Nguồn: Thư Viện Phạm Văn Thành
(tiếp theo Phần 4)
Nguyên tác "'Give Us A Ship': The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975"
by Jana K. Lipman - Tạp Chí American Quarterly Volume 64, Issue 1 (số ra tháng 3 năm 2012)
"‘Hăy để chúng tôi về’: Chuyện những người Việt hồi hương từ đảo Guam, năm 1975"
Lê Tùng Châu dịch
từ trang 17 - hết (trang 19)
""Guam: Ḥn Đảo Dữ""
Cùng với những phản kháng leo thang của người hồi hương, th́ t́nh trạng lănh thổ của Guam bỗng như bị phô bày một cách khó chịu cho chính quyền Guam, thậm chí làm rối cho cả quân đội Mỹ. (73) Guam, với một lịch sử thuộc địa và một vị trí địa dư cách biệt, như đă định h́nh cho cả Mỹ quốc lẫn giới chức chính quyền Guam về tính bó buộc cũng như những triển vọng chính trị cho nơi này, và cũng v́ nói chung hệ thống chính trị Hoa Kỳ đă không thừa nhận sự hiện hữu của Guam, phần nhiều lại cứ để cho tùy nghi. Trong hoàn cảnh tức th́ lúc ấy, các quan chức Guam ngày càng trở nên nản ḷng bởi quyền hạn hạn chế của ḿnh. Họ không muốn ǵ hơn là được thoát khỏi vấn đề hồi hương một lần và cho tất cả, và Thống đốc Bordallo đă cảnh báo trước sẽ giải quyết vấn đề bằng chính thẩm quyền của ḿnh:
“Cuộc sống của cư dân đảo Guam đang lâm nguy. Phải có ngay một giải pháp là rất cấp bách. . . . Những người hồi hương đă khuyến cáo tôi rằng họ sẽ bắt đầu một loạt các hành vi bạo lực liều mạng nếu họ không được về Việt Nam ngay lập tức. . . . Trong ṿng 48 giờ nếu không nhận được chỉ thị của quư vị về vấn đề này, tôi sẽ tiến hành đơn phương một lựa chọn bắt buộc tối hậu. (74)”
Có thể nói phản hồi của chính quyền Mỹ với thông điệp của vị Thống Đốc là cụt ngủn. Ngoại trưởng Henry Kissinger chỉ giục Bordallo hạn chế, đừng họp nhiều với người hồi hương, v́ ông không có thẩm quyền đáp ứng thỉnh cầu của họ (75) Trong diễn biến liên quan, phát ngôn nhân Joseph Ada của Guam dường như bị người hồi hương xúc phạm cá nhân, và ông nhận định các cuộc biểu t́nh phản kháng là "lấy sự sỉ nhục đáp lại ḷng hiếu khách mà họ được ưu đăi" Trong Nghị quyết số 133, Ada chính thức đề nghị tái di dời người hồi hương sang Wake Island, một vùng lănh thổ nhỏ hơn, xa hơn Guam, một vùng đất chưa có tính pháp lư với nước Mỹ nói chung, và bị quên lăng trong quần thể các quần đảo nhỏ ở Thái B́nh Dương của Mỹ. Ada cho rằng người hồi hương đă gây ra chướng ngại nguy hiểm cho cư dân địa phương đồng thời đe dọa cho uy tín quốc tế của Guam. Các Thượng nghị sĩ Guam nhất loạt bỏ phiếu chọn với số thuận áp đảo 12/1 ủng hộ đề xuất này. (76) Tuy nhiên, kết quả bỏ phiếu gần như đạt đồng thuận tuyệt đối việc cưỡng bức trục xuất người hồi hương trong thực tế đă cho thấy rơ sự thiếu quyền hạn của chính quyền Guam. Lực lượng đặc nhiệm liên bang “Interagency Task Force” về người tị nạn, vừa được lập tuy chưa chính thức đă phải hủy ngang v́ không c̣n cần thiết nữa. (77)
Một thành viên của ban lănh đạo người Việt hồi hương tŕnh bày một mô h́nh của tàu Thương Tín I với Thiếu Tướng Kent J. Carroll. Photo by Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ
Trong bối cảnh rối bời đầy biến động ấy, một cấp chỉ huy quân đội Mỹ là Thiếu Tướng Hải Quân Kent J. Carroll, cũng phải lao đao khó xử với t́nh trạng chính trị của Guam và cân nhắc khả năng có nên điều quân đội liên bang đến để dập tắt t́nh trạng bất ổn thuần tính dân sự … hay không, theo Chiến dịch "Garden Plot" (78) Cái tên Garden Plot là một mật mă quân sự -được gợi nên từ những trước tác của nhà văn Geogre Orwell- dùng đặt tên cho một kế hoạch cho phép quân đội có toàn quyền giải quyết những xáo trộn dân sự. Một nghị định về quốc pḥng đă nêu rơ Chiến dịch "Garden Plot" chỉ có thể được tiến hành với sự phê chuẩn chính thức của Tổng Thống. Bởi "Garden Plot" nhất thiết phải được Tổng Thống phê duyệt, Carroll c̣n chỉ rơ rằng "những luật dùng cho trường hợp bất ổn dân sự thông thường không thể dễ đem áp dụng cho Guam." Ông nói tiếp, "thủ tục tiến hành Garden Plot không thích hợp cho t́nh trạng khẩn cấp trong vùng lănh thổ Hoa Kỳ". Trên thực tế, Hoa Kỳ đă không hề định một kế hoạch phiêu lưu nào cho t́nh trạng bất ổn dân sự trên đảo Guam, bởi v́ Guam là vùng lănh thổ chẳng hề được tính đến. Ví dụ, Guam chẳng nằm trong tầm hoạt động của FBI, cả CIA cũng không luôn, và do đó, thực tế là không có khả năng thu thập thông tin t́nh báo nào về Guam cả. (79)
Một nhiếp ảnh gia quân đội Mỹ ghi lại sự tàn phá của Building 519 trên Trại Asan vào tháng Tám năm 1975, đă bị phá hủy bởi người hồi hương Việt trong cơn quá khích chống đối việc bị cầm giữ ở Guam. Photo by Cục Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ
Di sản đế quốc của Guam đă loại nó hoàn toàn khỏi tầm chi phối của pháp luật và các lệnh lạc quân sự Mỹ, và Thiếu Tướng Hải Quân Carroll cũng như các sĩ quan chỉ huy bộ binh đều muốn dễ bề ra tay vụ này. Ông liên tục thúc giục đồng nghiệp ở Washington DC vận động để ông được quyền điều quân đội vào các trại hồi hương nếu những hành vi quá khích c̣n bùng lên nữa. Cuối cùng, cấp trên của Carroll ở Washington đă không đồng ư và từ chối yêu cầu được can thiệp của ông mà chưa được sự chấp thuận của Tổng Thống. Tạm gác qua những xung đột cục bộ, giới chức ở Guam nhận ra nguy cơ c̣n bùng phát các phản ứng thái quá và e rằng các hiệu ứng dây chuyền không hay có thể lan tới từ truyền thông đến dư luận quốc tế nếu lính Mỹ lỡ khai hỏa vào người tị nạn Việt ở Guam. Trong khi các cấp vẫn duy tŕ những tính toán b́nh tĩnh thận trọng, th́ tâm trạng nản ḷng thất vọng của Carroll càng tỏ rơ t́nh trạng mơ hồ của Guam và các mối đe dọa thường trực đến sức mạnh quân đội, cho dù với một chiến dịch nhân đạo đi nữa.
Vào 30 tháng 9/ 1975, UNHCR công bố các cuộc đàm phán với PRG thất bại. Không chút hy vọng PRG hoặc DRV sẽ sẵn sàng chào đón hoặc tạo điều kiện tái định cư người hồi hương tại Việt Nam. Quân đội Mỹ đă sẵn sàng cho việc khởi động chiến dịch "Garden Plot" để ứng phó các cuộc bạo động, bạo loạn, và t́nh trạng bất ổn chung. Để ngăn chặn những bất ổn có khả năng leo thang, Tổng Thống Ford đă tiên phong chấp thuận việc sử dụng tàu Thương Tín I -một con tàu thương mại Việt Nam vốn ban đầu đă đưa người tị nạn tới Guam- để cấp cho người hồi hương trở về. (80)
Người Việt tại Trại Asan tán dương ngay giải pháp này. Những h́nh ảnh trên trang đầu của tờ Pacific Daily News cho thấy những nam thanh niên cởi trần, mặc quần đùi đổ xô nhau ra vào ban đêm, hân hoan vui mừng nhảy cẫng lên. (81)
Trên tất cả, người hồi hương đă cho thấy họ đă hoàn thành ư nguyện của ḿnh; họ đă thắng thế khi áp lực được chính phủ Hoa Kỳ cung cấp cho họ một con tàu theo đúng nguyện vọng. Có lẽ v́ quá chú trọng tới nguyện vọng của người hồi hương cũng như đoán định những nguy cơ dây chuyền có thể lan đến dư luận từ những bạo loạn liều mạng của người tị nạn Việt ở Guam, một trại cầm giữ không xác định được thời hạn trên Guam hay Wake Island, hoặc buộc phải tái chuyển đến lục địa Hoa Kỳ... cuối cùng chính phủ Mỹ đă thừa nhận rằng “Ship Option” là giải pháp tốt nhất. Trong ba tuần tiếp theo, các thủy thủ và thuyền trưởng người Việt làm việc nhiệt t́nh trên tàu, tiến hành chạy thử nghiệm trên biển, đóng gói thực phẩm, tích trữ nước cần thiết cho ba mươi ngày và cho 1.600 người.(82) Thất vọng bởi sự từ chối của PRG, UNHCR cũng thôi, không hậu thuẫn cho Ship Option. Đơn giản là v́ họ không bảo đảm người hồi hương khi đến nơi sẽ được an toàn.
Để bảo vệ tốt nhất chuyến về của người hồi hương, Hoa Kỳ lệnh cho các quan chức của ḿnh "đóng một vai phụ” cho nước Mỹ trong việc này và vẫn giữ thế kẻ ngoài cuộc. Họ muốn tránh đừng để cho sự điều khiển của người Mỹ lộ diện ra chút nào và cứ để tiến tŕnh hiện rơ chất thuần Việt. Các quan chức Mỹ thừa nhận rằng đầy vẻ nghi ngờ trong cái nh́n của PRG với đoàn người hồi hương, PRG cũng coi họ như là những kẻ đă bị đế quốc Mỹ làm đồi trụy. Không có nghi lễ "chính thức, tiễn đưa" ǵ ráo và cũng chẳng phô trương bất cứ thứ ǵ từ Mỹ hoặc người đại diện đảo Guam. Bất kỳ sự kiện chung cục nào cũng phải "diễn đúng chương tŕnh hồi hương" (83)
Những lo ngại của UNHCR và Chính phủ Mỹ đă chứng tỏ là có căn cứ, PRG cứ cố chấp rằng chuyến về của người hồi hương và chương tŕnh Option Ship là vi phạm chủ quyền và quyền lực mới thu được của họ. Nhiều tháng sau khi Sài G̣n sụp đổ, PRG đang mong muốn được Hoa Kỳ công nhận ngoại giao để đạt được tính hợp pháp cũng như các quyền lợi khác nhưng Hoa Kỳ lại không công nhận chính phủ của họ cũng như từ chối các cuộc đàm phán trực tiếp, nên PRG giận dữ trút đ̣n thù vào tàu Thương Tín I và đoàn hồi hương. Với đôi tai dường như hoàn toàn điếc về chính trị, PRG tố cáo chuyến tàu hồi hương là một "kế hoạch nham hiểm"
“Đây là một tội ác mới chống lại nhân dân Việt Nam. . . . PRG kêu gọi những người yêu nước hiện nay buộc phải sống ở nước ngoài phải nhận rơ ư đồ xấu của Hoa Kỳ, đoàn kết với nhau để bảo vệ bản thân và chủ quyền quốc gia, chống lại tất cả những âm mưu xấu xa của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. PRG chính thức yêu cầu chính phủ Mỹ chấm dứt giải quyết vấn đề "người tị nạn" theo cách riêng của ḿnh” (84)
Chính quyền Bắc Việt th́ mô tả sự kiện như là một "hành động mạo hiểm và vô trách nhiệm. . . . Chính phủ Mỹ đă phạm một sai lầm lớn bởi đơn phương và tùy tiện hành động trong vấn đề này" (85)
Trong những cuộc đối thoại với UNHCR trước đây, PRG và Bắc Việt đă nhiều lần sợ chính phủ Hoa Kỳ đă sử dụng phép hồi hương là một mưu đồ để tuồn gián điệp CIA vào lănh thổ của họ (86)
Với vẻ huênh hoang và gạt bỏ ngoài tai những tuyên bố của chính người hồi hương, PRG c̣n trong t́nh trạng đa nghi hết thảy, họ không tin bất kỳ hành động đơn phương nào của Mỹ. Tóm lại, PRG cho rằng Hoa Kỳ đang cố thực hiện ngầm một âm mưu từ bên ngoài nhằm khả năng lật đổ, áp đặt một lượng cư dân vào trong biên giới nước họ và vi phạm cái quyền riêng mà chỉ chính họ mới xác định được những ai có thể và không thể nhập cảnh. Người hồi hương đă thành công trong chiến dịch của họ vừa mới đây, nhưng ngay tại thời điểm này, họ phải đối mặt một chính phủ Việt Nam thù địch và một bối cảnh chính trị thô cứng.
Trong khi người hồi hương chuẩn bị cho chuyến về th́ các quan chức Mỹ đă công bố các báo cáo lập trường hung hăng của PRG và Bắc Việt đến các trại tị nạn. Các vị ấy muốn mọi người nhận ra sự thù địch không hề dấu diếm của PRG về thiện chí hồi hương. (87)
Người hồi hương cũng công nhận khả năng rủi ro đấy, nhưng hầu hết đều kỳ vọng vào một triển vọng tốt đẹp. Một người đàn ông giải thích: "Khi quay lại, chúng tôi phải tuân theo lệnh của chính phủ. . . . Chúng tôi nghĩ rằng khi quay lại, chúng tôi phải dự các chương tŕnh cải tạo v́ tất cả chúng tôi đều là cựu viên chức của chế độ cũ" (88)
Trước khi lên tàu, Hoa Kỳ c̣n đề ra một cơ hội cuối cùng cho người hồi hương nào muốn đổi ư và chịu một hành tŕnh đến Hoa Kỳ chứ không phải là Việt Nam. (89)
Các quan chức Mỹ c̣n lo ngại những bó buộc của Trại Asan đă gây ra một t́nh trạng "nhất quán không b́nh thường" giữa những người hồi hương với nhau như thế, và do đó họ muốn cung cấp một phương thức tùy chọn "giải cứu" vào giờ chót cho người hồi hương nào "muốn bí mật ở lại". (90)
Khoảng hai mươi bốn giờ trước khi khởi hành, các gia đ́nh, cá nhân đều phải qua một sát hạch cuối cùng, kỹ lưỡng, tinh vi và dấu mặt, một "phiên tư vấn" hoàn toàn bí mật với những căn pḥng kín cửa. (91)
Có hai mươi tám người đă đổi ư và quyết định không lên tàu Thương Tín I, thay vào đó họ đă đi đến Hoa Kỳ. (92)
Có điều hấp dẫn là, Lê Minh Tân, một kẻ dẫn đầu đoàn hồi hương từ trại Fort Chaffee, lại là một trong những kẻ đă quyết định quay lại Hoa Kỳ, dù ông đă dẫn dắt bao cuộc tuyệt thực và biểu t́nh liên tiếp. (93)
Trần Đ́nh Trụ nhận xét rằng quyết định của Tân chứng tỏ rằng ông ta đă từng là một điệp viên CIA thứ thiệt. (94)
Trong khi không thể sưu lục tài liệu lưu trữ để t́m hiểu những động cơ thực sự của Tân, có điều không thể không nói là, ông ta đă bị buộc tội cả một cộng sản nằm vùng lẫn một nhân viên CIA! Những cáo buộc đầy mâu thuẫn như thế đă chứng minh thế nào là đa nghi hoang tưởng cũng như thế nào là những đ̣i hỏi phân định rành rẽ rằng có những người Việt các cấp từ phe PRG nằm vùng trong đoàn người hồi hương hay không?!
Tổng cộng có 1.546 người Việt lên tàu Thương Tín I, trong đó có 250 phụ nữ và trẻ em. Trong một đoạn kết thật quá đỗi khôi hài, những thủ lĩnh đoàn người hồi hương đă quên bẵng bức họa chân dung Hồ Chí Minh lại trong trại, và khi họ muốn trưng bày nó trên tàu, lính thủy Mỹ lại mau mắn quay về lấy bức họa đem đến, tạo ra một h́nh ảnh trái ngược nhau và khá khó coi là thủy quân lục chiến Mỹ cùng sánh đôi với Hồ Chí Minh. Một nhân viên quần chúng sự vụ nhận ra ngay một nguy cơ bị chụp ảnh có thể tiềm ẩn nhiều khả năng khó xử về sau bèn ra lệnh lính thủy cứ để thả bức tranh và bảo những hồi hương tự đưa nó lên tàu. (95)
Ngày 17 Tháng Mười năm 1975, con tàu rời bến cảng mà không hề được đặt tên cho chuyến hải hành cũng chẳng được một bảo đảm nào từ PRG rằng nó có được phép cập bến trên đất Việt hay không. Khi tàu đến miền nam Việt Nam trong tháng mười một, PRG đă tống giam hết thảy đoàn người vào trung tâm huấn luyện Đồng Đế gần Nha Trang. Không hề được nêu lên trong giới báo chí quốc tế, đoàn người hồi hương như thể bỗng dưng bị nuốt chửng vào hệ thống các trại tù cải tạo xuyên suốt miền Nam Việt Nam. (96)
Trần Đ́nh Trụ nhớ lại được đưa lên bờ và nghe diễn thuyết về chuyện ông đă bị "đế quốc Mỹ tẩy năo" ra sao. Các quan chức Việt [cộng] sau đó đă hỏi cung ông và buộc tội Trụ với tư cách thuyền trưởng, đă dẫn đầu tiếp tay cho một âm mưu của Mỹ đối với Việt Nam. (97)
Thật là mỉa mai hay bi kịch thay! Giờ đây, thực tế người hồi hương đă trở thành tù nhân của chiến tranh, (98) cuộc biểu t́nh trước đó và khẩu hiệu của họ nhằm vào người Mỹ rằng họ không phải là tù binh chiến tranh đă biến thành sự thực đáng buồn và rằng PRG [1975], và sau đó là chính phủ thống nhất của Việt Nam [1976], đă xếp loại đoàn người trở về như là kẻ cựu thù và là những công dân không thể tin được.
Trong cuốn hồi kư của Trụ, ông kể lại đă ở hơn mười hai năm trong một trại lao động cưỡng bức tại Việt Nam, nơi đă tàn phá cả tâm hồn lẫn thể xác của tù nhân.
Căn cứ vào nguồn tài liệu mà tôi có được, thật không thể biết được thực tế những người hồi hương khác đă phải bị giam trong các "trại cải tạo" bao lâu.
Cùng việc Trụ có lẽ đă bị trừng phạt nặng nề v́ địa vị cao của ông trong Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa, lại là thuyền trưởng Thương Tín I…nói chung các trại cải tạo khác đều cho tù nhân khẩu phần ăn chết đói và đối xử tàn bạo tùy tiện.
Sau sáu tháng tù đầu tiên, Trụ, được chính quyền cách mạng cho phép ông viết thư về gia đ́nh, và thế là vợ ông bắt đầu gửi cung cấp định kỳ để giúp ông chống chọi trong nhà tù. Sáu năm sau, chính quyền cho phép vợ đến thăm ông tại một trại tù ở miền bắc. Trụ thấy những khó khăn và chi phí của chuyến đi thăm tù quá khủng khiếp, bởi một khi vợ đă tận dụng các nguồn lực để gửi vào tù cho ông tức có nghĩa con cái ông ở nhà sẽ bị thiếu đói. Ông đă viết kể lại nhiều chuyện về cưỡng bức lao động, chế độ ăn chết đói, bị giám sát thường trực, và "cải tạo" của cộng sản là thế nào.
“Năm tháng trôi qua và chúng tôi vẫn cứ sống trong một thế giới rất ḱ lạ, giống như côn trùng, như động vật hoang dă, trong điều kiện khắc nghiệt, áo quần tả tơi, làm việc lao khổ dưới họng súng AK-47. Đôi khi tôi đă gặp cơn ác mộng khi ngủ và khi tỉnh dậy toát mồ hôi lạnh, nhưng nh́n lại xung quanh, tôi thấy thực tế ấy thậm chí c̣n đáng sợ hơn, và ư thức rơ rằng chúng tôi đang sống ở một nơi khủng khiếp nhất trên hành tinh. (99)
Ông kết luận, "Tôi thấy giận sôi lên trong ḷng. Nếu chọn đi Mỹ, tôi đă có thể để giúp gia đ́nh ḿnh. Bây giờ th́ đă quá muộn. Tôi chỉ c̣n biết oán trách số phận". (100) Rồi ông cũng được thả vào ngày 13 tháng 2 năm 1988, thế là sau cùng ông cũng được đoàn tụ với vợ. Ba năm sau, ông được đưa vào chương tŕnh H. O. (Humanitarian Operation) và cùng vợ con rời Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Phần kết
Từ trong căn để, chuyện sử những người hồi hương Việt nhấn mạnh tính năng động của những kế hoạch bất ngờ cùng với sự kiên tŕ của đế quốc Mỹ. Mặt khác, nó là một phản bác rơ ràng và đầy thách đố những bản tường tŕnh phổ biến được nhiều người tưởng là đúng về di dân người Việt. Không những không thụ động, vô vọng, hay từ chối không nhận viện trợ và thiện chí giúp đỡ, người hồi hương c̣n cho thấy nơi họ một mảng ấn tượng của kỹ năng chính trị và khả năng vạch chiến lược một cách có tổ chức.
Các bức ảnh của những người tị nạn Việt, đáng kể là ngay trong căn cứ quân sự Mỹ, tận dụng h́nh ảnh Hồ Chí Minh và cạo đầu tranh đấu …vẫn làm người ta kinh ngạc. Những h́nh ảnh này xuất hiện rộng răi trên các tờ báo ở Guam, nhưng các báo trong lục địa Hoa Kỳ th́ không sao lại, và ngành ảnh của quân đội vẫn c̣n lưu trữ chỉ trong các Báo cáo “After Action” c̣n nơi danh mục của cục lưu trữ.
Hơn nữa, cách tổ chức chính trị của họ và sự công nhận đầy thuyết phục từ nhiều người Mỹ từng nghe họ diễn thuyết…đă nói lên kiến thức hiểu biết và sự tháo vát của người hồi hương. Câu chuyện của họ nổi rơ động thái biết cân bằng giữa hai thái cực cộng sản và chống cộng, nhưng cuối cùng tiếc thay họ đă tránh né không xong t́nh trạng 2 mặt đối lập ấy khi đối mặt với một Việt Nam vừa mới đổi chủ đầy bất trắc và hận thù.
Đồng thời, những câu chuyện của người hồi hương cũng thách thức các học giả nhận ra tính bao hàm của những vùng đất ở "bên ŕa" ngoại vi của đế quốc Mỹ. Câu chuyện hồi hương Việt Nam cũng hút sự chú ư đến đảo Guam và việc dùng nó như một trại tị nạn hay một nơi cầm giữ. Lịch sử của nó cũng phát huy vai tṛ tương liên giữa đế quốc với căn cứ quân sự Mỹ, với các việc trục xuất, và giam giữ. Những ḍng lưu động mới vừa qua của đế quốc và đoàn di dân lại đi đến kết cục trong những diễn biến không thể đoán trước, nhưng cuối cùng đoàn người cũng đă thông tri được cho nhau và đă gây được tiếng vang thời bấy giờ
Người hồi hương Việt nào phải chỉ là đoàn dân cư duy nhất đi t́m chính ḿnh "ở giữa ḷng" những di sản của đế quốc và chiến tranh. Nhà nhân chủng học David Vine đă viết một cuốn sách mới hấp dẫn về cách mà chính phủ Anh trục xuất khối dân cư bản địa Chagossians ra khỏi Diego Garcia để lấy đất làm đường cho một căn cứ hải quân Mỹ ở Ấn Độ Dương. Dân Chagossian bị cấm sinh sống, thăm viếng, hoặc làm việc trên đảo, trong khi căn cứ ấy nay là vùng trọng điểm của chiến lược quân sự của Mỹ ở Afghanistan và vùng Trung Đông. (101)
Có lẽ dễ thấy hơn cả là việc chính phủ Hoa Kỳ cải đổi các căn cứ hải quân ở vịnh Guantanamo (GTMO) –vùng đất đặc biệt dự phần với nguồn cội lịch sử của Guam từ 1898- thành một trung tâm được cho là nơi giam giữ những "chiến binh thù địch" vào năm 2002. Tuy nhiên, ngay cả trước sự kiện 11 tháng 9 [2001], GTMO đă là một trại tị nạn gây nhiều tranh căi, tại nơi này Hoa Kỳ đă giam giữ những người Cuba và Haiti. Sau khi trận động đất Haiti năm 2010, chính phủ Mỹ lại sửa soạn cho GTMO thành một trại tị nạn vốn đă được biết tiếng nhiều từ thập niên 90’s. (102) Sau hết, Guam cũng đă từng được dùng như một trạm trung chuyển người tị nạn thời Chiến tranh Lạnh. Vào cuối Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, chính phủ Mỹ với việc t́m chốn dung thân cho người Kurd (ở Iraq) tị nạn [tạm trên đảo Guam], qua đó tung ra một thông điệp cho "quá tŕnh h́nh thành" căn cứ không quân Andersen biệt lập ở Guam, rồi mới tái định cư họ ở Hoa Kỳ. (103) Lộ tŕnh qua lại này giữa Iraq, Guam, và Hoa Kỳ hiện vẫn c̣n hoạt động với các phiên dịch cảm tử người Iraq và các đồng minh của Mỹ. (104)
Là kết quả hẳn hoi chứ chẳng phải mang chút ǵ dị thường hoặc nhằm minh hoạ cho một câu chuyện khả tín, lịch sử của những người Việt hồi hương trên Guam báo hiệu nhiều hướng hội tụ giữa các hoạt động di cư và quân sự trong thế kỷ XX và XXI. Quá tŕnh lịch sử xưa chưa được biết đến của Mỹ nay như dội ngược về trong hiện tại, với bóng dáng những đoàn di dân trong đó, hoặc từ xa chuyển đến, hay bị cầm giữ… cho thấy sự sa lầy của đế quốc và các chính sách ứng biến cuốn theo con người vào trong. Với tính khác biệt rơ ràng từng trường hợp, người ta có thể h́nh dung ra nào là người Chagossians, những người bị cầm giữ ở GTMO, người Kurd ở Iraq, nạn nhân động đất Haiti, và người hồi hương Việt… để khả dĩ phác họa một nhân dáng cường quốc quân sự Hoa Kỳ.
Câu chuyện phức tạp, đầy sống động và nhuốm màu bi kịch của người hồi hương Việt đă nhấn mạnh một điều cấp thiết rằng chúng ta không nên dễ dăi chấp nhận những tường tŕnh cứng nhắc về “cứu hộ” và về “cách mạng”. Ở trên Guam, xa biệt gia đ́nh, cũng chẳng biết rồi sẽ về đâu, lúc đó người hồi hương đành phải lấy một lựa chọn, hoặc hay hơn hoặc tồi hơn… bằng vào vốn hiểu biết chủ quan của ḿnh. Những lựa chọn ấy trở nên đầy nguy hiểm, gồm cả hy vọng, lẫn thất vọng, may mắn và rủi ro, do đó có thể nói, nó chẳng tương đồng tí nào với những tường tŕnh của người Mỹ về cứu nạn cũng như những tường thuật của người Việt [cộng] về cái gọi là "chống chủ nghĩa đế quốc", câu chuyện của người hồi hương bộc lộ một mớ ḅng bong rối rắm của những t́nh huống bất ngờ và những chính sách tạm bợ bất nhất đă cuốn những kẻ nạn nhân của nó vào trong.
Tài liệu tham khảo liệt kê bởi tác giả
73. “Intermediary Needed . . . ,” PDN, August 21, 1975. For an excellent work on the colonial history of “Devil’s Island” and its reincarnation into a French satellite station, see Peter Redfield, Space in the Tropics: From Convicts to Rockets in French Guiana (Berkeley: University of California Press, 2000).
74. US Secretary of State to US Mission Geneva, July 19, 1975, RG 59, 1975STATE170890.
75. Secretary of State to RUMTBK/AmEmbassy Bangkok, Re: Repatriates, July 23, 1975, RG 59, 1975STATE170895.
76. McLaughlin, “Ada Resolution Passes Senators,” PDN, September 6, 1975; Resolution No. 133, Relative to Respectfully requesting the President of the United States to Transfer the Vietnamese Repatriates from Guam to Wake Island, September 5, 1975, Thirteenth Guam Legislature, 1975–1976.
77. “Task Force Replies ‘No’ to Wake, Ship Ideas,” PDN, September 8, 1975.
78. Civil Disturbance Plan—Garden Plot, December 13, 1975, RG 319, box 2, folder Situation Sum-maries December 13–30, 1975; Briefing Outline for US of A, October 15, 1975, RG 319, box 16, folder Message Traffic for Repatriate Situation on Guam.
79. Civil Disturbance Plan—Garden Plot.
80. Julia Taft to Secretary Kissinger, Repatriates, September 28, 1975, RG 59, 1975STATE231099.
81. “Repatriates Will Get a Ship to Sail Home,” PDN, October 1, 1975.
82. David L. Teibel, “Viet Vessel Resounds with Work,” PDN, October 10, 1975.
83. Secretary of State to JCS, Repatriate Ship, October 17, 1975; Secretary of State to RUHNSAA/ CINCPACREP, Re: Plan for Public Affairs Handling of Vietnamese Repatriate on Guam, October 12, 1975. All documents in RG 319, box 16, folder Message Traffic for Repatriate Situation on Guam.
84. George R. Blake, “‘Sinister Scheme’ How PRG Views Ship Plan,” PDN, October 5, 1975; “Ship, Repatriates Can Enter Vietnam, Agency Reports,” PDN, October 27, 1975.
85. “Repatriation ‘Irresponsible,’ North Vietnam,” PDN, October 18, 1975.
86. Secretary of State to AmEmbassy Helsinki, RE: Action Memorandum: repatriation of Vietnamese Refugees, September 4, 1975, RG 59, 1975STATE208902.
87. Secretary of State to US Mission Geneva, Re: Vietnamese repatriates, October 6, 1975, RG 59, 1975STATE237422; Tran Dinh Tru, Vietnam Thuong Tin, 210.
88. Ed Kelleher, “Ship’s Port Undetermined,” PDN, October 15, 1975.
89. Secretary of State to CINCPAC, Re: Meeting with Repatriate Leadership Committee, October 9, 1975, RG 59, 1975STATE241102; Secretary of State to CG Fort Chaffee, et al., re: Guidance on Counseling Repatriates, October 2, 1975, RG 59, 1975STATE235686; Julia Taft to Admiral Carroll, Re: Guidance on Out Processing and Departure of Repatriate Ship, October 13, 1975, RG 319, box 16, folder Message Traffic for Repatriate Situation on Guam.
90. Secretary of State to CINCPACREP GUAM, RE: Final Out-Processing Procedures for Camp Asan Repatriates, Preliminary Scenario, October 10, 1975, RG 59, 1975STATE242815.
91. Ibid.
92. Secretary of State to CINCPCREP Guam, Re: Repatriates, October 21, 1975, RG 59, 1975STATE249847.
93. COMNAVMARIANAS Guam to RHMBR/CINCPACFLT Re: Return of VN Repatriates by Ship—Si-trep Seven, October 9, 1975, RG 319, box 16, folder Message Traffic for Repatriate Situation on Guam.
94. Tran Dinh Tru, Vietnam Thuong Tin, 292.
95. Jim Eggensperger, “Repatriate Ship Leaves to an Uncertain Future,” PDN, October 17, 1975.
96. December 13, 1975 Subj: Vietnamese repatriates in Nha Trang, RG 319, box 2, folder Situation Summaries December 13 – 30, 1975. Thompson, Refugee Workers in the Indochina Exodus, 66–73. See also Freeman, Hearts of Sorrow; Toai and Chanoff, Vietnamese Gulag; Vo, Bamboo Gulag; Pham,
Eaves of Heaven.
97. Tran Dinh Tru, Vietnam Thuong Tin, 327–31.
98. I’d like to thank the participants in the 2010 NYU Symposium on the Politics and Poetics of Refugees for sharpening this insight.
99. Tran Dinh Tru, Vietnam Thuong Tin, 396.
100. Ibid., 402.
101. David Vine, Island of Shame: The Secret History of the U.S. Military Base on Diego Garcia (Princeton, N.J.: Princeton University Press, 2009).
102. Kirk Johnson, “Urban Evacuees Find Themselves among Rural Mountains,” New York Times, September 7, 2005; Isabelle Wilkerson, “Scattered in a Storm’s Wake,” New York Times, October 9, 2005; “Haiti Earthquake: US Army Prepares Guantánamo Bay,” Daily Mail, January 21, 2010. See also Jana K. Lipman, Guantánamo: A Working-Class History between Empire and Revolution (Berkeley: University of California Press, 2009).
103. Eric Talmadge, “Kurds First Stop to U.S.: Guam,” Seattle Times, April 7, 1997, http://community. seattletimes.nwsourc e.com/archive/?date=19970407&slug= 2532708 (accessed May 28, 2009).
104. In response to the current U.S. war in Iraq, the List Project has proposed a “Guam option,” whereby Iraqi allies who fear for their lives because of their association with Americans would be transferred to U.S. military bases in Guam as an interim location before being admitted into the United States. List Project, “What Is the Guam Option?” http://www.thelistproject.org/guam/ (accessed August 20, 2010) and http://thelistproject.org/withdrawal/ (accessed June 8, 2011).
Văn bản nguyên văn:
“Give us a Ship”: The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975 - By Jana K. Lipman
“Guam: The Devil’s Island”
As repatriates’ protests escalated, Guam’s territorial status grated on the Guamanian government and even confounded the U.S. military.73 Guam’s isolated geography and colonial history shaped U.S. and Guamanian officials’ political constraints and possibilities, and because the U.S. political system did not generally recognize Guam’s existence, much was left to improvisation. In the short run, Guamanian officials became increasingly frustrated by their own limited authority. They wanted nothing more than to be rid of the repatriate problem once and for all, and Governor Bordallo threatened to take the matter into his own hands:
The lives of the people of Guam are in jeopardy. Immediate action is imperative. . . . the repatriates advised me that they will initiate a series of violent acts at the risk of their lives if they are not moved to Vietnam immediately. . . . If I do not receive word from you con-cerning this matter within 48 hours, I shall proceed unilaterally with the latter alternative.74
The U.S. response to the governor was curt, to say the least. Secretary of State Henry Kissinger urged Bordallo to limit his meetings with the repatriates, since he had no power to grant their demands.75 In conjunction with this dispute, Guam’s speaker of the house Joseph Ada seemed personally insulted by the repatriates, and he characterized the protests as “an affront to the hospitality which has been freely offered them.” In Resolution No. 133, Ada formally proposed the repatriates be removed to Wake Island, an even smaller and more remote unincorporated territory in America’s generally forgotten Pacific archipelago. Ada argued that the repatriates posed a safety hazard to local civilians and a threat to Guam’s international reputation. The Guamanian Senate concurred and voted twenty to one in overwhelming favor of this proposal.76 However, this near unanimous vote to forcibly deport the repatriates in fact underscored the Guamanian government’s lack of sovereignty. The Interagency Task Force on Refugees, an unelected federal task force, shot down the “Wake option” as untenable.77
(continue below...)
Bookmarks