Canada - 1 trong 7 Cường quốc Thế Giới thuộc khối Liên Hiệp Anh
Wikipedia
Cờ Canada
Huy hiệu Canada
Quốc ca
"O Canada"
Bài hát hoàng gia
"God Save the Queen"[1][2]
Vị trí của Canada
Thủ đô Ottawa
45°24′B, 75°40′T
Thành phố lớn nhất Toronto
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Anh và tiếng Pháp
Tên dân tộc Người Canada
Chính phủ Dân chủ nghị viện, quân chủ lập hiến[3]
• Nữ hoàng Elizabeth II
• Toàn quyền David Johnston
• Thủ tướng Stephen Harper
• Chánh tư pháp Beverley McLachlin
Lập pháp Nghị viện
• Thượng viện Thượng nghị viện
• Hạ viện Hạ nghị viện
Thành lập
• Luật Anh Bắc Mỹ 1 tháng 7 năm 1867
• Quy chế Westminster 11 tháng 12 năm 1931
• Đạo luật Canada 17 tháng 4 năm 1982
Diện tích
• Tổng số 9.984.670 km² (hạng thứ 2)
3.854.085 mi²
• Nước (%) 8.92 (891,163 km2/344,080 mi2)
Dân số
• Ước lượng 2012 34,812,000[4] (hạng thứ 35)
• Điều tra 2011 33,476,688[5] (hạng thứ 35)
• Mật độ 3.41 /km² (hạng thứ 228)
8,3 /sq mi
GDP (PPP) Ước tính 2011
• Tổng số $1.391 tỷ Mỹ kim[6] (hạng thứ 14)
• B́nh quân đầu người $40,457[6] (hạng thứ 15)
GDP (danh nghĩa) Ước tính 2011
• Tổng số $1.758 tỷ Mỹ kim[6] (hạng thứ 11)
• B́nh quân đầu người $51,147[6] (hạng thứ 10)
Gini? (2005) 32.1[7] (trung b́nh)
HDI (2011) Green Arrow Up Darker.svg 0.908[8] (rất cao) (hạng thứ 6)
Đơn vị tiền tệ Đô la Canada ($) (CAD)
Múi giờ (UTC−3.5 tới −8)
• Mùa hè (DST) (UTC−2.5 tới −7)
Cách ghi ngày tháng nn-tt-nnnn, tt-nn-nnnn, và nnnn-tt-nn (CE)
Lái xe bên Phải
Tên miền Internet .ca
Mă số điện thoại +1
Cổng tri thức Canada
Canada (phiên âm tiếng Việt: Ca-na-đa; phiên thiết Hán-Việt: Gia Nă Đại), là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Liên bang Nga, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ. Lănh thổ Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái B́nh Dương ở phía tây, và giáp Bắc Băng Dương ở phía bắc. Về phía nam, Canada giáp với Hoa Kỳ bằng một biên giới không bảo vệ dài nhất thế giới. Phía tây bắc của Canada giáp với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ. Đông bắc của Canada có đảo Greenland (thuộc Đan Mạch). Ở bờ biển phía đông có quần đảo Saint-Pierre và Miquelon (thuộc Pháp). Biên giới chung của Canada với Hoa Kỳ về phía nam và phía tây bắc là đường biên giới dài nhất thế giới.
Vùng đất mà bây giờ là Canada là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân bản xứ khác nhau trong hàng thiên niên kỷ. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 15, các cuộc viễn chinh của người Anh và người Pháp đă khám phá, và sau đó định cư, dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Pháp nhượng lại gần như tất cả các thuộc địa ở Bắc Mỹ năm 1763 sau Chiến tranh Bảy năm. Năm 1867, thông qua một liên minh với ba thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ, Canada được thành lập như là một lănh thổ tự trị gồm bốn tỉnh.[9][10] Điều này đă bắt đầu dẫn đến việc sáp nhập các tỉnh và vùng lănh thổ và một quá tŕnh đ̣i quyền tự chủ ngày càng tăng từ Vương quốc Anh. Quyền tự chủ mở rộng được nhấn mạnh trong Quy chế Westminster năm 1931 và đạt đến đỉnh điểm trong Đạo luật Canada năm 1982, đạo luật đă chấm dứt sự phụ thuộc về pháp luật của Canada với nghị viện Anh.
