Được ví như “mũi giáo và tấm khiên” trên trận địa, máy bay Chiến đấu cơ và radar đang trong cuộc đua khắc chế lẫn nhau chưa có hồi kết.
Gần đây, truyền thông Quốc tế đưa tin Nga đang đẩy mạnh việc phát triển hệ thống chống máy bay tàng h́nh tối tân, được mệnh danh là “áo giáp radar”. Trùng hợp thay, Mỹ cũng gần như lập tức hé lộ ư định nghiên cứu chiến đấu cơ thế hệ thứ 6 có khả năng tàng h́nh vượt trội hơn nữa. Có thể nói, đây là những diễn biến mới nhất trong cuộc cạnh tranh giữa hai loại khí tài quan trọng này.
Chiến đấu cơ đi trước
Chiến đấu cơ phản lực F-86 Sabe (thế hệ thứ 1 )của Không lực Mỹ : 1 October 1947 - 31.12 1959 - Ảnh: Wikipedia ( 1994 with Bolivia )
Chiến đấu cơ -Oanh tạc cơ F-105 Thunderchief -Thần sấm (thế hệ thứ 2 ) của Không lực Mỹ : 22 October 1955 -25 February 1984 - Ảnh: U.S Air Force
Thunderchief in flight with a full bomb load of sixteen 750 lb bombs on its five hardpoints
Chiến đấu cơ F-15 Eagel thế hệ thứ 3 của Không lực Mỹ 1976-2025 - Ảnh: U.S Air Force ( Hiện nay nâng cấp lên thành thế hệ thứ tư )
Chiến đấu cơ F-16 Fighting Falcon thế hệ thứ 4 của Không lực Mỹ 1989- -- -
Chiến đấu cơ F-22 Raptor : Stealth air superiority fighter thế hệ thứ 5 của Không lực Mỹ hiện nay - Ảnh: U.S Air Force
Chẳng bao lâu sau khi đạt bước phát triển đột phá vào đầu thế kỷ 20, máy bay nhanh chóng được đưa vào sử dụng trong Thế chiến 1. Theo cuốn The First Air Campaign: August 1914 - November 1918 (Chiến dịch không quân đầu tiên 8.1914 - 11.1918) của 2 tác giả Eric Lawson và Jane Lawson, chiến đấu cơ giai đoạn này c̣n khá thô sơ. Ban đầu, máy bay có động cơ “chong chóng” chỉ được dùng vào công tác do thám và trang bị những loại vũ khí đơn giản như súng máy, bom được điều khiển thủ công. Tất cả các thao tác của phi công đều đơn thuần dựa trên tầm quan sát bằng mắt.
Tuy nhiên, sau khi chứng tỏ ưu thế rơ ràng trên chiến trường, máy bay chiến đấu nhanh chóng được tất cả các bên tăng cường đầu tư phát triển. Bước đột phá tiếp theo là chiến đấu cơ thế hệ 1 ra đời với động cơ phản lực cùng nhiều cải tiến về kiểu dáng, thiết kế để đạt được tốc độ lớn, tầm bay xa hơn. Từ vận tốc chỉ xấp xỉ 180 km/giờ bằng động cơ cánh quạt, một số ḍng sử dụng động cơ phản lực đă đạt được tốc độ 600 - 700 km/giờ vào năm 1944. Những phiên bản thế hệ 1 ra đời năm 1950 có thể bay ở tốc độ 1.000 km/giờ. Cải tiến về tốc độ đặc biệt đột phá ở thế hệ 2 khi vượt ngưỡng gấp đôi vận tốc âm thanh, ví dụ như Chiến đấu cơ , Oanh tạc cơ ném bom F-105 Thần sấm của Mỹ. Từ đó đến nay, máy bay chiến đấu chưa đạt được một đột phá rơ rệt hơn về tốc độ bởi gặp thách thức lớn về vật liệu vỏ máy bay và thể trạng phi công.
Chưa dừng lại ở đó, khả năng tránh né radar ngày càng được cải tiến v́ đây là một trong những tiêu chí quyết định thắng thua trong cuộc đối đầu giữa “mũi giáo” và “tấm khiên”. Đă được phát triển từ lâu nhưng đến máy bay chiến đấu thế hệ 5 mới có khả năng “tàng h́nh hoàn toàn”. Với lớp vỏ được chế tạo bằng vật liệu đặc biệt và cải tiến đường nét thiết kế, máy bay thế hệ thứ 5 có thể giảm thiểu phản hồi sóng radar nên khó bị phát hiện hơn.
Bookmarks