Tiếp theo
Phần III
ĐIỀU KIỆN NỘI BỘ
Thật ra th́, v́ sự minh bạch của vấn đề tŕnh bày, nên, trong các phần trước, có nhiều điều kiện nội bộ đă được đề cập đến. Dưới đây, chúng ta sẽ xem lại toàn thể các điều kiện nội bộ, và nếu cần sẽ nhắc lại các điều kiện đă bàn đến. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ gồm vào phần này những điều kiện phát sinh ra do sự liên lạc của Việt Nam với các phần tử khác trong xă hội Đông Á, và với các quốc gia đang t́m phát triển. Sự liên lạc, với các quốc gia trong xă hội Đông Á, có thể xem là điều kiện nội bộ của chúng ta, bởi v́ chúng ta là một phần tử trong xă hội đó. Sự liên lạc, giữa chúng ta và các nước đang t́m phát triển, có thể xem là điều kiện nội bộ, bởi v́ trong một thế giới do Tây phương và Nga Sô phân chia ảnh hưởng như ngày nay, chúng ta và các nước đang t́m phát triển, đều ở vào những hoàn cảnh có nhiều điểm tương đồng.
Thật đúng ra th́, trong phần này chúng ta sẽ phân tích tất cả các điều kiện đă, hay có thể, gây cho chúng ta một cái vốn thuận hay một cái vốn nghịch, trong sự thực hiện công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta.
Liên lạc với Trung Hoa.
Từ khi lập quốc, năm 939, đến khi bị sự tấn công của Tây phương và biến thành một thuộc địa của đế quốc Pháp, hai sự kiện hoàn toàn chi phối chín trăm năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Hai sự kiện đó là sự liên lạc với Trung Hoa và công cuộc Nam tiến.
Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trưng Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lư đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đă nh́n nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đă mất một phần lănh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của ḿnh. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.
Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đă nh́n nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, v́ Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.
Quan niệm Trung Quốc.
Ư cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa măn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, th́ các nhà lănh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, t́m cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt ḿnh vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.
Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xă hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xă hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đă bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lănh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đă như vậy th́, ngay bây giờ, ư định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, th́ ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ v́ lư do này mà, năm 1883, Lư Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đă, thay v́ gửi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay v́ cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lư ra phải có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia đôi Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho ḿnh các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc, cũng v́ lư do trên.
Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên.
Họa xâm lăng của Trung Hoa vừa tạm ngưng, v́ sự tấn công của Tây phương, là chúng ta lọt ngay vào sự thống trị của đế quốc Pháp.
Ngày nay, ách thực dân vừa mới cởi được, nhưng cái họa xâm lăng đối với chúng ta không thể v́ thế mà thuyên giảm. Bởi v́ họa xâm lăng, do vị trí địa dư của chúng ta và t́nh trạng nội bộ của chúng ta mà ra, và bao giờ hai yếu tố đó chưa thay đổi được th́ họa xâm lăng vẫn c̣n.
Tâm lư thuộc quốc.
Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lư thuộc quốc.
Hai lần Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ t́m cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lănh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.
Tâm lư thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại c̣n lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, th́ đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lư đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đă đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công tŕnh mà dân tộc đă thực hiện được, Nhưng chúng ta c̣n thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn th́, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đă sớm phát ra nhiều ngơ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đă rộng răi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi đào và hữu hiệu hơn.
Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cơi về phía Nam.
Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lănh đạo triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng răi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là v́ các nhà lănh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nổi không khí tâm lư thuộc quốc đă đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đă biết Trung Hoa đă hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đă lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam.
Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đ́nh, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đ́nh, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho ḿnh.
V́ thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đă tŕnh bày, th́ cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đă mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, th́ có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.
Sự bành trướng của chúng ta đă thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lư ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.
Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, th́ ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lănh thổ.
Lỗi lầm trước đă như vậy đó.
Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đă bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lănh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.
Chống ngoại xâm.
V́ vậy cho nên, chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng răi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa, th́ lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay v́ mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đă đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lănh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.
Chính sách chống ngoại xâm.
Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. V́ sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lănh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?
Trước hết, các biện pháp cổ truyền đă đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vẩn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, th́ như thế là đương phải với mục đích đương nhiên, chúng ta đă thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoăn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. V́ thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đă không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.
Lư do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nh́n nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, th́ nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.
Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.
Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Nếu ư thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm năo của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, th́ các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ư chí quật cường của cả một dân tộc.
Nhưng ư chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lănh đạo th́ cũng không làm ǵ được đối với kẻ xâm lăng.
V́ vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lănh đạo, và, điều này c̣n chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lănh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi v́, có như thế, những người lănh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lănh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.
Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lư luận đă dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.
Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.
Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ư thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Sự thể đă như vậy, th́ đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi v́ bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm năo của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ư chí, dễ điều khiển, dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.
Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lănh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.
Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ư thức của mọi người, th́, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi v́, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lănh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.
Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mănh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay v́ lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đă nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.
Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Măn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lănh đạo đă khêu gợi được ư chí tự do và độc lập của toàn dân.
Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đă nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. V́ những lư do tŕnh bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lư thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lư, mà sẽ được qui định một cách rơ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với tŕnh độ phát triển của dân tộc.
Nếu bây giờ chúng ta chưa có ư thức rơ rệt chính thể ấy phải như thế nào, th́ ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rơ rệt.
Còn tiếp
Bookmarks