Diễn đàn Vietland có đăng bài một ông Việt Kiều về Hà Nội bị đuổi ra khỏi tiệm ăn, sau đó c̣n bị chưởi vào mặt. Nhiều thành viên đă phát biểu về "nền văn hoá chưởi" của Hà Nội ngày nay, coi đó là văn hoá dị dạng, bởi vỉ người Hà Nội xưa đâu có tồi tệ như vậy.
Xin mời các bạn quay về Hà Nội thời trước 1940, (khi chưa có văn hoá cộng sản chen vào) để xem người Hà Nội cư xử với nhau trong gia đ́nh và ngoài xă hội như thế nào, qua nhận xét của một huynh trưởng ở lứa tuổi 30 khi di cư vào Nam. Đồng thời cũng xin mời xem ít phong cành của Hà Nội ngày xưa.
Người Hà Nội trước 1940
Thời đó xă hội Bắc Kỳ c̣n bị ảnh hưởng mạnh của Nho Giáo nên sự giao tiếp trong gia đ́nh cũng như ngoài xă hội phải nằm trong một khuôn phép nhất định, nhất là tại Thủ Đô Hà Nội. Không có cảnh trai gái dắt tay nhau, ôm nhau hôn hít ngoài công viên hay đường phố."Nam nữ thất tuế bất năng đồng tịch"(trai gái 7 tuổi không ngồi cùng chiếu). Ngay những "khung trời cuả t́nh yêu" như đường Cổ Ngư, Chùa Láng. Vườn Hoa Con Cóc, Bờ Hồ, cũng phải đợi đến khi Hà Nội bắt đầu có những dancing, pḥng trà, th́ mới thấy những cặp trẻ lang thang ở những nơi này để thề non, hẹn biển. Nhưng sự biểu lộ yêu đương chỉ giới hạn qua cầm tay, liếc mắt, chưa có những cái ôm chặt, hôn môi... Thời đó, nếu con gái mà bị bắt gặp có những cử chỉ biểu lộ sự yêu đương quá mức với con trai là sẽ bị cha mẹ trừng phạt nặng: mắng nhiếc, thậm chí c̣n bị đánh đ̣n.
Các cuộc hôn nhân thời trưóc 40, hầu hết đều do cha mẹ hai bên sắp đặt. Rất ít có các cặp vợ chồng mới cưới đă chuyện tṛ với nhau trước hôn lễ. Ngay cả khi t́nh cờ gặp nhau ngoài phố, cô vợ tương lai vẫn e thẹn, đỏ mặt, quay đi nơi khác. Chàng rể tương lai khi đến nhà cha mẹ vợ cũng lóng nga lóng ngóng như gà mắc tóc. Sau khi đă thành vợ chồng chính thức, họ thường xưng hô với nhau là "cậu, mợ". Do vậy, sau này con cái cũng gọi cha mẹ là cậu, mợ. Cũng có nhiều gia đ́nh con cái gọi cha mẹ là "thầy, u" nữa.
Ngoài ra, có một lễ giáo bất thành văn nhưng gia đ́nh nào cũng tuân theo triệt để: bắt đầu bữa ăn con cái đều nâng bát cơm và "mời thầy/u/anh/chị xơi cơm". Lễ giáo này áp dụng cho cả khi nhà có khách mời hoặc tiệc tùng.
Trong gia đ́nh cũng như ngoài xă hội, rất hiếm khi nghe thấy những lời lẽ thô tục (ngoại trừ bọn du côn mất dạy). C̣n phải kể thêm về sự "kiêng kỵ, và phạm huư". Người ta tránh nói đến tên tiền nhân hay các bậc trưởng thượng của gia đ́nh ḿnh hay của gia đ́nh khách. Nếu gặp một từ ngữ phạm huư, người ta chuyển sang một từ ngữ khác tương tự, không bao giờ nói thẳng vào các từ huư đó. Tên ông nội của tôi mà là MINH th́ cả gia đ́nh tôi, thậm chí cả những khách thăm viếng đều tránh nói đến câu nào có chữ đó. Nếu không thể tránh được th́ phải phát âm tréo đi thành một chữ tương tự.
Nếp sống như vậy có vẻ g̣ bó phải không? Nhưng nó lại trở thành thói quen, ngắm vào trong máu thịt mọi người v́ Nho Giáo đă dạy thuyết "tam cương, ngũ thường" (quân, sư, phụ - nhân, nghĩa, lễ, trí, tín).Ngay cả thực dân Pháp khi cai trị nước ta, cũng đă có môn học Công Dân Giáo Dục (Instruction Civique) và Luân Lư (Morale) từ những năm Tiểu Học, để dạy cho những trẻ em nước bị trị những đức tính tốt đối với cộng đồng và gia đ́nh. Những câu chuyện của La Fontaine (Les Fables de La Fontaine) được dạy cho học tṛ ngay từ khi c̣n 5, 6, tuổi để cho các em biết vể sự làm việc cần cù, nhẫn nại, cũng như tránh xa những cạm bẫy qua những lời tâng bốc. Không những thế, trẻ em c̣n được học về t́nh yêu đối với cha mẹ, anh em trong gia đ́nh: Ceux que j'aime (những người mà tôi yêu mến). Bài hát "J'ai deux amours: mon pays et ma chérie" nhắc đến t́nh yêu Tổ Quốc mà bất cứ tṛ tiểu học nào cũng thuộc. Không có bài học nào dạy căm thù hay phân chia giai cấp. Không có bài học lịch sử nào bị bóp méo, ngay cả lịch sử về việc quân Pháp chiếm VN ra sao cũng được dạy trung thực.
Tuy nhiên, chỉ Hà Nội hoặc mấy thành phố, thị xă lớn mới có được nếp sống khuôn phép như vậy. C̣n ở nông thôn, nhắt là các nông thôn hẻo lánh th́ lại khác. Ở đó người ta dùng những từ ngữ thô tục rất b́nh thản, ngay cả khi vợ chồng nói chuyện với nhau, hay cha mẹ nói với con cái. Bởi vậy sau 1954, người Hà Nội chính gốc đă phiêu bạt đi nhiều phương trời, và người tứ xứ ào vào nên mới có nạn "phở chưởi, và cà phê mắng". Cũng từ đó Hà Nội mới chứng kiến sự nói ngọng: "ní nuận" thay cho lư luận, "nàm thế lào" thay cho làm thế nào.
Giọng nói người Hà Nội.
Có thể nói: những người Bắc Kỳ sống từ Ninh B́nh trở lên phiá bắc, ngoại trừ các dân tộc thiểu số và một vài vùng miền biển, đều có giọng nói tương tự như nhau. Tuy nhiên, người ngoại quốc th́ lại cho giọng nói Hà Nội là chuẩn nhất. Chả thế mà khi đài VOA, BBC, RFA tuyển phát thanh viên tiếng Việt, đều nhằm vào những người Hà Nội chính gốc. Công bằng mà nói, tuy chất giọng Hà Nội tương tự như các vùng khác của xứ Bắc, nhưng nó vẫn mang âm điệu của một cái ǵ đó rất "Hà Nội" mà chỉ khi nghe ta mới nhận biết được. Nhắm mắt lại, hoặc ngồi sau một tấm b́nh phong khi nghe 2 cô gái Bắc Kỳ nói chuyện, nếu một trong 2 cô là người Hà Nội ta có thể phân biệt được ngay. Diễn tả thế nào nhỉ? Hăy nghe các ông thi sĩ mơ màng kết luận sau khói thuốc là "giọng oanh vàng thỏ thẻ", khác với "giọng oanh vàng ríu rít" của các cô gái đất thần kinh. Người anh họ của tôi, chỉ v́ mê cái "giọng oanh vàng thỏ thẻ" đó mà nhất quyết rước chị về dinh dù gia đ́nh đă có một sắp đặt khác.
Tuy thế, giọng Hà Nội vẫn có một sai sót nhỏ khi phát âm vần TR và CH. Con TRÂU th́ người Hà Nội phát âm là con CHÂU. Cũng giống như người miền Nam kêu "Trời ơi" th́ người miền Bắc, kể cả Hà Nội sẽ kêu "Giời ơi"
Cảnh Hà Nội xưa
Vi vút hơi dài về người Hà Nội có thể làm các bạn chán, nhất là các bạn Hà Nội chính gốc có thể cau mày và thốt lên: "Biết rồi! Khổ lắm! Nói măi!". Do vậy xin đổi món. Mời các bạn xem lại những h́nh ảnh cuả Hà Nội ngày xưa. Khởi đầu bằng một h́nh ảnh tiêu biểu nhất cuả Hà Nôi: Cầu Long Biên.
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây dựng (1899-1902), đặt tên là cầu Doumer, theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Dân gian c̣n gọi là cầu sông Cái. Hiện trên đầu cầu vẫn c̣n tấm biển kim loại có khắc chữ 1899 -1902 - Daydé & Pillé - Paris.
Nói đến Cầu Long Biên th́ phải nói đến một địa danh dính liền. Đó là cột đồng ḥ trên Phố Hàng Đậu, ngay dốc cầu vừa đổ xuống.
Cũng trên Phố Hàng Đậu ta lại thấy một tháp chứa nước xưa cũ.
Từ Hàng Đậu đi dọc theo bờ đê đến gần con đường quẹo xuống Phà Đen là Viện Viễn Đông Bác Cổ
Viện Viễn Đông Bác cổ (tiếng Pháp: École française d'Extrême-Orient, viết tắt EFEO) là một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên thực địa. Tiền thân là Phái đoàn Khảo cổ tại Đông Dương từ năm 1898 và chính thức thành lập với tên gọi Viện Viễn Đông Bác cổ ngày 20 tháng 1 năm 1900, Viện có nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ trên toàn bán đảo Đông Dương. Trụ sở đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Sài G̣n, Việt Nam trong ngày đầu thành lập năm 1900, tới năm 1902 Viện dời ra Hà Nội. Do chiến tranh, năm 1957, Viện phải rời Hà Nội tới Campuchia, sau đó lại rời Phnom Penh về Paris năm 1975.
Bây giờ mời bạn đọc trở về Bờ Hồ để nh́n lại Nhà Hát Lớn và Phố Tràng Tiền (Paul Bert cũ)
(c̣n tiếp)
VP
Bookmarks