Là một liên bang gồm mười tỉnh và ba vùng lănh thổ, Canada là một quốc gia có nền dân chủ nghị viện và chế độ quân chủ lập hiến với Nữ hoàng Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia. Đây là một quốc gia song ngữ với cả tiếng Anh và tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức ở cấp liên bang. Canada là một trong các nước phát triển cao trên thế giới, quốc gia này có một nền kinh tế đa dạng, trong đó phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và thương mại-đặc biệt là với Hoa Kỳ. Canada cũng là thành viên của các tổ chức G8, G-20, NATO, OECD, WTO, Khối Thịnh vượng chung, Cộng đồng Pháp ngữ, OAS, APEC, và Liên Hợp Quốc.
Nguồn gốc tên gọi Canada
Chữ Canada có nguồn gốc từ chữ kanata trong ngôn ngữ của thổ dân Huron-Iroquois, có nghĩa là "ngôi làng", ám chỉ đến Stadacona, một địa điểm hiện tại nằm trong phạm vi Thành phố Québec. Ngày xưa, Canada thường được gọi là Dominion of Canada (Xứ tự trị Canada), nhưng hiện nay tất cả các văn kiện chính thức đều chỉ dùng tên Canada.
Địa lư và khí hậu
Bài chi tiết: Địa lư Canada
Canada chiếm phần lớn phía bắc của Bắc Mỹ, chia sẻ đường biên giới với Hoa Kỳ về phía nam và tiểu bang Alaska của Mỹ ở phía tây bắc, trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái B́nh Dương về phía tây; đến phía bắc là Bắc Băng Dương. Nếu tính tổng diện tích (bao gồm cả diện tích mặt nước), Canada là nước lớn thứ hai thế giới, sau Nga.[11] Theo diện tích đất (diện tích đất là tổng diện tích trừ đi diện tích hồ và sông) th́ Canada đứng thứ thứ tư.[12]
Phần lớn khu vực Bắc cực của Canada được bao phủ bởi băng và lớp băng vĩnh cửu. Canada cũng có bờ biển dài nhất thế giới: 202.080 km (125.570 dặm).
Thác Niagara tại Ontario, là một trong những thác nước lớn nhất thế giới, nổi tiếng với vẻ đẹp và giá trị thủy điện dồi dào.
Với mật độ dân số, 3,3 người trên mỗi dặm vuông (8.5/sq mi), Canada là một trong những quốc gia có mật độ dân số thấp nhất trên thế giới. Nơi có mật độ dân cư cao nhất là Thành phố Québec – Windsor Corridor, (nằm ở phía Nam Quebec và Nam Ontario) dọc Great Lakes và sông Saint Lawrence ở phía đông nam.[13]
Canada có một đường bờ biển rộng lớn ở phía bắc, đông và tây, và kể từ thời kỳ băng hà cuối cùng nó nơi đây đă bao gồm tám khu vực rừng khác biệt, bao gồm rừng taiga rộng lớn ở Shield Canada.[14] Sự phong phú và đa dạng về địa lư, sinh thái , thảm thực vật và địa h́nh của Canada đă tạo cho quốc gia này một sự đa dạng về khí hậu.[15] Với diện tích rộng lớn, Canada có nhiều hồ hơn bất kỳ quốc gia nào khác, số hồ này chứa một lượng nước ngọt lớn của thế giới.[16] Ngoài ra c̣n có các sông băng nước ngọt ở Rockies Canada và dăy núi Coast.
Nhiệt độ trung b́nh mùa đông và mùa hè trên khắp Canada khác nhau tùy theo vị trí. Mùa đông có thể rất khắc nghiệt ở nhiều vùng của đất nước, đặc biệt là tại các tỉnh nội địa và các tỉnh b́nh nguyên, là những nơi có khí hậu lục địa, nhiệt độ trung b́nh hàng ngày là gần -15 °C (5 °F), nhưng có thể giảm xuống dưới -40 °C (- 40 °F) với những cơn gió lạnh khắc nghiệt.[17] Trong các khu vực không có bờ biển, tuyết có thể bao phủ mặt đất gần sáu tháng trong năm (nhiều hơn ở phía bắc). Khu vực ven biển British Columbia có khí hậu ôn đới, với một mùa đông mát mẻ và có mưa. Trên bờ biển phía đông và phía tây, nhiệt độ trung b́nh cao thường khoảng 20 °C (70 °F), trong khi giữa các vùng bờ biển, nhiệt độ trung b́nh cao mùa hè khoảng 25-30 °C (77-86 °F), với khí nóng có thể lên đến trên 40 °C (104 °F) tại một số khu vực nội địa.[18]
Canada cũng là nơi có hoạt động địa chất phức tạp, với nhiều trận động đất và các ngọn núi lửa có khả năng hoạt động. Vụ phun trào núi lửa Tseax Cone năm 1775 đă gây ra tột tai họa thảm khốc, làm chết 2.000 người Nisga'a và phá hủy ngôi làng của họ tại thung lũng sông NASS ở miền bắc British Columbia, vụ phun trào đă tạo ra một ḍng chảy (14,0 dặm) dung nham dài 22,5 km, và theo truyền thuyết của người Nisga'a, chính vụ phun trào núi lửa này đă làm chặn ḍng chảy của sông NASS.[19]
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử Canada
Thời tiền sử
Theo phán đoán của các nhà sử học và khảo cổ học, người thổ dân Canada (Indian) là các tộc người du mục đến từ khu vực Ấn Độ-Tây Tạng-Trung Quốc. Khoảng 10.000 đến 12.000 năm TCN, những người này đă đến châu Mỹ. V́ những lư do như bị kẻ thù đuổi, săn bắt sinh vật, hay t́m nơi ở mới, họ đă t́nh cờ băng qua lớp băng đá trên eo biển Bering để đến Alaska. Từ đây, họ tiếp tục di cư đến khắp châu lục Bắc Mỹ, biển Caribbean và Nam Mỹ, phát triển ra thành hàng chục ngàn bộ tộc mới.
C̣n người Inuit được cho là xuất sứ từ khu vực Siberia, Nga. Họ cũng di cư qua eo Bering, nhưng lại định cư hoàn toàn ở miền Bắc Canada, từ vĩ tuyến 60° trở lên.
Khoảng năm 1000, một vài người Viking ở Bắc Âu đă đặt chân đến Newfoundland. Nhưng họ không định cư mà trở về nước.
Thời thực dân Châu Âu
Khoảng cuối thế kỷ 15, một vài nhà thám hiểm châu Âu đă theo chân Christopher Columbus thám hiểm châu Mỹ.
Năm 1497, John Cabot khám phá Newfoundland và tuyên bố thuộc về vùng đất đó thuộc về Anh. Năm 1534, Jacques Cartier t́m ra khu vực sông Saint-Laurent cho Pháp. Năm 1603, Samuel de Champlain đă thành lập khu dân cư đầu tiên, thành Québec trên bờ sông Saint-Laurent và trở thành thống đốc Tân Pháp (Nouvelle-France) tại Bắc Mỹ.
Các công ty Anh và Pháp đến Bắc Mỹ trao đổi, buôn bán với dân bản địa, mặt hàng quan trọng nhất là lông thú. Từ đó các cuộc tranh chấp đất đai và giành quyền kiểm sát giao thương diễn ra liên tục. Bộ tộc Huron thân với Pháp bị tiêu diệt bởi bộ tộc Iroquois thân với Anh. Thuộc địa Pháp liền bị đẩy vào thế nguy hiểm. Vua Pháp nhanh chóng ra nhiều chính sách để thu hút thêm dân nhập cư vào Tân Pháp. Năm 1760, dân số Tân Pháp đă tăng lên 70.000.
Vào năm 1756, cuộc Chiến tranh Bảy năm giữa hai đế quốc thực dân Anh và Pháp ở châu Mỹ nổ ra. Vào năm 1759, tướng Anh là James Wolfe xua quân tấn công thành Québec của tướng Pháp là Hầu tước Louis Joseph de Montcalm-Gozon và chiến thắng. Thành phố-pháo đài rơi vào tay quân Anh, c̣n Montcalm th́ bị thương nặng. Vào năm 1760, quân Anh tiến đánh, chiếm được thành Montréal của quân Pháp. Vào năm 1763, Anh và Pháp kư ḥa ước. Pháp nhường toàn bộ thuộc địa Bắc Mỹ cho Anh.
Thời thực dân Anh
Tân Pháp sau khi thuộc về Anh được đổi tên thành Quebec. Người dân (nói tiếng Pháp) và chính quyền (tiếng Anh) chống đối lẫn nhau. Thống đốc James Murray đă giải quyết bằng cách bỏ bớt các luật lệ của người Anh và ban cho người nói tiếng Pháp nhiều quyền hơn.
1774, Guy Carleton được vua Anh giao quyền thống đốc và đă ra Đạo luật Quebec (Quebec Act). Theo đó, dân Pháp chiếm đa số sẽ có quyền hơn trong chính phủ. Điều này gây bất măn cho nhiều người gốc Anh.
Năm 1776, Hoa Kỳ giành được độc lập, những người trung thành với vua Anh nhưng không muốn chống đối đă di cư đến Québec. Dân số Anh tăng lên đáng kể ở đây, và Đạo luật Hiến pháp ra đời. Nó chia đôi Québec làm hai tỉnh: Thượng Canada (Upper Canada, là Québec ngày nay) của dân nói tiếng Pháp và Hạ Canada (Lower Canada, là Ontario ngày nay) của dân nói tiếng Anh.
Năm 1838, cuộc nổi loạn giữa dân Anh và Pháp ở hai tỉnh Thượng và Hạ diễn ra. Hai dân tộc đánh nhau loạn xạ giữa các đường phố, số người chết rất cao. Điều này khiến vua Anh cử Lord Durham sang Canada. Durham đă ra Đạo luật Hợp nhất (Act of Union). Đạo luật này nhập hai tỉnh Canada thành một. Durham mong rằng như vậy có thể làm cho dân Pháp bị đồng hóa và sẽ dễ dàng cai trị hơn. Dân nói tiếng Pháp chống đối chính phủ và t́m nhiều cách để duy tŕ văn hóa Pháp.
Năm 1858, Anh mở ra thêm thuộc địa British Columbia ở bờ biển Thái B́nh Dương, nằm ở Tây Bắc của Bắc Mỹ.
Thành lập liên bang
Ngày 1 tháng 7 năm 1867, John Alexander Macdonald đă khánh thành Nước Tự trị Canada (Dominion of Canada) theo Đạo luật Anh Bắc Mỹ (British North America Act). Canada lúc bấy giờ gồm bốn tỉnh: Ontario, Québec, Nova Scotia và New Brunswick.
1870, Manitoba gia nhập Canada. 1871, British Columbia gia nhập. 1873, Prince Edward Island gia nhập. 1905, Alberta và Saskatchewan gia nhập. 1949 Newfoundland gia nhập.
1982, Đạo luật Canada (Canada Act) được thông qua. Québec là tỉnh bang duy nhất không đồng ư thông qua. Đàm phán Hồ Meech (Meech Lake Accord) giữa thủ tướng Brian Mulroney và thủ hiến Québec Robert Bourassa nhằm thuyết phục tỉnh này kư vào đạo luật thất bại.
Bookmarks