặn thắt vẫn thấp thỏm không yên về quê hương đất nước và đời sống, bao nỗi giằng co ṿ xé, gậm nhấm cơi ḷng. Những tiếng kẻng của nhà tù Cộng Sản, đi theo gần hết cả cuộc đời, vẫn như ám ảnh, quấn chặt hồn tôi:

    Thoảng nghe “phôn” réo bên tai,
    Giật ḿnh tưởng kẻng sớm mai nhà tù!

    H́nh ảnh những bộ xương vẫn c̣n di động trên chốn lao trường, những nấm mồ hoang lạnh giữa rừng sâu; dư âm những tiếng thở dài lê thê xen lẫn những tiếng rên xiết quằn quại trong đêm dài tăm tối… Và những cặp mắt khát khao nhắn nhủ ngày tôi chia tay, vẫn lảng vảng vấn vít trong hồn; tất cả như đang khẩn nài, gào thét, đ̣i hỏi tôi phải thực hiện “bản di chúc sống” của họ.

    Tôi biết, dù ḿnh sức hèn tài mọn, nhưng vẫn c̣n may mắn hơn biết bao các bạn bất hạnh c̣n lại trong tù. Cho nên, tôi tự cảm thấy ḿnh đang khoác lấy một trách nhiệm, mang một bổn phận – nếu có thể được phép nói như vậy – để vuốt mắt cho những người đang uất hận, ứa máu bầm gan trong gông cùm xiềng xích của bè lũ cộng nô Hà Nội.

    Tôi ước mong tập hồi kư nhỏ mọn này, sẽ là một ngọn nến nhỏ trong trăm ngàn ngọn nến to lớn khác, được thắp lên trong mờ mịt u tối của chế độ phi nhân Việt cộng. Nếu đốt được ngọn nến đó. Dù leo lét, tôi cũng cảm thấy vui sướng đă thể hiện được phần nào trách nhiệm của ḿnh đối với “bản di chúc sống” kể trên.

    Lời chót, tôi chỉ biết lần lượt tường thuật lại sự việc, như tháo dần một cuộn chỉ ra từ đầu đến cuối. Và, v́ vấn đề an ninh cùa năm, bẩy người đặc biệt, nên tôi bắt buộc phải đổi tên và địa điểm sống ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Cũng từ ư thức tôn trọng sự thật, kính mong quư vị thông cảm và tha thứ.

    Đặng Chí B́nh




    - Tựa -



    Trong xà lim Hỏa Ḷ của Việt Cộng, người tù bị cùm hai chân trên bệ xi măng, bề ngang chừng 65 phân. Cùm sắt dầy và lạnh, được đóng đai kiên cố để nghiến chặt cổ chân của nạn nhân. Hai tay bị xiềng ngược ra sau, nên tù nhân phải nằm nghiêng. Và dịch, lết ra mép sàn xi măng để giải quyết nhu cầu vệ sinh, phân rơi văi tung toé ra khỏi mặt bô đặt dưới đất. Ngày này qua ngày khác, nạn nhận bị liệt cả hai chân, và sống trong hôi thối ẩm mốc của xà lim như một con thú.

    Nhưng nạn nhân c̣n cái mồm, nghĩa là c̣n được một chút tự do có giới hạn của những tiếng thều thào, những lời rên xiết, hay những tiếng la hét chưởi rủa.

    Và khi đó, một vật dụng kỳ quái tượng trưng cho nền dân chủ ưu việt của chế độ Cộng Sản mới được đem ra áp dụng. Đó là cái cùm mồm. Bằng sắt, có bắt đinh ốc và ḷ xo, để khóa cứng hàm nạn nhân. Để người tù không thể chửi chế độ, chưởi lảnh tụ hay la hét ǵ được nữa. Người tù đă nêu đích danh Hồ Chí Minh ra chửi, ngay giữa Hỏa Ḷ Hà Nội, để mong được giết, hoặc được bắn, để sớm chấm dứt cảnh dở sống dở chết của ḿnh. Nhưng Việt Cộng, chúng không nóng ruột hấp tấp như vậy, chúng đă phát minh ra cái cùm… mồm.

    Không có ǵ quư hơn độc lập tự do. Câu nói mới thấm thía và khốn nạn làm sao!

    *

    Trong dăy xà lim, tù nhân được một con chuột nhắt, gầy bé như ngón tay, chui vào thăm.

    Trong tù, ngoài đá, mồ hôi và máu kết đen trên nền xi măng, c̣n có ǵ để quyến rũ một con chuột? Vậy mà con chuột đă chui vào, bị bắt, chạy thoát, rồi ít bữa sau lại ḅ vào. V́ ở bên ngoài, trong vùng tự do của súc vật, nó đói. Trong nhà tù, nó con hy vọng mong manh là tranh hạt cơm với người tù bị xiềng, bị liệt.

    Mỗi ngày, người tù để dành vài hạt cơm cho người bạn bốn chân này. Đấy là cơi giải thoát của người tù, một chút t́nh cảm san xẻ với một con vật xấu số, để thấy là ḿnh vẫn c̣n sống.

    Con chuột nhắt này cũng có tội, nó đă bị tên công an quản giáo lấy chân di chết. Trong Hỏa Ḷ tù nhân không có một sự giải thoát nào, dù chỉ bằng cách kết bạn với một con chuột nhắt đă bị bẻ răng.

    Không có ǵ quí hơn độc lập tự do. Câu nói mới hiểm độc và ghê khiếp chừng nào.

    *

    Cũng trong Hỏa Ḷ, tù nhân được biết đến một người đă có h́nh ảnh nổi tiếng thế giới. Người anh hùng Điện Biên, trong Đại đội năm xưa đă hồ hởi cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Bộ Chỉ Huy của de Castrie. Anh đă kết thúc cuộc đời vẻ vang của anh trong Hỏa Ḷ, như một tù chính trị. Tội của anh là đă lầm tưởng những điều Việt cộng nói là sự thật. Không, điều đó chưa phải là một cái tội. Tội của anh là đă nêu lên câu hỏi về sự thật đó. Người bộ đội gốc tiểu tư sản yêu nước này, là một điển h́nh của biết bao người khác đă vỡ mộng và chết kẹt, giữa những điều đảng nói và những điều đảng làm. Bị nghiền nát không âm vang.

    Trong Hỏa Ḷ, điều ghê rợn nhất chính là sự im lặng. Đời sống im lặng và cái chết im lặng. Tất cả đều âm u một mùi tử khí của nghĩa địa. Và, khác biệt giữa sự sống và cái chết có khi chỉ là một tiếng thở nhẹ trong xà lim số 7, không ai hay biết. Làm sao con người có thể nghe thấy cái chết khi bị bao vây giữa đám quỷ sống.

    Cũng v́ vậy, dù chẳng được ai nói, chỉ qua những dấu vết c̣n ghi trên mặt đá, người tù cũng được biết nơi đây đă có thời cùm hăm Thụy An. Nhà văn nữ một thời nổi tiếng v́ cái chết tức tưởi của nhà cách mạng Đỗ Đ́nh Đạo. Cũng tưởng là ḿnh có công với chế độ.

    Trong Hỏa Ḷ Hà Nội, có rất nhiều người đă tưởng lầm như vậy. Họ là cán bộ, là đảng viên, là thường dân, là trí thức… Họ là chiếu rọi của xă hội bên ngoài, với những điển h́nh kinh hăi như dưới một ống kính hiển vi. Chỉ v́ tưởng lầm.

    *

    Tác giả th́ không nhầm lẫn về bản chất chế độ. Ông là người đă di cư vào Nam thời Genève. Ông được huấn luyện bởi Cục T́nh Báo Việt Nam Cộng Ḥa, thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, để tung ra Bắc hoạt động. Ông là một điệp viên, một trong những chiến sĩ của bóng tối, đă t́m ra tới Hà Nội, để thi hành những điệp vụ, cho đến nay vẫn c̣n được giữ bí mật.. Công tác vừa hoàn tất, th́ ông bị bắt. Năm đó là năm 1962, thời mà miền Nam chúng ta vẫn c̣n mù mờ về thực trạng miền Bắc. Mười tám năm tù đă cho ông một kinh nghiệm hiếm có.

    Ông đă sống, và đă thấy tận mắt với cái nh́n tỉ mỉ, những cảnh tượng, tưởng chỉ có thể xảy ra trong trí năo một người bất b́nh thường. Một cuốn phim kinh dị được dựng lên bởi nhiều tên đạo diễn bịnh hoạn. Toàn thể chế độ Việt cộng, và trong đáy sâu của Hỏa Ḷ, đời sống lao tù Việt cộng, và kết quả những phát minh ghê khiếp nhất.

    Nếu sự thực có vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta, chỉ v́ chúng ta đánh giá sai chế độ Cộng Sản, đánh giá sai cái bệnh quỷ quái của chúng.

    Điều đáng nói ở đây, tác giả Đặng Chí B́nh, bút hiệu hay bí danh điều đó thực không quan trọng, đă không đi vào một cuộc thi đua kinh tởm. Nghĩa là không phải nhớ lại, hay nặn ra những chi tiết ghê người nhất. Sự thật b́nh thường vốn đă đủ làm ta khiếp hăi…

    Tác giả Đặng Chí B́nh không phải là một nhà văn. Ông chưa khi nào cầm bút viết văn. Và, chính như ông tâm sự “Trước sau ǵ tôi cũng chỉ là một kẻ bất tài, thất bại, chẳng có ǵ đáng kể lại cho người khác”.

    Ông chỉ bị thúc giục phải thực hiện một bản di chúc sống cho những người hiện vẫn kéo lê kiếp sống trong lao tù Việt cộng. Ông phải viết để nhắc nhở mọi người là dưới ánh mặt trời, vẫn c̣n một cơi mờ mịt u tối của chế độ Việt cộng phi nhân. Ông muốn thắp một ngọn nến nhỏ để soi vùng quỷ dữ, để vuốt mắt những người đă gục ngă v́ đại nghĩa dân tộc, để vuốt ngực cho những người đang ứa máu bầm gan trong gông cùm Việt cộng.

    Chính v́ ông không muốn làm văn chương, mà chỉ viết theo kư ức được lần giở như tháo dần một cuộn chỉ từ đầu tới cuối, hồi kư của ông mới làm ta khiếp sợ. Tất cả ngôn ngữ ông dùng, lối nh́n lối nói, và cả cách đem chính ḿnh ra hồn nhiên châm biếm. Tất cả bút pháp của ông đều phản ảnh một điều: Ông nghĩ sao, và nhớ thế nào th́ viết ra như vậy. Có cái ǵ đó làm ta muốn run bắn lên trong cách ông thản nhiên kể lại câu chuyện.

    Hơn hai mươi năm đă qua rồi. Ông b́nh thản lần giở cuộn chỉ của đời ḿnh trong tù… Những tiếng rên xiết, tiếng người tra tấn người, tiếng xích lê trên sàn đá, và cả sự yên lặng cuồng nộ vẫn vang lên từng nhịp, theo gịng chỉ kéo dài từ những ngày tháng âm u của cơi chết.

    Ông không làm văn chương, nhưng khi văn của ông mới làm ta rùng ḿnh.

    *

    Tuy nhiên, điều đáng nói nhất trong hồi kư vẫn chưa phải là những mô tả về vùng đất của quỷ. Điều làm ta sững sờ nhất cũng không phải là sự sống trong cơi chết âm u, mặc dù sức phấn đấu của con người vẫn làm ta bàng hoàng theo từng trang sách.

    Điều đáng nói, và đây là sự kỳ diệu nhất của tập hồi kư, chính là sự trỗi dậy của t́nh người trong thế giới của loài thú.

    Ngay trong Hỏa Ḷ, đêm đêm tù nhân vẫn biết là có ai đó kín đáo qua lại giúp đỡ họ. Nhiều khi chỉ là một câu hỏi thăm ngắn gọn, lạc giọng, hoặc một tiếng thở dài thông cảm. Hay một mẩu thuốc lào được luồn qua kẽ cửa, để giúp người tù cầm máu… Vào giờ đó, chỉ có quản giáo canh giữ Hỏa Ḷ mới được đi lại bên ngoài. Người đó là ai? Tù nhân không biết, chỉ biết là trong đám quản giáo, vẫn c̣n có người có được một chút nhân tính, và lặng lẽ làm cử chỉ của con người. Lặng lẽ thôi, nếu không, chính họ sẽ bị đổi vị trí, từ ngoài vào trong xà lim.

    Việt cộng muốn biến con người thành loài thú. Nơi chúng có thể thành công nhất, chắc phải Hỏa Ḷ Hà Nội. Nhưng, cũng tại nơi đây, tác giả đă sống và đă thấy sự chiến thắng của loài người. “Cộng sản không thể nhuộm đỏ được hết tâm hồn loài người”. Ông kết luận như vậy.

    Và ông đă nh́n ra rất đúng. V́ công tác của ông chỉ có thể hoàn tất, khi ở miền Bắc có những người vẫn tiếp tục chiến đấu, từ những năm 1960. Một vị linh mục, một người bác sĩ, một thiếu nữ áo nâu quần ka ki… Và biết bao nhiêu người anh hùng vô danh khác. Ngay cả những người nông dân hồn hậu, những nạn nhân hàng đầu của chế độ Việt cộng, họ sống chật vật trong cảnh tăm tối mà vẫn có những hành động chói sáng t́nh người…

    Sự kiện Đặng Chí B́nh đă trải qua tuổi thanh xuân trong một thế giới thú vật, và đă trở lại nguyên vẹn cùng chúng ta, với những mô tả tinh nghịch, những lời nói thành thật về những lầm lẫn của chính ḿnh, với những phê phán rất b́nh thản và độ lượng về thói xấu của con người, sự kiện đó cũng chẳng là một điều kỳ diệu sao?….

    Ông là người đă đội mồ sống dậy, và cái sống nhất trong tác phẩm của ông, chính là cái chất “người” mà nhiều khi ông đă sợ mất, nhiều khi ông đă thấy mất ở nơi khác…

    Cũng v́ vậy, Thép Đen là một tác phẩm lớn. Không chỉ ở nội dung, t́nh tiết, mà c̣n ở ư nghĩa rất nhân bản của tác giả. Xin cảm ơn Đặng Chí B́nh, đă tranh đấu để tồn tại, để vượt thoát, và để ghi lại chon chúng ta sự thắng thế của loài người trên loài quỷ.

    (Lời tựa của nhà xuất bản Đồng Tiến, năm 1987)

    o0o
    Last edited by Phú Yên; 29-09-2011 at 08:09 PM.

  2. #2
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư: Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    (Tập I gồm Chương 1 đến Chương 42)

    o O o

    Cuộc Họp Đầu Tiên …

    Vào một buổi tối cuối Xuân 1959, trời thật nhiều gió. Những hàng me trên đường “16” vật vờ, nghiêng ngă theo từng đợt gió mạnh. Từng đám lá me khô nhỏ dảy dụa cuốn đuổi nhau như đám ong vàng, gây nên những tiếng xào xạc, trên mặt đường.

    Buổi tối đó là ngày thường nên khu nhà thờ Tân Sa Châu, gần Lăng Cha Cả Tân Sơn Nhất Sài G̣n rất vắng vẻ. Xa xa một vài ánh điện từ ngoài đường Trương Minh Kư hắt vào, càng làm cho khu vực nhà thờ mập mờ, chỗ sáng chỗ tối.

    Nh́n sang phía bên kia nhà thờ, tôi thấy thấp thoáng trong một góc tối mấy người cũng có vẻ như chúng tôi, nghĩa là cùng chờ giờ hẹn với một người.

    Măi 8 giờ 15, từ đầu đường “16”, một chiếc xe “díp” thường dân đi tới và từ từ đỗ lại, trong bóng tối của một cây me bên đường, cách xa nhà thờ một khoảng.

    Một bóng người bước xuống và đi về phía nhà thờ. Chúng tôi chả ai nói ra, nhưng cùng hiểu đó là người chúng tôi đang đợi. Lẩn trong bóng tối, chúng tôi chỉ thấy người đó mặc áo blouson xám, đội mũ “phớt”. Ông ta đi vào khu buồng cha Khuê phía đầu nhà thờ.

    Chừng 10 phút sau, một chú bé giúp lễ ra sân mời chúng tôi vào. Cha Khuê không giới thiệu, nên chúng tôi chỉ biết gật đầu chào. Sau khi ông ta nói với Cha Khuê, xin mượn một pḥng học ở trên lầu, ông quay lại phía chúng tôi với giọng Huế nặng ch́nh chịch:

    - Mời tất cả các anh em lên trên gác!

    Chúng tôi nh́n nhau, chẳng ai nói một lời lục tục bước theo ông lên trên lầu.

    Trong pḥng, chúng tôi gồm 8 người, kể cả ông chú họ tôi. Chính tôi lúc này cũng không hiểu v́ sao chú tôi cũng vào ấy ngồi. Hầu hết chúng tôi đều ở lứa tuổi thanh niên; chú tôi trông riêng biệt hẳn không những về tuổi tác, mà c̣n v́ dáng dấp phong độ như một “chính khách” nữa. Chính sự hiện diện của chú tôi, cũng đang làm cho ông người Huế không ít băn khoăn. Ông nh́n chú tôi, nửa như muốn hỏi, nửa như e ngại đắn đo. Có lẽ chú tôi cũng thấy vậy, nên ông đă đứng dậy, rồi cùng ông người Huế đưa nhau ra chỗ ban công nói ǵ với nhau một lúc. Sau đó, chú tôi xuống lầu.

    Tôi nhớ lại hơn một tuần trước, thằng em trai đi phố về, gọi tôi rối rít:

    - Chú Thường gọi anh ra gặp cô chú có việc cần.

    Ông Thường là một người từ trước tới giờ tôi vẫn kính nể, ông những ông là bậc cha chú, mà v́ kiến thức uyên bác trong nhiều lănh vực, và sự giao thiệp rộng răi của ông trong xă hội. V́ vậy, tôi đă vội vàng ra nhà chú tôi ngay.

    Sau những phút ân cần thăm hỏi thằng cháu về học hành, thi cử, mắt ông sáng thêm ra nh́n tôi, nói:

    - Hiện nay, Phủ Tổng Thống tổ chức một lớp học đặc biệt chỉ dành cho mươi người. Những người phải được bảo đảm với Phủ Tổng Thống bởi những người có thế lực. Vậy nếu cháu thích, chú sẽ giới thiệu cho.

    Những năm tháng mài đũng quần trên ghế nhà trường, kết hợp với thực tiễn cuộc sống đă dần h́nh thành trong tôi một nhân sinh và thế giới quan. Một người con trai được sinh ra trong đời này, lớn lên, lấy vợ, đẻ con, già, bệnh rồi … chết. Như vậy đi không rồi cũng trở về … không; có khác ǵ con người chỉ là cái mắc áo, và là cái nơi để hàng ngày đổ cơm vào? Tư tưởng hào hùng đầy lửa sống của cụ Nguyễn Công Trứ đă cuốn hút, thấm đậm vào tâm hồn non trẻ của tôi; đă luồn lách vào từng tế bào của trái tim nóng hổi; để rung lên những điệu nhạc tang bồng vẫy vùng ngang dọc của người con trai. Cho nên, mới nghe chú nói, tôi đă vồ vập nhận lời ngay, và nhờ chú tôi giới thiệu.

    Ngày hôm sau, chú đă dẫn tôi sang gặp linh mục Mai Ngọc Khuê để giới thiệu tôi với người.

    Cha Khuê đă hỏi nhiều về thân thế, gia đ́nh, quá tŕnh cuộc sống, và một số quan điểm của tôi đối với xă hội, đối với quê hương dân tộc.

    Người rất chú ư, khi chú tôi giới thiệu từ bé tôi đă có nhiều năm luyện tập vơ thuật. Cuối cùng người tỏ ra hài ḷng nh́n tôi vừa gật gù:

    - Như vậy là một thanh niên văn vơ toàn tài.

    Câu khen quá đáng của người đă làm tôi đỏ mặt. Khi từ giă cha Khuê, trên đường về nhà, tôi hỏi chú tôi có biết ǵ về lớp học đặc biệt này hay không?

    Thực ra, chú chỉ là một người quen thân với Cha Khuê qua nhiều lần trao đổi về chính trị, thời cuộc… chứ về lớp học này, chú chẳng biết ǵ hơn những điều tôi nghe Cha Khuê nói.

    Khi chú tôi đă xuống dưới lầu, ông người Huế trở lại lớp học. Ông quay nh́n tôi, nở một nụ cười thiện cảm trong lúc tay ông mở chiếc cặp đen để trên bàn. Sau đó, ngững lên nh́n tất cả chúng tôi, nét mặt nghiêm trang, ông nói rành rọt:

    - Các anh là những người được giới thiệu bảo đảm để theo lớp học này. Tôi rất hân hoan, tin tưởng, vậy trước hết các anh hăy điền, ghi vào tập lư lịch sau đây.

    Ông vừa giơ một tập giấy, vừa nói nội dung và cách thức ghi chép vào những chỗ trống theo câu hỏi. Tập lư lịch in sẵn này cũng như nhiều tập lư lịch khác, ngoài phần đề cập về bản thân và cuộc sống, c̣n thêm hai mục:

    - Quan điểm tư tưởng, hoài băo.
    - Kể 3 người bạn thân nhất, ghi rơ tên tuổi và địa chỉ.

    Gần 1 giờ sau, khi chúng tôi làm xong thủ tục lư lịch, ông căn dặn mấy việc:

    - Trở về nhà, chỉ được nói với gia đ́nh, bạn bè là chuẩn bị để đi dự một lớp huấn luyện, về thanh niên Cộng Ḥa.

    - Mỗi người hăy chờ ở nhà! Ông sẽ đến tiếp xúc riêng từng người theo địa chỉ trong bản lư lịch. Nếu có việc ǵ cần kíp phải đi đâu, viết giấy ghi rơ nơi đến và khi nào trở về, để lại dặn người nhà.

    - Lúc đầu phải nhờ người giới thiệu là trung gian; nhưng bây giờ tuyệt đối không nói là nhận được hay không. Nếu người giới thiệu có hỏi, chỉ nói vẫn chờ, chưa thấy gọi.

    Khi chúng tôi ra về, đă 10 giờ 30 tối. Chú tôi đă về nhà. Cha Khuê đă vào pḥng đọc kinh. Đến lượt tôi chào ông người Huế, ông tiến lại bên tôi, nói:

    - B́nh, tí nữa theo tôi ra xe nói chuyện nhé!

    Hơi ngạc nhiên, nhưng tôi chợt hiểu. Hẳn là Cha Khuê, hoặc chú tôi đă có lời nhắn nhủ.

    Lúc ra tới đướng 16, ông đi thong thả bên tôi, đặt tay lên vai tôi ra chiều thân mật, ông hỏi tôi về cuộc sống, về học hành, v.v… Cuối cùng, ông nói:

    - Tôi rất mến và tin tưởng ở B́nh. Do đó, tôi muốn B́nh giới thiệu cho tôi một người bạn thân, đồng chí hướng như B́nh.

    Là một thanh niên hăy c̣n nhiều bồng bột; nghe ông nói tôi thấy ḷng tự hào và nghĩ ngay tới Nguyễn Vĩnh Lư, một người bạn rất thân học ở Chasselop Laubat. Anh vừa đậu phần I Tú Tài Pháp, anh cũng có một số hoài băo, ước mơ như tôi.

    Sau khi ông ghi xong số nhà, đường phố của Lư do tôi nói, ông lại đặt tay lên vai tôi, giọng t́nh cảm dịu dàng:

    - Tôi sẽ tiếp xúc với Lư, bây giờ B́nh về, chúng ta sẽ gặp lại.

    Trên đường về nhà và cả đêm hôm đó trước khi đi ngủ, tôi miên man suy nghĩ về diễn tiến của buổi tối ở nhà thờ Tân Sa Châu. Mặc dù chưa biết chút ǵ về lớp học, nhưng những hiện tượng mà tôi đă nh́n và nghe cả buổi tối hôm trước, đă làm tôi triền miên tưởng tượng viễn ảnh của một ngày mai, trong giấc ngủ muộn.

    Sáng hôm sau, tôi phóng xe sang nhà Lư ở khu Đa Kao Cầu Bông rất sớm. Tôi kể cho Lư nghe về sự việc tối trước và nói đă giới thiệu với ông đó rồi. Lư rất mửng rỡ và hỏi liên tiếp những câu mà tôi cũng mù tịt:

    - Lớp này là lớp ǵ? Học ở đâu và học ǵ? Thời gian bao lâu? Học xong, làm ǵ?

    Tuy vậy Lư rất vui và tin tưởng tôi nên Lư sẽ chờ ông người Huế đó đến gặp. Tôi dặn Lư:

    - Mày tiếp xúc với ông ấy, thử moi thêm, may ra biết rơ hơn.

    Chừng 10 ngày sau, Lư xuống nhà cho biết: Đă gặp và hoàn tất lư lịch. Lư có hỏi tên, được ông bảo cứ gọi ông là Hương (tôi cho là tên giả). Ngoài ra Lư không biết ǵ hơn những điều tôi đă biết.

    Chúng tôi phải chờ hơn một tháng trời. Có lẻ đây là thời gian sắp xếp chuẩn bị lớp học. Cũng có thể có những người đă bí mật đến xóm giềng, thẩm tra về từng người của chúng tôi. Một hôm, Lư xuống nhà tối với một vẻ phấn khởi:

    - Ông Hương bảo tối nay mày đến nhà tao ngủ, 8 giờ sáng mai (tức là ngày 28 tháng 4), ông sẽ đến đón đi tham dự lớp học. Phải chuẩn bị quần áo, sinh hoạt trong một tuần.

    Chúng tôi, hai đứa xốn xang bàn tán rất nhiều nhưng vẫn chẳng hiểu được ǵ hơn. Đêm hôm ngủ ở nhà Lư, hai anh em nằm bên nhau trong căn gác hẹp, nhỏ to ŕ rầm rồi đi dần vào giấc ngủ nhiều mộng mơ, về ngày mai của cuộc đời.


    (C̣n tiếp)

    Đặng Chí B́nh
    Last edited by Phú Yên; 29-09-2011 at 08:17 PM.

  3. #3
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Thép Đen: Tập I - Chương 2


    Cuốn Sổ Tay Tai Hại …

    Sáng hôm sau, trời Sài G̣n thật đẹp. Một vài vầng mây trắng lững lờ trên nền trời xanh nhạt.

    Đúng 8 giờ, ông Hương đậu xe ở một góc phố, đi bộ lại (đó là cách thận trọng thường xuyên của ông ta). Chúng tôi đă nh́n thấy, mỗi người một túi xách ra xe. Một cái bắt tay, vài nụ cười, không một lời nói, chúng tôi cùng lên xe.

    Xe ra khu Bạch Đằng, đón một người cuối đường Hai Bà Trưng, quẹo về Trương Minh Giảng, lên khu Vườn Lài đón thêm hai người nữa. Không kể ông Hương, xe đă năm người, như vậy là hết chỗ.

    Trong khi xe lao về phía Chợ Lớn, cả năm chúng tôi không biết xe sẽ đi về đâu.

    Khi xe ra tới đầu Quốc Lộ số 4 đường xuống Mỹ Tho, một trong ba người kia tỏ vẻ hiểu biết nói nhỏ:

    - Chắc đến trường Cây Mai.

    Tôi chẳng biết trường Cây Mai dạy cái ǵ nên đưa mắt hỏi, anh đó khẻ giải thích:

    - Đào tạo t́nh báo cảnh sát.

    Thực tế không phải vậy, khi đi tới ngă tư Phú Lâm, xe đi chậm lại, rẽ vào chiếc cổng có hai cánh cửa sắt đóng im ỉm mang số: 365.

    Như đừng chờ sẵn ở phía trong, một người quần áo bà ba nâu vội vàng ra mở cổng. Xe đi thẳng vào, đến cửa một ngôi nhà to th́ ngừng lại. Chúng tôi xuống xe theo ông Hương lên gác.

    Trên lầu đă có chín người nữa, trong đó, một người đă lớn tuổi vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi, làm tôi chú ư nhiều hơn v́ hâu hết chúng tôi từ hai mươi đến hai mươi lăm.

    Trong căn nhà rộng có nhiều buồng nhỏ, nhưng một pḥng thật to, có lẽ là pḥng khách đă kê sẵn 14 chiếc giường vải, có mùng, chăn, gối của quân đội thứ tự theo từng giường. Điều này nói lên số người đă được đón đủ.

    Một người mặc pyjama xanh nhạt, đeo kính trắng, chừng ba mươi tuổi, từ dưới nhà lên. Ông Hương quay lại phía chúng tôi giới thiệu:

    - Đây là ông Lâm giám thị, một người sẽ thường xuyên ở với các anh em, khi có điều ǵ cần thiết, các anh đến gặp ông sẽ được giải quyết.

    Ông Lâm mỉm cười và bắt tay mọi người, ông cũng là người miền Trung. Sau đó, lại có hai người mặc đồ nâu nữa từ dưới nhà lên. Ông Hương cho biết họ sẽ phục vụ chúng tôi về cơm nước. Tất cả ba người này nói tiếng miền Trung.

    Theo ông Hương và ông Lâm, đây là một lớp học tập thể. Bất cứ tập thể nào cũng có nội quy để ổn định trật tự. Vậy, trước hết chúng tôi phải tự đặt bí danh, và từ nay, trong mọi sinh hoạt học tập cũng như ăn ở, chúng tôi sẽ bắt buộc gọi nhau theo bí danh đó. Tôi là J. hay John. Lư là K. hay Karl. Giới hạn tối đa việc ra ngoài phố. Ra ngoài, nếu gặp ai hỏi, chỉ trả lời, chúng tôi là một số sinh viên Kinh Tế Và Chính Trị, v́ muốn t́m hiểu Chủ Nghĩa Nhân Vị, nên mượn căn nhà này để nghiên cứu học hành trong mấy tháng Hè.

    Đây là một ngôi nhà hai tầng, rất kiên cố, có nhiều pḥng. Chung quanh có tường xây, dây thép gai bao bọc.

    Theo dân chúng ở chung quanh, ngôi nhà này trước đây thuộc Pḥng Nh́ của Pháp, nay thuộc về Phủ Tổng Thống. Cuối cùng, ông Hương nh́n chúng tôi, gợi ư:

    - Để thuận tiện trong sinh hoạt, có lẽ các anh nên chọn, bầu ra một người trưởng toán.

    Chúng tôi toàn những người chẳng hề biết nhau (điều này ông Hương biết nên đă có dụng ư). Làm sao biết được đạo đức và khả năng của nhau, cho nên tất yếu đều nh́n về người lớn tuổi nhất. Ông Hương đồng ư ngay. Anh đó tên Đạo.

    Qua những bữa cơm, và trong tủ lạnh luôn luôn có đầy đủ nước ngọt, bia, chanh, đường để giải khát thoải mái, tất cả chúng tôi đều phấn chấn tin tưởng vào viễn ảnh ngày mai của lớp học.

    Tối hôm đó tôi xuống buồng của giám thị, theo lời hẹn của ông ta. Ngay buối nói chuyện đầu này, ông đă có vẻ có cảm t́nh với tôi như một người em, tên ông là Cao Đ́nh Tiệu, tu xuất, vào quân đội. Qua ông, tôi đă biết được nhiều chuyện chung quanh lớp học.

    Sáng hôm sau, cả mười bốn người chúng tôi lên một chiếc xe “Dodge 4” mui phủ kín mít. Xe đi lên phía Sài G̣n, nhưng chẳng ai biết sẽ đi về đâu. Cuối cùng, xe đi thẳng vào một ṭa nhà to lớn chẳng khác ǵ một ṭa lâu đài, có hai cổng to hai bên để xe ra vào, không có lính gác. Trong sân, vài con ngỗng kêu í ới, sân có trồng cỏ và hoa, êm đềm như một tư gia. Đó là căn nhà số 2 đường Jacques Rousseau. Sau này, tôi biết là nhà của Cựu Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia thời 1954 về trước.

    Chúng tôi được hướng dẫn vào một pḥng phía bên phải. Trong pḥng, đă có mặt ông Hương và mấy người lạ đóng bộ đàng hoàng. Họ chạy lăng xăng chuẩn bị bàn ghế, cờ quạt. Vách tường, cửa của văn pḥng đều được bọc da, để ngăn cản âm thanh với bên ngoài. Trên cao, giữa tường, treo một lá cờ Tổ Quốc lớn, và ảnh cụ Ngô, phía trên đ́nh hương trầm nghi ngút. Bên cạnh, phía dưới, có máy ghi âm. Chúng tôi 14 người ngồi mấy hàng ghế phía cuối.

    Đúng 9 giờ, một người đi vào. Có tiếng hô nghiêm, chúng tôi đứng dậy. Người đó bước lên bục. Sau khi làm thủ tục chào cờ hát quốc ca, mặc niệm, ông ta với cặp mắt như tỏa ánh sáng sau đôi kính trắng thật dầy, và bằng giọng Huế ấm và nặng, ông vừa tha thiết nhắn nhủ, vừa nghiêm nghị ra lệnh. Nội dung:

    - Các anh là những thanh niên, sẽ trở thành rường cột của Tổ Quốc trong tương lai. Bởi thế, hăy ra sức cố gắng học tập, công tác, để không phụ ḷng tin tưởng và thương yêu của tổng thống. Lúc này, đang đi công cán đặc biệt, nên tổng thống không kịp ra dự buổi khai giảng lớp học hôm nay. v.v..

    Ba mươi phút sau, người đó về ngay.

    Chiều hôm đó, ông Minh (phó giám đốc lớp học) giảng về Chủ Nghĩa Nhân Vị.

    Giờ sau, ông Hương giảng về Chủ Nghĩa Cộng Sản.

    Lần đầu tiên chúng tôi được nh́n hai tấm ńnh to tướng khổ 40×60 phân của Engels và Karl Max. Ông lướt qua những nét chính vể Chủ Nghĩa Cộng Sản với những diễn tiến theo thời gian từ Đệ Nhất Quốc Tế đến Đệ Ngũ là Tito Nam Tư, (dĩ nhiên là đứng từ góc độ của thế giới tự do để nh́n về Chủ Nghĩa Cộng Sản). Ông Tạo, chủ sự Pḥng Thương Mại, giảng về Kinh Tế và Xă Hội. Ông Đức giảng về tự do và con người, v.v…

    Tất cả chỉ là mở ra một bức tranh khái niệm về từng lănh vực. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải làm bài với những đề tài như:

    - Con người và Xă Hội.
    - Chủ nghĩa Cộng Sản và con người.
    - Nền Kinh Tế chỉ huy và tự phát. v.v…

    Chúng tôi được tha hồ tham khảo sách báo ngoài xă hội. Phải nói, lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên, tại sao lại cho chúng tôi học những món như vậy. Phải hơn một tháng sau, tôi mới hiểu rơ.

    Hằng ngày đi học bằng xe bít bùng, bọc kín như bưng… Tôi để ư, thường thấy những chiếc xe du lịch ra vào đậu trong sân số 2 Jean Jacques Rousseau, lại phải lấy vải bịt số xe. Những người trên xe hầu hết là ngoại quốc, nam cũng như nữ. Thái độ của họ tỏ ra nhanh nhẹn và cũng kín đáo khác thường.

    Trong những giờ giải lao, chúng tôi lang thang ngoài sân, khi gần ra phía cổng th́ bị giảng viên gọi vào. Họ nói:

    - Các anh không nên ra ngoài đó, có thể bị chụp ảnh.

    Những điều như vậy, càng gợi trí ṭ ṃ của tôi. Tôi suy đoán, có thể không chừng đây là một chỗ tới lui của nhiều tay điệp viên quốc tế chứ không chơi đâu, do đó, tôi t́m mọi cách để mong biết được tên thật của các giảng viên. Tôi hiểu họ dùng toàn tên giả. Thí dụ: Ông Minh giảng về Chủ Nghĩa Nhân Vị lại có cái thắt lưng mang chữ K. Hoặc ông Đức, có lần thoáng trong lần giải lao, ông Minh lại gọi là ông Thái. Tôi muốn biết rơ tên thật và chức vụ thực của họ. Phần khác, tôi c̣n ghi tất cả những số xe, bất kể loại ǵ ra vào ngôi nhà số 2 này. Tôi cho rằng rồi đây ở Sài G̣n, hay ở đâu, nếu tôi gặp những chiếc xe đó, địa điểm và chủ nhân ấy đều có dính dáng đến t́nh báo. Điều đáng trách của tôi, là ghi tất cả tên cũng như số xe vào một cuốn sổ tay, mà tôi thường bỏ trong người.

    Trong những buổi lên lớp cũng như những bài làm ở nhà, nhiều lần tôi được khen là có những ư kiến sâu sắc; nhất là ông Hương, giám đốc, càng tỏ ra thân mật quư mến tôi hơn.

    Hàng tuần, trưa thứ Bảy, chúng tôi được nghỉ học, về nhà. Tối Chủ Nhật trở lại.

    Qua chuyện tṛ sinh hoạt, sau nửa tháng, tôi đă biết trong số 14 người này có nhiều anh đă có phần I, phần II Tú Tài. Đa số là con ông cháu cha, con cháu tỉnh trưởng, chủ sự,v.v… V́ vậy, tôi và Lư càng hoan hỉ tin tưởng vào tương lai của mỗi người.

    Học được hơn nửa tháng, một hôm, tôi không thấy cuốn sổ tay nhỏ của tôi đâu, tôi thắc mắc t́m hoài mọi chỗ, hỏi cả Lư, cũng không thấy. Tôi cho là, có thể nhiều lần đi trên xe, xe vừa đông lại vừa xóc, cuốn sổ rơi xuống đường rồi chăng, chứ tôi đă t́m hết mọi chỗ rồi. Tôi cũng đă hỏi toàn thể anh em, nhưng không một ai biết. Măi rồi cuốn sổ tay đó cũng đi vào lăng quên.

    Một buổi tối, sau khi học và làm bài vở xong, tôi chợt nhớ tới cuốn sổ tay, tôi quyết định mở va li t́m hết lại một lần nữa may ra thấy chăng. Lục lọi, t́m măi cũng không thấy. Tôi chợt nh́n thấy gần nửa bánh pháo “Đại Quang” ở trong góc va li, thứ pháo nổ xác tan nhỏ như vảy ốc. Bánh pháo này hồi Tết c̣n thừa, tôi định để dành cho Tết sang năm.

    Sẵn tinh nghịch ngợm ngang tàng, tôi rút ra một chiếc pháo trước mặt Lư và mấy anh em c̣n thức. Miệng đang ngậm điếu thuốc, tôi b́nh thản từ từ đưa ng̣i pháo ṿ đầu điếu thuốc đang cháy; khi ng̣i đă x́ lửa, tôi vẫn lạnh lùng nh́n chiếc ng̣i x́ dần rồi nổ ngay ở tay, ngang ngay trước mặt tôi chừng hai mươi phân, chỉ v́ tính ngông cuồng tỏ với mọi người là ḿnh gan ĺ.

    Mọi người ngồi đó không ai nghĩ là tôi dám đốt pháo như vậy, mà chỉ cho tôi đùa bỡn, nên không kip có ư kiến can ngăn.

    Tiếng nổ dữ dội, âm vang trong ngôi nhà như tiếng lựu đạn khiến mọi người xanh mặt, kể cả tôi! Anh em đứng cả dậy. Ba người bếp ở dưới nhà cũng hộc tốc chạy lên, mặt mày nhớn nhác. Sau khi biết nội vụ mấy người làm bếp và tất cả anh em giúp tôi nhặt từng mảnh pháo vụn. Giám Thị Lâm hôm đó t́nh cờ lại đi chơi vắng. Lúc đó đă 10 giờ tối.

    Tôi liếc nh́n xuống đường chỗ ngă tư Phú Lâm, thấy một người quân cảnh và hai cảnh sát, đều ngước nh́n lên lầu ṭa nhà 365, rồi một người lấy xe gắn máy chạy về phía Sài G̣n.

    Tôi xuống nước năn nỉ ba người bếp và các anh em đừng để sự việc này cho Ban Giám Đốc biết.

    Dọn xong, tất cả đều đi ngủ lại. Riêng tôi nằm bồn chồn lo lắng. Tôi cảm thấy sự việc sẽ không đơn giản. Tôi không yên ḷng, với tay sang lay Lư dậy, th́ thầm:

    - Tao thấy sự việc này sẽ không phải lộ từ phía dưới lên, mà có khi từ phía trên xuống.

    Lư trấn an tôi:

    - Không sao đâu, hăy đi ngủ đi!

    Tôi nằm, tuy có lo lắng, nhưng tuổi trẻ, nên dễ đi vào giấc ngủ lúc nào không hay.

    Tôi đang say mê ngủ, ai đó đến lay người tôi, tôi mở mắt: Cao Đ́nh Tiệu. Ông nhớn nhác, mắt không kính, tóc rối bù, chắc cũng bị đánh thức dậy, ông nói hổn hển:

    - Dậy, mặc quần áo xuống ngay dưới nhà gặp ông Hương!

    Thật là chết! Tôi ngồi bật dậy. Xuống đến lưng cầu thang, đă nh́n thấy ông Hương, ông Minh, quần áo lôi thôi, dáng vẻ c̣n ngái ngủ. Lúc đó đă 2 giờ đêm.

    Tôi hồi hộp nh́n các ông ấy. Điều làm tôi buồn khổ, hổ thẹn nhiều là ông Hương, ông Minh, ông Tiệu, nghĩa là cả Ban Giám Đốc, cũng như giám thị, trước đây đề cao và quư tôi nhất, cho nên tôi chỉ biết cúi đầu.

    Chắc hẳn ông Hương đă hỏi ba người bếp chi tiết sự việc rồi. Ông Tiệu không biết ǵ v́ đi chơi. Câu đầu tiên ông Hương hỏi tôi:

    - B́nh có biết hôm nay là ngày ǵ không?

    Tôi tường ư của ông muốn hỏi như vậy để tôi phải trả lời. Hôm nay là ngày tôi đă gây ra một việc đáng tiếc, nên cứ cúi đầu, ngồi im.

    Có lẽ ông Hương (45 tuổi) đă hiểu cái bồng bột quá trớn của một người thanh niên, ông nói luôn:

    - Hôm nay là ngày 15 tháng 5, sinh nhật của Karl Marx (thảo nào ngă tư Phú Lâm được tăng cường thêm hai cảnh sát và một quân cảnh). Ông Hương nói tiếp:

    - B́nh có biết việc B́nh làm đă chấn động nhiều cơ quan, kể cả Phủ Tổng Thống không?

    V́ là ngày sinh nhật của Karl Marx, nên các cơ quan an ninh tăng cường hoạt động để ngăn chận, những manh nha của Cộng Sản. Khi nghe tiếng nổ, nếu ở một chỗ b́nh thường, cảnh binh chỉ việc vào điều tra t́m hiểu; và thấy do đốt pháo th́ chỉ phạt 20 đồng theo quy định hồi ấy.

    Ở đây, tiếng nổ lại phát ra từ ngôi nhà 365. Cảnh sát cũng như quân cảnh đều hiểu ngôi nhà đó thuộc trung ương, nên không dám vào khám xét. Nhưng v́ sự việc xảy ra trong khu vực trực tiếp trách nhiệm của họ, nên bắt buộc họ tŕnh báo cáo cấp trên. Đồn trưởng báo Quận, Quận hỏi ư kiến Nha Giám Đốc. Nha Giám Đốc cho căn nhà đó là của An Ninh Quân Đội, thuộc Phủ Tổng Thống. Lời tường tŕnh được báo về cấp cao nhất, và cuối cùng truyền ngược xuống Ban Giám Đốc lớp học.

    Mặt của ông Hương, Minh, Tiệu như bàn tay bà già. Mặt tôi có lẽ dài ra gấp rưỡi ngày thường.

    Ông Hương chậm răi nói:

    - Không thể dùng quyền để ém nhẹm vụ này, v́ như vậy càng làm cho các cơ quan khác nghi ngờ. Cho nên, ngày mai cảnh sát sẽ vào đây lập biên bản. Vậy, hăy nói với họ đây là một số sinh viên, học tập Chủ Nghĩa Nhân Vị trong dịp Hè. Một người trong lúc vui chơi đă nghịch, gấp một chiếc pháo giấy đập mạnh bằng tay, v́ ở trong ṭa nhà, nên nó đă vang to như vậy.

    Ông Hương bắt ông Tiệu lấy giấy gấp thành một cái pháo, mà học sinh vẫn chơi. Tôi phải thực tập, cũng nổ. Nhưng làm sao bằng pháo thật!

    Đến đây, tôi cũng suy nghĩ. Tại sao ông Hương không nói thẳng với cảnh sát là tôi nổ pháo, mà phải làm tṛ như thế, cảnh sát tin sao được. Tôi cho rằng, có lẽ một phần ông Hương muốn cho đỡ khuyết điểm cho tôi với trên, phần khác cho chính ông ta (tại sao lại tuyển mộ một học viên có những hành động nhố nhăng như thế).

    Sáng hôm sau, một xe “díp” cảnh sát chở ba người, kể cả đồn trưởng, vào gặp ông Tiệu và tôi. Thái độ cảnh sát rất nhă nhặn, dè dặt, và tỏ ư, đây chỉ là nguyên tắc, v́ vậy, họ cũng không bắt tôi phải đập pháo giấy. Nghĩa là họ không tin, nhưng việc phải làm, cho nên họ ghi đầy đủ sự việc theo lời khai vào sổ trực.

    Ông Tiệu c̣n nhăn nhó nói:

    - Địa điểm học này đă bị lộ, có thể sẽ phải chuyển đi nơi khác.

    Sóng gió lại b́nh lặng! Chúng tôi lại tiếp tục học hành. Tuy vậy, từ đấy tôi rất ngượng nên thường tránh mặt, không muốn gặp ông Hương và ông Minh nữa.

    Hơn một tuần sau, vào lúc 7 giờ tối, một anh bếp gọi tôi xuống gặp ông Giám thị. Khi xuống tới buồng ông Cao Đ́nh Tiệu, tối thấy trên bàn một chai rượu mạnh. Mặt ông đỏ gay và thật buồn. Thấy tôi, ông hất hàm ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Rồi quay mặt nh́n ra cửa sổ, chậm răi:

    - B́nh có một quyển sổ tay nhỏ phải không?

    Thoáng nghe tim thót lại, tôi gật đầu lo lắng nh́n ông.

    - B́nh có biết quyển sổ đó hiện nay đang ở đâu không?

    Tôi nói trong đắn đo, dè dặt:

    - Đă mất hơn nữa tháng nay và t́m măi không thấy.

    Ông quay ngoắt lại, nh́n thẳng vào mặt tôi, dơng dạc:

    - Hiện giờ, nó đang nằm trên Phủ Tổng Thống!

    Ôi chao, sao tôi có nhiều việc thế này! Ḷng tôi hoang mang, hoảng sợ nh́n ông. Ông hỏi tiếp:

    - Ai là người giới thiệu và bảo lănh B́nh vào lớp học này?

    - Cha Mai Ngọc Khuê.

    Mặt ông buồn thiu, thổ lộ:

    - Tôi không có em trai, từ ngày tôi gần B́nh, tôi rất mến và coi B́nh như em trai của tôi. Chiều nay tôi đă tham dự một cuộc họp hai tiếng đồng hồ. Tôi đă vận dụng nhiều lư luận để binh vực cho B́nh, nhưng địa vị và quyền của tôi chỉ có giới hạn. Cuộc họp đă quyết định xong vể B́nh rồi. Họ sẽ giao B́nh sang An Ninh Quân Đội, B́nh sẽ bị sát hạch, khai thác, có khi bị tra khảo nữa. Vậy ngay bây giờ, B́nh vể khẩn khoản nói với Cha Khuê, may ra uy tín của người sẽ cứu được B́nh.

    Ông c̣n hỏi:

    - Có tiền đi tắc xi không?

    Ông mở ví móc đưa tôi 50 đồng.

    Tôi như ngồi trên lửa, khua tay rối rít cám ơn nói là đă có tiền rồi. Tôi đứng lên chuẩn bị đi ngay sang khu Lăng Cha Cả, ông c̣n kéo tay tôi lại:

    - Tại sao B́nh ghi hơn chục cái số xe để làm ǵ? Cả tên thật và chức vụ của các giảng viên nữa?

    Mặt tôi buồn rười rượi. Tôi thú thật với anh là v́ ṭ ṃ. Anh giục tôi đi ngay, về thú thực hết với cha Khuê. Trên đường về, tôi nghĩ ngay tới Đạo, ngưởi trưởng toán. Mục đích ở trên đưa nó vào để theo dơi chúng tôi về tư tưởng. Nghĩ cho cùng, tôi chỉ giận ḿnh ngu xuẩn, nhố nhăng, không thể trách Đạo được v́ đó là nhiệm vụ của anh ta.

    Những năm tháng sau này, nhiều khi suy nghĩ lại sự việc trên, tôi thấy, trong cuộc đời, chuyện may rủi không một ai dám phủ nhận, nhưng cũng phải thừa nhận là “bản tính tạo nên cuộc đời”. Thực tế, tính một người ưa động, coi thường nguy hiểm, thích đấm đá, dao búa, buôn lậu, hoặc hoạt động chính trị, làm cách mạng, v.v… Đời người ấy, nói chung, sẽ nổi ch́m bất thường. Ngược lại, một người sợ chuyện nguy hiểm, rụt rè trước những việc mới lạ, cá biệt không kể, nói chung, đời người đó trôi đều phẳng lặng. Cho nên, bản tính của tôi đă như thế, tôi phải gánh lấy hậu quả tất yếu, kêu trời làm chi!

    Về gặp Cha Khuê. Trước đây người vồn vă vui tươi với tôi, bây giờ, sau khi tôi tŕnh bày sự việc, mặt người thật lạnh lùng xa lạ. Người chỉ nói một câu: “Làm như vậy đấy!” Tôi thật buồn và thẹn. Nếu không v́ chuyện cấp bách, tôi chẳng đến người làm chi nữa.

    Trở về, hôm sau tôi vẫn tiếp tục đi học ở số 2 Jean Jacques Rousseau, nhưng là những ngày đầy lo âu, nghe ngóng.

    Buổi học cuối tháng đó, chúng tôi đến lớp nhưng không học. Chúng tôi được lệnh ngồi chờ. Từng người được gọi vào một căn buồng phía trái để làm việc, khá lâu. Mỗi khi một người mở cửa buồng bước ra, tôi hỏi, họ đều lắc đầu. Măi tới lúc Lư ra, tôi hỏi, hắn chỉ vắn tắt:

    - Lấy tiền, và viết giấy cam đoan, ông ấy dặn tao tuyệt đối không nói ǵ với người khác.

    Gần về cuối, tôi mới được gọi. Gặp ông Hương, tôi ngượng ngùng, nhưng ông lờ đi. Nội dung sinh hoạt riêng từng người là:

    - Kư vào mấy tờ giấy và lĩnh 2,500đ.00 một tháng (học, được nuôi ăn ở lịch sự, lại c̣n có lương!)
    - Một tờ cam đoan đă đánh máy sẳn. Tuyệt đối không kể một sự việc ǵ vể lớp học cho một ai khác, kể cả gia đ́nh. Nếu vi phạm, sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
    - Về nhà chờ, khi nào có người tới đón, sẽ đi học tiếp tục.

    Sau đó, chúng tôi ra về. Tôi những tưởng tai qua nạn khỏi, nhưng không phải vậy. Thỉnh thoảng, tôi vẫn đến nhà Lư chơi để xem t́nh huống gọi, đón như thế nào. Một hôm, tôi đến nhà Lư như mọi lần, được người nhà Lư cho biết, sáng sớm đă có người đến đón Lư đi rồi. Thôi, thế là tôi đă bị thải. Để cho sáng tỏ hơn, tôi phải liều. Tôi vội vàng phóng xe xuống 365. Lúc đó đă là giờ trưa, rất im vắng. Tôi lên tuột trên gác thấy Lư và 9 người nữa đang ngủ. Tôi lay vai Lư dậy, rồi chúng tôi cùng xuống dưới nhà. Lư nói, mặt buồn buồn:

    - Ông Hương đến đón tao đi ngay, nên không kịp viết giấy để lại cho mày. Tao có hỏi ông Hương về mày. Ông trả lời “Hăy biết phận ḿnh thôi”.

    Tôi thấy Lư cũng không biết ǵ hơn, tôi hẹn Lư cuối tuần về sẽ nói chuyện. Tôi vào buồng anh Tiệu, anh cho biết: “Không gọi, có nghĩa là loại rồi” và “Lớp học bây giờ chỉ c̣n mười người!”

    Như vậy là tôi đă hiểu. Mục đích của một tháng học đó chỉ là để t́m hiểu và để lọc người. Trừ anh Đạo trưởng toán có nhiệm vụ riêng không kể, 3 người đă bị loại.

    Ruột tôi thật là héo úa! Anh Tiệu thây tôi buồn, anh đặt tay lên vai tôi, vừa như tâm t́nh vừa như an ủi:

    - Dù học lớp này hay không, B́nh hăy đến với tôi. Nhưng không nên đến đây nữa. Bây giờ là giao thiệp giữa cá nhân tôi và B́nh.

    Anh cho tôi số nhà riêng và hẹn gặp vào những ngày cuối tuần.

    Trên đường về nhà, tâm tư tôi nặng chĩu trái sầu. Tôi nghĩ đến lời anh Tiệu khi năy: “Trong lớp học đó, B́nh được Ban Giám Đốc khen ngợi là trội nhiều mặt, tháo vát, nhanh nhẹn, nhưng …”

    Vâng, trong cuộc sống con người, chữ “nhưng” và chữ “nếu”, hai chữ quái quỷ này có lúc làm cho con người sung sướng ngất ngây bao nhiêu, th́ nhiều khi chúng cũng làm cho người ta đau khổ chất chồng, đầy máu và nước mắt bấy nhiêu. Đôi khi tàn lụi cả cuộc đời cũng v́ chúng.

    o0o


    (C̣n tiếp)

    Đặng Chí B́nh

  4. #4
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Thép Đen -Tập I - Chương 3

    Vào Ngành T́nh Báo …

    Tôi về nhà nằm buồn mấy ngày. Lại đúng vào mấy ngày mưa. Mưa thật nhiều, mịt mờ cả đường phố. Tôi nằm nghe mưa rơi trên mái nhà, những hạt mưa rơi xối xả âm vang như tiếng cười đùa trêu chọc. Nhưng, có lúc lại như tiếng reo ḥ, hối hả thúc giục người con trai không thể nằm buồn tiêu cực trong cuộc sống, phải dậy và nổ lực với những khó khăn trước mặt! Thế là tôi ngồi bật dậy và nỗi buồn của tôi đă như áng mây, trôi về phương trời xa mất hút…

    Ít ngày sau, tôi được biết Bộ Tổng Tham Mưu thông báo thi tuyển vào lớp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 11. Tôi nộp đơn, ngoài những thủ tục cần thiết, tôi c̣n nộp kèm theo giấy chứng chỉ của trường Cao Đẳng Quân Sự (giai đoạn đó, học sinh đệ nhị cấp, đều phải qua lớp huấn luyện quân sự này) chứng nhận tôi là chuẩn úy trừ bị.

    Do một số tin tức tôi thâu lượm được, không kể Cần Thơ và Huế, riêng Sài G̣n đă có hơn 1.000 người xin dự thi, trong khi tôi được nghe đồn, khóa Thủ Đức 11 này đặc biệt sẽ lấy 800, v́ nhu cầu t́nh h́nh chính trị đ̣i hỏi. Dù thế nào, tôi vẫn phải đem sách vở ra miệt mài học lại. Tuy tôi cũng tự tin vào khả năng của ḿnh.

    Một ngày cuối tuần, tôi đến Tiệu chơi, anh hỏi tôi:

    - B́nh có thích hoạt động t́nh báo không? Với khả năng như B́nh, nếu B́nh thích, tôi sẽ giới thiệu qua ngành quốc ngoại, v́ tôi có quen biết.

    Vừa qua, tôi đă nếm mùi vị tí chút về t́nh báo, nên tôi gật đầu. Tôi cho anh địa chỉ nhà tôi, và sẽ chờ người đến gặp.

    Qua những buổi trao đổi với Cao Đ́nh Tiệu, tôi đă hiểu t́nh báo quốc ngoại ở đây là t́nh báo ngoài miền Bắc. Lúc đó, quan điểm tư tưởng của tôi thật là đơn thuần. Con người của tôi tự bản tính không sợ những chuyện nguy hiểm, nên luôn luôn ôm ấp một hoài băo, phải làm được một cái ǵ đó hữu ích cho cuộc đời này, mặc dù tôi chưa hề định hướng việc đó là việc ǵ. Lư tưởng chống Cộng Sản của tôi, lúc đó vẫn c̣n lẩn quất chưa rơ mầm. Tôi chưa ư thức được v́ sao, tôi một người con trai Việt lại phải ra miền Bắc, vào đất kẻ thù để chống Cộng Sản. Lỗi này là do những người lănh đạo chế độ miền Nam đă hời hợt sao nhăng, việc giáo dục trong học đường đối với thanh thiếu niên về vấn đề Cộng Sản.

    Hơn một tháng sau, đến ngày thi tuyển vào trường Thủ Đức. Sau mấy ngày thi, bài vở so với mọi người chung quanh, tôi làm được, nhờ hai bài toán H́nh, Đại th́ một bài trúng tủ. Thầy Phú đă ra trước đây ở trường Hưng Đạo. C̣n bài Việt, tôi hơi vững dạ, v́ trong các môn học, môn Việt Văn của tôi vẫn thường có chỗ đứng tạm được. Dù vậy, khi chưa công bố, ai dám cho là ḿnh đă qua. Chính v́ thế, trong khi chờ đợi kết quả tôi vẫn cần phải lo chuyện khác nữa.

    Tôi thi được hơn mười ngày, một hôm có một người chừng ba mươi lăm tuổi t́m tới nhà. Lại là người Trung nữa! Sao trên trung ương nhiều người miền Trung thế? Ông ta tự giới thiệu tên là Cẩn, Ngọc Cẩn, mặc thường phục. Ông ta nói:

    - Được ông Lâm (tên giả của Cao Đ́nh Tiệu ở lớp học) giới thiệu và nói nhiều về anh. Hôm nay, tôi đến gặp anh. Chúng ta sẽ trao đổi vài câu chuyện.

    Câu chuyện xoay quanh mấy vấn đề quan điểm, hoải băo, trách nhiệm của người thanh niên đối với dân tộc, Tổ Quốc v.v…

    Buổi nói chuyện kéo dài chừng hai tiếng đồng hồ, Sau đó, ông Cẩn hẹn buổi khác sẽ đến.

    Ông đến gặp tôi hai ba lần nữa. Một hôm, ông mang theo một tập lư lịch, bảo tôi ghi điền vào chỗ trống theo yêu cầu. So với tập lư lịch làm ở nhà thờ cha Khuê, lần này thêm một vài chi tiết nữa. Riêng chỗ bạn thân phải 5 người.

    Lúc ra về, ông nh́n tôi, có t́nh cảm:

    - Trong khi chờ đợi sự sắp xếp ở trên, tôi hàng ngày cũng rỗi, vậy thỉnh thoảng anh em ḿnh đi chơi phố hỉ?

    Tôi đồng ư. Chúng tôi có lúc ra bờ sông ngồi chơi, có khi vào quán uống. Một hôm, ông đến bằng xe Lambretta, chở tới vài khu trung tâm Sài G̣n chơi. Trong khi đi đường, ông hỏi chuyện về nhiều lảnh vực khác nhau. Một lần đang đèo đi chơi, bất chợt ông nói:

    - Quên, có chút việc chúng ḿnh phải sang khu Cầu Cống Khánh Hội.

    Khi sang tới đó, ông lái xe vào sâu măi trong một ngỏ hẻm, qua nhiều ngóc ngách ngang dọc, rồi ông để tôi đứng ở ngoài chờ. Ông vào một căn nhà, chừng 5 phút ông trở ra.

    Khi trở về Sài G̣n, chúng tôi vào nhà hàng Thanh Thế uống nước. Lúc tôi và ông đang cầm ly uống, chiếc mũ của ông để trên bàn, bất ngờ rơi xuống nền gạch chỗ giữa ông và tôi.

    Ông nh́n tôi, và tôi cũng nh́n ông, cùng đang cầm ly nước. Tôi vẫn thong thả uống và từ từ đặt ly nước xuống bàn. Tôi tiếp tục nói hết câu chuyện và ung dung dụi tàn thuốc lá, rối mới cuối xuống nhặt mũ lên bàn cho ông. Tôi nghĩ, mũ của ông rơi đă rơi rồi, chẳng cần phải vội vàng nhặt ngay, kẻo nó bị hư hỏng hơn. Cho nên, tôi vẫn đường hoàng làm xong việc tôi đang làm giở.

    Phải nói, lúc đó tôi chưa biết là ông thử sự b́nh tĩnh của tôi. Lần thứ hai, tôi đă thấy dụng ư của ông.

    Một lần đang ăn uống, ông rót bia rồi, c̣n già nửa chai ông đặt ghé lên chiếc khăn lau tay để trên bàn. Lát sau, như vô t́nh, ông rút chiếc khăn để lau miệng, chai bia tất yếu nghiêng đổ. Phản xạ cấp thời, tôi chộp lấy được.

    Một lần khác, chúng tôi đang ngồi ở Ḥa Hưng, như chợt nhớ ra điều ǵ, ông quay lại tôi:

    - Nhờ B́nh một chút, tôi ngồi ở đây chờ, B́nh lấy xe tôi xuống chỗ công “piscine” Cộng Ḥa mua hộ tôi 5 bao thuốc Pall Mall với một bao Capstan, họ bán phía trong cổng ấy.

    Trên đường đi, tôi thấy vô lư, từ Ḥa Hưng xuống Ông Tạ có biết bao nhiêu hàng thuốc lá, tại sao lại xuống măi hồ bơi Cộng Ḥa? Dù suy nghĩ như vậy, nhưng tôi vẫn đến chỗ đó mua cho ông. Khi ông và tôi trở về, ông làm như băn khoăn hỏi:

    - Mai B́nh có rỗi không?

    Nh́n ông tôi dè dặt:

    - Tôi chưa biết rơ, nhưng ông cần cái ǵ ông cứ nói.

    Ông rút trong túi áo ra một lá thư dán kín, b́ thư để trống trơn, đưa cho tôi ông căn dặn:

    - Ngày mai, B́nh có solex, hăy đưa hộ tôi lá thư này cho cái nhà mà hôm nọ B́nh với tôi đến, ở trong chợ Cầu Cống đó.

    Đă gần nửa tháng rồi, vô t́nh ai để ư làm ǵ, nhưng do cá tính hay để ư của tôi, tôi đă nhớ. Hôm ấy, tôi thấy ông Cẩn vào một ngôi nhà, tôi nghĩ ông là một người làm t́nh báo của chính quyền. Như vậy, ngôi nhà đó có dính dáng ít nhiều đến t́nh báo; nếu không, ít ra chủ nhân cũng quen biết thân thuộc đến đời riêng của ông Cẩn, nên tôi chú ư hơn. V́ vậy, hôm sau tôi đáp ứng được việc ông nhờ, không khó khăn ǵ cả.

    Tóm lại, thời gian đó, có thể ông đă thử thách tôi nhiều, nhưng tôi chỉ thấy được 4 lần:

    - Về đức tính b́nh tĩnh.
    - Về tính chấp hành kỷ luật nghiêm chỉnh.
    - Về trí nhớ cần thiết để hoạt động.
    - Về phản xạ bén nhậy, chính xác khi sự việc xẩy ra bất ngờ.

    Về việc mua thuốc lá, nếu ông muốn kiểm tra, chỉ cần trở lại chỗ bán thuốc lá ở hồ bơi Cộng Ḥa, hỏi người bán hàng.

    Một vài phương pháp thử thách như trên, chưa đủ xác định khả năng của một con người. V́ vậy, sau này trong quá tŕnh đào tạo, huấn luyện, c̣n nhiều thử thách khác nữa.

    Sau đó, cứ dăm ba ngày, lại một lần ông Cẩn đến đón tôi đi chơi cho tới một hôm, sau buổi đi chơi về, ông thân mật dặn ḍ:

    - Kỳ này, tôi có một số công việc bận, vậy B́nh về nhà hăy đợi chờ nhé!

    o0o


    (C̣n tiếp)

    Đặng Chí B́nh

  5. #5
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Thép Đen Tập I - Chương 4


    Nghiệp Dĩ …

    Tôi về nhà nằm chờ đợi. Hàng ngày, tôi vẫn lấy sách vở ra miệt mài xem lại để sang năm, bằng mọi giá tôi phải lấy xong phần I Tú Tài. Tôi đă ăn vỏ chuối 2 năm rồi! Chỉ v́ sự suy nghĩ của tôi chưa đủ chín chắn, c̣n ham chơi. Chỉ có những quyết tâm nửa vời, thiếu hẳn ư chí kiên nhẫn, cho nên, tôi đă phải trả một giá đích đáng cho sự học vấn của tôi. Tôi nhớ lại những năm tháng trước đây, v́ hoàn cảnh cuộc sống, v́ đất nước chia đôi, tôi di cư vào miền Nam và gián đoạn việc học hành.

    Trước kia, tôi đă biết nghề kim hoàn từ hàng Bạc, Hà Nội. Vào Nam, do gia đ́nh và họ hàng giúp đỡ, cuối 1956 tôi đă mở hiệu bán vàng bạc “Bảo Tín” ở chợ Cây Điệp. Khách hàng là quân nhân trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung và mấy làng người miền Nam quanh vùng. Sau gần một năm, càng ngày cửa tiệm càng phát đạt, dù người chủ tuổi đời chỉ mới mười tám, mười chín (bố mẹ và các em tôi ở cùng nhà). Khi ấy, đồng tiền đối với tôi thật dễ dàng. Thỉnh thoảng, một vài người bạn từ Sài G̣n xuống chơi, nói chuyện về các giáo sư, về học hành, về xă hội… Với đầu óc c̣n quá non dại, tôi nh́n cuộc đời cũng quá đơn giản. V́ thế, tôi cũng đi vào cái chung của mọi người là coi thường những ǵ ḿnh đang có, và hướng t́m về những cái ḿnh chưa có. Nghĩa là, trong tôi đang dần h́nh thành những suy nghĩ về cuộc sống của con người trong xă hội.

    Khi ấy, tôi nghĩ thật đơn giản. Xă hội và con người mỗi ngày mỗi tiến bộ. Vậy, một thanh niên sống trong thời đại đó, ít nhất phải có một kiến thức nhất định nào đó để hiểu biết được , ít ra là khái niệm, về tất cả lănh vực trong thời đại mà ḿnh đang sống.

    Hăy tạm thời lấy sự học vấn làm ư niệm đo lường. Những năm 50 trước đây, chỉ cần mức độ là Trung Học Đệ Nhất Cấp là tạm đủ, cho kiến thức của một con người. Nhưng, thập niên 60 phải cần có Tú Tài; chứ Trung Học Đệ Nhất Cấp đă là lạc hậu rồi, không theo kịp đà tiến triển chung của xă hội. Và tới thập niên 70, nếu không đáp ứng được yêu cầu tương đối ấy, người thanh niên sẽ không đủ kiến thức để hiểu biết, dù không cần quán triệt, những sự việc xă hội xẩy ra chung quanh ḿnh.

    Vậy, bây giờ tôi có tiền để làm ǵ, khi đầu óc tôi c̣n mơ hồ về chuyện đất nước và thế giới. Hơn nữa, con người được sinh ra trên thế giới này, phải ít nhất biết một số nơi danh tiếng của nó. Nếu không, th́ cũng sẽ chỉ sống một cuộc đời tầm thường, thiếu thốn, chưa đủ ư nghĩa của cuộc sống.

    Từ những suy nghĩ lẩm cẩm ngây thơ trên, tôi quyết định thôi hiệu vàng. Bố mẹ cũng như họ hàng, trước đây ca ngợi tôi bao nhiêu, bây giờ trách móc tôi bấy nhiêu. Tôi c̣n nghĩ rất đơn giản là, bây giờ ḿnh c̣n trẻ hăy gắng học đă, rồi phải đi đây đó để biết nhiều về thế giới này. Đến khi nào ba, bốn mươi tuổi, lúc đó lại trở về mở hiệu vàng (v́ ít ra ḿnh đă có kinh nghiệm về mở hiệu vàng rồi). Thật là những suy nghĩ ấu trĩ! Chuyện đời không đơn giản như suy nghĩ của một cậu thanh niên mới lớn.

    Sau đó, tôi đến ở Trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ, Chợ Lớn (Pavie La Mothe) và tiếp tục đi học. (Bao nhiêu kỷ niệm, bạn bè ở trại học sinh này! Sau 30 mươi năm, không biết bây giờ số phận của mỗi người như thế nào?).

    Tôi ngồi nhà học và chờ ông Cẩn măi, đă hai, ba tháng rồi mà chẳng thấy ông đến. V́ thế, tôi không c̣n tin tưởng mấy vể chuyện t́nh báo ngoại quốc. Tôi nghĩ rằng, trong khi chờ đợi, nếu Thủ Đức có trước th́ đi Thủ Đức. Nghĩa là, cái nào có trước tôi sẽ đi cái đó. Cuối 1960, tôi nhận được giấy báo trúng tuyển Thủ Đức và hẹn ngày đi khám sức khoẻ.

    Thôi, giă từ t́nh báo miền Bắc! Tôi sẽ đi theo đường binh nghiệp! Về lănh vực này, tôi cũng có một số khả năng. Sau mấy ngày đi khám sức khoẻ ở bịnh viện Cộng Ḥa, rồi đến ngày nhập trường. Hơn một tuần lễ với bao nhiêu sự việc, người mới, sinh hoạt mới của đời quân ngũ! Bỗng một hôm, tôi được gọi lên văn pḥng chỉ huy.

    Tôi vừa đi vừa băn khoăn không hiểu có chuyện ǵ. Khi tôi vừa bước chân vào cửa pḥng, tôi giật ḿnh ngạc nhiên: Ông Cẩn đang ngồi ở một chiếc ghế, đăm đăm nh́n tôi. Hôm nay, ông mặc quân phục, mang lon Đại úy. Chẳng biết ông Cẩn đă chuẩn bị trước với nơi đây như thế nào, ông dẫn tôi sang một pḥng trống. Khi tôi vửa ngồi vào ghế, ông cau có, hỏi giật giọng:

    - Sao B́nh lại đi Thủ Đức? Không thể được!

    Ông lặp đi, lặp lại hai, ba lần câu “Không thể được”.

    Tôi hơi ngượng ngùng trả lời:

    - V́ chờ ông lâu quá! Hơn nữa, tôi nghĩ rằng, tôi vào Thủ Đức th́ cũng là phục vụ dân tộc, Tổ Quốc vậy.

    Tay ông khoáng lên lia lịa, ông nói một thôi một hồi:

    - Không thể được! Không trẻ con như thế được! Thủ Đức th́ hàng trăm người có thể vào, c̣n việc này, không phải ai cũng được. B́nh có biết là từ 4 tháng nay, đă bao nhiêu người phải bận rộn về việc này không? Kế hoạch đă đặt xong, nhà cửa đă mướn, mọi việc chuẩn bị đă sẵn sàng. Trên Phủ Tổng Thống đă quyết định có lệnh lấy B́nh về bằng bất cứ giá nào.

    Tôi vô cùng bối rối, lúng túng chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi, v́ ngay trong thâm tâm tôi cũng ưa đời binh nghiệp. Cuối cùng, tôi mạnh bạo nói:

    - Thôi, hay ông để theo quân đội cũng thế!

    Ông ta mở mắt to nh́n tôi, vừa như ngạc nhiên về thái độ từ khước của tôi, vừa như bất măn khó chịu. Cuối cùng, mắt ông dịu xuống, ông nói một cách cởi mở:

    - B́nh muốn có lon à! Được, nếu B́nh muốn, về Sài G̣n sẽ có. B́nh cũng sẽ là quân đội vậy.

    Có lẽ lúc ấy ông sợ hỏng kế hoạch, sẽ bẽ mặt với câp trên, nên ông xuống nước hết ḿnh với tôi. Và, chẳng biết ông Cẩn có lệnh can thiệp như thế nào, ngay hôm đó, tôi đă phải theo ông về Sài G̣n. Tôi vội vàng từ giă mấy người bạn mới lư do “Bố sắp chết nên được phép về ngay”.

    Sau này với những năm tháng đau thương chất chồng, nhiều lúc tôi ngồi nghĩ lại, nếu lúc ấy tôi cương quyết ở lại Thủ Đức – “Lại chữ nếu quái ác” – có lẽ cuộc đời tôi sẽ thay đổi hoàn toàn trong tương lai. Sai một ly đi một dặm! Những giai đoạn đầu của cuộc đời, ở những chỗ rẽ, nếu chỉ cần xê dịch khác một chút, kết quả sau này sẽ khác nhau một trời một vực. Âu cũng là do nghiệp chướng của đời tôi.

    o0o


    (c̣n tiếp)

    Đặng Chí B́nh

  6. #6
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Thép Đen Tập I - Chương 5


    Huấn Luyện T́nh Báo …

    Ngay tối hôm đó, tôi về tới thành đô. Nh́n cảnh phố phường đầy mầu sắc, ḷng tôi vẫn vời vợi, bâng khuâng với nhiều nẻo đi của cuộc đời. Hồn tôi đang ch́m ngập trong nỗi ngơ ngác đầy vơi th́ xe ngừng lại ở một góc đường Vơ Tánh. Ông Cẩn móc túi lấy chùm ch́a khóa trao tôi, thân mật dặn ḍ:

    - Đây là ch́a khóa đă ghi sẵn số pḥng ở tầng ba, số 8 đường Nguyễn Văn Tráng.

    Trước khi chia tay ông c̣n căn dặn thêm:

    - Nhớ đừng về nhà, sáng mai tôi đến sẽ nói chuyện.

    Sau một lúc ḷ ḍ t́m kiếm, tôi đă đến được căn pḥng đó. Trong pḥng đă có sẵn một chiếc radio transitor với một số sách báo ngoại ngữ, cũng như Việt ngữ.

    Sáng hôm sau ông Cẩn đến. Nội dung những điều ông căn dặn hướng dẫn:

    - Tôi sẽ đóng vai tṛ là một sinh viên Văn Khoa, gia đ́nh tôi thuộc loại khá giả, từ Bắc di cư vào miền Trung. Tôi vào Sài G̣n trọ học. Đó là đối với tất cả người chung quanh, kể cả với người quản lư building.

    - C̣n riêng với gia đ́nh, một tháng chỉ nên về một hoặc hai lần. Nói là: Khi lên tới trường Thủ Đức, họ khám sức khoẻ lại, thấy có bệnh yếu tim, nên không thể theo học quân sự được. Hiện nay, đă chuyển sang ngành công tác xă hội, phải đi học tập một thời gian.

    - Ít đi ra phố, chỉ ra khi đi ăn cơm. Hàng ngày, sẽ có người đến huấn luyện. Chiều Thứ Bẩy và Chủ Nhật nghỉ.

    - Trong thời gian huấn luyện, mỗi tháng tôi sẽ được lănh 2500 đồng (lại cũng giống như số lương ở số 2 Jean Jacques Rousseau!).

    Thời gian đầu, chính ông Cẩn, sáng cũng như chiều, mang tài liệu sách vở đến giảng dậy cho tôi.

    Lúc đầu, ông đưa tài liệu ra giảng cho tôi về:

    * Thế nào là một tổ chức bí mật. Lănh đạo những tổ chức này, có khi do một cá nhân, một tập thể, hoặc một quốc gia.
    * Xác định bạn và thù. Những người cùng chung một công tác là bạn. Ngoài ra, tất cả là thù; kể cả bố mẹ, vợ con, anh em, bè bạn và các cơ quan khác như cảnh sát, công an, an ninh quân đội. v.v… (theo ư nghĩa ngăn cách, bí mật).

    Tôi rất ngạc nhiên về điểm này. Ông Cẩn giải thích, đại ư:

    - Về lănh vực t́nh báo trên thế giới, từ xa xưa cho tới bây giờ, biết bao sự việc lắt léo ly kỳ đă xảy ra. Trong ḥa b́nh cũng như lúc chiến tranh, có khi hai quốc gia chống nhau, hoặc có khi hai khối quốc gia chống nhau. Bên nước này, cũng như bên kia đều đầy dẫy những nhân viên t́nh báo của đối phương. Những nhân viên này, tùy theo điều kiện và nhiệm vụ, có thể ở mọi nơi, mọi lănh vực, thậm chí đôi khi c̣n nằm ngay trong chính quyền trung ương của nước sở tại. Nhiệm vụ của họ có nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng có một cái chung là t́m ṭi, nghe ngóng để biết trước được những âm mưu, ư đồ về t́nh báo của nước nọ đối với nước kia, ngơ hầu có những biện pháp thích ứng để ngăn chận, hoặc lợi dụng, có khi tiêu diệt. Vậy, điều quan trọng là người điệp viên cần phải biết những ai là nhân viên t́nh báo của đối phương, nhất là những nhân viên bí mật.

    Thời đại ngày nay là thế giới tự do và Cộng Sản. Một thí dụ:

    - Một người đang được bí mật đào tạo huấn luyện để nhận một nhiệm vụ bí mật vào đất địch, phá một công xưởng sản xuất vũ khí chẳng hạn.

    Anh này có vợ, v́ anh là t́nh báo nên đi về thất thường, nguyên tắc không được nói với vợ, nên anh này thường nói dối quanh. Người vợ càng nghi ngờ có lẽ chồng đă đi với cô này, cô nọ, cho nên đă làm cho anh ta nhiều lần khốn đốn. Anh này v́ chưa đủ ư thức về bí mật, an ninh công tác nên có ư nghĩ:

    - Tuy nguyên tắc là như thế, nhưng vợ của ḿnh, đấu gối tay ấp trọn cuộc đời với nhau, chẳng lẽ lại hại nhau, chẳng lẽ vợ ḿnh lại là Cộng Sản ư?

    Và một đêm, anh đă thú thực với vợ, không quên căn dặn vợ là tuyệt đối không được nói với bất cứ ai. Người vợ lại có một người mẹ, thỉnh thoảng nàng hay sang nhà mẹ chơi. Bà mẹ thường bảo:

    - Này, cái thằng chồng của mày độ này nó làm ăn cái ǵ mà tao thấy nó đi suốt ngày, có khi cà đêm nữa? Mày ngốc, mày không để ư theo dơi xem thế nào, biết đâu nó chẳng mèo chuột, v.v…

    Người vợ tuy đă nghe chồng dặn kỹ, nhưng lại nghĩ:

    - Mẹ đẻ ra ḿnh chứ ai, chẳng lẽ mẹ lại hại vợ chồng ḿnh? Mà mẹ ḿnh là Cộng Sản hay sao?

    Và, rồi một hôm nào đó nàng đă nói thực với mẹ, cũng không quên căn dặn mẹ: Đừng, chớ có nói chuyện này với một ai mẹ nhé!

    Bà mẹ lại có một người bạn chí thân. Trong một lần nào đó, bà bạn hỏi thăm về thằng con rể của bà bạn ḿnh. Bà mẹ không được học về nguyên tắc bí mật, nên muốn khoe với bà bạn thân:

    - Ấy, chẳng hiểu nó làm cái ǵ bí mật lắm, ở măi trên Phủ Tổng Thống cơ! v.v…

    Bà bạn chí thân này lại có chồng, có con thân mật ruột thịt khác. Cứ như thế, đến lúc nào đó, t́nh báo của đối phương sẽ đánh hơi thấy (cái này nó thính lắm) truy nguyên ra được tông tích và hành tung của anh chàng không kín miệng. Nếu anh đó, dùng bất cứ h́nh thức nào để xâm nhập đất địch, nếu không hai năm mươi th́ cũng vào trong ấp mà nằm.

    Như vậy, nguyên nhân v́ đâu mà anh ta bị như thế? Rơ ràng, xuất phát từ vấn đề người vợ, khiến anh ta đă thất bại.

    Hơn nữa, người ta đánh giá một công tác, thường chỉ căn cứ vào thành công hay thất bại mà thôi. C̣n nguyên nhân tại sao, lư do thế nào, xét sau. Bất kể nguyên nhân ra sao, do đối phương ngăn chận không thể thực hiện được công tác, hoặc tư tưởng của nhân viên muốn lẩn trốn không dám thi hành công tác, v.v… dù nguyên nhân khách quan hay chủ quan th́ cũng dẫn đến chung một kết quả là công tác đó bị thất bại, không thực hiện được.

    Qua thí dụ trên, về một khía cạnh nào đó, người vợ cũng như là một kẻ thù, một đối phương vậy.

    Từ những vấn đề tŕnh bày ở trên, tôi nhớ lại trước đây khi xem những phim t́nh báo gián điệp của Thế Chiến I và II, những tiểu thuyết t́nh báo trong đó có Z 28 chẳng hạn. v.v… Tôi cho rằng những điệp viên quái kiệt đă được đào tạo ở những trường điệp báo khét tiếng như: Hắc Long, Intelligent Service, Gestapo, CIA hay KGB, v,v… đều bắn các loại súng như máy, cưỡi ngựa như gió, sử dụng máy bay, xe hơi một cách điêu luyện tinh vi. Tôi thật ấu trĩ! Từ những nguyên tắc bí mật và ngăn cách, chẳng có một trường nào công khai đào tạo điệp viên cả. Nếu có một trường như vậy, chẳng khác ǵ những điệp viên ấy đă tự tŕnh bầy với đối phương, thưa các ông: “Chúng tôi đang ở trong bụi rậm này!”. Cho nên thực tế, có nhiều vấn đề chẳng giống như tiểu thuyết và phim ảnh.

    Trở lại Ngọc Cẩn. Sau đó, tôi tiếp tục được giảng dạy nghiên cứu và mổ xẻ các loại nhân viên: Nhân viên giữ nhà an toàn, nhân viên trung gian, nhân viên đi hoạt động bí mật, nhân viên liên lạc, nhân viên công khai và bán công khai, nhân viên nhị trùng hay hai mang, v.v…

    Trong khoảng bốn tháng, ông Cẩn đến với tôi hàng ngày như vậy. Tôi nhớ một hôm, vào cuối tháng 4 – 1960, ông Cẩn vào pḥng tôi với một người nữa. Ông này cao, lớn con, đầy phong độ. Ông Cẩn quay lại tôi, rồi nh́n về phía người cao lớn vừa như dặn ḍ bàn giao, vừa như giới thiệu:

    - Tôi bận một số công tác đặc biệt khác, nên đây là ông Phan, Ông cũng như tôi, người của Cục, ông sẽ thay tôi phụ trách B́nh. Tôi bắt tay và nh́n ông Phan. Ngay từ buổi đầu, chỉ vài câu chuyện trao đổi, tôi đă thấy ông dễ mến v́ thái độ cởi mở. Qua tiếng nói, tôi hiểu ông là người miền Nam.

    Sau đó, ông Cẩn thân mật bắt tay từ giă chúng tôi.

    C̣n lại một ḿnh ông Phan và tôi. Qua ánh mắt và nét mặt, ông nh́n tôi như muốn trao cho tôi nhiều thiện cảm. Đúng như tôi nhận xét về ông từ lúc đầu, ông Phan thật xuề x̣a và tỏ ra là một người rất phóng khoáng. Nghe ông nói chuyện, tôi có cảm tưởng như đă quen ông thân mật từ lâu rồi.

    Ông Phan đến tủ sách của tôi, lật xem vài quyển, rồi quay lại nói:

    - Từ nay, tôi sẽ tiếp tục đào tạo và huấn luyện B́nh.

    Rồi ông quay hẳn lại, đến bàn ngồi trước mặt tôi, giọng đầy gần gũi, thân mật:

    - B́nh có biết không? Trong Cục tôi nghe nói, B́nh là một nhân viên mới có nhiều khả năng, tôi đă t́m mọi cách để xem hồ sơ của B́nh, mặc dù theo nguyên tắc ngăn cách th́ thật khó. Tôi thấy rằng, nếu trao cho B́nh một công tác khác th́ hơn. B́nh làm công tác này hơi…phí.

    (Phải nói, lúc đó tôi không hiểu câu nói này của Phan, măi về sau, khi ra miền Bắc rồi tôi mới hiểu) Phan nói tiếp:

    - V́ thế, trong những ngày tới, tôi sẽ bàn với B́nh sau. Bây giờ, B́nh hăy tiếp tục học hành, nghiên cứu. Nhưng, ở đây lâu không tiện. Vậy ngày mai, tôi sẽ đem xe đến chuyển B́nh về Kỳ Đồng.

    Về building Kỳ Đồng, tôi tiếp tục học các môn:

    - Các loại chữ bí mật.
    - Cách viết thư bí mật.
    - Mật mă.
    - An ninh cá nhân và công tác.
    - Hộp thư sống, chết.
    - Hội kiến.
    - Vỏ học.
    - Tuyên truyền, phản tuyên truyền.
    - Cách lấy tin tức, moi tin.
    - Ngăn cách.
    - Đánh giá nguồn tin.

    Mỗi môn đều phải nghiên cứu, mổ xẻ từng chi tiết lắt léo nhất, đồng thời thực tập nhiều lần. Phan cũng thử thách tôi liên tục, lợi dụng mọi hoàn cảnh, điều kiện để biết rơ về khà năng cũng như khuyết điểm của tôi.

    Càng ngày, Phan càng có thiện cảm với tôi hơn, thường gọi “toa” xưng “moa”. Có những buổi sau giờ học, Phan và tôi bên nhau chuyện tṛ tâm t́nh. Từ đấy, tôi biết được ít nhiều về Phan. Phan đă có 15 năm nghiệp vụ t́nh báo. Trước đây, Phan đă ở Pḥng Nh́ của Pháp nhiều năm. Theo Phan nói, 1952, Phan đă bị Cộng Sản ám sát ở Cân Thơ. Tên Cộng Sản đặc công bắn Phan từ khoảng cách 25 mét nhưng rất chính xác. Y đă ghim viên đạn vào ngực phía trái, chỗ trái tim của Phan. Phan có vạch ngực cho tôi xem vết sẹo. Phan may mắn thoát chết là do hộp thuốc lá bằng kim loại đắt tiền ở túi áo ngực. Dù vậy, viên đạn cũng găm vào ngực Phan, tuy không vào sâu. Tất nhiên, tên Cộng Sản đó bị bắt. Rồi, tính quân tử và ḷng hào hiệp của Phan đă lôi cuốn được trái tim của tên Cộng Sản ấy. Chính Phan đă bảo đảm và lănh tên đó từ trong tù ra. Cho tới khi Phan đến huấn luyện cho tôi, tên đó vẫn là tay chân đắc lực của Phan.

    Theo nguyên tắc, Phan không được kể những chuyện như vậy với tôi, nhất là về đời tư của ḿnh. Nhưng, v́ Phan là người cởi mở, và là người Nam, nên nói chung đă không quá kín đáo như người Trung hay Bắc.

    Một buổi vào đầu tháng 10 – 1960, Phan đến nói với tôi:

    - Hiện nay trong vùng bưng biền, tụi Cộng Sản đang chuẩn bị thành lập một “mặt trận”, rồi có thể sẽ tiến tới thành lập một chính phủ lâm thời. Do đấy, tôi muốn chuẩn bị cho B́nh đóng vai là một sinh viên bất măn với chế độ gia đ́nh trị Ngô Đ́nh Diệm. Một mặt B́nh sẽ tiếp tục đi học ở trong trường, lớp, B́nh sẽ tổ chức ra một số vụ chống đối, để dẫn bắt mối với một sớ phần tử thực của Cộng Sản ở trong sinh viên và học sinh. Mặt khác, chính quyền sẽ tạo nên một cú bao vây, rượt bắt. B́nh sẽ nhân thế đó, chạy vào bưng, v.v…

    Sau khi nói xong, Phan hỏi ư kiến tôi.

    Tôi hiểu, nói chung, vào “vùng giải phóng” th́ ít nguy hiểm hơn ra ngoài Bắc. Nhưng đối với tôi, vấn đề nguy hiểm nhiều hay ít không phải là điều đầu tiên tôi quan tâm. Điều tôi nghĩ đến trước hết là công tác ấy có hào hứng và kỳ thú hay không. V́ thế, tôi chậm răi trả lời:

    - Tùy sự quyết định ở trên.

    Có thể Phan thấy sự trả lời của tôi không dứt khoát, hoặc có những tính toán thay đổi trong Cục, hay t́nh h́nh diễn biến có khác; những ngày sau đó, không thấy Phan nhắc nhở ǵ về vấn đề vào bưng nữa.

    Hàng ngày, Phan vẫn đến tiếp tục giảng dậy cho tôi. Một thời gian sau, tôi lại được chuyển về building ông Thọ.

    Một mặt, tôi vẫn theo học, mặt khác, tôi xem lại bài vở nộp đơn thi Tú Tài I. Chính Phan cũng khuyến khích tôi.

    Một hôm, Phan dẫn đến hai người Mỹ, giới thiệu tên là Brown và Dale, để huấn luyện thêm một số môn khác. Cả hai đều mặc thường phục, ông Brown đeo kính trắng. Tuy mỗi người dạy những môn khác nhau, nhưng hai người hay thường xuyên đi cùng.

    Thế là từ đấy ba người, Phan Brown và Dale liên tục giảng dạy cho tôi về các môn:

    - Phương pháp tổ chức.
    - Điện đài.
    - Theo dơi và chống theo dơi.
    - Phương pháp tuyển mộ.
    - Huấn luyện, đào tạo nhân viên.
    - Vũ khí, ḿn.
    - Tự mưu sinh (núi, rừng, biển).
    - Phân tách tâm lư, khả năng từng dạng người trong xă hội.
    - Phương pháp h́nh thành một mạng lưới hoạt động bí mật.

    Thời gian này thực vất vả. Lư thuyết rồi thực hành. Tiếng Anh của tôi viết hay đọc th́ c̣n được chút ít, nghe và nói th́ thật là cập quạng, nên Phan thường xuyên phải thông dịch v́ có rất nhiều từ chuyên môn.

    Một điều thật phấn chấn cho tôi, kỳ thi Tú Tài phần I năm đó tôi lại đậu. V́ thế, Phan và hai người Mỹ dự tính một công tác dài hạn rất chi tiết để tôi vào miền Bắc hoạt động. Nội dung, kế hoạch tổng quát:

    Cộng Sản miền Bắc thường ve văn, mồi chài, lôi kéo những sinh viên du học tốt nghiệp ở ngoại quốc về miền Bắc xă hội chủ nghĩa để xây dựng (!) đất nước, tổ quốc, v.v…

    Do đấy, tôi sẽ nhận một học bổng đi du học Hồng Kông, hay Tân Gia Ba về Điện hay Hóa theo năng khiếu của tôi. Khi tốt nghiệp rồi, Cộng Sản sẽ t́m đến. Lúc ấy, tùy theo hoàn cảnh thích ứng mà theo họ về miền Bắc; rồi từ đấy, sẽ bí mật hoạt động cho Sài G̣n.

    Tôi thấy công tác này quá lâu dài, có khi hàng chục năm, cho nên tôi không tỏ ư thích lắm, tôi cũng nói thẳng ư nghĩ đó với Phan. Thực ra, lúc đó tôi không biết, hoặc cũng chẳng chú ư đến việc lợi dụng cơ hội để đi du học trước đă, để dù có thế nào th́ cũng có một mảnh bằng. Phan thấy thái độ ơ hờ của tôi như vậy nên lại thôi.

    o0o


    (C̣n tiếp)

    Đặng Chí B́nh

  7. #7
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858
    Thép Đen: Tập I - Chương 6


    Công Tác “Columbus” …

    Thời gian trôi qua, thấm thoát đă lại tới tháng Tám, cái tháng của Sài G̣n nắng thật nhiều. Tôi lại được chuyển về số 62 đường Trần Hưng Đạo.

    Đây là một pḥng rất rộng, có hai buồng, với đầy đủ tiện nghi của một khu có nhiều người ngoại quốc ở. Như vậy mới tạo vẻ b́nh thường, khi có những người Mỹ thường xuyên ra vào pḥng của tôi.

    Thời gian này, vừa tiếp tục đào tạo huấn luyện tôi, vừa chuẩn bị kế hoạch công tác tung ra Hà Nội.

    Công tác trực tiếp ra Hà Nội:

    Bí danh công tác: COLUMBUS
    Bí danh từ khi tôi vào ngành: X20.
    Thời hạn: 25 ngày (công tác ngắn hạn).
    Nội dung:

    Chính:

    1. Tài liệu X cho Z5 (Hoàng Đ́nh Thọ).
    2. Tài liệu M cho … (theo quy ước).
    3. Mang 3 tâm thư bằng máu của Linh Mục Hoàng Quỳnh cho các linh mục A, B, C.
    4. Tuyển mộ huấn luyện.

    Phụ:

    Theo dơi với khả năng và điều kiện tối đa những hiện tượng:

    6 Cầu Gỗ, 1 Đường Thành, 27 Hàng Đường.
    MIG 15, 19 – Về chính trị, văn hóa, kinh tế, quân sự.
    Tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội v.v…

    Vỏ bọc:

    Học sinh lớp 10 Phổ Thông Vĩnh Linh, đau tim ra Hà Nội chữa bệnh.
    Buôn lậu.
    Mang thư của Sư Bà Đàm Hướng chùa Phước Hải về sư Tuệ Chiếu với Thẩm Hoàng Tín.
    Theo dơi Sư Đoàn 308, pḥng thủ Thủ Đô Hà Nội do Thiếu Tướng Vương Thừa Vũ làm sư trưởng.

    Giai đoạn chuẩn bị:

    - Một kế hoạch nghiên cứu tỉ mỉ thấu đáo, pḥng hờ mọi t́nh huống, suốt hơn một năm trường cho tới tháng 4/1962.
    - Hết thực tập lại nghiên cứu. Brown, Dale, Phan và tôi thường xuyên làm việc, theo phương châm: Càng học tập, nghiên cứu kỹ lưỡng trong “giai đoạn chuẩn bị” th́ đường vào đất địch càng rộng, càng bằng phẳng.

    Chi tiết toàn bộ công tác:

    Bí danh X20 (ngay khi là nhân viên chính thức của Cục họ đă đặt b́ danh cho tôi là X20, và bây giờ, trong công tác COLUMBUS, vẫn duy tŕ bí danh đó).

    Nhiệm vụ chính:

    1- Tài liệu X cho Z5 Hoàng Đ́nh Thọ.

    V́ là đích danh, nên tôi đă được cầm tấm h́nh bán thân (4×6) của ông Thọ một tuần lễ, thỉnh thoảng lấy ra xem cho quen mặt và ghi dần vào tiềm thức của tôi.

    Theo tin tức của Cục cho: Lúc đó, Hoàng Đ́nh Thọ là bác sĩ Nội Khoa bệnh viện Phủ Doăn cũ (bây giờ đổi lại là Việt Đức).

    Khi về tới Hà Nội, có giấy giới thiệu để khám bệnh tim. T́m thời cơ thuận tiện để trao “tài liệu X” cho Thọ.

    Mật khẩu: “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi”. Đúng 12 chữ.

    Trả lời: “Tôi chỉ chữa tim nhịp đập một trăm ba mươi”. Đúng 10 chữ.

    Tài liệu X: Bọc ny lông đen, dầy 2 ly, dài 4 phân rưỡi, rộng 2 phân. Kín, không thấm nước. Tôi không được phép biết ǵ về tài liệu này.

    Nếu Hoàng Đ́nh Thọ không c̣n làm ở bệnh viện Việt Đức. Hủy tài liệu ngay.

    2- Tài liệu M theo quy ước.

    Giờ và ngày quy định:

    Từ 8 giờ đến 10 giờ sáng (2 tiếng).
    Ngày 16 và 18 (pḥng hờ nếu trục trặc ngày16 th́ ngày18).

    Địa điểm: Trên cầu Thê Húc (cầu bằng gỗ) của đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm.

    Tôi quần xanh, áo trắng xắn tay, đi dép Thái Lan, đội mũ xanh công nhân. Tay cầm tờ báo Quân Đội Nhân Dân.

    Đối tượng: (Bất cứ ai) mặc quần ka-ki xám, áo nâu, dép B́nh Trị Thiên (dép râu). Tay cầm 3 quyển vở học tṛ.

    - Khi tôi nh́n thấy bất cứ ai vào giờ ấy, ngày ấy, trên cầu Thê Húc. Chờ người ấy nh́n thấy, tôi đang cầm tờ báo gấp đôi, bây giờ tôi gấp thành tám.

    - Người ấy trả lời bằng cách: Chuyển 3 quyển vở từ tay này sang tay kia. (Luôn luôn ở cách xa ít nhất 10 mét). Sau đó, tôi cứ đi, chính tôi phải chủ động t́m một địa điểm thuận tiện như công viên chẳng hạn. T́m ghế đá, hoặc chỗ ngồi nào đó để đối tượng, từ xa 50 mét trở lên, có thể dễ dàng quan sát được tôi.

    Tôi sẽ ngồi b́nh thường ở một cái ghế xi măng nào đó. Mở báo xem, che trên hai đùi, rồi (tùy cơ ứng biến) chờ đối tượng nh́n thấy. Găi khuỷu tay, tuy găi nhưng một ngón tay chỉ thẳng vào chỗ bỏ tài liệu. “Găi” là dấu hiệu đă bỏ tài liệu, bây giờ là chỉ chỗ.

    Khi thấy đối tượng “găi đầu”, tức là đối tượng đă nh́n thấy. Chừng 5, 10 phút sau, với một thái độ b́nh thường, tự nhiên đứng dậy đi (nếu có đuôi, dẫn đuôi đi). Nhưng phải kín đáo, dùng phương pháp nghiệp vụ quan sát, kiểm tra khi đối tượng lại lấy tài liệu. Chỗ để tài liệu tùy theo cái kẹt hay cái góc nào mà người ta vô t́nh không thể nh́n thấy nhưng phải tạo thuận tiện cho người ấy.

    Tài liệu M:

    Bọc ny lông nâu, dầy 3 ly, dài 4 phân, rộng 3 phân; kín, không thấm nước. Cũng như tài liệu X, tôi không được phép biết ǵ về tài liệu này.

    Về mục tài liệu M này, tôi phải nhắc đi nhắc lại. Học thuộc ḷng những mật khẩu, và những quy ước phải thực tập nhiều lần. Bây giờ đă 23 năm rồi, tôi vẫn c̣n nhớ.

    Tôi nhớ thời gian này, những lúc tâm sự hoặc đi chơi với Phan (theo đúng nguyên tắc, tôi không bao giờ được đi với Phan ngoài phố, v́ Phan đă bị lộ, là một cán bộ của cơ quan t́nh báo miền Nam, tôi mà đi với Phan th́ cũng gần như bị lộ). Lúc đó, tôi là một thanh niên mới vào nghề, làm sao tôi có ư thức quán thấu mọi mặt, vậy lỗi này do Phan). Phan nói, trong cơ quan hiện nay, đang h́nh thành hai phe:

    a) Gồm Cục Trưởng và đa số: Quan niệm t́nh báo theo lối cổ, bào thủ, rập theo nguyên tắc cứng ngắc. Thí dụ: Sai một người đi chợ mua một kư táo chẳng hạn. Phải dặn: Lấy xe đạp đi, lúc đi phải đi sát lề phía phải đường đi, phải đi từ từ, chú ư xe cộ ở ngă ba, ngă tư, khi quẹo, nhớ phải giơ tay làm hiệu. Khi đến chợ, khóa xe thế nào, gửi ở đâu, vào chợ th́ mua loại táo nào, mặc cả ra sao, cách thức chọn táo; cũng như trên đường vể v.v…

    b) Gồm Cục Phó và một số ít người, trong đó có Phan là người điển h́nh. Quan niệm, t́nh báo phải sống động linh hoạt, khích lệ cho nhân viên có óc sáng tạo, bén nhậy trong mọi t́nh huống. Cũng là sai một người ra chợ mua một kư táo, chỉ cần dặn: Nhớ mua, mặc cả táo ngon, đi đường phải cẩn thận. Nhưng, với khả năng khôn khéo sẵn có của anh, tôi tin rằng anh sẽ mua được táo ngon và rẻ.

    Theo tôi nghe và nhận định: Tuy tôi chẳng phải là loại người ba phải, tôi thấy cả hai quan niệm trên đều có cái ưu và khuyết. Vậy cần trộn lẫn, rồi nhặt những cái ưu ra dùng, không cần biết của phe nào cả. Đó cũng chỉ là ư nghĩ của tôi, chứ không dám phát biểu với Phan. Tôi chỉ hỏi: Vậy hiện nay, kết quả phe nào có ưu thế? Phan nói: Thực tế bây giờ đánh giá bằng những kết quả của công tác; theo lối cổ điển th́ thành công nhiều hay ngược lại, từ đấy phe này sẽ phải theo phe kia.

    Do quan niệm trên, Phan nhiều lần giảng dậy cho tôi rất phiến diện, hời hợt. V́ thế, nhiều vấn đề tôi cần sáng tỏ, rơ ràng th́ lại phải yêu cầu.

    Chẳng bù với Ngọc Cẩn, hoặc sau này là Hoàng Công An, lại quá ư chi tiết, nhàm chán, đôi khi thành lẩn thẩn. Riêng Brown và Dale, th́ tôi hiểu là của CIA, tuy tôi chưa hiểu lắm, v́ tŕnh độ Anh văn của tôi. Nhưng qua một số hiện tượng, phong cách, thái độ của họ, tôi thừa nhận họ có nhiều cái đúng. Nghĩa là, cái nào họ cần chi tiết, th́ rất tỉ mỉ từng ngóc ngách một, đoạn nào không cần thiết th́ họ cũng phiến diện, khái quát.

    Trong thời gian học tập và chuẩn bị công tác này, tôi được cung cấp một radio transitor với cả ống nghe. Tôi được toàn quyền nghe đài miền Bắc, và có rất nhiều sách báo của miền Bắc gồm đủ loại: Tuần báo, nguyệt san, nhật báo, sách vở v.v… Mục đích là để tôi quen sự sinh hoạt, cũng như ngôn từ của Cộng Sản miền Bắc.

    Vào khoảng tháng 9/1961, một hôm Phan dẫn một người đeo kính trắng đến giới thiệu là ông Hoàng Công An. V́ Phan có một số công tác đặc biệt không ở Sài G̣n, nên ông An sẽ thay Phan phụ trách tôi. Ông An là người miền Trung.

    Qua sự huấn luyện và học tập, và kinh nghiệm từ số 2 Jean Jacques Rousseau, tôi đă hiểu đầy đủ về sự ṭ ṃ t́m hiểu những điều ḿnh không cần biết, một nguyên tắc ngay trong cuộc sống, thường thường đă là không tốt rồi và bất lợi rồi. V́ vậy, ngay những người đến giảng dạy huấn luyện cho tôi gần 2 năm trời, tôi chẳng, hoặc không cần biết tên thật của họ, chức vụ của họ. Họ ở đâu đến, xong họ đi đâu, tôi không biết.

    3) Mang 3 tâm thư của Linh Mục Hoàng Quỳnh.

    Đây là một vấn đề phức tạp và nghiêm trọng. Nó có liên quan ảnh hưởng đến toàn bộ Thiên Chúa Giáo miền Bắc. Có lẽ v́ vậy mà Cục đưa Hoàng Công An, một tu sĩ gần thành linh mục, đến phụ trách tôi.

    Nội dung: Tôi sẽ mang tâm thư của cha Hoàng Quỳnh cho:

    - Linh Mục A ở nhà thờ X (Hà Nội).

    - Linh Mục B ở nhà thờ Y (Hà Nội).

    - Linh Mục C cũng ở nhà thờ Y (Hà Nội).

    Tôi đă được xem 3 bản giấy đánh máy, nói rơ về thân thế đặc tính của từng linh mục trên, kèm theo 3 tấm h́nh bán thân (4×6).

    a) Linh Mục A.

    Đă có bằng tiến sĩ ở Pháp. Tháo vát, cương quyết, tinh thần chống Cộng Sản rất cao. Có nhiều thành tích và uy tín với giáo dân. Lời hẹn ước xưa với cha Quỳnh. Do t́nh trạng thiếu linh mục nên Linh Mục A c̣n phải phụ trách thêm Phúc Xá Thượng và Phúc Xá Hạ nữa.

    Yêu cầu của cấp trên nói rơ:

    Sau khi Cha A xem xong thư của Cha Quỳnh, đồng ư tự nguyện hoạt động cho thế giới tự do, điều đó là thành công nhất. Khi đó, tôi sẽ nằm luôn tại nhà xứ trong một nơi an toàn, theo sự sắp xếp của Cha A. Hàng ngày, chính tôi sẽ huấn luyện cho người những nét chính yếu, cơ bản về hoạt đống t́nh báo. Trong ṿng 10 ngày, phải xác minh được tinh thần, năng khiếu, hoàn cảnh, điều kiện của người. Giao mật khẩu và mật vật là nửa đồng bạc 1 đồng miền Bắc xé đôi: một nửa giao cho người, một nửa tôi sẽ mang về miền Nam. Sau này, bất cứ thời gian nào đó, hoặc nơi chốn nào, có một người nào đó, đến gặp Cha, nói đúng mật khẩu và đưa mật vật, người đó chính là đại diện của Sài G̣n, và sẽ cung cấp những nhu cầu cần thiết cũng như nhiệm vụ cho Cha.

    Nếu v́ một lư do nào đó, Cha vẫn có tinh thần chống Cộng Sản, nhưng lại không đồng ư hoạt động trực tiếp cho Sài G̣n, yêu cầu Cha giới thiệu người tin cẩn, thân tín nhất, có khả năng và tinh thần. Lúc đó, tôi sẽ trực tiếp gặp riêng, rồi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của người đó, sẽ quyết định nơi huấn luyện. Nếu không có điều kiện thuận lợi, yêu cầu Cha giúp đỡ rồi cũng bí mật nằm im 10 ngày để huấn luyện.

    Tuyển mộ nhân viên: Không phân biệt tuổi tác, thành phần, nữ hay nam, nếu là người của chính quyền địch th́ càng tốt. T́m hiểu kỹ thân thế, quan hệ họ hàng, hoàn cảnh, điều kiện sống của người nhân viên mới đó. Cân nhắc xác đáng, phù hợp để cho họ hai địa chỉ ở Pháp và Campuchia để liên lạc.

    Địa chỉ ở Pháp: Paul Lạng, 14 rue du Four, Paris 6è, France. Cung cấp cho nhân viên đó rơ thực tế: Paul Lạng, 42 tuổi. Pháp lai có vợ là Marie Nguyễn cũng là Pháp lai. Trước năm 1954 ở Sài g̣n. Đầu năm 1954 cùng vợ và 5 con gái về Pháp trên chuyến tàu Espérance. Hiện y đang làm chủ một hiệu giặt ủi máy lớn ở cùng địa chỉ.

    Địa chỉ ở Kamphuchea (tên và địa chỉ đánh máy thiếu)… Phnom Penh, 28 tuổi là nhân viên làm trong maternité. Vợ là người miền Nam, quốc tịch Kampuchea, có đứa con trai 4 tuổi.

    Lư do phải tương đối hợp lư về quan hệ họ hàng cũng như quan hệ xă hội để nhân viên mới đó giao thiệp thư từ với 2 địa chỉ nói trên: có thể là anh em chú bác bạn bè v.v…. thỉnh thoảng vẫn thư từ thăm hỏi sức khoẻ của nhau từ trước. Có thư từ giao thiêp một thời gian sau đó lẫn vào những lá thư sẽ có những câu hỏi an ninh thí dụ như:

    1) Anh dạo này có khoẻ không? – Trả lời vẫn khoẻ, là bị theo dơi. Trả lời ốm bịnh là vẫn b́nh thường, không ai theo dơi cả.

    2) Anh có ước mong có tiền để mua một chiếc xe đạp mới không? – Trả lời không thích tự do.

    3) Anh có thích nhạc Phạm Duy không? – Không thích là bị theo dơi. Thích nghe là tự do.

    4) Anh thích ăn thịt gà không? – Trả lời thích là bị theo dơi. Không thích là tự do.

    5) Người dân dưới chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa, sống có thoải mái không? Thoải mái là bị theo dơi. Không thoải mái là tự do.

    Ngoài ra, c̣n hai quy định nữa trong những thư viết cho hai địa chỉ trên để báo cho Sài G̣n biết là ḿnh đang bị công an cưỡng bức ngồi viết thư:

    1) Đầu lá thư viết ngày tháng, nếu không để chữ “Ngày” là bị theo dơi. Thí dụ: 20-10-1963: Bị theo dơi. Ngày 20-10-1963: Không bị theo dơi.

    2) Tuy có viết ngày hay không, mà dưới niên hiệu năm không có “dấu chấm” là bị theo dơi. Có “dấu chấm” là tự do. Thí dụ: 20-10-1963: Bị theo dơi; 20-10-1963.: Tự do.

    Bắt nhân viên đó học thuộc ḷng. Cần nhớ nguyên tắc 5 câu hỏi trên là: Hợp lư: Bị theo dơi. Không hợp lư: Tự do.

    Bởi v́, nếu không có ai để ư theo dơi, hoặc ngồi trong pḥng: Công an dí súng bắt viết báo cho Sài G̣n, th́ viết ngược cũng không thành vấn đề.

    Quy ước có hàng ngh́n kiểu, chỉ có trời biết, nhưng với điều kiện phải nhớ, không được lẫn lộn.

    b) Linh Mục B.

    Là một người rất trầm tĩnh, ít nói. Làm việc hết khả năng, dù gặp trở ngại cũng t́m mọi cách để hoàn thành công việc. Có óc tổ chức. C̣n nặng về tôn giáo hơn xă hội. Theo Cục cho biết cha B vẫn ở trong nhà thờ Y.

    c) Linh Mục C.

    Cũng ở nhà thờ Y, Hà Nội. Cha năm nay đă già. Tuy vậy, tinh thần của ông rất cao. Ông rất có uy tín với giáo dân Hà Nội, cũng như hàng giáo phẩm Việt Nam.

    Theo ư của Cục:

    - Cần nhất là Linh Mục A. Nếu v́ lư do nào đó mà người không c̣n ở nhà thờ X; hoặclư do nào khác mà người từ chối th́ hăy tới Linh Mục B.

    Nếu v́ lư do nào đó mà không thể được Linh Mục B, th́ mới tới Linh Mục C.

    Theo Hoàng Công An cho biết. Ba linh mục trên, không những cùng hàng giáo phẩm thờ Chúa, chăn chiên như Linh Mục Hoàng Quỳnh, mà c̣n là những người thân, những đồng chí đă có nhiều hẹn ước khi cha Hoàng Quỳnh từ giă theo đàn chiên di cư vào Nam. Tuy vậy, đă 8 năm rồi, dưới chế độ Cộng Sản tàn bạo, chẳng hiểu tinh thần của các người bây giờ thế nào. Hơn nữa, sức khoẻ cũng là một vấn để đối với ba linh mục kể trên.

    Riêng tôi, tôi đă suy nghĩ nhiều: Tôi thấy và hiểu rằng công tác này quá nặng nề và nghiêm trọng, đ̣i hỏi phải một người có khả năng 10 mà tôi chỉ có 2, nghĩa là không có trâu th́ phải bắt nghé đi cầy. V́ thế, tôi đă mạnh dạn nói ư này với An.

    An nói:

    - Trên Cục đă nghiên cứu về vấn, đề này rất kỹ, nhất là về tôn giáo. Không phải ai cũng giao được công tác này, bởi v́, nếu thất bại, Cộng Sản sẽ lấy đó để hạ uy tín của Công Giáo và tăng cường ḱm kẹp giáo dân cũng như các hàng giáo phẩm hơn nữa. Không những thế, công tác c̣n đ̣i hỏi rất nhiều mặt, nhất là địa bàn hoạt động lại là thủ đô của Cộng Sản. B́nh yên tâm, Cục đă cân nhắc, t́m ṭi nhiều, cuối cùng mới quyết định B́nh đấy chứ.

    Dù An nói sao, tôi vẫn tự nghĩ thầm. Những người đầy đủ khả năng th́ không ai dám đi, v́ đầy nguy hiểm, chết chóc trước mắt. V́ thế, trong số những người liều bất tử, dù không đủ yêu cầu th́ cũng đành chọn vậy.

    Tuy trong ḷng tôi đầy vơi nghĩ suy như vậy. Nhưng nh́n lại, thế của tôi đă ngồi lên lưng cọp rồi. Quan điểm của tôi là đă trót ngồi lên lưng ông Ba Mươi, phải thúc gót thêm cho ông phóng mạnh, rồi muốn ra sao th́ ra.

    Một hôm, Hoàng Công An đến nói với tôi: Theo ư cha Hoàng Quỳnh, trước khi người viết thư, người yêu cầu được gặp chính người lănh sứ mạng đặc biệt đó ra Hà Nội. Cục đă chấp nhận. Vậy, sáng mai, 9 giờ tôi đến, chúng ta cùng đi.

    Tôi hỏi đi đâu, có xa không?

    An nói:

    - Ở xứ B́nh An, bên B́nh Xuyên.

    Tôi nhớ lại ngày xưa, ngày tôi c̣n là cậu bé, cha Hoàng Quỳnh là trưởng đoàn vơ: Đinh Bộ Lĩnh mà tôi là một vơ sinh tí hon theo đoàn đi các nơi biểu diễn những bài song kiếm hoặc Mai Hoa Quyền trêm một vơ đài. Chắc giờ đây tôi có nói ra th́ cha mới nhớ được, v́ tôi lúc này đă lớn rồi. Bởi thế, tôi đă định, nếu khi gặp, cha không nhận ra th́ tôi cũng không nhắc lại.

    Hôm sau An đến, chúng tôi cùng đi xe tới xứ B́nh An. Tôi và An ngồi chờ cha ờ pḥng khách. Một lát sau, cha ra. Ôi, mới hơn 10 năm trời mà khi tôi nh́n thấy người, tôi rất ngỡ ngàng. Da mặt người đă nhăn nheo, tóc người đă điểm sương. Chỉ c̣n dáng dấp quen thuộc, nhanh nhẹn của người th́ vẫn như ngày nào.

    Hơn một giờ chuyện tṛ, Cha thường nh́n tôi, nói: “Dũng cảm nhỉ!”. Lúc tiễn An và tôi ra cổng, cha nói:

    - Cha rất cảm phục con. Trước ngày con đi, cha muốn ăn cơm với con một bữa, để thỏa ḷng cha, gọi là trách nhiệm của một người tiễn đưa một tráng sĩ mang tinh thần oanh liệt của Phạm Hồng Thái, con có đồng ư không?

    Tôi không dám trả lời và nh́n sang An. An nói:

    - Con xin lĩnh ư cha. Con về xin ư kiến, rồi sẽ gọi điện thoại đến cha ngay.

    Trên đường về, An nói:

    - Chưa chắc cấp trên đă đồng ư, v́ B́nh c̣n nhiều việc lắm.

    Tôi biết uy tín của cha Quỳnh không phải là nhỏ. Người đă làm cho Hồ Chí Minh bẽ mặt một lần, khi người c̣n là phó chủ tịch Mặt Trận “Liên Tôn Diệt Cộng” hiển hách năm nào ở ngoài Bắc, mà sư Tuệ Chiếu là chủ tịch; cái thời cáo Hồ c̣n bịp bợm ve văn, mua chuộc, quỳ gối trước Đức Cha Lê Hữu Từ xin chịu rửa tội nhập đạo.

    4. Tuyển mộ huấn luyện:

    Nếu do ḷng nhiệt t́nh và ư thức dân tộc nên các cha đồng ư, tối sẽ huấn luyện. Nếu không, xin các cha giới thiệu những người tin cẩn và thân tín, lúc đó, chính tôi sẽ tuyển mộ và huấn luyện họ. Đối với tôi, điều này không khó khăn ǵ lắm. Ban đầu, chỉ cần nói những nét cơ bản về nghiệp vụ. Điều khó khăn là t́m biết được khả năng và bản tính của mỗi người, phát hiện ngay được cái ưu, cái khuyết của họ.

    Tuy tôi cũng đă được học tập gần 2 năm, Dale, Brown và An vẫn nhấn mạnh:

    - Bản tính con người ta vô cùng phức tạp, có rất nhiều vấn đề khác biệt. Nhưng nói chung, con người gồm ba loại:

    a) Loại bộp chộp, ruột để ngoài da. Vui, buồn hay có vấn đề ǵ, chung quanh ai cũng biết. Loại ngựi này ta ít phải quan tâm.

    b) Loại thâm trầm, ít nói. Họ ghét hay họ yêu ḿnh, họ đồng ư hay không đồng ư việc ḿnh làm, thái độ của họ không thay đổi. Loại người này, khi sống gần, ta phải luôn luôn cảnh giác, giữ ư và coi chừng. Nếu họ bắt đầu có hành động hay thái độ ǵ không b́nh thường, ta đă chuẩn bị đối phó. Nhưng họ không nguy hiểm bằng loại thứ ba.

    c) Loại người này, họ vẫn cười nói với ḿnh, đôi khi lại tỏ ra thắm thiết thân mật hơn, ta có khó khăn ǵ họ sẵn sàng giúp đỡ, chia xẻ. Khi họ chiếm được ḷng tin của ta, bất ngờ cho một mũi dao vào tim ta. Loại này thường làm mất cảm giác của ta. Gây cho ta sự chủ quan rồi hại ta v.v…

    Tóm lại: Để có thể phân loại được bản tính của đối tượng, ta phải có sự nhận xét tinh tế và bén nhậy. Dù đối tượng nói ǵ, nấp dưới bất cứ h́nh thức nào, ta vẫn phải nh́n rơ bản chất, nghĩa là con người thực của họ. v.v… Người đi tuyển mộ phải biết.

    Bản tính con người khó thay đổi. V́ vậy, trong giai đoạn thử thách, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cho phép có thể ngắn dài, nếu thấy người ḿnh định tuyển mộ có những khuyết điểm về cơ bản thuộc bản chất, ta phải loại bỏ ngay. Khác với các lănh vực khác c̣n có thể sửa chữa được, bản chất th́ không.

    Một người có tính huênh hoang, có thể đă bị đời đập cho méo mặt v́ cái tính huyên hoang, khoác lác này, cũng chỉ chừa được ít ngày, rồi sau đó, đâu lại hoàn đấy.

    Một người có tính tự ái cao, th́ suốt đời cũng không thể bỏ được tính đó. Chính v́ tính tự ái này, họ đă bỏ lỡ nhiều cơ hội thăng tiến, lỡ lầm nhiều chuyện t́nh cảm, để phải ân hận lâu dài.

    Ông bà ta đă chẳng từng nói: “Cái nết đánh chết không chừa”. Phương tây cũng có những câu chuyện về “Ông vua và chiếc tai Lừa”, hoặc “Con mèo và ông quan đại thần”… Ông cha đă dậy con cháu là chúng ta: Giang sơn dễ đổi, bản tính khó chừa!

    (C̣n tiếp)

    Đặng Chí B́nh

  8. #8
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Thép Đen: Tập I - Chương 7


    Những Chuyện T́nh Báo …

    Nhiệm vụ phụ :

    Ngoài những nhiệm vụ chính mà tôi phải đem hết nghị lực, khả năng để phải thực hiện bằng được, trong quá tŕnh sống và di chuyển ở Hà Nội, tôi phải để ư tới những hiện tượng dưới con mắt nghiệp vụ những số nhà sau đây:

    - Số 6 phố Cầu Gỗ.

    - Số 1 phố Đường Thành.

    - Số 27 phố hàng Đường

    Theo nguồn tin t́nh báo, ba nơi này thường xuyên đào tạo, huấn luyện gián điệp rồi tung vào miền Nam hoạt động. T́nh báo miền Nam đă bắt được hai vụ nổi tiếng, và Cục đă cho tôi biết chi tiết để rút ra nhiều kinh nghiệm như một bài học. Dưới đây là hai vụ điển h́nh. Tất nhiên c̣n nhiều vụ khác nữa:

    1. Khoảng 1957, do nhân dân bí mật tố cáo, t́nh báo miền Nam đă bố trí bắt được một nhân vật có hạng về t́nh báo của miền Bắc. Khi đem về khai thác, điều tra. Sau hơn một năm trời, dùng mọi khả năng của những nhà chuyên môn, ta cũng đành chịu khuất phục trước sự kiên tŕ, ĺ lợm của y.

    Nếu ở trong tay công an dưới chính quyền miền Bắc, nhận tội hay không, tội nhân cũng cứ bị tù cho tới khi nào cơ thể không chịu được nổi, hoặc cho tới già, rồi về với ông vải, th́ thôi.

    Nhưng chính quyền miền Nam, nếu thiếu chứng cớ cụ thể, chỉ giam tội nhân tới một mức quy định, rồi cũng phải thả ra. (Cụ thể như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị B́nh v.v…)

    Anh ta, trước sau chỉ một mực chối lá vô tội. Ta đă dùng nhiều biện pháp tinh vi hơn như: Khổ nhục, tra tấn, dụ dỗ, khích lệ v.v… cũng đều vô hiệu. Việc này đă làm điên đầu những người có trách nhiệm của Cục t́nh báo miền Nam.

    Sau nhiều phiên họp gay cấn, chính ông Cục Trưởng đă đưa ra một kế hoạch, và ông xin chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch đó.

    Vào một buổi cuối Đông, bầu trời Huế xám xịt, những cơn gió mùa Đông Bắc về muộn mang theo những trận mưa rả rích, nhạt nḥa … Từ cổng nhà lao Thừa Thiên, hai chiếc xe Dodge 4 phủ mui kín mít, lao về quốc lộ 1 hướng về Nam, chuyển tù vào Sài G̣n.

    Xe trước, băng sau chở 4 phạm nhân bị khóa tay, trong đó có tên Cộng Sản ĺ lợm nói trên, và hai người mặc quân phục có vũ trang áp tải. Băng trên, ngoài tài xế, c̣n có một trung úy và một hạ sĩ. Ông hạ sĩ này chính là ông Cục Trưởng mà tên Cộng Sản đó chẳng lạ ǵ.

    Xe sau, chở một thiếu úy và nửa tiểu đội, tất cả đều mặc quân phục và có vũ trang. Hai chiếc xe theo nhau chạy măi vào đêm tối. Hơn 4 tiếng đồng hồ sau, lúc đó khoảng 11 giờ khuya, giữa quăng đường dài vắng vẻ, hai bên là triền rừng; bất chợt hai loạt trung liên nổ ṛn ră phía trước xe. Đạn réo lên ngay phía trên mui. Ngay lúc đó, tài xế và mọi người đều đă nh́n rơ một chướng ngại vật là một thân cây to nằm chặn ngang đường. Biết là đă lọt vào ổ phục kích, các quân nhân trên hai xe vội vàng nhẩy xuống đường, t́m địa thế cấp thời để chống trả.

    Nhưng, tất cả đă nằm gọn trong ṿng vây, với đầy mũi súng tua tủa của đoàn quân phục kích. Chỉ sau 10 phút, tất cả quân nhân trên hai xe đều bị tước hết vũ khí, bị trói gô và bắt ngồi tập trung vào một chỗ. Một người, có lẽ là chỉ huy đoàn quân phục kích, ra lệnh lục soát trên hai xe, tịch thu một số đồ cần thiết, trong đó có cả giấy tờ, hồ sơ, v.v…

    Riêng 4 phạm nhân, tay vẫn bị khóa, bị dẫn xuống bắt ngồi cùng với đám quân nhân, sau khi biết họ đều là tù h́nh sự can tội an cướp hoặc giết người.

    Người chỉ huy đoàn quân phục kích nh́n những quân nhân đang bị trói, dơng dạc tuyên bố:

    - Các anh là ngụy quân, lầm đường lạc lối, làm tay sai cho đế quốc Mỹ bắn lại nhân dân, làm hại đồng bào, lẽ ra chúng tôi bắn bỏ hết. Nhưng, theo chính sách khoan hồng của đảng (lúc đó chưa có Mặt Trận Giải Phong Miền Nam), chúng tôi sẽ tha hết, kể cả 4 phạm nhân h́nh sự. Các anh hăy trở về cải tà quy chính. Riêng hai tên sĩ quan, v́ đă có nhiều nợ máu với nhân dân, chúng tôi phải mang vào bưng xử lư.

    Rồi người đó ra lệnh cởi trói cho hết các quân nhân, c̣n bắt đưa ch́a khóa mở c̣ng cho 4 người tù. Giữa lúc đó, tên tù Cộng Sản ĺ lợm, đứng bật dậy, rút ở trong ve áo ra một miếng vải đỏ h́nh vuông mỗi bề 4 phân, ở giữa có hai ngôi sao vàng nằm trên sọc trắng. Y đưa cho tên chỉ huy đoàn quân phục kích xem và nói:

    - Các đồng chí, tôi là Trưởng K 10 nội thành Sài G̣n, thuộc cục R. Hôm nay, vô t́nh các đồng chí đă lập được một kỳ công vô cùng to lớn. Các đồng chí hăy trói ngay tên hạ sĩ kia, nó chính là tên Cục Trưởng Trung Ương t́nh báo của Sài G̣n.

    Cả đoàn quân phục kích sáng mắt hân hoan. Bốn, năm mũi súng đều chĩa vào ông hạ sĩ và trói nghiến lại.

    Thay v́ đưa vào bưng, người chỉ huy mặc áo bà ba đen ra lệnh tất cả lên xe trở về miền … sông Hương, núi Ngự.

    2. Sự việc xẩy ra vào năm 1959 ở ngôi nhà, h́nh như mang số 126 hay 128 (tôi không nhớ rơ), đường Phan Đ́nh Phùng Sài G̣n.

    Ngôi nhà này có cửa sắt, tuy ở mặt phố nhưng không bao giờ thấy mở, trừ đôi lúc có người ra vào. Chủ ngôi nhà là một quả phụ, gần 60 tuổi. Trước đây, bà có một người em trai ở cùng. Ông này học hành đă thành đạt, nên hiện đang làm việc trong Phủ Tồng Thống. Người ta chẳng biết ông làm ǵ, chỉ nghe đồn ông rất có uy thế, thường gần gũi với ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu. Có thể do đ̣i hỏi của công việc, hoặc v́ lư do nào khác, ông đă được cấp một căn biệt thự ở đường Công Lư, gần dinh Độc Lập, để đi vể được thuận tiện. Và v́ vậy, ngôi nhà ở Phan Đ́nh Phùng càng vắng vẻ đ́u hiu. Ngoài bà Hân là chủ nhà, trong nhà chỉ c̣n một bà giúp việc cũng họ gần xa với gia đ́nh bà Hân.

    Những người mới đến ở dăy phố này không biết chồng con bà ra sao, chứ những người đă ở lâu gần đó đều hiểu hoàn cảnh gia đ́nh bà. Bà Hân rất hiền lành phúc hậu, bà thường hay đi chùa đền để niệm phật ăn chay và làm việc phúc đức. Theo câu chuyện bà kể lại với những người quen biết, vợ chồng bà đều là con những gia đ́nh giàu có thế phiệt trước đây ở Huế. Bà hiếm hoi, chỉ sinh được một cậu con trai duy nhất, đúng vào lúc xẩy ra những biến cố lớn lao của đất nước 1945. Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Hân là một thành phần đảng phái, ông đă hiểu rơ sự hiểm độc của Việt Minh nên cương quyết không hợp tác trong Chính Phủ Liên Hợp của cáo Hồ bịp bợm. Ông đă bị chúng bí mật thủ tiêu ngay thời gian ấy. Giữa cảnh hỗn loạn Nhật, Pháp, Anh, Tàu, và Việt Minh thời đó, dân chúng đă phải trôi dạt, đẩy đưa khắp nơi, và bà đă thất lạc đứa con trai yêu quư, niềm an ủi độc nhất của đời bà. Sau đó, theo gịng đời, bà đă trôi dạt về Sài G̣n với người em trai nói trên.

    Do của cải trước đây để lại, hiện bà là người giầu có, thừa thăi tiền tài, nhưng lại rất thiếu nghèo t́nh đầm ấm của gia đ́nh. Bà đă mất biết bao tiền bạc, tâm lực để thăm ḍ, t́m kiếm người con thất lạc, nhưng đều bặt vô âm tín. Nỗi nhớ thương buồn phiền của bà suốt 14 năm càng ngày càng cô đọng lại, dồn nén dần vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn bà. Nhũng người quen biết bà đều hiểu rơ như thế. Nhưng, Cộng Sản lại đào sâu, nghiên cứu kỹ, nên đă hiểu biết hơn thế nữa. Chúng đă triệt để lợi dụng, khai thác bối cảnh này. Chúng thấy đây là cơ hội để chúng đưa người lọt vào ở sát nách cơ quan đầu năo của chính quyền miền Nam.

    Chúng đă t́m và tuyển mộ được một thanh niên theo ư chúng muốn. Chúng ra sức đào tạo, huấn luyện, từng động tác, thái độ, lời ăn tiếng nói, kể cả về t́nh cảm để đóng vai tṛ người con thất lạc của bà Hân.

    Nói về ngôi nhà của bà Hân. Ngôi nhà này thường đóng cửa, cho nên ở phía trước sát vỉa hè, một người đàn bà nghèo trong xóm đă kê một chiếc ghế dài nhỏ và một cái phản gỗ con, trên bày ít kẹo, chuối, nước sôi…bán cho các bác xích lô…ít tiền.

    Tên điệp viên là một cậu trai 19- 20 tuổi, khôi ngô, quần áo lam lũ; thuy khoẻ mạnh đầy sức trai, nhưng bộ mặt lúc nào cũng đăm chiêu mang nặng một nỗi niềm. Hàng ngày, sau những cú xe đường dài mệt nhọc, anh thường ghé chiếc xích lô đạp sát lề, uể oải ngồi vào ghế, gọi mua nước trà, nhấm nháp, lúc th́ cái kẹo, lúc th́ quả chuối…anh tỏ ra rất ít nói. Dần dần, hà hàng quen mặt. Bà cũng để ư và đôi khi nh́n bằng ánh mắt thương hại người c̣n trẻ, mặt mũi sáng sủa mà đă phải lam lũ cuộc đời! Trước, c̣n là những câu hỏi bâng quơ:”Hôm nay chạy khách có khá không?”, “Trời này, lại sắp mưa!”, “Sao hôm nay cậu đến muộn?” v.v… Cậu trai càng tỏ ra rất ít nói. Mặt lúc nào cũng buồn như che dấu một tâm sự riêng tư. Khi đă có thiện cảm với một cậu bé nghèo, cái tính tất nhiên của người đàn bà là sẽ dần dà thăm hỏi đến gia đ́nh, thân thế, bố mẹ ra sao? v.v…

    Lúc đầu, cậu tỏ ra không muốn nói về cuộc đời bất hạnh hẩm hiu của ḿnh, sau thấy bà già nghèo tử tế nên dần dần kể sự t́nh…

    Cậu chẳng biết bố mẹ là ai cả. Ngay từ lúc 4- 5 tuổi đă đi làm con nuôi cho người ta. 9- 10 tuổi phải đi ở , hầu hạ nhiều người. Rồi phiêu bạt đi làm đồn điền cao su đầy gian chuân, cực khổ. Cuối cùng, trôi dạt về Sài G̣n thân cô, thế cô, phải đi đạp xích lô mưu sinh.

    Bà bán nước, đă biết về câu chuyện của bà chủ nhà, nên cũng hơi nghi, v́ vậy hỏi tới:

    - Thế cậu có nhớ ngày xưa bố mẹ cậu như thế nào không?

    Cậu trả lời, mường tượng, lúc nhỏ sung sướng, được mặc quần áo đẹp, được ngồi xe với bố có người kéo…Bà bán nước càng hỏi tiếp, h́nh như chạnh nỗi niềm đau buồn, cậu không muốn trả lời nữa, và trả tiền, đứng dậy đi.

    Bà bán nước tưởng tượng, càng suy nghĩ, biết đâu đây chả là chuyện cơ trời, nên chiều đó, sau khi gửi phản, ghế, bà nói với người giúp việc muốn gặp bà Hân.

    Khi gặp bà chủ nhà, bà bán nước thuật lại câu chuyện về người đạp xích lô trẻ tuổi. Đến đây ai cũng hiểu. Có bệnh th́ vái tứ phương. Khi nỗi ḷng của bà Hân như vậy, hỏi sao ḷng bà chả xốn xang, bồi hồi, mong sớm gặp người xích lô đó để hỏi rơ đầu đuôi. V́ thế bà Hân vồn vă dặn:

    - Khi nào cậu ấy đến, bà dẫn vào đây ngay cho tôi hỏi chuyện.

    Ngày hôm sau, và cả mấy ngày sau nữa; bẵng đi bốn năm ngày không thấy cậu xích lô đó lại, khiến bà hàng nước lẫn bà Hân càng nôn nóng, bồn chồn mong đợi.

    Măi tới hơn một tuần sau; vào một buổi chiều mưa giăng ẩm ướt, cậu xích lô ướt át ghé lại bà hàng nước. Bà hàng tíu tít hỏi:

    - Sao mấy bữa nay cậu không ghé đến?

    Sau khi rót ly nước trà để đó, bà hàng vội vàng bấm chuông vào nhà bà Hân. Chừng 5 phút sau, bà hàng nước hơ hải ra bảo:

    - Này cậu, mời cậu vào đây chơi một tí đă!

    Y tỏ vẻ không muốn vào, nên lắc đầu. Bà hàng nước lại vồn vă như níu kéo:

    - Cậu vào đây một chút thôi mà, đàng nào trời cũng đang mưa, cho bả chủ ở đây hỏi thăm cậu một câu chuyện.

    Rồi đến lúc bà hàng nước phải cầm tay lối kéo, y mới miễn cưỡng đi theo. Ngay khi bà Hân thấy người xích lô bước vào nhà, ánh mắt của bà h́nh như đă tràn đầy t́nh thương yêu, mặc dù bà chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ người con trai ấy là con bà. Ḷng bà bồi hồi xốn xang, đến nỗi bà quên cả mời người xích lô đó ngồi. Khi bà mời, cậu xích lô ấy dè dặt ngồi xuống chiếc ghế gụ cạnh bàn, đầu cuối gầm. Bà hàng xóm cũng thấy ḷng không yên, bỏ cả quán nước để mong được chứng kiến cái giây phút hồi hộp rấp ranh này. Măi sau, như dằn được ḷng xốn xang, bà Hân mới hỏi với một giọng c̣n xúc động:

    - Cậu bây giờ có họ hàng thân thích ǵ không?

    Y lắc đầu mà không nói.

    - Cậu có nhớ ngày xưa, gia đ́nh cậu như thế nào không?

    Y vẫn đăm chiêu im lặng. Bà lại hỏi, trong niềm nghẹn ngào dâng trào:

    - Có phải cậu nhớ, lúc nhỏ cậu đi xe với bố có người kéo phải không?

    Y gật đầu. Bà Hân nôn nóng, tiếp tục hỏi:

    - Cậu cố nhớ lại xem, lúc nhỏ cậu hay chơi ǵ, làm ǵ?

    Y nh́n ra phía cửa sổ, mắt như dơi về một phía trời xa, về những quăng đời ấu thơ. Tới khi bà Hân nhắc lại câu hỏi, y mới chậm răi:

    - Cháu chẳng nhớ ǵ rơ lắm….Cháu chỉ nhớ láng máng lúc nhỏ, cháu được bố mua cho con cù, con cù có cái đinh rất dài…..

    Bà Hân mắt sáng lên long lanh, hỏi như hết hơi:

    - Ǵ nữa?

    - Cháu có một quyển sách, có h́nh con rùa, bố cháu dạy cháu tô theo bằng bút ch́ màu đỏ.

    - C̣n ǵ nữa không cháu?

    Y càng cúi gằm, trong khi không khí căn buồng như rên lên, căng đầy xúc động đợi chờ, cuối cùng y giơ ra ngón tay cái trái, chỉ vào một cái sẹo nhỏ, ngập ngường nói:

    - Một lần ở bếp với mẹ, cháu nghịch dao, đứt tay chảy máu. Mẹ đă khóc.

    Không ḱm được nữa, bà Hân xô đến, ôm chầm lấy cậu xích lô, nước mắt chan ḥa, nức nở:

    - Ôi, con ơi!

    Y cũng khóc, cả bà bán nước người ngoài cũng nước mắt ṿng quanh. H́nh như bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ của t́nh mẫu tử thiêng liêng bây giờ cuồn cuộn chảy ra theo gịng nước mắt, bà hổn hền tưởng như xỉu đi, dù vậy bà vẫn cố gắng lôi tay đứa con yêu:

    Con ơi! Con cù và quyển sách của con má vẫn giữ, v́ đó là di vật duy nhất của con, má vẫn để ở ngăn tủ đầu giường má.

    Bà vừa nói vừa kéo người con trai lên gác. Bà rối rít hết sờ mặt, xoa tay, lại vuốt lưng cậu xích lô thân yêu, trong khi bà bán nước cũng lây nỗi vui mừng, cứ chạy lăng xăng hết đầu này, đầu kia chẳng biết làm ǵ cả.

    Ngay chiều hôm ấy, bà Hân báo tin gọi người em trai về. Thôi th́ cậu cháu, mẹ con hàn huyên nỗi niềm máu mủ ruột thịt, của buổi trùng phùng nước mắt đầy vơi.

    Thương bà chị cả cuộc đời cô đơn heo hút, ông cậu nh́n thằng cháu khoẻ mạnh, khôi ngô, ông hứa sẽ đem hết khả năng dạy dỗ, nâng đỡ đứa cháu yêu đến khi thành đạt. Ông bàn, nào là đón giáo sư về kèm cặp, nào là tập lái xe để chở mẹ đi chùa,v…v…Ngôi nhà giờ đây tràn ứ đầy sự sống, sự ấm cúng và niềm vui tươi.

    Riêng tên điệp viên, ngay khi vào Sài G̣n đă được cấp trên y chỉ định phải thường xuyên liên lạc, cặp bồ với cô Ngân làm chiêu đăi viên cho một quán cà phê ở ngă Bảy, để dự pḥng, nếu sau này bà Hân và ông cậu bắt lấy vợ th́ phải cương quyết đ̣i lấy cho bằng được cô Ngân. Dĩ nhiên, cô Ngân cũng trong mạng lưới hoạt động của Cộng Sản ở Sài G̣n.

    Đến đây, mọi việc tường êm xuôi trôi lọt như ư Việt cộng mong muốn, nhưng không, trái lại đă bắt đầu trục trặc. Nguyên nhân cũng chỉ v́ diễn viên đă không khéo đóng trọn vai tṛ.

    Bà Hân tin tên xích lô là con nên t́nh bà vẫn thắm thiết thương yêu. Ngược lại, y biết y không phải con bà. Mẹ y hiện đang ở ngoài Bắc. Lúc đầu, v́ cố gắng nổ lực để công tác thành công, nên y đă xuất thần thủ đúng vai tṛ. Sau một thời gian, những biểu lộ thương yêu với người mẹ giả trở nên cứng ngắc, không có hồn. Nỗi buồn của bà càng ngày càng khoét sâu, càng lớn. Bà thổ lộ với người thân quen và tất yếu, cả với em trai.

    - Tôi không hiểu sao, tôi thương yêu nó như trời biển, nhưng h́nh như có cái ǵ ngăn cách, tôi chỉ cảm thấy sự tẻ nhạt, gắng gượng ở bên trong của nó.

    Sự phàn nàn, ca thán của bà dần dần đến tai những nhân vật phản gián. Một sự việc không b́nh thường! T́nh mẹ con ruột thịt là sự thiêng liêng, phải có những chiếc dây vô h́nh gắn bó. Thấy một sự không b́nh thường th́ phải đặt vấn đề. Mà nguyên tắc t́nh báo cũng như công an, nếu đă đặt vấn đề th́ phải t́m mọi cách để biết rơ hư thực của vấn đề đó, cho nên, họ đă dùng chính ông cậu trong nhà làm tấm b́nh phong để bí mật theo dơi và phanh phui sự việc.

    Gần một năm sau, trọn ổ gián điệp vùng đó đều bị sa lưới.

    Trở lại nhiệm vụ phụ:

    Dale và Brown mang đến hai chiếc máy bay MIG –15 và MIG- 19 dài chừng 20 phân, nhưng thật tinh vi, sắc sảo như máy bay thật, thu nhỏ; với đầy đủ cả động cơ, phù hiệu, cờ quạt…..Hai ông đă giảng cho tôi rơ ràng tính năng từng loại; để suốt quá tŕnh thời gian tôi ở miền Bắc, nếu thấy loại máy bay đó trên bầu trời, về báo lại.

    Ngoài hai máy bay MIG, hai ông c̣n đưa tôi xem hai cuốn sách có h́nh mầu: lon, phù hiệu các binh chủng, từ lính cho tới nguyên soái; cả y phục mùa Đông cũng như mùa Hè của quân đội Trung Cộng và Bắc Triều Tiên.

    Ngoài ra, trong thời gian ở Hà Nội, tôi phải quan sát các hiện tượng ngoài đường phố. Theo dơi các báo chí, phát thanh những đơn vị nhỏ tập tành. Tiếp xúc quan hệ với mọi từng lớp người dân, v.v…Để từ đấy đánh giá (nếu ghi được số lượng cụ thể càng tốt) những điều tai nghe mắt thấy, nói chung về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, xă hội…và tư tưởng chung của quần chúng, cán bộ, bộ đội.

    o0o


    (C̣n tiếp)

    Đặng Chí B́nh

  9. #9
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Thép Đen: Tập I - Chương 8

    Những “Vỏ Bọc” …

    Vỏ bọc I

    Tôi sẽ đóng vai là một học sinh trường trung học phổ thông cấp III ở Vĩnh Linh với tên là Lê Viết Hùng, lư lịch giả như sau: Gia đ́nh bố mẹ tôi, do đói kém, loạn ly năm 1945, đă phiêu bạt từ Nam Định vào lập nghiệp ở xă Vĩnh Quan, Vĩnh Linh. Bố tên là Lê Văn Thông, mẹ là Vũ Thị Sàng. Tôi có 3 anh chị em: Chị Lê Thị Thu, em trai Lê Tuấn. Tôi phải nhớ tên: Giám hiệu trưởng Phổ Thông cấp III Vĩnh Linh, chủ tịch và phó chủ tịch huyện V.L., chủ tịch và phó chủ tịch xă Vĩnh Quang. Và, v́ tôi cũng là đoàn viên thanh niên, nên tôi cũng phải biết tên của bí thư và phó bí thư chi đoàn. Ngoài ra, tôi phải biết một số sự kiện lớn xảy ra ở Vĩnh Linh, nhất là ở xă tôi, vùng giáp ranh khu phi quân sự.

    Qua những tin tức cố định trên, tôi sẽ tùy theo trường hợp để ứng biến sao cho hợp lư.

    Tôi (Lê Viết Hùng) có nhiều triệu chứng mắc bệnh tim đă lâu, bây giờ càng ngày càng trầm trọng hơn, nên đă xin được giấy giới thiệu của thị trấn Vĩnh Linh về Hà Nội nhân dịp He để đến nhà thương Việt Đức điều trị.

    Tôi mang theo đủ giấy tờ hợp lệ: Giấy giới thiệu chữa bệnh, thẻ học sinh, giấy nghĩa vụ quân sự, thẻ đoàn viên, giấy thông hành thời hạn một tháng, có chữ kư của công an trưởng huyện Vĩnh Linh.

    Vỏ bọc này, tôi phải nghiên cứu và học thuộc ḷng, sao cho từ nếp suy nghĩ đến hành động, coi như ḿnh là Lê Viết Hùng có thực bằng xương bằng thịt.

    Để thực tập, tôi phải đến gặp ba, bốn lần một người lạ rất hách dịch, đóng vai công an Cộng Sản, lúc th́ ở khách sạn Catinat, lúc th́ ở Majestic. Ông ta hạch sách, nạt nộ tôi đủ điều, hỏi những câu bất chợt lắt léo, xem tôi có trả lời hợp lư hay không. Tôi c̣n nhớ lần cuối cùng, khi nói chuyện văn, ông tự giới thiệu tên là Đang đă từng sống và làm việc cho Cộng Sản nhiều năm, (ông không nói, nhưng tôi đoán hẳn ông đang làm việc cho Cục), ông nói:

    Tôi nói thực với B́nh, cái chính là đừng để cho công an của Cộng Sản nghi ngờ. Khi nó đă đặt thành vấn đề nghi mà sát hạch th́ ‘mả bố ở đâu, mà nó bảo đào đưa cho nó, th́ cũng phải đào.”

    Kể ra, ông không nên nói câu đó, nhất là với một nhân viên sắp vào đất địch, chỉ làm hoang mang tinh thần của người đi. Sau này càng nghĩ, tôi lại càng thấy những người huấn luyện ḿnh thiếu ư thức, thiếu tinh thần trách nhiệm, v́ thiếu lư tưởng thực sự!

    Vỏ bọc II

    Trong trường hợp bị Cộng Sản bắt giữ. Nếu v́ lư do nào đó, Cộng Sản không tin hoặc đă xác minh giấy tờ đều là giả mạo và tôi không phải là Lê Viết Hùng ở Vĩnh Linh. Lúc đó, tôi sẽ khai: Gia đ́nh bố mẹ, gốc tích thực, nhà nghèo. Học hành thi hoài không đậu, chán chường, nhưng tính thích làm những việc táo bạo, không sợ nguy hiểm miễn việc đó có tiền để giải quyết cuộc sống và giúp đỡ bố mẹ già. Do bạn bè giới thiệu, tôi gặp một ông tên là Lân. V́ là nhân vật tưởng tượng, nhưng lại cần nhớ chi tiết để đề pḥng sau này công an hỏi lại, do đấy, tôi phải lấy một người có thật để mô tả, và tôi đă lấy h́nh dáng một ông cậu to lớn, béo tốt, chủ một hảng xuất nhập cảng ở Sài G̣n, để tả về ông Lân.

    Ông Lân thường hẹn gặp tôi ở một quán nước. Sau một, hai lần thăm ḍ, nói chuyện, biết về con người và tâm nguyện của tôi, ông đi thẳng vào vấn đề: Ông có “truy-ô” nhiều thuốc Tây quư cần tiêu thụ. Ở ngoài Bắc, các loại thuốc này vô cùng hiếm nên giá rất cao. Vậy, nếu tôi muốn làm giầu, phải mạo hiểm. Ông sẽ lo giấy tờ giả cho. Tôi sẽ bí mật, lén lút lội qua sông Bến Hải, đem theo hơn một chục mẫu loại thuốc quư, móc nối, mua bán đặt hàng với những con buôn bí mật có thể lực ở Hà Nội. Sau này, lời lăi sẽ chia đôi, ông đó một nửa và tôi một nửa. C̣n bây giờ, tốn phí ông đài thọ và cho tới khi đi sẽ trả trước cho tôi 10.000 đồng.

    Một hôm, Dale và Brown dẫn đến một người Mỹ khác khoảng 40-45 tuổi, giới thiệu là Bác Sĩ Harry. Ông Harry đưa gần 20 lọ thuốc Tây, chỉ dạy cách dùng và tính năng của từng loại. Theo ông Phan, cho tới ngày tôi đi, Harry cũng sẽ là bác sĩ riêng của tôi để săn sóc sức khoẻ và những cần thiết về y lư cho chuyến đi.

    Vỏ Bọc III

    Sau khi khai vỏ bọc II, nếu Cộng Sản vẫn không tin, hoặc t́m ra được những chứng cớ cụ thể là tôi nói láo, không đúng, có thể chúng sẽ cùm kẹp tra tấn, tôi không thể chịu đựng nổi, lúc bấy giờ tôi sẽ dùng vỏ bọc III. Vẫn chưa là chuyện chính trị.

    Phần thân thế, gốc tích gia đ́nh cũng như vỏ bọc II, v́ đó là thực tế. Cảnh học hành, thi cử cũng chỉ ăn vỏ chuối nên chán chường, và tính t́nh thích làm những chuyện mạo hiểm cũng vậy. Phần khác biệt. Do quan hệ xă hội, đă được một người quen giới thiệu với Sư Bà Đàm Hướng ở chùa Phước Hải, khu Vườn Chuối, Phan Đ́nh Phùng Sài G̣n, nội dung như sau:

    Trong thời Pháp thuộc trước 1945. Sư Bà Đàm Hướng và Sư Ông Tuệ Chiếu là hai sinh viên yêu nước thiết tha, nhục nhă đau ḷng trước cảnh dân tộc bị thực dân Pháp thống trị. Hai ông bà nối chí những bậc cách mạng tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học v.v… Đă bí mật hoạt động trong giới sinh viên ở Hà Nội, gây nên nhiều vụ chống đối sôi động, với bọn cầm quyền thực dân và đă bị chính quyền thực dân, ra lệnh truy lùng ráo riết.

    Hai ông bà không những là đồng chí mà c̣n là đồng sàng, v́ cùng nhau đă trải qua nhiều gian nan nguy hiểm nên hai trái tim đă cùng rung đều một nhịp. Trước sự truy nă lùng sục của mật thám, để che mắt chúng, và cũng để tỏ với chúng là ḿnh đă chán chường cuộc đời, hai người đều xuống tóc, nup1 bóng cửa thiền. Ông th́ tu ở chùa Quan Thánh Hà Nội, pháp danh là Tuệ Chiếu; c̣n bà tu ở đâu, tôi không biết, chỉ biết pháp danh là Đàm Hướng, hiện trụ tŕ ở chùa Phước Hải, Vườn Chuối Phan Đ́nh Phùng Sài G̣n.

    Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền, chúng ḷi ra ư đồ diệt tôn giáo. Bề ngoài cổ vũ “Lương Giáo đoàn kết” để chống Pháp, xây dựng đất nước. Bên trong th́ chúng ngấm ngầm t́m mọi điều kiện, lợi dụng mọi mâu thuẫn tôn giáo để kích động, khơi sâu mối chia rẽ. Nghĩa là, luôn luôn đổ dầu vào những đốm lửa mâu thuẫn, dị biệt của tôn giáo. Nh́n rơ trái tim đen bẩn thỉu của Cộng Sản, Sư Ông Tuệ Chiếu và Sư Bà Đàm Hướng đă dùng khả năng và uy tín vạch trần ư đồ nham hiểm của Cộng Sản trước tín đồ, và c̣n ngấm ngầm trao đổi bàn luận cùng bên Công giáo, lập ra Mặt Trận Liên Tôn Diệt Cộng mà chủ tịch là sư ông Tuệ Chiếu và phó chủ tịch là linh mục Hoàng Quỳnh cùng nhiều nhân vật lănh đạo trong Mặt Trận.

    Sư Ông Tuệ Chiếu và nhiều người khác đă bị Cộng Sản bí mật thủ tiêu ngay. Chỉ v́ khi đó phía Phật giáo chưa có sự đoàn kết thống nhất, nên chưa có áp lực mạnh với Cộng Sản. C̣n Linh Mục Hoàng Quỳnh, trước áp lực sức mạnh của quần chúng Công Giáo, chúng đă không dám giết ngay. Công giáo khi ấy đă là một tổ chức thống nhất nên Cộng Sản ít nhiếu kiêng nể (tôi nói thời gian đó thôi, v́ lúc đó chúng chưa mạnh, chúng c̣n cần sự giúp đỡ hoặc không chống phá của Công Giáo. Chứ sau 1975, chúng không c̣n e dè nể nang ǵ cả).

    Chúng chỉ dám quản thúc linh mục Hoàng Quỳnh ở nhà thờ Lạc Đạo, thuộc địa phận Bùi Chu. Con chiên vẫn được phép thăm nuôi b́nh thường, theo quy định.

    Sư Bà Đàm Hướng nghe tin chồng chết, quá đau thương, chỉ c̣n đành t́m xác người chồng bất khuất, chết anh hùng, oanh liệt hy sinh cho dân tộc, bí mật đem về thành Hà Nội, vùi lấp ở nghĩa trang Hợp Thiện Bắc Việt.

    Hội Nghị Genève chia đôi đất nước, bà cùng đứa con trai di cư vào Nam.

    Vào Nam, tuy vẫn ở trong cửa Phật, nhưng bà vẫn không quên quê hương dân tộc, nên ngay trong chùa cũng như ngoài xă hội, bà diễn thuyết cổ vũ, khích lệ, tổ chức đoàn thể với mục đích chống kẻ tử thù Cộng Sản. Ngoài ra, từ ngày vào Nam, bà cũng c̣n ấp ủ trong trái tim một điều thầm kín nhất, là bà ước mong có cách ǵ đó, hay có ai ra miền Bắc, bà sẽ không tiếc tiền để xây cho ông một nấm mồ yên ấm. Gọi là chút ḷng của người đồng chí, của người t́nh, của người vợ, đối với người ngàn đời kính yêu đă ra về nơi ngút ngàn mây gió, hy sinh v́ Tổ Quốc.

    Chính với nỗi niềm ấy của bà, nên khi gặp tôi, một thanh niên, cành đời đă làm cho bất đắc chí, và sau nhiều lần t́m hiểu, bà rất mừng rỡ. Bà sẽ lo liệu giấy tờ giả cho tôi để vượt tuyến. Bà sẽ trả cho tôi 100.000 đồng sau khi hoàn thành công việc. Trước khi ra đi, bà sẽ đưa trước cho tôi 10.000 đồng để giúp đỡ gia đ́nh bố mẹ già. Tôi sẽ trốn qua sông Bến Hải về Hà Nội, mang theo một lá thư của bà gửi cho ông Thẩm Hoàng Tín, thị trưởng thành phố Hà Nội hồi 1954. Ông là dược sĩ, trước có hiệu thuốc Tây ở Hàng Da Hà Nội.

    Ông Tín là bạn chí thân của hai ông bà. Nội dung lá thư nhờ ông Tín v́ t́nh bạn thiêng liêng đứng trông nom xây cho ông Tuệ Chiếu một ngôi mộ gọn ghẽ khang trang.

    (Sau Hội Nghị Genève 1954, lư do tại sao một đương kim thị trưởng của thủ đô Hà Nội vẫn ở lại với Cộng Sản, không di cư vào Nam sẽ được đề cập ở chương “Những Bài Học Xương Máu Với Cộng Sản”.)

    Chính Hoàng Công An đă dẫn tôi đến chùa Phước Hải gặp Sư Bà Đàm Hướng mấy lần, để tôi nh́n rơ cảnh sinh hoạt của chùa và con người của bà. Tôi cũng đă gặp người con trai của sư bà, lúc đó 19 tuổi, đang theo phần II Tú Tài, năm 1961.

    Vỏ Bọc IV

    Đến đây, th́ đành phải nhận ra Bắc v́ chính trị. Theo chỉ thị của Cục, vỏ bọc IV, đồng thời cũng là vỏ bọc cuối cùng, dù tôi có phải nhận mă tấu hay ăn kẹo đồng.

    Đến giai đoạn này, Cộng Sản đă cùm kẹp tra khảo, khai thác nhiều. Chúng đă nêu ra đầy đủ băng cớ những điều tôi khai báo là sai. Vậy, nếu bị đánh đập, hành hạ đến lúc cơ thể không thể chịu đựng được nữa, lúc đó sẽ khai theo vỏ bọc IV: Là trung sĩ trong đại đội thám báo của Sư Đoàn 7, thích làm những chuyện mạo hiểm và coi thường những việc khó khăn mà nhiều người khác e sợ, v.v… Trong quân ngũ, lần lần quen biết Trung úy Xương nên nha an ninh quân đội. Ông này đă giới thiệu với bên t́nh báo. Cuối cùng, tôi được về Sài G̣n dự lớp đào tạo và huấn luyện trong 3 tháng ở một ngôi nhà thuê trong x̣m Cầu Cống, khu Khánh Hội (nếu nói ở khách sạn, building, Cộng Sản sẽ để ư những nơi ấy, sẽ gây khó khăn cho những lớp huấn luyện sau này.) Chỉ nói một số lớp học hợp lư, thời gian huấn luyện ngắn và học tập sơ sài để địch đánh giá sai mức độ, khả năng của nhân viên t́nh báo miền Nam.

    Chỉ một người huấn luyện duy nhất, định tả ai phải nhớ người ấy. Chớ nói tới Mỹ, v́ năm 1961 Mỹ chưa vào miền Nam nhiều. Huấn luyện nặng về lănh vực quân sự, tính năng và các loại vũ khí của bộ đội miền Bắc thường dùng, v.v… Nhiệm vụ:

    - Theo dơi Sư Đoàn 308 pḥng thủ Thủ Đô Hà Nội. Do tên Thiếu Tướng Vương Thừa Vũ làm tư lệnh.

    - Tên tuổi, tính t́nh các cấp chỉ huy, càng xuống sâu càng tốt, nghĩa là đến cấp đại đội.

    - Các loại vũ khí trang bị của sư đoàn.

    - Những nơi bố trí đại pháo và xe tăng.

    - Các phương tiện vận chuyển.

    - Cách bố trí trại, địa h́nh chung quanh với các đường giao thông.

    - Cách sinh hoạt học tập, huấn luyện.

    - Các trang bị, quân trang, quân dụng.

    - Tinh thần của bộ đội và sĩ quan.

    - Khả năng chiến đấu và tinh thần chiến đấu.

    Muốn biết được những tin tức này chính xác, tôi phải làm quen, chuyện tṛ, tâm sự với bộ đội trên đường phố Hà Nội. Tóm lại, khai ǵ, nói ǵ th́ nói, nhưng không bao giờ được nói tới nhiệm vụ thực của ḿnh cả.


    Đặng Chí B́nh

    (C̣n tiếp)

  10. #10
    Member Phú Yên's Avatar
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,858

    Thiên Hồi Kư Thép Đen: Tập I - Đặng Chí B́nh

    Thép Đen: Tập I - Chương 9



    Thăm Gịng Bến Hải …..

    *H́nh minh hoạ

    Để phục vụ cho công tác COLUMBUS, tôi phải học và thực tập cũng như nghiên cứu về cách tiếp xúc với các linh mục. Trong một xă hội với bao chế ngự trong chính sách ḱm kẹp của Cộng Sản đối với người dân, các linh mục đă có nhiều kinh nghiệm xương máu, cho nên dù trong ḷng có muốn tiêu diệt Cộng Sản đến đâu chăng nữa, cũng không thể vội vàng lớ ngớ tham gia vào những chuyện không mấy tin cẩn để thiệt thân, chết lây. Do đó, là một cán bộ t́nh báo miền Nam, trước hết tôi phải tỏ ra điềm đạm, b́nh tỉnh, đủ khả năng, bản lĩnh xoay chuyển t́nh thế nếu gặp sự bất thường. Thêm nữa, các linh mục là những người có địa vị, có học, vậy ít ra tôi phải có kiến thức về nhiều mặt của xă hội, cộng với tư cách, tác phong. Có như vậy, tôi mới khả dĩ lôi cuốn được các linh mục. Thế mà tôi lại không đủ sức, cho nên tôi rất băn khoăn.

    Sau đấy, tôi thực tập rất nhiều buổi tiếp xúc với một, đôi người lạ, đóng vai các linh mục ở miền Bắc. Ông An cũng như ông Phan, và cả những người tôi phải tiếp xúc thực tập, đều nói:

    - Thế là B́nh làm được rồi!

    Tôi nghĩ, bắt buộc họ phải nói “được rồi,” chả lẽ nói “không hay chưa được,” làm sao tôi đi!

    Tôi yêu cầu cho tôi được tiếp xúc với một người nào đó đă ra ngoài Bắc vửa mới trở về để học hỏi kinh nghiệm. Sự yêu cầu này đă không được đáp ứng, và cũng không được trả lời. Lúc đó, tôi ngây thơ nghĩ rằng, có thể v́ sự ngăn cách an ninh về cả hai phía, cho nên lời yêu cầu của tôi đă không được giải quyết. Sau này khi ra miền Bắc, có điều kiện nh́n được thực tế, cũng như có thêm được một số kiến thức để phân tích và lư luận, tôi thấy những điều tôi nghĩ trước kia là không đúng.

    Để đáp ứng lời yêu cầu của tôi, thay vào đó, Cục cho tôi gặp 4 người vượt tuyến mới nhất. Thậm chí có người chỉ mới vào nửa tháng, ở Trung Tâm Tiếp Đón đồng bào vượt tuyến bên Gia Định. Tôi và An đóng vai nhân viên Pḥng Báo Chí phủ Tổng Thống cầm giấy giới thiệu sang gặp Thiếu tá (tôi quên tên) Trưởng trại.

    Tôi sang hai lần, mỗi lần gặp hai người, mỗi người gặp vào một giờ khác nhau. Hôm đầu, chúng tôi tiếp xúc với một người là bộ đội và một người là giáo viên cấp III, trường Thăng Long Hà Nội. Hôm sau, một người tài xế xe đ̣, một người là giáo viên cấp II ở Thanh Hóa. Dĩ nhiên, tất cả những người này kể cả trưởng trại; không thể hiểu ư đồ thực của chúng tôi. Để đánh lạc hướng, thỉnh thoảng chúng tôi mới xen vào giữa những câu phỏng vấn thông thường, vô bổ là một số câu hỏi câu hỏi cần thiết mà chúng tôi muốn t́m hiểu. Bốn cuộc gặp gỡ này đă giúp chúng tôi hiểu biết nhiều vấn đề, rất hữu ích khi tôi ra Bắc.

    Trên tấm bản đồ quân sự loại lớn, bằng giấy dầy, bóng. Từng miếng 40×60 phân, ghép lại kín cả nền một căn pḥng rộng. Hàng ngày, Brown và Dale hướng dẫn tôi nghiên cứu về quốc lộ 1 (từ Vĩnh Ling ra tới Hà Nội,) khu phi quân sự; thành phố Hà Nội, tỉ mỉ, chi tiết; nhất là khu phi quân sự Bắc và huyện Vĩnh Linh. Để pḥng hờ biết bao t́nh huống có thể trục trặc không đón được tôi; tôi phải về bằng đường bộ. V́ thế, tôi đă hai lần phải ra tận bờ sông Bến Hải; dùng ống nḥm quan sát thực tế các điểm chuẩn, của khu phi quân sự Bắc.

    Một điều tôi không quên, một lần tôi và Hoàng công An xuống trường bay Phú Bài. Người trách nhiệm đón chúng tôi không ai xa lạ, lại chính là ông Hương. Ông Hương và tôi nh́n nhau ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Chính An cũng ngạc nhiên không ít, không hiểu sao tôi lại biết ông Hương từ trước.

    Từ ngày tôi bị loại ra khỏi lớp học đặc biệt, tôi chỉ nghe Lư nói loáng thoáng là ông Hương sau này mắc khuyết điểm ǵ đó về tài chính, nên không c̣n làm Giám Đốc lớp học đó nữa. Có lẽ do ư thức nghề nghiệp cho nên khi bắt tay tôi, ông Hương chỉ nói:

    - B́nh vẫn như xưa, tay hay gầy, nhưng vẫn đẹp trai!

    Ông không hề nhắc nhở đến những chuyện cũ ở số 2 J.J. Rousseau. Ông Hương sau đó, lái xe đưa chúng tôi về một khách sạn ở Huế. Những ngày ở đây, đêm ngủ, luôn luôn có người canh gác tôi. Cũng từ đó cho đến gần cuối cuộc đời, lúc thức cũng như lúc ngủ; lúc nào tôi cũng có người canh gác. Cứ nghĩ đến, tôi lại nhếch mép tự mỉm cười.

    Ông Hương lái xe đưa chúng tôi vào khu phi quân sự. Trong rừng bên này bờ Nam, tôi thấy đó đây có những người mặc đồ nâu, gài một miếng vải đỏ bằng hai đốt ngón tay ở khuy áo, lầm lũi canh gác. Có lẽ họ đă giấu súng trong người. Qua ánh mắt và thái độ của họ, tôi hiểu ông Hương là người chịu trách nhiệm chỉ huy toàn bộ hệ thống canh gác bờ phía Nam.

    Tôi ngắm gịng Bến Hải. Con sông đă đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, vẫn lững lờ chảy xuôi về phía cầu Hiền Lương. Đây đó, một vài chiếc thuyền nan chài lưới phía bờ bên này, cũng như phía bờ bên kia. Tôi biết những người dân “chài lưới” này, dứt khoát không phải là dân b́nh thường. Bởi v́ theo thỏa hiệp Genẻve giữa hai bên: Ranh giới hai miền là giữa gịng sông Bến Hải, và giữa cầu Hiền Lương. Vậy, v́ lư do vô t́nh hay hữu ư, những thuyền này lấn sang khỏi ranh; phía bên kia có quyền bắt giữ. Lúc đó, những người dân chài này không c̣n thuộc quyền kiểm soát của bên bờ cũ nữa.

    Tôi đi sát dọc bờ sông, có chỗ hai bờ cách nhau chỉ chừng ba chục mét. Nh́n thấy cô gái áo nâu, phía bên kia bờ, quần đen lăng xăng, chạy ra, chạy vô tưới mấy luống rau. Ḷng tôi bỗng bâng khuâng, mắt dơi về hướng Bắc xa vời, nơi có Hà Nội cam go đợi chờ. Bất chợt, các cô ấy rối rít vẫy tôi, miệng cười duyên. Ư các cô ấy muốn tôi lội xuống nước, bơi sang. Thấy vậy, ông Hương nói với tôi:

    - Tất cả những người dân tron khu phi quân sự Bắc, đều bị Cộng Sản bắt rời khỏi, ra ngoài 5 cây số, kể từ bờ Bếb Hải. Rồi chúng đưa toàn công an mật vào, làm nhà cửa, cầy cấy, trồng tỉa như thường dân. B́nh hăy dùng ống nḥm nh́n kỹ vào trong rừng sẽ thấy có những vật di chuyển; thậm chí c̣n có người bí mật ngồi trên cây canh gác nữa.

    Đúng như vậy! Sau này, tôi thấy biết bao người vượt tuyến, bị bắt với bao nhiêu t́nh huống cười ra nước mắt ở trong nhà tù Cộng Sản.

    Nh́n chéo xa ca phía bên kia, ngôi nhà thờ Hải Cụ bị rêu phong và cây cối che phủ, chỉ c̣n là một h́nh thù xám xịt, nhô lẫn trong lùm cây xanh. Cảnh hoang liêu cô tịch của nhà thờ khiến ḷng tôi tím thẫm. Tôi h́nh dung đến cảnh sống của người dân Công giáo miền Bắc; hẳn không khỏi khắc khoải tối tăm.

    Ông Hương bổng nói:

    Sông Bến Hải, đi ngược quá vào phía trong; mùa nước cạn, nhiều chỗ chỉ cần xắn quần lội qua cũng được.

    Gịng sông nhỏ bé và nông cạn như thế! Vậy mà nó đủ sức ngăn đôi một dân tộc, trong bao nhiêu năm trường! Đối với một dân tộc có truyền thống thương yêu, đùm bọc của người cùng một nước:

    Nhiễu điều phủ lấy giá gương.

    Người trong một nước phải thương nhau cùng. (Ca dao)

    Vậy, lỗi này do ai?

    Sau khi về tới Sài G̣n, cũng đă gần tới ngày lên đường, do đó, một số công việc c̣n lại cần phải làm khẩn trương và dồn dập hơn. Tôi phải tập xử dụng một số loại thuốc hóa trang, hồng ngoại tuyến…..

    Một điều tôi quên. Khi đi vào đất địch, tất yếu tôi sẽ gặp muôn ngàn điều chưa thể biết. V́ vậy, để pḥng hờ; từ hơn hai tháng trước, Phan đă đưa cho tôi một chiếc nhẫn bạc mặt vuông có khắc chữ thọ. Chiếc nhẫn này, cũng như trăm ngàn chiếc khác; chỉ khác một điểm là, mặt trong có đóng ch́m xuống con số 42. Phan bắt tôi đeo, nh́n cho quen mắt và phải nhớ nhập tâm. Phan cũng c̣n đưa cho tôi một tấm h́nh cỡ 6×9, h́nh chùa Một Cột ở Hà Nội. Phía sau lưng và góc trên của tấm ảnh, có ghi con số 1618 nhỏ xíu bằng bút ch́. Tôi nhớ được con số 1618, v́ nó liên quan đến ngày tôi trao tài liệu M.

    Hơn một tuần sau, Phan lấy lại và hỏi:

    - B́nh đă nhớ chưa?

    Tôi gật đầu, Phan nói tiếp:

    - Nếu sau này, bất cứ ở đâu, thời gian nào và bất cứ ai đưa tấm h́nh này ra; th́ người đó chính là người sẽ trao lệnh của Sài G̣n cho B́nh.

    Một hôm, Dale và Brown đến gặp tôi, bảo:

    - Hôm nay, B́nh sẽ tập xử dụng bút ch́ mật.

    Họ giải thích:

    - Đây là một loại dụng cụ mới nhất trong ngành t́nh báo. Bút ch́ mật nhỏ bằng 2/3 của lơi bút ch́ thường. Dài độ 6- 7 phân, mầu đen xám, không mùi vị. Một đầu hơi vát, nhờn nhợn, giống như một mẩu sợi ni lông thường. Brown và Dale nói là: Mẩu bút ch́ này hiện nay nếu muốn bán cho Cộng Sản hàng triệu nó cũng mua. Nó sẽ phân chất và sẽ biết cách phát hiện những chữ ta ghi, từ đó nó sẽ t́m ra được nhiều sự việc.

    Bởi v́, khi ghi chép, nét chữ không có dấu vết. Muốn đọc, phải dùng một loại hóa chất đặc biệt bôi lên mặt giấy, chữ mới hiện ra. Điệp viên ghi tài liệu mật vào những khoảng trống trên ngay sách báo của địch. Thấy trước mặt, chúng cũng không biết; kể cả mẩu bút ch́ cũng vậy.

    Tôi phải tập biết bằng mẩu ch́ mật này nhiều lần, trong nhiều ngày. Sao cho khi viết, không để lại vết gợn nào trên mặt giấy. Nghĩa là tờ giấy vẫn b́nh thường, và cũng không được mất nét chữ; sau này, khó đọc và khó đoán ra. Khi tôi ra tới miền Bắc, thực tế cho thấy, là thời gian này Cộng Sản chưa hế biết ǵ về bút ch́ mật. Tôi đă giấu mẩu ch́ này tới 1975, khi miền Nam thất thủ, tôi mới tiêu hủy.

    Tôi đă biết rất nhiều loại mực để viết thư mật, nhưng tôi thừa nhận, loại ch́ mật là đơn giản và thuận tiện nhất. Có thể ngày nay, điệp viên của nhiều nước vẫn c̣n dùng.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 13-03-2012, 02:32 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 18-02-2012, 07:28 PM
  3. ĐỚI BỈNH QUỐC B̀NH THIÊN HẠ
    By Tigon in forum Tin Việt Nam
    Replies: 9
    Last Post: 13-09-2011, 05:23 AM
  4. Replies: 2
    Last Post: 31-05-2011, 12:45 PM
  5. CSVN Chạy Mặt "B́nh Luận Viên Giống Cái"!
    By nghiep in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 05-09-2010, 03:57 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •