Page 2 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 11 to 20 of 48

Thread: QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 TRONG L̉NG NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA

  1. #11
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

  2. #12
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tử huyệt của Đảng : Quân đội



  3. #13
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674


    Chuyến hải hành sau cùng của Hải Quân VNCH

    Tháng 4-1975

    Trần Lư

    LTG: Trong tập sách nhỏ 'Tổ Quốc Đại Dương', viết năm 1999 để tặng một số thân hữu Hải Quân tại Portland, Oregon (Hoa Kỳ), chúng tôi đă dành chương sau cùng để viết về cuộc di tản của Hải Quân VNCH trong những ngày sau cùng của cuộc chiến. Bài viết, khi đó, dựa trên một số tài liệu sưu tầm được (rất hạn hẹp), đa số từ các sách báo Mỹ-Việt ở vào thời điểm chưa có Wikepedia, và Internet chưa phát triển như ngày nay.

    Bài viết đă đưa ra một số vấn đề mà các nhà nghiên cứu Hải sử (trong Hội đồng Hải sử, tập Hải sử Tuyển tập chỉ phát hành vào năm 2004) cho là chưa thật chinh xác, nhất là các đoạn viết về vai tṛ của HQ Đại Tá Đỗ Kiễm., của Ông Richard Armitage trong việc 'tổ chức di tản'..

    Đến nay đă hơn 37 năm, một số tài liệu về cuộc chiến tranh VN đă được giải mật, đồng thời rât nhiều nhân chứng đă sông và đă chứng kiến cuộc di tản viết lại những sự kiện đă xẩy ra.. trên nhiều bài hồi kư phổ biến trên nhiều tạp chi, tập san tại hải ngoại.

    Tựa đề bài viêt ' Cuộc Hải hành sau cùng' có lẽ thich hợp hơn là 'Di tản' (Riêng Tác giả Điệp Mỹ Linh, trong tập Hải Quân VNCH ra khơi, đă dùng một tựa đề khác, rất chính xác là ' Chuyến Ra khơi cuối cùng của Hải Quân VNCH .

    Để tránh việc trùng lập, chúng tôi xin chỉ 'thu gọn' một số sự kiện đă viết trong 'Tổ Quốc Đại Dương'.

    * * *

    Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Việt Nam đă thực sự chấm dứt từ ngày họ kư Hiệp Định Paris (28 tháng Giêng 1973) và số phận VNCH chỉ c̣n là vân đề thời gian. Những lời hứa hẹn 'riêng' của TT Nixon với TT Thiệu về việc sẽ 'can thiệp' khi BV vi phạm Hiệp Định Paris chỉ là..hứa cho có, cho xong việc.

    - Phó Đô đốc (Tướng 3 sao) Chung tấn Cang được chuyển từ chức vụ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô về làm Tư lệnh Hải Quân, nhậm chức ngày 24 tháng 3 năm 1975, Tướng Cang được xem là người 'tín cẩn' của TT Thiệu, và có thể TT Thiệu đă nghĩ dến việc phải di tản Chính phủ về Miền Tây? (Tâm tư TT Thiệu-Nguyển Tiến Hưng trang 125).

    - Ngày 29 tháng 3 năm 1975, VNCH rút bỏ Đà Nẵng : Vùng 1 tan ră và sau đó là những cuộc lui binh liên tục. T́nh trạng Việt Nam Cộng Ḥa vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 ở vào giai đoạn tuyệt vọng.

    - Ngày 21 tháng 4: Tuyến pḥng thủ Xuân Lộc tan ră

    - Ngày 23 tháng 4: TT Thiệu từ chức và sau đó rời VN ngày 25 tháng 4 cùng với cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đi Đài Bắc bằng chiếc phi cơ C-118 (phi cơ riêng của Đại sứ Martin).

    - Tổng Thống kế nhiệm Trần văn Hương, chỉ được 2 ngày đă phải nhường chức vụ TT cho Ông Dương văn Minh (28 tháng 4 năm 1975). Đại tướng Cao văn Viên TTM Trưởng QL VNCH từ nhiệm và ra Hạm đội Mỹ từ 27 tháng 4. Trung Tướng Đổng văn Khuyên, Tổng Tham mưu Phó, xử lư thường vụ TTM trưởng di tản vào 29/4.

    - Chiều 28 tháng 4 Ông Dương văn Minh nhận chức Tổng thống VNCH..

    - Sáng 29 thàng 4, Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu đọc bản văn yếu cầu Hoa Kỳ..rút khỏi VNCH..Kế hoạch di tản hay đúng hơn ..tháo chạy 'Frequent Wind' của HK bằng trực thăng bắt đầu.

    - 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4: Bộ TTM QL VNCH hoàn toàn tan ră và không c̣n ai có thẩm quyền quyết định (Phạm Bá Hoa- Đôi ḍng ghi nhớ, trang 270)

    - 3 giờ chiều 29/4, Tường Vĩnh Lộc vào nhận chức TTM trưởng ... nhưng chẳng c̣n ai.Tường Vĩnh Lộc phong cho bất kỳ sĩ quan nào c̣n lại những chức vụ cần thiết.

    Ngày 24 tháng 4 năm 1975, theo yêu cầu của Phụ tá Bộ trưởng Quốc Pḥng Mỹ Erich von Marbod, Richard Armitage đă đáp chuyến bay cuối cùng của PanAm để đến Sàig̣n với nhiệm vụ 'tối mật' là t́m cách đưa ra khỏi VN các chiến cụ 'càng nhiều càng tốt'. Von Marbod lo phần Không Quân, và Armitage lo phần Hải Quân. (Armitage vốn là một sĩ quan hải quân HK, đă từng phục vụ tại VN 4 nhiệm kỳ liên tiếp, có nhiều liên lạc mật thiết với các sĩ quan hải quân VNCH cao cấp. Tuy chỉ đóng vai tṛ sĩ quan liên lạc giữa HQ Mỹ và HQ VN, nhưng trên thực tế, Ông là một giới chức quan trọng tại Bộ Quôc Pḥng Mỹ)

    Armitage đă t́m gặp HQ Đại Tá Đỗ Kiểm (Tham mưu Phó Hành Quân có trách vụ điều hành và theo dơi các hoạt động của các chiến hạm từng ngày tùy theo kế hoạch hành quân) để hoạch định một kế hoạch di tản tổng quát. Armitage cũng bàn một số công việc với Phó Đô đốc Cang (Counterpart-Đỗ Kiểm trang 198)

    Công việc tổ chức 'di tản' cần phải giữ 'bí mật' tối đa, tránh mọi sự hoảng loạn rất dễ xẩy ra. Để sửa soạn 'ngầm', các cuộc tuần pḥng của HQ được thu hẹp để các chiến hạm tuần duyên có thể được tập trung nhanh hơn. Các nhu cầu tu bổ đại kỳ được tạm ngưng để tập trung tu sửa cho các chiến hạm có thể ra đi được.

    Các Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4, Tuần dương hạm Phạm Ngũ Lăo HQ 15, Hai Hộ tống hạm Kỳ Ḥa HQ 09 và Hà Hồi HQ 13, Dương vận hạm HQ 503 và Hai Hải vận Hạm Ninh Giang HQ 403, Tiền Giang HQ 405 đang nằm trên ụ tàu để đại tu sẽ phải bỏ lại. Số phận chiếc Lam Giang HQ 402 với một máy đang hỏng ... chưa được quyết định..

    Duyệt xét sơ khởi cho thấy khoảng trên 30 chiến hạm trong tổng số 45 chiếc cở lớn của HQ/VNCN có thể ra đi được ... Và số chiến hạm này được phân bố vừa tại bến Sàig̣n, vừa tại vùng biển Vũng Tàu và tại vùng biển Phú Quốc. Việc di tản khó khăn nhất được đặt ra cho những chiến hạm đang đậu tại bến Bạch Đằng, ngay trước Bộ Tư lệnh HQ.


    C̣n tiếp...

  4. #14
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Diễn tiến cuộc Di tản

    Tại Bến Bạch Đằng:

    - Chiều 26 tháng 4, HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn Tư lệnh Hạm đội bị cách chức do tin tức chuẩn bị di tản bị lộ. Người thay thế là HQ Đại tá Phạm Mạnh Khuê.

    - 5 giờ chiều 28 tháng 4, TT Dương văn Minh họp với Phó Đề đốc Tư lệnh phó HQ Diệp Quang Thủy (đại diện Tướng Cang) đồng ư để HQ di tản và gửi theo các Tướng Nguyễn Xuân Hoàng, Mai Hữu Xuân và Đại tá Nguyễn hồng Đài (con rể Ô. Minh). Lệnh di tản HQ được công bố vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29 tháng 4. Thủy thủ được cho phép về nhà sắp xếp và nếu muốn ra đi có thể đem theo gia đ́nh trong khoảng thời gian 2 tiếng đồng hồ.

    Tướng Cang quyết định HQ sẽ chính thức ra đi vào lúc 6 giờ chiều ngày 29 tháng 4 và cuộc di tản dự trù sẽ hoàn tất vào lúc 22 giờ đêm. Điểm hẹn là Côn Sơn.

    Nh́n xuống bờ sông : 8 chiến hạm đang nằm chờ :

    - 5 chiếc tại cầu tàu A (không theo thứ tự): HQ601, HQ11, HQ504, HQ502, HQ501.

    - 3 chiếc tại cầu tàu B đậu từ trong ra ngoài : HQ1 (tại vị tri số 1 gần sát đường lộ, mặt tiền Bộ Tư lệnh HQ, bên cạnh là HQ3 và ngoài cùng là HQ2.

    - Xa hơn nữa là cầu tàu C. Các cầu tàu D và E nằm trong HQCX cách sân cờ Bộ Tư lệnh khoảng 200m.

    - Tại cầu tàu E của Hải Quân Công Xưởng có HQ400 (đậu trước Câu lạc bộ HQ) và HQ500

    HQ402 đậu tại cầu tàu D

    - Ngoài ra c̣n một số chiến hạm thả neo tại Nhà Bè..

    Lúc này bên Bạch Đằng đông nghẹt người đang chờ được di tản.

    Tại Cầu tàu B:

    Tuần dương hạm HQ2 Trần Quang Khải là chiến hạm đầu tiên do HQ Tr/Tá Đinh Mạnh Hùng điều khiển.. tách bến. Trên chiến hạm có Phó Đề đốc Nguyễn Hữu Chí , Phụ tá Hành quân lưu động biển của HQ/VNCH. Trên tàu c̣n có một số tướng lănh như Lâm Quang Thi, Lâm Quang Thơ, Nguyển Bảo Trị, Nguyển Đức Thắng, Phạm quốc Thuần, Nguyển Đức Khánh (KQ) ( theo Nguyễn Kim: Di tản về Miền Tây và Hy vọng ; tuy nhiên trong The Twnty-five Year Century, Tướng Lâm Quang Thi cho biết ông và các Tướng trên được HQ Trung Tá Văn Trung Quan đưa lên HQ1 ?). Sau khi tập trung tại Côn Sơn, HQ2 được giao nhiệm vụ vơt một sà lan, nhưng đă từ chối thi hành; sau đó trợ giúp HQ402 và sau cùng kéo HQ329 ... và sau đó tự động tách riêng không c̣n nhận lệnh từ Hạm đội để đi thẳng đến Subic Bay (Hải sử tuyển tập trang 53-536)

    Khoảng 7 giờ chiều, Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ3 do Hạm trưởng HQ Tr/Tá Nguyễn Kim Triệu điều khiển, rời bờ. Trên chiến hạm có các Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng và Hoàng Cơ Minh. Tàu chở đầy người.

    Khu trục hạm HQ1 Trần Hưng Đạo, tuy được dự trù sẽ là soái hạm, kéo cờ Tư lệnh trên kỳ đài, nhưng chưa tách bến v́ c̣n chờ Hạm trưởng HQ Trung tá Nguyển Địch Hùng vắng mặt, do đón gia đ́nh chưa về đến. Trên tàu đă có mặt Đề đốc Lâm Nguơn Tánh (Cựu Tư lệnh HQ), Phó Đề đốc Nguyễn Thanh Châu. Do dân chúng tràn ngập trên bờ nên các Tướng Cang và Thủy không thể lên tàu. Cuối cùng Phó Đề đốc Châu ra lệnh tách bến (khoảng 8 giờ chiều). Trên đường ra biển, HQ1, do một máy bị hỏng, đă lủi vào bờ và mắc cạn tại bờ hữu ngạn sông Ḷng Tảo, phải nhờ HQ801 (hạm trưởng HQ Tr/tá Nguyễn phú Bá) sau khi nghe lời kêu cứu của Đề đốc Tánh đă quay lại và giúp kéo ra. Sau đó chiến hạm do HQ Đ/tá Phan Phi Phụng điều khiển đă ra đến điểm hẹn Côn Sơn.

    Tại Cầu tàu A:

    T́nh trạng hỗn loạn và căng thẳng diển ra trên bờ. Trong khi đó dưới sông, ba chiến hạm c̣n chờ : Dương vận hạm Qui Nhơn HQ504 đậu ngoài cùng trống trơn v́ Hạm trưởng (HQ Tr/ tá Nguyễn như Phú) không chịu ra đi, và cũng không tách rời để 2 chiến hạm phía trong có thể tách bến. Nhờ uy tín cá nhân, Đại Tá Đỗ Kiểm đă giúp giải quyết t́nh trạng bế tắc kể cả việc dùng tiền VNCH thu góp của người di tản để mua chuộc các thủy thủ của HQ504 chịu tháo giây, dời tàu để các chiến hạm phía trong có thể ra đi.

    Hệ thống chỉ huy của HQ cũng rối loạn: Nhiều Đ/ Tá như Trịnh Xuân Phong 'tự phong' thành Tư lệnh Hạm đội để ra lệnh cho các tàu..phải ở lại. Đ/Tá Trần B́nh Phú (TM Phó Nhân viên), cũng trở thành Tư lệnh Hành Quân để bắt các tàu giữ nguyên vị trí chờ lệnh. Đ/Tá Nguyễn văn Tân (Trưởng Khối An Ninh). Tư lệnh HQ sau cùng (do Tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mu trưởng sau cùng của QL/VNCH, phong) ... cũng xuất hiện để cấm di tản .(?) (T́nh trạng hỗn loạn tại Bến Bạch Đằng cũng như các sự việc xẩy ra được kể lại trong các tác phẩm Counterpart của Đ/Tá Đỗ Kiểm, Hải Quân VNCH ra khơi của Điệp Mỹ Linh và Bút kư 'Di tản về miền Tây' của Phạm Kim)

    Các Tướng HQ Cang và Thủy sau khi không lên được HQ1 đă lên Tuần duyên hạm Tiên Mơ HQ601. HQ601 do Hạm trưởng HQ Đ/úy Trần Minh Chánh (Con Đề đốc Trần văn Chơn, cựu Tư lệnh HQ) điều khiển, tuy đă quyết định sẽ không di tản, ở lại cùng gia đ́nh gồm cả Tướng Chơn, vẫn điều hành chiến hạm và đưa các Tướng Cang và Thủy (trên tàu c̣n có HQ Đ/Tá Nguyễn xuân Sơn, cựu Tư lệnh Hạm đội) ra Vũng Tàu. Sau khi chuyển đoàn, tư lệnh HQ lên HQ3. Hạm trưởng Chánh đă đưa tàu trở lại Bến Bạch Đằng (Trần Minh Chánh-Chuyến hải hành cuối cùng của Chiến hạm PGM HQ 601- Đặc san Lướt sóng số 51) (Tuần duyên hạm PGM là loại tàu nhỏ nhất để được gọi là chiến hạm.)

    Sau khi HQ504 chịu tháo dây: Hộ tống hạm Chí Linh (II) HQ11 cũng ra đi vào khoảng 11 ǵờ đêm, do hạm trưởng HQ Thiếu tá Phạm Đ́nh San điều khiển, mang theo Đại Tá Đỗ Kiểm. Trên đoạn đường từ Sài g̣n ra biển, Ông đă tạm dùng hệ thống vô tuyến của chiến hạm để chỉ huy việc di chuyển của đoàn tàu. (Theo Counterpart, chiến hạm neo bên ngoải HQ11 là chiếc HQ503, trong khi đó theo 'Hải quân VNCH ra khơi' th́ là chiếc HQ504)

    Dương vận hạm Thị Nại HQ502, sau những điều đ́nh với thủy thủ của HQ504, cột giây bên ngoài nhưng không chịu ra đi và sau cùng HQ502 do HQ Tr tá Nguyễn văn Tánh làm hạm trưởng cũng rời bến vào khoảng 1 ǵờ đêm 29, rạng sáng 30 tháng 4. Sau một số trục trặc về máy móc, tàu được sự trợ giúp của một tàu ḍng của Ty Quân Cảng đă ra được giữa gịng sông để theo ra cửa biển. Trên đường đi, vớt được Đ/Tá Trịnh Quang Xuân (Tư lệnh vùng 3 Sông ng̣i) từ một PBR. Sau cùng với t́nh trạng hỏng máy, HQ502 được HQ17 kéo đi Subic Bay. (Phan Lạc Tiếp -'Giă từ Saigon' trên KBC số 19)

    Tại Hải Quân Công Xưởng :

    Các chiến hạm HQ406 và HQ500 rời bến khoảng 2 giờ sáng ngày 30 tháng 4.

    Hải vận hạm Lam Giang HQ402 đang trong giai đoạn tu sửa, đă được một số sĩ quan và thủy thủ sửa chữa gấp rút và sau cùng đă tách bến được vào lúc 3 giờ chiều ngày 30 tháng 4 (sau khi DV Minh đă ra lệnh đầu hàng. HQ Trung Úy Cao thế Hùng đă điều khiển chiến hạm ́ ạch ra đi, chở theo trên 1000 người. 5 giờ chiều ngày 30 tháng 4, tàu c̣n đón được HQ Đ/ tá Lê Hữu Dơng từ một LCM8 và sau đó Phó Đề đôc Nghiêm văn Phú. Sau cùng sáng 1 tháng 5, HQ402 cũng ra được biển Vũng Tàu.. Sau khi liên lạc được với Hạm đội VN và Hạm đội Hoa Kỳ, những người trên HQ402 đă được chuyển sang HQ2 và HQ402 đă được đánh ch́m vào lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng 5 ngoải khơi Côn sơn (Những bài về HQ402 : 'Hải vận hạm Lam Giang HQ 402, một huyền thoại-Điệp Mỹ Linh; 'Chuyến Hải hành cuôi cùng'-Đỗ Kim Bảng-KBC số 60).

    Các Tướng Vĩnh Lộc, Trần văn Trung đến Bến Bạch Đằng vào sáng 30 tháng 4 và dùng một LCM của giang cảnh để t́m đường ra biển. LCM được Tuần duyên hạm Tây Sa HQ615 vớt vào tối 30/4. Nhưng đến sáng 1/5 HQ615 bị hết dầu khi c̣n đang ở trong hải phận Vũng Tàu. Sau cùng được HQ17 chịu quay lại cứu. HQ17 vớt được trên 300 người từ HQ615 và 200 người từ HQ470. Sau đó cả 2 chiếc 615 và 470 đều bị đánh ch́m..

    Tại Nhà Bè :

    Dương vận Hạm Mỹ Tho (HQ800) , do dự định sẽ được dùng làm Bộ Chỉ huy HQ khi cần, nên được trang bị đầy đủ cùng nhân viên cơ hữu. Hạm trưởng HQ Trung Tá Dương Hồng Vơ mới được bổ nhiệm ngày 26 tháng 4, thay vị tiền nhiệm v́ đưa gia đ́nh lên chiến hạm trước (ngày 25 tháng 4). HQ800 nhận lệnh trực tiếp từ Tư lệnh HQ..và cũng lặng lẽ ra đi..

    Tại vùng biển Vũng Tàu :

    Tại vùng biển Vũng tàu, những chiến hạm hiện diện gồm HQ5, HQ802, HQ16, HQ7, HQ12, HQ505, HQ400.Các tàu chở dầu HQ470, HQ471 .Tất cả đều thả neo ngoài khơi..

    Cuộc di tản tại Vũng Tàu tuy không gặp những hỗn loạn như tại Bến Bạch Đằng SàiG̣n , v́ chiến hạm đậu ngoài khơi : dân chúng di tản phải dùng các ghe đánh cá để chạy ra tàu..Tuy nhiên sự ra đi của các chiến hạm..tùy thuộc vào từng Hạm trưởng. Tư lệnh Vùng 3 Duyên Hải, Phó Đề đốc Vũ Đ́nh Đào không có những quyết định chính thức nào về vấn đề di tản. Sáng sớm ngày 29 tháng 4, Ông đă cùng bộ tham mưu lên chiến hạm HQ802.

    Ngày 29 tháng 4, hai Tuần dương hạm Ngô Quyền HQ17 và HQ14 , về đến Vũng Tàu, sau khi được lệnh bỏ dở chuyến tuần tiễu Trường Sa. Trưa 29 được lệnh từ Hải đội 3..cho tự do vận chuyển..toàn quyền tự quyết định, không cần thông báo.. (một h́nh thức..ră ngũ ?) HQ17 do Hạm trưởng HQ Tr/Tá Trương Hữu Quưnh đành quay đầu về hướng Côn Sơn. Tại đây tàu tiếp nhận khoảng 3000 người tỵ nạn..một số thủy thủ xin rời tàu trở về với gia đ́nh.. HQ17 theo đoàn tàu HQ/VNCH di chuyển đi Phillipines, và trong khi di chuyển c̣n trở lại vùng biển Vũng Tàu để tiếp cứu chiếc PGM hết dầu chết máy đang trôi dạt.. Đây là chiếc (PGM) HQ615 có chở trên 300 người trong đó có các Tướng Vĩnh Lộc, Trần văn Trung.

    Dương vận hạm Nha Trang HQ505 (Hạm trưởng HQ Tr Tá Nguyễn văn Nhượng) thả neo bên ngoài Cửa Vũng Tàu..chờ đợi. Từ sáng 28/04, ghe của dân chạy ra rất nhiều và xin lên chiến hạm. Trưa 29, xe tăng tại băi biển Vũng Táu bắn ra nên HQ505 lui ra xa hơn. Trực thăng KQVN cũng đáp xuống. Ngày 29/04, HQ505 rời vùng biển Vũng Tàu theo lệnh' Vận chuyển tự do'.của Vùng 3 Duyên hải di chuyển về Phú Quốc. Tại vùng biển này HQ505 vớt thêm được một số người và quyết định trở lại Côn sơn sau khi đă dàn xếp chuyển những người muốn trở về qua các tàu thuyền đánh cá. HQ505 về đến Côn Sơn trưa ngày 2 tháng 5, lúc này đoàn tàu HQ/VNCH đă đi về hướng Philippines. Sau cùng HQ505 đă liên lạc được với một chiến hạm của HQ Hoa Kỳ và được hộ tống đi Subic Bay (Nguyễn Nhật Cường- 'Tháng Tư, Cả một đời người trước' Biển Khơi Số tháng 4/2009). HQ505 di chuyển về Phú Quốc để đón Tr/Tá Hậu Chỉ huy trưởng căn cứ An Thới đang bị kẹt lại trên đảo. HQ505 đă đón được nhóm này chạy ra biển bằng một LCM8, lúc 5 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5, miễn cưỡng phải nhận thêm những người cùng chạy theo Tr/tá Hậu. Hạm trưởng HQ505 dự trù đi Pháp nên không muốn vớt thêm người tuy nhiên sau đó quyết định đi Phi và những thủy thủ, đoàn viên muốn trở về đă dùng chiêc LCM8 để vào bờ..(Lê văn Mạnh-'Cuộc trùng phùng kỳ diệu'. Tac giả ghi nhầm số hiệu của chiến hạm đă vơt LCM8 là HQ504 thay v́ HQ505, chiếc 504 ở lại Saigon không di tản).

    Tại Căn cứ Hải Quân Cát Lở (nơi trú đóng của Bộ Tư lệnh HQ Vùng 3 Duyên hải) : Phó Đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại đă dùng PCF rời căn cứ để ra Cơ Xưởng hạm Vĩnh Long (HQ802) neo sẵn ngoài khơi vào đêm 29 tháng 4, cùng đi có Tướng Trần văn Nhựt. Trên tàu đă có Tướng Nguyễn duy Hinh và c̣n thêm 2 Tướng Hoàng Xuân Lăm, Phan Ḥa Hiệp được Tướng Nguyễn văn Toàn gửi theo (Hồ văn Kỳ Thoại trong Can trường trong chiến bại). Tư lệnh vùng 3 Duyên hăi cũng di tản trên chiến hạm này. HQ802 rời Vũng Tàu và đi thẳng đến Subic Bay, không đến điểm hẹn Côn Sơn (Giờ thứ 25 của Người linh biển-Nguyễn Hữu Chí trong Hải sử Tuyển tập)

    Hải vận hạm Hát giang HQ400, nhổ neo lúc 3 giờ chiều ngày 24 để lui ra xa. Tàu chở đầy đạn và người. Hạm trưỡng xin lệnh vứt đạn xuống biển, nhưng không giới chức nào ... cho lệnh . Tàu tự di chuyển đi đến điểm hẹn Côn Sơn..

    HQ7 : Khi có lệnh 'tự do vận chuyển' Hạm trưởng quyết định ra đi, nhưng gặp sự chống đối của một số nhân viên nên đă dùng phương thức trao hết tiền trong quỹ dự trữ của chiến hạm đồng thời thả tàu nhỏ (wizard) cho những người muốn trở về vào lại bờ..

    Tại vùng biển Phú Quốc :

    T́nh h́nh Phú Quốc bắt đầu suy sụp khi có tin nhân viên Đài Việt Nam được đưa ra đảo bằng phi cơ. Phú Quốc đă phải tiếp nhận gần 40 ngàn dân tỵ nạn từ Miền Trung..

    Chiều tối (19 giờ 31) Chiến hạm Dubuque của HQ HK đến vùng biển Phú Quốc, để nhận một nhiệm vụ đặc biệt : yểm trợ, tiếp tế xăng dầu cho các trực thăng của KQ VNCH cần bay sang Thái Lan, đồng thời dùng làm Đài Không lưu hướng dẫn cho các phi cơ VNCH di tản sang Thái..

    Ngày 29 tháng 4 , nhân viên Đài Mẹ VN được đưa ra Thương thuyền American Challenger đậu ngoài khơi. Trong vùng biển Phú Quốc c̣n có các thương thuyền và tàu vận tải của Mỹ khác như Greenville Victory, Sergeant Miller, Pionneer Contender. Trên đảo đă trở thành rối loạn hơn. Và sau đó trưa 30/4 khi TT Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng th́ Hải Quân Vùng 4 Duyên hải cũng tự động tan hàng và tự t́m đường thóát thân, chỉ những người thân tín với HQ Đại Tá Nguyễn văn Thiện, Tư lệnh, mới có phương tiện di tản mang theo cả những hành lư 'cồng kềnh'. Đa số nhân viên Hải Quân chạy thoát bằng ghe đánh cá, tiểu đỉnh sang Thái Lan (Nguyễn Tấn Hưng-Trong cảnh sống c̣n) (Nguyễn tấn Hưng c̣n cho biết Tướng Đỗ Mậu và gia đ́nh cũng ở tại trại tạm cư Thái, nhưng không cho biết đến Thái bằng phương tiện nào?)

    Trong những ngày cuối cùng của VNCH, lực lượng Hải Quân tại Phú Quốc gồm 4 chiến hạm:

    - Trợ Chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ230 Hạm trưởng HQ Th tá Nguyễn Nguyên
    - Giang pháo hạm Tầm sét HQ331 (Th/ tá Phan Tấn Triệu)
    - Giang pháo hạm Lôi công HQ 330 (Th/ tá Nguyễn văn Anh)
    - Tuần duyên hạm Minh Ḥa HQ 602 (Đại Úy Ngô Minh Dương).

    Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải có 2 cầu tầu lớn : HQ330 đậu tại cầu phía Nam và HQ230, cầu phía Bắc. Các chiến hạm rời bến ngay khi HQ tan hàng. Đ/ Tá Thiện và gia đ́nh lên HQ230.

    Sau khi tách bến HQ330 chạy ṿng quanh phía Nam Phú Quốc để về điểm hẹn ngoài khơi Ḥn Khoai. HQ331 bị cháy cả 2 máy, trên tàu có khoảng 200 người, nên được HQ330 kéo theo. Sau khi mất liên lạc với nhóm tàu dự trù đến Côn sơn, đoàn tàu 4 chiếc do HQ330 dẫn đầu kéo theo 331, tiếp đó là HQ230 và sau cùng HQ602 quyết định đi Singapore..

    Đoàn tàu thả neo tại Singapore để xin tỵ nạn, tại đây HQ330 tiếp nhận thêm một số người từ 2 LCM của Quân vận VNCH (rời Tân Cảng Sài g̣n ngày 30 tháng 4) cũng vừa đến đây. Tư lệnh phó Vùng 4 DH cũng từ HQ230 chuyển sang HQ330.

    Sau 5 ngày chờ đợi, Singapore từ chối yêu cầu tỵ nạn, cung cấp thêm nước và yêu cầu đoàn tầu rời Singapore. Đoàn tàu quyết định đi Úc. Trên hải tŕnh đi Úc, thủy thủ của HQ602 đă nổi loạn, giết hạm trưởng, vứt xác xuống biển và lái tàu trở về. Khi được tin Úc công nhận MTGPMN, đoàn tàu c̣n lại 3 chiếc đành đi về hướng Philippines. Sau 17 ngày lênh đênh đến được Subic Bay (Nguyễn Hữu Duyệt-'Vùng 4 Duyên hải, những ngày cuối' - Lươt sóng Số 51)

    Tại Cần Thơ (Hạm đội 21) :

    Hạm đội đặc nhiệm 21 Vùng 4 Sông ng̣i được đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng. Bộ Tư lệnh đặt tại Bến Ninh Kiều trong Căn cứ HQ Cần Thơ.

    - Trưa 29 tháng 4, Ṭa Lănh sự Mỹ tại Cần Thơ đă dùng 2 LCM để chở nhân viên di tản ra ngoài khơi. 2 LCM bị chặn lại nhưng sau đó qua sự can thiệp trực tiếp của Tổng Lănh sự Terry Mc Namara Tướng Thăng đă đồng ư để 2 chiếc LCM này tiếp tục ra đi..(theo Marc Leepson trong 'Escape to the Sea', VietNam Veterans of America Publications) th́ khi đoàn LCM bị HQ VNCH chặn xét theo lệnh Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lănh sự MacNamara có mặt trên 1 trong 2 LCM đă từ chối không cho HQ lên lục soát và yêu cầu gặp Phó Đề đốc Thăng để giải quyêt. (MacNamara đă giúp di tản gia đ́nh Tướng Thăng từ nhiều ngày trước) 2 LCM này chở khoảng 300 người Việt, 16 người Mỹ và 6 người Phi. Các LCM này sau đó cặp vào được Thương thuyền Pionneer Contender..đây là chiêc tàu Mỹ duy nhất có mặt trong vùng..)

    - 6 giờ chiều 29/4 Trợ Chiến hạm Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 do Hạm trưởng HQ Th /Tá Nguyễn Hoàng Be chỉ huy được điều động về Bộ Tư lệnh.

    - 10 giờ đêm: Liên lạc với Bộ Tư lệnh HQ tại Sài G̣n, tin trực tiếp cho biết.. Hải Quân VNCH.. ră ngũ..

    - 11 giờ đêm: Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng tập họp nhân viên trong phạm vi Bộ Tư lệnh Hạm đội 21 và công bố tan hàng, tùy nghi quyết định ra đi hay ở lại

    - 0 giờ 20 sáng 30 tháng 4. Những người di tản cùng gia đ́nh xuống HQ228 và HQ228 đi ra biển.

    - 1 giờ 15 phút sáng: Trên đài chỉ huy của HQ228, qua máy khuếch đại âm tần của máy PRC46, tướng Nguyễn Khoa Nam phát ra lệnh 'kêu gọi cácTư lệnh Quân, Binh chủng, quân nhân các cấp không được tự ư rời nhiệm sở sẽ bị kết tội 'đào ngũ trong thời chiến. Tất cả đều im lặng vô tuyến. Trên HQ228 c̣n có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4.(Nguyễn Tạ Quang-'Hạm đội 21, những ngày cuối cùng" - Lướt sóng Số 51)
    HQ231 :

    Trợ chiến hạm Nguyễn đức Bổng HQ231 do HQ Đ/úy Nguyễn Văn Phước điều khiển, 10 giờ đêm ngày 29 tháng 4 có lệnh di chuyền từ Cần Thơ về Căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Khi DV Minh tuyên bố đầu hàng, Hạm trưởng quyết định rời vùng Mỹ Tho, ra đi và ra biển theo đường Cửa Tiểu. Nhân viên và thủy thủ không muốn ra đi đều được đưa vào bờ để tùy nghi di tản.

    HQ 229 :Trợ chiên hạm Lưu Phú Thọ HQ229 cũng rời vùng trách nhiệm ra đi sau lệnh buông súng của DV Minh, tàu đi ngang Căn cứ Đồng Tâm, hương dẫn một số PCF chạy theo sau và cũng theo Cửa Tiểu để đến điển hẹn ngoài khơi Côn Sơn.


    C̣n tiếp...

  5. #15
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Từ Côn Sơn đi Philippines :

    Các chiến hạm VNCH tập trung tại Côn Sơn và hoàn toàn chưa có chương tŕnh..kế tiếp cho đến khi liên lạc với Hạm đội Hoa Kỳ (ngoại trừ HQ802 đă lên đường đi thẳng sang Subic Bay).

    - Ngày 2 tháng 5, Hạm đội HQVNCH gồm 26 chiếc, đặt duới quyền chỉ huy của Tướng Cang, chia thành 3 hải đội :

    Một do Tướng Cang chỉ huy

    Một do Tướng Lâm nguơn Tánh (trên HQ1) chỉ huy

    Một do Tướng Hoàng cơ Minh (trên HQ3)

    Chạy theo đoàn tàu c̣n có thêm 2 tàu đánh cá tư nhân.

    Hải Quân Hoa Kỳ đă thành lập một lực lượng đặc nhiệm: Hạm đội Destroyer's Squadron 23 do Đề đốc Donald Roane, đặt bộ chỉ huy trên Chiến hạm Kirk (DE-1097) để yểm trợ cho Hạm đội VNCH. Các chiếc hạm trong lực lượng này ngoài USS Kirk ( DE-1087), c̣n có USS Tuscaloosa (LST-1187), USS Cook, USS Deliver (ARS-23), USS Abnaki (ATF-96), USNS Lipan (T-ATF-85). Một số chiến hạm khác tuy không thuộc lực lượng đặc nhiệm này nhưng cũng góp phần vào công tác y tế và tiếp liệu cho đoàn tàu VNCH: USS Mobile (LKA-115), USS Balbour County (LST-1195) USS Vega (AF-59) và USS Denver (LPD-9).

    USS Kirk đă trực tiếp yểm trợ cho HQ3, HQ402 trươc khi bị đánh ch́m và thương thuyền Tân Nam Việt..USS Vega tiếp tế cho các tàu YFU-69, HQ3 , HQ800, HQ801..

    Chuyến hải hành từ Côn Sơn đi Phi dự trù sẽ kéo dài trong 5 ngày. Ngay trong ngày đầu, các phi cơ phóng pháo Liên sô đă bay trên đoàn tàu, tuy nhiên không có những hành vi thù nghịch.

    Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ tuy đă sắp xếp trước để yêu cầu Chinh phủ Phi trợ giúp trong việc nhận khoảng 50 ngàn người tỵ nạn Việt và Campuchia tạm trú và sau đó sẽ được chuyển từ Phi sang Guam, nhưng lại không xin phép Chinh phủ Phi để đưa một đoàn chiến hạm đến Subic Bay. Tổng Thống Phi Ferdinand Marcos và Ngoại trưởng Carlos Romulo đều không muốn 'đụng chạm' với Chế độ 'mới' tại Nam VN.

    Trong khi hạm đội VNCH đang từ từ di chuyển về hướng Phi, chính Phủ HK đă t́m được giải pháp: viện dẫn một điều khoản ghi trong các văn kiện chuyển giao chiến hạm từ HK sang cho VNCH là 'chủ quyền của chiến hạm sẽ được giao hoàn lại cho HK khi VNCH không c̣n dùng chung trong các hoạt động quân sự nữa..Và theo tinh thần này th́ đoàn tàu HQ/VNCH nay thuộc HK và có quyền đến Căn cứ Subic Bay. Tuy nhiên Cộng Sản Nam VN cũng chính thức lên tiếng đ̣i chủ quyền trên các chiến hạm đang di tản. Trong khi các cuộc thương thuyết ngoại giao đang tiến hành, HQ/HK đă nghĩ đến việc đưa cả đoàn tàu đi Guam, nhưng với số lượng người khoảng gần 30 ngàn và t́nh trạng thiếu an toàn về kỹ thuật của một số chiến hạm VNCH, kế hoạch này khó thực hiện được.

    Ngày 7 tháng 5, khi đoàn tàu gần đến hải phận Phi, cuộc tranh chấp vể chủ quyền giữa HK và CS Nam VN vẫn chưa được giải quyết. Ngoại trưởng Phi dọa sẽ 'bắt giữ' đoàn chiến hạm nhưng khi Đại sứ HK tại Phi bàn đến số phận của gần 30 ngàn người tỵ nạn trên các tàu sẽ là một'gánh nặng' mà Phi chưa bao giờ ..nghĩ tới và cũng chưa sửa soạn để đối phó th́ Ngoại trưởng Romulo đành chấp nhận giải pháp chuyển các chiến hạm VN thành chiến hạm HK và theo đó trước khi vào lănh hải Phi, đoàn tàu sẽ phài vứt bỏ đạn dược, xóa bỏ tên và số hiệu của từng chiến hạm , thay thế cờ VNCH bằng cờ Hoa Kỳ

    12 giờ trưa 7 tháng 5, những buổi lễ 'hạ kỳ' đă được tổ chức trong trang nghiêm và buồn thảm trên từng chiến hạm VNCH. Mỗi chiến hạm có sự hiện diện của 2 nhân viên HQ HK để nhận bàn giao. Cờ Mỹ được kéo lên, và các tàu nhỏ của HQ/HK tiến hành việc xóa số hiệu..Các quân nhân HQ/VN tự thay bỏ quân phục ... HQ VNCH không c̣n nữa.

    Và nếu theo công pháp quốc tế : 'chiến hạm là lănh thổ quốc gia' th́ VNCH tồn tại cho đến trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975.

    C̣n tiếp...

  6. #16
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Vai tṛ của Richard Armitage và Hoa Kỳ trong cuộc di tản của HQ VNCH

    Theo 'Hải sử tuyển tập' (trang 511-515) trong bài 'Phỏng vấn Phó Đô đốc Chung tấn Cang : Một đời quân ngũ và cuộc lui binh vẹn toàn' một số sự kiện đă được đưa ra :

    'Đoàn tàu VN rời Sài gon, đem theo hầu như tất cả chiên hạm khiển dụng với hơn 27 ngàn quân nhân và đồng bào. Ra đi đúng lúc, không sớm, trước khi quá muộn. Đó là cuộc lui binh đẹp đẽ, đầy kỷ luật' (trên thực tế, chỉ có khoảng trên 10 chiến hạm, ra đi từ Sàig̣n, số c̣n lại từ Vũng Tàu, Phú Quốc ... Cuộc di tản cũng gặp những trường hợp vô kỷ luật như đă mô tả trong phần trên; trong Counterpart trang 208 có kể lại khi Tướng Cang, không lên được HQ1, dự trù làm soái hạm, Đ /tá Kiểm phải thay đổi kế hoạch đưa Tướng Cang và gia đ́nh lên HQ601. Nhưng HQ601 lại do Hạm trưởng Chánh, con Đề đốc Chơn cựu TL/HQ làm hạm trưởng, lúc đầu Đ/ úy Chánh từ chối nhưng sau đó chịu sự thuyết phục yêu cầu giúp để đưa Tướng Cang ra đi. Ngoài ra một câu hỏi được nêu là trong khi Tướng Cang đang ở trên Chiến hạm trên đường di tản, có nhiều Đại Tá đă lên hệ thống liên lạc vô tuyến tự phong là Tư lệnh HQ ra lệnh cho các chiến hạm phải ở lại hay trở vể bến nhưng không thấy Tướng Cang, tuy là Tư lệnh chính thức ban hành lệnh nào cả ?)

    Về kế hoạch di tản, bài viết: 'Khi đất nước đă đến lúc phải tính chuyện đi hay ở, người giúp tôi soạn thảo kế hoạch là ông Chí, ông Sơn, ông Kiểm, ông Luân và ông Khuê.. (Trong 'Counterpart, từ trang 195 đến 199, Đ tá Đỗ Kiểm đă ghi lại khá nhiều chi tiết về kế hoạch di tản, kể cả buổi họp riêng giữa Ông và TướngCang.

    Riêng Ông Sơn (Đ/ tá Tư lệnh Hạm đội, người có 'tần số liên lạc với Hạm đội HK' đă bị cách chức ngày 28/4). Kế hoạch di tản đă được bàn thảo khá nhiều trong bí mật giữa Ông Kiểm và Richard Armitage, kể cả điểm hẹn ngoài khơi Côn Sơn.)

    Về vai tṛ của ông Richard Armitage, Tướng Cang cho biết: "Mới đây có người nói là Ông Richard Armitage lo cho đoàn tàu. Sai. Ông ta chỉ là một sĩ quan liên lạc giữa HQ/HK và đoàn tàu HQ/VNVH không hơn, không kém". Tướng Cang cho biết thêm: "...Khi đoàn tàu vào hải phận Phi, Chánh phủ Phi không cho vào, chính tôi đă đề nghị trả lại tàu chiến cho Mỹ".

    Trong 'Hải Quân VN ra khơi' của Điệp Mỹ Linh, trang 276-277 có bài phỏng vấn ông Richard Armitage (có tên VN là Trần văn Phú) về cuộc di tản của HQ VNCH, sau khi xác nhận là ông tháp tùng Phụ tá Tổng trưởng Quốc pḥng HK Erich von Marbod đến VN để lo di chuyển quân cụ. Những đoạn đáng chú ư như :'..kế hoạch HK giúp HQ di tản rất hạn hẹp. HK chỉ chuẩn bị một cách tổng quát cho một cuộc di tản với nhân số phỏng định chứ không có kế hoạch tỉ mỉ.

    Chương tŕnh giúp HQ/VN được phác hoạ vào giờ phút chót..' 'Lúc đó v́ chính phủ HK chưa dự trù một phương kế nào cho HQ/VNCH cả nên tôi chỉ thông báo với HQ/VNCH là : nếu t́nh thế bắt buộc, hăy cố gắng đến Côn Sơn, tôi sẽ gặp tất cả ở đó' (ghi chú của người viêt: Armitage có cho một số sĩ quan cao cấp HQ/VNCH, biết tần số liên lạc với Hạm đội 7 của HK). Armitage cũng cho biết thêm 'Mọi quyết định liên quan đến Hạm đội VN từ Côn Sơn cho đến Phi đều do những biến chuyển t́nh h́nh lúc đó tạo nên chứ không hề có một sự chuẩn bị nào cả..'.

    Bài viết 'Frequent Wind ' của USS Kirk (Chiến hạm chính đă trợ giúp và hộ tống đoàn tàu VNCH) Association có một số chi tiết về vai tṛ của Armitage. Richard Armitage rời Sàigon chiều 29/4 bằng trực thăng và đáp xuống chiến hạm USS Blue Ridge, soái hạm của Hạm đội 7. Tuy không có giấy tờ tùy thân, ông vẫn yêu cầu gặp Đô đốc Donald Whitmire, Tư lệnh Hạm đội 7 tại Thái B́nh dương, và xin liên lạc với Ngũ giác đài, xác nhận lư lịch đồng thời xin phép trợ giúp HQ/VNCH. Sau khi được phép của Ngũ giác đài, Richard Armitage đă được chuyển từ Blue Ridge sang USS Kirk vào nửa đêm ngày 30 rạng 1/5.

    Tuy chỉ là một nhân viên dân sự, nhưng Armitage vẫn có thẩm quyển đề yêu cầu hạm trưởng USS Kirk, một tướng 2 sao quay tàu trở lại Côn Sơn, nơi tập trung của đoàn tàu VN và sau đó Armitage sang HQ3 để giúp di tản đoàn tàu VNCH đi Philippines. (Richard Armitage sau đó trở thành Phụ tá cho Bộ trưởng Quốc Pḥng HK Colin Powell, thời TT Bush)

    C̣n tiếp...

  7. #17
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tổng kết :

    Theo các bài viết của Tác giả Phan Lạc Tiếp th́ đoàn tàu VN gồm 27 chiếc đă từ vùng tập trung tại Côn Đảo để cùng dự chuyến hải hành cuối cùng đi Phillipines. Cùng đi theo trong đoàn c̣n có thêm 2 tàu đánh cá. Báo cáo của Khu trục hạm Cook về cho TF76 ngày 2 tháng 5 ghi nhận: ' Đoàn tàu di tản của HQVN gồm 26 chiến hạm và một Khinh tốc đỉnh. Vị trí đoàn tàu tại Vĩ độ 09* 35'N và kinh độ 108* 55'E..

    Hải sử Tuyển tập, trang 553: Danh sách các chiến hạm di tản vào tháng 4 năm 1975 liệt kê 43 chiến hạm trong đó có các chiếc trở về như HQ 602, HQ 609 và những chiếc hư hỏng phải đánh ch́m gồm HQ 402, HQ406, HQ604, HQ470 và 702. (xem chi tiết về ngày cuối cùng của HQ406)

    Tập Dự án Hải Sử ghi lại trong đoạn Từ Hạm đội/HQ VNCH sang Hạm đội HQ Phi số hiệu và tên của 30 chiến hạm VN.

    Đối chiếu với các tài liệu ngoại quốc như Jane's Fighting Ships, danh sách các Chiến hạm chạy khỏi VN (bao gồm những Chiến hạm đi theo đoàn từ Côn sơn, hoặc tự đến Subic Bay (như HQ802), hoặc tự tách khỏi đoàn (HQ2), hoặc đến trễ hơn như nhom tàu từ Phú Quốc..) gồm:

    1 Khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ1 (chuyển thành BRP Rajah Lankandula-PS-4)

    5 Tuần dương hạm (WHEC):

    - Trần Quang Khải HQ2 (thành BRP Diego Silang PS-9)
    - Trần Nhật Duật HQ3 (tuy được chuyển giao cho HQ Phi nhưng bị phế thải để lấy các cơ phận thay thế dùng sữa chữa cho các chiến hạm khác của HQ Phi)
    - Trần B́nh Trọng HQ5 (thành BRP Francisco Dagohoy PF-10)
    - Trần Quốc Toản HQ6 (cùng số phận như HQ 3)
    - Lư thường Kiệt HQ16 (thành BRP Andres Bonifacio, PF-7)
    - Ngô Quyền HQ17 (thành BRP Gregorio del Pilar PF-8)

    5 Hộ tống hạm (PCE) :

    - Đống Đa II HQ07(thành BRP Sultan Kudarat PS-22)
    - Chi Lăng II HQ08 (thành BRP Magat Salamat PS-20)
    - Chí Linh HQ11 (thành BRP Datu Tupas PS-18)
    - Ngọc Hồi HQ12 (thành BRP Miguel Malvar PS-19)
    - Vạn Kiếp HQ14 (thành BRP Datu Marikudo PS-23)

    5 Dương vận hạm (LST) :

    - Cam Ranh HQ500 (thành BRP Zamboanga Del Sur LT-86)
    - Thị Nại HQ502 (thành BRP Cotabato Del Sur LT-87)
    - Nha Trang HQ505 (thành BRP Agusan Del Sur LT-54)
    - Mỹ Tho HQ800 ( thành BRP Sierra Madre LT-57)
    - Cần Thơ HQ801 (thành BRP Kalinga Apayao LT-516)

    1 Cơ Xưởng hạm (ARL)
    - Vĩnh Long HQ802 (thành BRP Yakal AR-617)

    3 Hải vận hạm (LSM) :
    - Hát giang HQ400 (thành BRP Western Samar LP-66)
    - Hàn giang HQ401 (dùng lấy cơ phận)
    - Hương giang HQ404 (thành BRP Batanes LP-65)

    3 Trợ chiến hạm (LSSL) :

    - Đoàn Ngọc Tảng HQ228 (thành BRP La Union LF-50)

    - Lưu Phú Thọ HQ229 (HQ Phi dùng để lấy cơ phận thay thế sử dụng cho các chiến hạm khác)

    - Nguyễn Đức Bổng HQ231 (thành BRP Camarines Sur LF-48)

    3 Giang pháo hạm (LSIL) :
    - Thiên kích HQ329

    - Lưi công HQ330

    - Tầm sét HQ331
    (Hai chiếc HQ329 và HQ330 có trong danh sách của HQ Phi, chiếc HQ331 được ghi là..không rơ số phận)
    2 Hỏa vận hạm (YOG)= sà lan tự hành để chở dầu :

    - HQ470 và HQ471

    1 Tuần duyên hạm (PGM) :

    - Ḥn trọc HQ618 (thành BRP Basilan PG-60)

    (Xem chi tiết các chiến Hạm HQVNCH di tản tháng 4 năm 1975)

    Ghi chú :

    Trong danh sách Chiến hạm HQ Phi tiếp nhận vào tháng 5-1975, có một Chiến hạm của HQ Kmer : Chiếc PC Submarine Chaser , số hiệu E-312. Sau đó đổi thành Negros Oriental PS-26. Không thấy có tài liệu nào viết về chiến hạm này khi chạy sang Phi ?

    Trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ230 không ghi trong danh sách trên, nhưng được ghi trong Hải sử Tuyển tập trang 564 là do HQ Tr tá Nguyễn Nguyên làm hạm trưởng, không thuộc đoàn tàu di tản của Bộ Chỉ Huy HQ . Chiến hạm được chuyển thành BRP Sulu LF-49)

    Trong danh sách Hỏa vận hạm YOG HQ Phi tiếp nhận có ghi thêm HQ474

    WPB Chiến đỉnh Huỳnh văn Đức HQ702 đến được Philippines và phế thải tại Subic Bay ngày 19 tháng 5 năm 1975.

    'Dự án Hải sử' không ghi về các PGM HQ600, HQ604 và HQ605, tuy nhiên 'Hải sử tuyển tập' ghi các chiến hạm này có mặt trong đoàn tàu của Bộ chỉ huy HQ (?) : Phú Dự (HQ600), Keo Ngựa (HQ604), và Kim Quy (HQ605) không có tên trong danh sách các chiến hạm HQ Phi tiếp nhận?

    Trần Lư

    http://hqvnch.net/default.asp?id=1581

  8. #18
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tội Ác CSVN Thủ Tiêu Mất Tích 165,000 Quân Dân Cán Chính VNCH

    Đổ Ngọc Uyển

    Mang kẻ PhạmTội Ra Trước Công Lư và Mang Công Lư Tới Nạn Nhân

    Trong tháng 4/1975, cộng sản Bắc Việt - với sự yểm trợ và tiếp vận của khối cộng sản quốc tế - đă mở một cuộc tấn công ào ạt bằng quân sự với chiến xa và trọng pháo vượt qua biên giới, chiếm đóng lănh thổ VNCH một cách phi pháp. Đây là một cuộc xâm lăng của khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai Việt Cộng. Theo công pháp quốc tế, VNCH hội đủ tám tiêu chuẩn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ. Do đó, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đă phạm tội ác xâm lược (the crime of aggression). Đây là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).

    Ngày Thứ Hai, 23/7/07, trên trang mạng của tờ The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đă trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đă kết luận rằng ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đă đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trong toàn cơi Việt Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đă bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người đă bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung b́nh là bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm. Đây là một tội ác h́nh sự mang tính lịch sử vô tiền khoáng hậu của lũ Việt gian cộng sản mà ngàn đời sau phải ghi nhớ.

    Cũng theo cuộc điều tra nói trên, cứ mỗi ba gia đ́nh tại Miền Nam, có một gia đ́nh có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đă có 165,000 người chết v́ bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết v́ bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn c̣n bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đ́nh họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rơ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đă và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà chánh phạm là tên Lê Duẩn… và ba tên đồng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng.

    Điều 7 của Đạo Luật Rome đă định nghĩa tội Thủ Tiêu Mất Tích Người “Enforced Disappearance of Persons” như sau:

    Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia hoặc một tổ chức chính trị, sau đó không nh́n nhận sự tước đoạt tự do của người ta và cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài. “Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time.”

    Theo định nghĩa trên đây, Việt Cộng đă phạm tội ác thủ tiêu mất tích người khi chúng lạm danh chính quyền của quốc gia để đưa ra những thông cáo lừa gạt để bắt và giam giữ một cách phi pháp - dưới cái ngụy danh “học tập cải tạo” – và hành hạ cho tới chết bằng những đ̣n thù của chúng, và tiếp tục chôn giấu hài cốt của 165,000 quân dân cán chính VNCH trong vùng rừng núi với chủ tâm thủ tiêu mất tích. Đây là một tội ác chống loài người (a crime against humanity). Tội ác này thuộc quyền xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Ngoài tội ác đối với những người đă chết, cộng sản c̣n phạm thêm một tội ác chống loài người nữa đối với thân nhân của những người đă chết. Đó là hành động độc ác (inhumane act) với chủ tâm gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Hăy tự đặt ḿnh vào hoàn cảnh của những người mẹ, người vợ, người con… đă có con, có chồng, có cha…bị giam cầm hành hạ cho tới chết và thân xác bị chôn giấu tại một xó thâm sơn cùng cốc nào đó và tuyệt vô âm tín suốt 35 năm nay mới thấu được nỗi thống khổ trong tâm can họ!

    Điều 7 của Đạo Luật Rome đă định nghĩa những hành động độc ác của tội ác chống loài người này như sau:

    Những hành động độc ác có cùng một tính cách với chủ tâm gây thống khổ hay thương tích nghiêm trọng cho thân xác hay cho sức khoẻ về thể chất và tinh thần. “Other inhumane acts of a similar character intentionally causing great suffering or serious injury to body or to mental or to physical health.”

    Theo định nghĩa trên đây, cộng sản đă phạm tội ác chống loài người khi chúng chôn giấu trong rừng sâu 165,000 bộ hài cốt của quân dân cán chính VNCH đă chết dưới đ̣n thù của chúng với chủ tâm gây thống khổ “intentionally causing great suffering” suốt đời cho thân nhân của họ. Đây là cung cách trả thù phi pháp (extrajudicial retribution) của quân thảo khấu sống ngoài ṿng pháp luật. Tội ác này cũng thuộc quyền xét xử của ICC.

    Bổn phận của chúng ta, những người tù c̣n sống sót sau cơn đại hồng thủy là phải cất tiếng nói công chính, nêu rơ tội ác của chúng để mang bọn tội phạm này ra trước công lư và mang công lư đến cho những nạn nhân của chúng. Đây là bổn phận phải làm để trả lại danh dự cho 165,000 quân dân cán chính VNCH đă bị sát hại v́ đ̣n thù của Việt Cộng trong những cái gọi là trại cải tạo và để xoa dịu một phần nỗi đau thương của thân nhân những nạn nhân.

    Hai tội ác chống loài người trên đây của Việt Cộng là những tội ác h́nh sự có tính quốc tế và. được dự liệu tại Đạo Luật Rome. Trước khi đưa bọn tội phạm ra xét xử trước công lư, xin tŕnh bày tóm lược về Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.


    Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The Rome Statute of the International Criminal Court)


    Sau một thời gian dài cố gắng thành lập một Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để xét xử và trừng phạt các cá nhân phạm bốn loại tội ác nghiêm trọng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm gồm:

    1/ tội ác diệt chủng (the crime of genocide),

    2/ tội ác chống nhân loại (crimes against humanity,

    3/ tội ác xâm lược (the crime of aggression),

    4/ và tội ác chiến tranh (war crimes),

    cuối cùng th́ một hội nghị đă được Liên Hiệp Quốc triệu tập tại Rome, Italy trong thời gian từ ngày 15/6/1989 đến ngày 17/7 /1989 với 160 quốc gia tham dự. Sau năm tuần lễ thảo luận và điều đ́nh căng thẳng, 120 quốc gia đă bỏ phiếu chấp thuận Đạo Luật Rome của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế cùng với bẩy quốc gia bỏ phiếu chống (Hoa Kỳ, Do Thái, Trung Cộng, Iraq, Qatar…) và 21 quốc gia bỏ phiếu trắng. Đạo Luật Rome gồm có – ngoài Lời Mở Đầu (Preamble) – 13 Phần (Part) với 28 Điều (Article). Các Điều 6, 7 và 8 liệt kê và định nghĩa các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh. Các Điều c̣n lại nói về quyền hạn, tổ chức và điều hành… của Toà Án.
    Theo quy định, Đạo Luật Rome sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc gia phê chuẩn. Senegal là quốc gia phê chuẩn đầu tiên và quốc gia thứ 66 đă phê chuẩn vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Đạo Luật Rome có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2002. Toà Án H́nh Sự Quốc Tế cũng được mở ra trong năm đó tại The Hague, Netherlands. Hiện nay đă có 110 quốc gia phê chuẩn Đạo Luật Rome và trở thành quốc gia hội viên (State party) của đạo luật này. Quốc hội Hoa Kỳ đă không phê chuẩn đạo luật này, nên Hoa Kỳ không phải là quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome.

    Toà Án H́nh Sự Quốc Tế là một tổ chức quốc tế độc lập, không trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Điều này có nghĩa là Toà Án H́nh Sự Quốc Tế độc lập về quyền tài phán, xét xử. Kể từ ngày 1-7-2002 trở đi, các quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome phải chấp nhận quyền xét xử (jurisdiction) của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế về những tội ác được dự liệu tại Đạo Luật Rome khi những tội ác đó diễn ra tại các nước hội viên. Công dân của các quốc gia không phải hội viên (non State party) gây tội ác trên lănh thổ của các quốc gia hội viên cũng phải chịu sự xét xử của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Công Tố Viên Trưởng của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế (The ICC’s Chief Prosecutor) bắt đầu thụ lư và mở một cuộc điều tra về một vụ án khi nhận được tin tức về tội ác đang diễn ra do các quốc gia hội viên hoặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chuyển tới. Ngoài hai nơi cung cấp tin tức nói trên, Công Tố Viên c̣n có thể nhận tin tức từ các nguồn cung cấp khác như các cá nhân hay các tổ chức ngoài chính phủ (non-governmental organizations).

    Khi tội ác diễn ra trên lănh thổ của một quốc gia không phải hội viên, chỉ có Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mới có quyền chuyển thông tin về những tội ác đó cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Đây là trường hợp đă được áp dụng đối với Sudan, một quốc gia không phải hội viên. Bằng Nghị Quyết số 1593 năm 2005, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đă chuyển tới Toà Án H́nh Sự Quốc Tế t́nh trạng tội ác đă và đang diễn ra tại Darfur. Pḥng công tố đă mở các cuộc điều tra, và ngày 14-7-2008, Toà Án đă ban hành trát bắt giữ Ahmad Muhammed Harun (Ahmed Haroun), Bộ Trưởng Nội Vụ của Sudan và Ali Muhammed Ali Abd-Al-Rahman (a.k.a Ali Kushayb), một tư lệnh dân sự. Hai người này bị quy trách nhiệm về các tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh đă và đang diễn ra tại Darfur. Chính quyền Sudan đă từ chối bắt giữ và giải giao hai nhân vật nói trên cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    C̣n tiếp...

  9. #19
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ngày 14-7-2008, Công Tố Viên Luis Mereno-Ocampo đă tŕnh bày những chứng cứ chứng minh rằng Tổng Thống Sudan phải chịu trách nhiệm về các tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại đă và đang diễn ra tại Darfur. Ngày 4-3-2009, Toà Án H́nh Sự Quốc Tế đă ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Omar Hassan Al-Bashir của Sudan để trả lời trước công lư về năm tội ác chống nhân loại được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome: 1/ Tội giết người (Murder), 2/ Tội huỷ diệt chủng tộc (Extermination), 3/ Tội cưỡng bức chuyển vùng cư trú (Forcible transfer), 4/ Tội hành hạ (Torture), 5/ Tội hiếp dâm (Rape), và hai tội ác chiến tranh được dự liệu tại Điều 8 của Đạo Luật Rome: 1/ Tội cướp bóc (Pillaging), 2/ Tội trực tiếp tấn công có chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào trong cuộc tranh chấp thù địch.

    Cùng với việc ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Bashir, Toà Án H́nh Sự Quốc Tế cũng gửi một công văn yêu cầu nhà cầm quyền Sudan giải giao Tổng Thống Bashir cho Toà Án. Theo Nghị Quyết số 1593 năm 2005 của Hội Đồng Bảo An LHQ đă nói ở trên, chính quyền Sudan có bổn phận phải hợp tác với Toà Án. Tuy nhiên, không có hy vọng chính quyền Sudan sẽ bắt và giải giao Tổng Thống Sudan cho Toà Án. Chính quyền này đă nhiều lần tuyên bố rằng họ không nh́n nhận thẩm quyền của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế.

    Nếu Tổng Thống Bashir không ra tŕnh diện hoặc chính quyền Sudan không giải giao ông này cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế, ông ta sẽ bị coi như một kẻ đang đào tẩu, trốn tránh công lư (a fugitive from justice). Và kể từ nay, khi nào ông Bashir bước chân ra khỏi Sudan, đến một quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome và ngay cả những quốc gia không phải hội viên nhưng sẵn sàng hợp tác với Toà Án, ông ta sẽ bị bắt và giải giao cho Toà Án để trả lời trước công lư về những tội ác mà ông ta phải chịu trách nhiệm.

    Một điều quan trọng cần ghi nhận rằng lệnh bắt giữ để đưa ra toà án xét xử một tổng thống đang tại chức v́ những tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh…là hồi chuông cảnh báo nghiêm khắc cho những kẻ cầm quyền đang phạm những tội ác chống nhân loại có tổ chức quy mô tại Việt Nam như những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng rằng chúng sẽ phải đối diện với công lư bất kể quyền lực và cương vị của chúng.

    Tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH đă hiển nhiên không thể chối căi. Ngoại trừ một số rất ít hài cốt của họ đă đuợc thân nhân t́m cách chạy chọt cải táng, tuyệt đại đa số 165,000 bộ hài cốt c̣n lại đă và đang bị cộng sản chôn giấu để thủ tiêu với chủ tâm trả thù. Chánh phạm của tội ác chống loài người này là tên Lê Duẩn và các thủ phạm tiếp theo là những tên Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Vơ Văn Kiệt, Phan Văn Khải…và ba tên ṭng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Ngoại trừ những tên đă chết, tất cả những tên c̣n sống - sớm hay muộn - sẽ phải ra trước vành móng ngựa để trả lời về những tội ác giam cầm phi pháp và thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và nhiều tội ác khác mà chúng đă phạm đối với dân tộc Việt Nam trong suốt thời gian kể từ khi chúng cướp được chính quyền bằng khủng bố từ ngày 19/8/1945. Đảng cộng sản VN, một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, là một tổ chức tội ác tay sai có tính quốc tế. Sớm hay muộn, tội ác phải bị trừng phạt.

    Ngụy quyền Việt Cộng không kư và phê chuẩn Đạo Luật Rome, nên cộng đồng người Việt hải ngoại không thể trực tiếp chuyển các tội ác chống nhân loại của chúng cho Công Tố Viên của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Tuy nhiên, chúng ta có thể tố cáo tội ác của chúng đến Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ (United Nations Human Rights Council) để yêu cầu uỷ ban này mở cuộc điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH và chuyển thông tin về những tội ác này cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để chuyển tiếp tới Toà Án Sự H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư. Sự kiện này đă có tiền lệ và chúng ta có thể áp dụng.

    Trước dư luận quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế về tội ác trong cuộc chiến tại Gaza, ngày 3-4-09, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ đă mở một cuộc điều tra về tội ác chiến tranh đă diễn ra tại dải Gaza trong cuộc chiến 22 ngày từ 27-12- 2008 tới 18-1- 2009.

    Toán điều tra gồm bốn chuyên viên cầm đầu bởi Thẩm Phán Richard Goldstone. Sau năm tháng điều tra, ngày 29-9-2009, Thẩm Phán Richard Goldstone đă tŕnh cho Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva báo cáo kết quả điều tra gồm 575 trang và kết luận rằng cả Do Thái và Palestine cùng phạm tội ác chiến tranh mang tính chất tội ác chống loài người. Báo cáo yêu cầu Hội Đồng Bảo An LHQ đ̣i hỏi cả hai bên trong cuộc chiến - trong thời hạn sáu tháng - phải điều tra và xét xử những kẻ phạm tội. Nếu hai phe không thi hành, tội ác sẽ được chuyển cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư.

    Ngoài sự kiện kể trên, sau đây là hai trựng hợp điển h́nh về pháp lư quốc tế mà người Việt hải ngoại có thể áp dụng đối với những tên đầu sỏ Việt Cộng khi chúng ra khỏi nước.

    Ngày 14/12/09, trang mạng của báo Guadian.co.uk đă đưa tin về việc Ông Moshe Yaalon, Phó Thủ Tướng Do Thái, đă quyết định không đến tham dự một buổi lễ gây quỹ tại Luân Đôn trong tháng 11/09, sau khi được cảnh báo rằng ông ta có thể bị bắt giữ v́ bị cho là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Quyết định của ông ta được đưa ra trong Tháng 10/09, một tuần lễ sau khi các luật sư của 16 người Palestine đă không thành công trong việc vận động một toà án tại Anh ban hành trát bắt giữ Ông Ehud Barak, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Do Thái, khi ông này viếng thăm Anh v́ bị cho là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza.

    Cũng nguồn tin nói trên cho biết ngày Thứ Bẩy 12/12/09, một toà án tại Luân Đôn đă ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái, cũng bị cho là đă phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Lệnh bắt giữ này đă được hủy bỏ vào ngày Thứ Hai 14/12/09 sau khi được biết Bà Tzipi Livni đă hủy bỏ, không tham dự một buổi hội họp tại Luân Đôn vào ngày Chủ Nhật 13/12/09. Toà án đă ban hành trát bắt giữ Bà Tzipi Livni chiếu theo yêu cầu của các luật sư đại diện cho các nạn nhân người Palestine trong cuộc chiến tại Gaza. Bà Tzipi Livni là thành viên của nội các chiến tranh và bộ trưởng ngoại giao của Do Thái khi diễn ra cuộc tấn công vào dải Gaza vào cuối năm 2008.

    Khi những người Palestine vận động một toà án của Anh quốc ban hành trát bắt giam Ông Bộ Trưởng Quốc Pḥng và Bà cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái khi hai người này đến Anh quốc, họ đă dựa trên nguyên tắc pháp lư quốc tế về quyền xét xử phổ biến “universal jurisdiction or universality principle.” Quyền này dựa trên lập luận rằng tội ác đă phạm được coi như một tội ác chống lại tất cả “a crime against all” và bất cứ quốc gia nào cũng có quyền trừng phạt. Do đó, những nạn nhân và cũng là thân nhân của những người đă bị Việt Cộng thủ tiêu mất tích cũng có thể vận động để áp dụng nguyên tắc pháp lư quốc tế này đối với những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… khi chúng bước chân ra khỏi nước và đến những quốc gia có áp dụng nguyên tắc pháp lư quốc tế về quyền xét xử phổ biến.

    Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam là tổ chức chính danh nhất đại diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại để yêu cầu Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH. Nếu Việt Cộng từ chối không cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ vào Việt Nam để mở cuộc điều tra này, điều đó chứng tỏ rằng chúng t́m cách chốn tránh tội ác của chúng.

    Nếu chúng ta vận động mà LHQ - một tổ chức giữ vai tṛ quan trọng trong việc h́nh thành Toà Án H́nh Sự Quốc Tế - v́ một lư do nào đó, không chuyển những tội ác chống loài người của Việt Cộng cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để thụ lư, chúng ta vẫn c̣n cách đưa bọn tội phạm này ra trước công lư. Sớm hay muộn, chế độ cộng sản vô tổ quốc, phi dân tộc sẽ bị huỷ diệt. Chính những tên đầu sỏ đang tiếm quyền trong nưóc cũng đang thú nhận rằng chế độ của chúng đang tự diễn biến, đang tự chuyển hoá để tự huỷ diệt…Ngày đó không c̣n xa và một chính quyền chính thống của toàn dân Việt Nam sẽ hợp tác với LHQ để tổ chức một toà án h́nh sự đặc biệt có tính quốc tế như Toà Án Đặc Biệt tại Cam Bốt có tên Anh ngữ là Extraordinary Chamber in the Courts of Cambodia (viết tắt là ECCC) đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang v́ các tội ác chống loài người, tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng. Đây là một tiền lệ sẽ được thực thi tại Việt Nam sau này để xét xử những tên chánh phạm Việt Cộng đă phạm bốn nhóm tội ác có tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome trong suốt những năm tiếm quyền của chúng.

    Mang Việt Cộng, bọn tội phạm có tính quốc tế, ra trước công lư và mang công lư tới các nạn nhân của chúng là điều cần thiết bởi v́ công lư là một thành tố không thể thiếu trong tiến tŕnh hoà giải dân tộc. “Justice is an indispensable ingredient of the process of national reconciliation.” Dân tộc Việt Nam đă bị phân hoá và chia rẽ, xă hội Việt Nam đă bị băng hoại trầm trọng bởi những di sản độc hại mà chế độ phi nhân cộng sản đă để lại cho dân tộc suốt 80 năm nay kể từ khi Hồ Chí Minh lén lút du nhập cái chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Mang bọn tội phạm này ra trước công lư là để mang lại hoà b́nh cho xă hội. “Justice and peace go hand in hand.” Sau hết, mang bọn tội phạm Việt Cộng ra trước công lư là một bài học cho các thế hệ tương lai để tránh những vết xe đổ của lịch sử.



    C̣n tiếp...

  10. #20
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Đi Vào Bất Tử


    165,000 quân dân cán chính VNCH đă chết dưới đ̣n thù của cộng sản trong các trại tù cải tạo phải được tôn vinh là những người đă hy sinh v́ chính nghĩa quốc gia dân tộc. Tổ quốc sẽ ghi ơn họ như đă ghi ơn những người chiến sĩ QLVNCH đă chiến đấu và hy sinh ngoài mặt trận để bảo vệ quê hương. Về phương diện tâm linh, tôi không tin rằng những người này đă chết mà chỉ tan mờ đi như h́nh ảnh những người lính trong cái điệp khúc của khúc ballad nổi tiếng một thời mà Đại Tướng Douglas MacArthur đă nhắc đến trong phần cuối của bài diễn văn từ biệt đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19-4-1951. Xin ghi lại nguyên văn và không chuyển ngữ:
    “Old soldiers never die; they just faded away.”

    Cũng xin ghi lại đây và không chuyển ngữ câu kết của bài diễn văn từ biệt nổi tiếng đă đi vào lịch sử của Đại Tướng MacArthur để những người lính chúng ta chiêm nghiệm.

    “And like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, a soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty.
    Good bye,”

    Đây cũng chính là h́nh ảnh của những chiến binh QLVNCH, những người đă đi chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc dưới ánh hào quang dẫn đường của Tổ Tiên Lạc Việt và đi vào bất tử.
    Và những h́nh ảnh hiên ngang đi vào bất tử của người chiến binh QLVNCH khi bị sa cơ trong tay quân thù cũng đă được nhà thơ Cung Trầm Tưởng ghi lại trong bài hành Vạn Vạn Lư được viết tại một trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn vào năm 1977.
    VẠN VẠN LƯ

    (Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)

    Cung Trầm Tưởng

    Ngồi trùm lần bóng tối Mưa về gióng lê thê

    Nh́n mây đi lang thang Nai kêu nguồn đâu đó

    Mây giăng xám hàng hàng Xưa nay tù ngục đỏ

    Trời vào đông ảm đạm Mấy ai đă trở về



    Chấn song đan u ám Vỗ vỗ rơi tàn thuốc

    Sần sùi nhớp nhúa đen Phà khói vào mông lung

    Ran ran nhạc dế mèn Hư vô đẹp năo nùng

    Nhởn nhơ cười chẫu chuộc Nụ hôn đời khốc liệt



    Vỗ vỗ rơi tàn thuốc Cơi sầu ta tinh khiết

    Phà khói vào hơi sương Thép quắc vầng trán cao

    Xa xưa trống lên đường Phong sương dệt chiến bào

    Tiếng quân hô hào sảng Với máu xe làm chỉ



    Nẻo cồn vàng băi trắng Đă đi trăm hùng vĩ

    Sa trường hề sa trường Xông pha lắm đoạn trường

    Tiết tháo quắc đao thương Về làm đá hoa cương

    Chinh nhân ngàn dặm ruổi Gửi đời sau tạc tượng



    Gió lên như địch thổi Uống uốngnguyên hàm lượng

    Đưa ai qua trường giang Sương trong cất đầy ṿ

    Nay cô liêu bạt ngàn Sầu này thước nào đo

    Tiễn ta vào bất tử Khi đao rơi kiếm gẫy



    Đau thương là vinh dự Gió về lay lau dậy

    Chân đi hất hồng trần Sơn khê khói mịt mù

    Anh hùng phải gian truân Ngà ngà nhấp thiên thu

    Hy sinh là tất yếu Bay…bay…vạn vạn lư

    Ngựa phi ḍn nước kiệu… Tráng sĩ hề tráng sĩ!


    Cung Trầm Tưởng

    Hoàng Liên Sơn, 1977


    Trong khi viết bài này, tôi luôn luôn nghĩ đến những người bạn tù đă chết v́ đ̣n thù của cộng sản trong đó có anh bạn tại trại 6, liên trại 2 tại Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi cùng thuộc đội “lao động nặng.” Anh nằm cách tôi một người bạn. Vào một tháng cuối năm 1977, cả đội tù chúng tôi khoảng 50 người phải đi phát quang một khu đồi rộng 300 mẫu để trồng khoai ḿ. Khu đồi này cách trại giam khoảng 15km đường rừng. Ban ngày đi làm khổ sai; đêm đông về, đói và lạnh, chúng tôi phải ngủ trong những túp lều trống gió, mái che bằng những tấm nylon cá nhân, dựng tại chân đồi. Tuy là lính nhưng dáng người anh nho nhă. Trong đầu anh chứa cả một bộ từ điển bách khoa. Năm đó anh chừng 45 tuổi. Sau hai tháng khổ sai tại khu đồi 300, trở lại trại tù ít ngày th́ anh chết v́ suy dinh dưỡng và kiệt sức nhưng tinh thần anh luôn luôn vững mạnh. Giờ này, thân xác anh có thể c̣n đang bị cộng sản chôn giấu tại một góc rừng nào đó trong vùng Hoàng Liên Sơn trong nỗi đau khôn nguôi của vợ con anh. Tên anh là Đặng Vũ Ruyến, Trung Tá, Chánh Sở Địa H́nh tại Đà Lạt.

    Kể từ ngày đó đến nay đă hơn 30 năm, mỗi khi nhớ đến Anh, tôi vẫn không tin là Anh đă chết mà Anh đang bay…bay vào Vạn Vạn Lư, và…fade away…vào nơi bất tử.

    Đỗ Ngọc Uyển
    (Khoá 4 Thủ Đức)
    SanJose, California


    http://www.tonghoi.org/

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 18
    Last Post: 06-05-2013, 05:27 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 13-04-2013, 01:54 PM
  3. Replies: 2
    Last Post: 09-04-2012, 04:43 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 28-04-2011, 06:25 PM
  5. Replies: 1
    Last Post: 26-02-2011, 03:58 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •