Người Trung Hoa có một câu châm ngôn: “Thất trận rồi người ta mới đếm xác chết và mới đi t́m người trách nhiệm.” Phản ứng của người dân, thường hay trút hết trách nhiệm cho người lănh đạo hoặc cho người lính chiến. Tại Việt Nam th́ cả hai đều có phần trách nhiệm của ḿnh, nhưng cả hai đều không thể làm ǵ hơn được với hai bàn tay trắng v́ đă bị người ta tước hết khí giới từ lâu!
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên không thể sản xuất vũ khí được, do đó trong cuộc chiến, cả hai bên miền Nam và miền Bắc đều bắt buộc phải nhận sự viện trợ quân sự từ bên ngoài. Do vậy, người ta thường nói rằng chỉ cần chấm dứt viện trợ ngoại quốc cho cả hai bên Nam và Bắc th́ ngọn lửa chiến tranh ở Việt Nam sẽ yếu dần và đi đến chỗ tàn lụi ngay, cuộc chiến đương nhiên phải chấm dứt. Nhưng cũng có người chỉ đứng về một phía, đă khẳng định quá đơn phương, và khiếm diện rằng chỉ cần người Mỹ, hay đúng hơn là đế quốc Mỹ như người ta đă cáo buộc, chấm dứt mọi viện trợ kinh tế và quân sự cho miền Nam Việt Nam, là miền Bắc sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh nầy trong chiến thắng. Và đó là những điều đă xảy ra trên thật tế.
Người ta đă từng cho rằng chiến tranh ở Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc, v́ nếu giữa người Việt với nhau th́ không chóng th́ chầy họ đă có thể đạt được một sự thỏa thuận nào đó với nhau rồi. “Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường”
Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường quốc, mượn tay người Việt Nam (hay sinh mạng người Việt Nam cũng thế) và ngay trên lănh thổ Việt Nam, để so tài hơn thua cao thấp với nhau, ngăn chặn nhau không cho bên nào bành trướng thêm ra hơn nữa, v́ hai bên không thể trực tiếp đối đầu với nhau được, tránh bị tổn thất nặng có thể đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau. Có điều là cả hai bên đều nuôi dưỡng một mối thù hằn mà nguyên nhân không phải xuất phát từ nước Việt Nam và nước Việt Nam cũng không có ǵ để mà thiết tha quan tâm đến.
Hoa Kỳ th́ "ngăn chận"
Khối Cộng Sản th́ "xâm chiếm, bành trướng"
Người ta có thể thấy được rất rơ là Nga và Trung Quốc vẫn không bao giờ che dấu tham vọng xâm chiếm toàn cầu của họ theo đúng hướng chiến lược đă hoạch định trước rất rơ ràng, và nếu Hoa Thịnh Đốn chỉ bo bo theo sách lược “tạo uy tín và bành trướng kinh tế” th́ chiến lược đó của Hoa Kỳ hoàn toàn nằm trong thế thủ, bị động. Đặc biệt là ở Á Châu, Hoa kỳ nhất nhất theo thuyết “ngăn chận” các bước tiến của Cộng Sản. Do vậy mà trên mảnh đất đầy h́nh ảnh đau thương và tàn khốc của cuộc chiến, người ta đă “đóng khuôn” cho miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ pḥng thủ thụ động, và các đồng minh lớn của họ không bao giờ muốn cho họ đi ra ngoài khuôn khổ nhiệm vụ đó, trong khi bộ đội Bắc Việt th́ được tung ra trên khắp cả 3 nước Đông Dương, từ Lào, Cam Bốt đến Miền Nam Việt Nam, ẩn h́nh dưới danh nghĩa của lực lượng cách mạng Pathet Lào, Khmer đỏ, và Việt Cộng, để rồi cuối cùng họ cũng phải bỏ cái mặt nạ của họ ra, hiện “nguyên h́nh” là quân xăm lăng Bắc Việt, là kẻ chiến thắng, để tiến vào Sài G̣n.
Tuy trận tấn công vào tỉnh lỵ Phước Long vào tháng 1-75 của bộ đội Bắc Việt là một cuộc tấn công có giới hạn (mà phía Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa một phần v́ sợ bị nhử vào bẫy có thể bị hao quân và mất thêm chiến cụ, một phần cũng không có đủ lực lượng để đối phó được với một loại tấn công qui mô như vậy, nên không có phản ứng đối kháng mạnh, nhưng họ cũng thu lượm được quá đủ bằng cớ để chứng minh với những ai c̣n chút nghi ngờ, là “Hoa Kỳ không c̣n can thiệp vào chiến cuộc nữa”. Và như vậy là Bắc Việt cho tiến hành ngay cuộc tổng tấn công mùa xuân với đầy đủ bảo đảm trong một sự an toàn tuyệt đối.
Rơ ràng là Hoa Kỳ đă khuyến khích Bắc Việt bằng thái độ im lặng và quá thụ động của họ sau vụ tấn công quan trọng vi phạm rất nặng và rất trắng trợn “Hiệp Định Paris 1973 về Ngừng Bắn và Tái Lập Ḥa B́nh ở Việt Nam”. Thật ra, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă được báo động về thái độ “bất can thiệp” nầy của Hoa Kỳ từ lâu rồi. Trong những tháng 1, 2, và 3-75, đă có nhiều nghị sĩ dân biểu Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam và đă từng xác nhận với Tổng Thống Thiệu là “viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Ḥa trong những ngày sắp tới sẽ rất là mong manh trong may rủi”. Mỉa mai thay, viện trợ nầy trước đó đă được Tổng Thống Hoa Kỳ là ông Nixon long trọng tuyên hứa với Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa!!!
Những cuộc vận động của Hoa Kỳ
Tại Guam, Tổng Thống Nixon đă công bố kế hoạch 5 điểm trong sách lược yểm trợ Thế Giới Tự Do của Hoa Kỳ, chính yếu là “cây dù nguyên tử” và viện trợ đầy đủ vô điều kiện cho tất cả mọi quốc gia dân tộc nào chứng minh có quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của ḿnh.
Hiệp Định Paris 1973, cuối cùng rồi cũng được Tổng Thống Thiệu bằng ḷng kư tên vào, v́ ông không c̣n có khả năng từ chối thêm lần thứ hai, dù đó chỉ là trong cung cách ngoại giao thôi, nhưng với những lư lẽ vững chắc mà ông đưa ra trước khi kư, Tổng Thống Nixon đă phải đích thân nhận chịu trách nhiệm chẳng những bằng lời nói mà c̣n cả trên giấy trắng mực đen nữa:
“Hoa Kỳ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Ḥa để giúp Việt Nam Cộng Ḥa đương đầu với mọi biến cố mà v́ không có thiện ư, Bắc Việt sẽ có thể không ngớt tạo ra sau nầy.”
Nếu trước kia Tổng Thống Nixon đă thật ḷng đưa ra lời hứa chắc chắn như vậy, không có một hậu ư quanh co ngoằn ngoèo nào, th́ sau đó với một anh chàng Kissinger mà ông chưa từng quen biết nhưng v́ áp lực từ sự vận động của cánh Do Thái sau khi ông đắc cử, ông đă trở nên bớt nhiệt t́nh hơn nhiều đối với những ǵ mà ông đă long trọng cam kết với ông Thiệu.
Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đă xảy ra trong những cuộc thăm viếng sau đó, và ông Thiệu đă phải can thiệp thẳng với Nixon để cho thơ từ công văn của ông, thường không được hồi âm, nay phải được tới tay ông Nixon mà không đi qua sự kiểm duyệt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Dă tâm của Kissinger, một con người mà ai cũng cho là “bạn”, là “tri kỷ”, sau đó được phát giác tiết lộ ra là: xuyên qua một đệ tam nhân, ông đă có những lời hứa hẹn cũng như thi hành những cam kết không đồng nhứt với từng nhân vật cùng có trách nhiệm trong công tác ngăn chận bước tiến của Cộng Sản Bắc Việt trên bán đảo Đông Dương, như Hoàng Thân Souphana Phouma, Thống Chế Lon Nol và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Thế nhưng, vụ việc gây nhiều tai tiếng “Watergate” đă đưa Nixon ra khỏi Nhà Trắng đồng thời giết chết cả thân thế và sự nghiệp chính trị của ông ta, dẫn đến hậu quả tai hại là những ǵ ông Nixon đă cam kết, dù là trên giấy trắng mực đen, đă không c̣n một chút giá trị nào nửa. Và sau đó, vào tháng 8-1973, Thượng Viện Hoa Kỳ đă bỏ phiếu thuận cho tu chính án “Case-Church” nhằm cắt hết ngân khoản dành cho mọi viện trợ quân sự cho các quốc gia Đông Nam Á.
HTH
Bookmarks