Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam
Sau năm 1975, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đă nhiều lần nghe những ư kiến phát biểu bằng lời nói hay bằng những bài báo về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam. Trong những dữ kiện và ư kiến được tŕnh bày, có cái không đúng sự thật, có cái đúng sự thật nhưng gây ra một số thắc mắc và hoang mang. Viết bài này, tác giả chỉ có mục đích tŕnh bày một số dữ kiện lịch sử xác thật về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam và đánh tan những luận điệu có thể làm cho người quốc gia Việt Nam thắc mắc và hoang mang về lá quốc kỳ và bài quốc ca của chúng ta.
I. QUỐC KỲ VIỆT NAM
A. SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ư NIỆM QUỐC KỲ TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI
Việc dùng một mảnh hàng hay vải có màu sắc và h́nh thức nhứt định để biểu tượng cho một nhơn vật, một gia tộc lănh đạo hay một cộng đồng chánh trị đă có từ ngàn xưa. Trong các cuộc giao tranh dữ dội trên các băi chiến trường cổ kim, binh sĩ hai bên đối đầu nhau đều lấy cờ của bên ḿnh làm điểm hội tập và đều tận lực tranh đấu, thường khi phải hy sinh cả tánh mạng để bảo vệ nó. Trong lịch sử quân sự của mọi cộng đồng chánh trị, việc cắm được cờ của ḿnh trên đất địch hay cướp đoạt được cờ của quân lực địch đều được xem là một chiến công rạng rỡ.
Tuy nhiên, trước cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, phần lớn các nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ, hoặc là quân chủ chuyên chế trong đó chỉ có một nhà vua nắm trọn quyền lănh đạo và được xem là sở hữu chủ duy nhứt của quốc gia, hoặc là quân chủ phong kiến trong đó bên dưới nhà vua c̣n có những nhà quí tộc làm chủ các lănh địa, và có khi có những thị xă tự trị trong đó quyền điều khiển thuộc một nhóm người hào phú địa phương.
Một số cộng đồng chánh trị nhỏ thời đó đă theo chế độ cộng ḥa hay dân quốc. Với chế độ này, quyền lănh đạo cộng đồng thuộc về một vài thế gia cự tộc. Các cộng đồng chánh trị kể trên đây đều độc lập hoàn toàn hay phải tùy thuộc một cộng đồng chánh trị lớn hơn đều có lá cờ làm biểu hiệu cho ḿnh. Nhưng v́ cộng đồng được xem là vật sở hữu của một gia tộc hay một thiểu số gia tộc lănh đạo nên lá cờ của cộng đồng cũng được xem như là lá cờ của gia tộc hay các gia tộc đó.
Ư niệm quốc kỳ biểu tượng cho toàn thể quốc dân chỉ mới xuất hiện với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789. Với cuộc cách mạng này, quốc gia không c̣n được xem là vật sở hữu của một gia tộc, mà là vật sở hữu chung của toàn thể mọi ngưoi sống trong cộng đồng. Hệ luận của quan niệm mới này là lá cờ một nước không c̣n là biểu tượng của gia tộc lănh đạo, mà là biểu tượng của toàn thể quốc dân. Người Pháp đă dùng từ ngữ drapeau national để chỉ loại cờ này. Quan niệm của người Pháp lần lần được người các nước khác chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đă dùng từ ngữ national flag khi nói đến lá cờ của ḿnh. Drapeau national của Pháp và national flag theo tiếng Anh đă được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc kỳ.
Về mặt thực hiện cụ thể th́ lá quốc kỳ đầu tiên trên thế giới là cờ tam sắc của Pháp gồm ba màu xanh, trắng, đỏ, xếp ngang nhau theo thứ tự kể trên đây. Sự h́nh thành của lá cờ này là kết quả của một sự thương lượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xă Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng gia Pháp từ nhiều đời vốn nền trắng trên có thêu một hoa huệ màu vàng.
Thời quân chủ Pháp, Paris là một thị xă được hưởng quyền tự trị và có lá cờ riêng gồm hai màu xanh và đỏ xếp ngang nhau. Khi người dân Paris nổi lên làm cách mạng đ̣i hỏi chánh quyền cải tổ chế độ, họ vẫn c̣n chấp nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc đó là Louis XVI một mặt v́ nhu nhược, một mặt v́ thiếu phương tiện nên không dùng vơ lực đối phó một cách quyết liệt với phong trào cách mạng và chịu chấp nhận các yêu sách của nhơn dân Paris.
Do đó, hai bên đă đồng ư nhau lấy cờ của hoàng gia và cờ của thị xă Paris trộn lại làm huy hiệu cho nước Pháp. Nhà vua là quốc trưởng nắm quyền Hành Pháp nên màu trắng của cờ hoàng gia được đặt ở giữa, hai màu xanh đỏ của cờ thị xă Paris được ghép hai bên thành một huy hiệu tam sắc. Huy hiệu này lần lần được phổ biến khắp nơi trong nước, và đến năm 1793, Quốc Ước Hội Nghị đă chánh thức biểu quyết lấy cờ tam sắc làm quốc kỳ cho nước Pháp.
Phải nói rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất đẹp. Mặt khác, Cách Mạng Pháp thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu Liberté - Égalité - Fraternité là Tự Do - B́nh Đẳng - Bác Ái. Ba màu của quốc kỳ Pháp được xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ trên đây: màu xanh tiêu biểu cho Tự Do, màu trắng tiêu biểu cho B́nh Đẳng và màu đỏ tiêu biểu cho Bác Ái.
Cờ tam sắc của Pháp đă đẹp mà c̣n được giải thích một cách đầy đủ ư nghĩa tượng trưng rất phù hợp với lư tưởng chung của nhơn loại nên quốc dân Pháp đă nhiệt liệt hoan nghinh nó và chấp nhận nó làm biểu tượng cho ḿnh. Về sau, nhiều nước Tây Phương khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp đă chọn ba màu xanh, trắng, đỏ, làm quốc kỳ với những giải thích hơi khác nhau, nhưng vẫn dùng ba màu này làm tiêu biểu cho các lư tưởng tự do, b́nh đẳng và bác ái là nền tảng chung của các xă hội dân chủ tự do.
B. CÁC LÁ CỜ ĐĂ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC KỲ
1. Quốc kỳ xuất hiện đầu tiên: cờ long tinh của Hoàng Đế Bảo Đại
Ở Việt Nam trước đây cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, các lá cờ được dùng để biểu tượng cho một nhà lănh đạo. Hiệu kỳ của một vị tướng cầm đầu một đạo quân thường có màu phù hợp với mạng của vị tướng đó: người mạng kim th́ cờ màu trắng, người mạng mộc th́ cở màu xanh, người mạng thủy th́ cờ màu đen, người mạng hỏa th́ cờ màu đỏ, người mạng thổ th́ cờ màu vàng.
Màu cờ của các triều đại th́ được các nhà sáng lập chọn lựa theo sự tính toán dựa vào thuyết của học phái Âm Dương Gia nghiên cứu về sự thạnh suy của ngũ hành lưu chuyển trong vũ trụ sao cho triều đại ḿnh hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ chung của triều đại, mỗi nhà vua đều có thể có lá cờ riêng của ḿnh. Nhưng các lá cờ này chỉ để biểu tượng cho hoàng gia. Về ư niệm quốc kỳ biểu tượng cho cả dân tộc Việt Nam, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.
Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc kỳ. Lúc ấy, Nam Việt (được gọi là Nam Kỳ) là thuộc địa Pháp và phải dùng cờ tam sắc của Pháp, Bắc Việt và Trung Việt (được gọi là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) trên lư thuyết là lănh thổ của nhà Nguyễn. Các nhà vua Việt Nam thời đó đều có lá cờ biểu tượng cho ḿnh như thời c̣n độc lập, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự đến chớ không phải ở mọi nơi trong nước và dĩ nhiên không có tánh cách một quốc kỳ. Măi đến thời Thế Chiến II, Hoàng Đế Bảo Đại mới ấn định quốc kỳ đầu tiên.
Nguyên lúc đó, người Pháp đă thua Đức và rất suy kém. Họ không c̣n đủ quân lực để bảo vệ các thuộc địa xa xôi. Riêng ở Đông Dương th́ người Nhựt lợi dụng sự suy kém của Pháp đ̣i quyền đem binh vào chiếm đóng đất này để lấy nó làm bàn đạp phong tỏa phía nam Trung Quốc và tiến đánh Đông Nam Á Châu với dụng ư chinh phục cả Á Châu.
Chánh phủ Pháp không thể từ chối lời đ̣i hỏi của Nhựt và viên Toàn Quyền thời đó là Đề Đốc Decoux có nhiệm vụ phải chịu hợp tác với quân chiếm đóng Nhựt, đồng thời cố gắng đến tối đa để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Đông Dương. Ư thức rằng chánh sách thực dân Pháp trước Thế Chiến II làm bất măn người Việt Nam mọi giới, Toàn Quyền Decoux đă áp dụng một chánh sách hai mặt: một mặt triệt để đàn áp các phần tử cách mạng chống Pháp, một mặt xoa dịu người Việt Nam nói chung. Trong khuôn khổ của mặt thứ nh́ trong chánh sách này, ông đă có những biện pháp nâng cao uy tín của các nhà vua Đông Dương.
Hoàng Đế Bảo Đại nhơn cơ hội này đă đưa ra một vài cải cách và ban chiếu ấn định quốc kỳ của nước Đại Nam. Quốc kỳ này tên là cờ long tinh, nền vàng với một sọc đỏ nằm vắt ngang ở giữa, bề ngang của sọc đỏ này bằng 1/3 bề ngang của cả lá cờ. Cờ long tinh được dùng trên lănh thổ Đại Nam, nghĩa là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, v́ Nam Kỳ lúc đó vẫn là thuộc địa Pháp và vẫn phải dùng lá cờ tam sắc của Pháp.
Bookmarks