Trong bối cảnh của cuộc chiến trạnh lạnh từ 1947-1973, người Mỹ gần như đă thất bại trong khi đối đầu để ngăn chận ảnh hưởng của Nga Sô Viết, cho dù đă sử dụng rất nhiều chiến lược hoàn cầu, từ chủ thuyết Containment sang Domino, hết phản du kích tới trực diện tham chiến . Rốt cục mọi hy sinh, nổ lực, bạc tiền và mạng lính của Mỹ, Đồng Minh và VNCH thành vô ích khi Hoa Kỳ tới Paris vào tháng 1-1973, cúi mặt để nhận tờ giấy lộn của cái được gọi là ‘ Hiệp định ḥa b́nh ngưng bắn VN ‘.Tóm lại, trong cuộc chiến VN, chỉ có bọn đại tư bản lái súng Mỹ và các con buôn trung gian liên hệ khắp thế giới, làm giàu mà thôi.
Sự bội tín của người Mỹ tại VN, c̣n là dây chuyền giúp Nga chiếm ảnh hưởng tại Iraq, Libya, Angola, đưa các đảng xă hội lần lượt nắm quyền tại Tây Âu. Ở Trung Mỹ, dưới sự tiếp tay của Nga và Cu Ba, đảng CS Sandinista chiếm Nicaragua, cùng đe dọa các nước quanh vùng, nhất là El Salvador. Đó là chưa nói tới dịch khủng bố quốc tế, lợi dụng sự thất thế uy tín của người Mỹ, gieo rắc máu lửa chết chóc khắp nơi cho nhân loại.
V́ vậy đă không có đại chiến thứ ba, mà chỉ có cuộc chiến khu vực. Cũng v́ Bắc Cao và Bắc Việt lúc đó là chư hầu của Đệ tam Cộng Sản quốc tế, đă xung phong nhận lănh trách nhiệm làm tên lính tiền phong của đế quốc đỏ trong khu vực. Nên Liên Xô-Trung Cộng, đă chọn bán đảo Triều Tiên và Đông Dương, làm hai CHIẾN TRƯỜNG thí điểm, để hai khối thanh toán, đồng thời cũng là nơi mà các cường quốc, dùng để tiêu thụ số bom đạn thặng dư sau thế chiến và thử nghiệm những loại vũ khí mới vừa chế tạo.
Chỉ tội nghiệp cho các dân tộc nhược tiểu trong vùng chiến cuộc bổng dưng bị họa lây, gồm Cao Ly, Việt Nam, Lào, Kampuchia.. do hai đảng Cộng Sản Bắc Cao và Bắc Việt, rước voi về dầy mă tổ, tàn phá quê hương và hủy diệt dân tộc ḿnh. V́ nếu không có sự xuất hiện của đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế, chắc chắn các quốc gia trên, trong đó có Việt Nam cũng sẽ như các nước trong vùng như Ấn Độ, Pakistan, Tích Lan, Miến Điện, Mă Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương.. thuộc địa cũ của Anh-Pháp hay Phi Luật Tân thuộc Mỹ, cũng độc lập mà không cần phải gây ra cuộc kháng chiến chín năm (1946-1954), làm tốn biết bao máu xương của đồng bào, lại c̣n hủy hoại tài nguyên và nhiều công tŕnh kiến tạo của tiền nhân để lại rất vô ích và tội lỗi.
Đó là thực chất của cái, được thế giới gán cho danh từ hào nhoáng ‘ Chiến Tranh Giải Phóng Việt Nam ‘ . tuy chỉ là một giai đoạn ngắn ngũi nhưng lại bi thăm nhất trong ḍng sông lịch sử Hồng-Lạc, với sự yểm trợ của khối Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế và sự tham chiến của Hoa Kỳ, giúp Người Việt hai bên chiến tuyến, chém giết nhau một cách tận tuyệt.
Theo Kenneth E.Sharpe trong ‘ The Post Vietnam Formula under Siege ‘ và Political Science Quarterly ‘, thi giai đoạn 1960 tới cuối năm 1971, được coi như là thời kỳ ‘ Giải Kết ‘ của Mỹ. Chính Tiến sĩ Henry Kissinger đă chủ trương, đưa Trung Cộng về lại với Thế Giới Tự Do bằng sự đánh đổi ‘ Bỏ Rơi Tiền Đồn Chống Cộng tại Á Châu là VNCH ‘.Hành động giải kết trên, tuy có tạo được cho đương sự một tầm vóc quốc tế nhưng kết quả đă đưa đến sự ‘ bại trận nhục nhă ‘ cho nước Mỹ, bởi v́ Kissinger đă lẫn lộn giữa chính trường và khuôn viên trường đại học. Tóm lại chỉ v́ ngu muội, Kissinger đă tự ḿnh đưa nước Mỹ vào một thời kỳ suy thoái nhất trong lịch sử Hoa Kỳ (1973-1980) , dưới sự lănh đạo của đảng Dân Chủ toàn phần.
ốn
Tóm lại, sau hơn ba mươi bốn năm VNCH bị sụp đổ nhưng ngày nay vẫn c̣n nhiều tác giả ngoại quốc nhất là cái gọi đài BBC Luân Đôn, mỗi khi có dịp nói-viết về cuộc chiến trên,vẫn cứ dựa vào các tài liệu tuyên truyền của cọng sản, nên thường lư luận một chiều, đôi lúc thật hàm hồ bừa băi. Chính những cuốn sách và cái máy nói này, đă khiến cho ai đọc hay nghe tới, cũng đều có cảm tưởng là những người lănh đạo nước Mỹ lúc đó, toàn ngu xuẩn hay điên rồ, cho nên mới bị sa lầy và tháo chạy khỏi miền Nam, vào ngày 30-4-1975 một cách nhục nhă .
Với người Mỹ qua thói quen tự cao tự đại, sau khi tháo chạy khỏi chiến trường để bị mang tiếng bội tín với thế giới tự do, v́ không giữ được lời hứa, bảo đăm quyền sống tự do của đồng bào Việt-Miên-Lào trên Bán đảo Đông Dương, nên vẫn cứ phải loay hoay giữa tự ái và lương tâm, khi muốn giải đáp trước công luận quốc tế và trong nước, lư do tại sao một cường quốc bách chiến bách thắng như Mỹ lúc đó và hiện tại, lại có thể bị thua trước một đối phương nhỏ bé, lạc hậu như cọng sản Bắc Việt ? dù chúng đă được toàn khối Cộng Sản viện trợ, hay rất lỳ lợm, dă man, tham tàn, coi mạng sống của đồng bào VN và cán binh thua cỏ rác.
Ngày nay nhờ những khai quật từ các văn khố khắp thế giới, nhất là sự sụp đổ của gần hết khối xă hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô và các nước Đông Âu nhưng quan trọng nhất vẫn là những bản tự khai của các chóp bu tại Bắc Bộ Phủ, cho ta nhận rơ phần nào giải đáp trên, về thực chất của cuộc chiến Việt Nam (1955-1975). Như Pháp năm 1954, người Mỹ đă thua cọng sản trong mặt trận ư chí tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và ngay trên đất nước ḿnh, chứ không phải ở chiến trường Đông Dương. Cũng từ đó, người Mỹ thường nhắc nhớ tới thành ngữ ‘ No more Việt Nam ‘ như một thứ mặc cảm tội lỗi, luôn đè nặng đất nước Hoa Kỳ, cho tới lúc Tổng thống Reagan vào ngày 21-5-1982, khai sinh một nước Mỹ mới, khi tuyên bố chiến lược tấn công, để ngăn chận sự bành trướng của khối cọng sản quốc tế
Tất cả không phải v́ QLVNCH không chịu chiến đấu trước kẻ thù, hoặc Miền Nam không có tướng tài và cấp lănh đạo xứng đáng sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại hay Chính Phủ VNCH không có chính nghĩa như Thượng Nghị Sĩ Mỹ là Mc.Cain vừa tuyên bố trên báo chí, mà là NƯỚC MẮT NHƯỢC TIỂU VN, hay nói đúng hơn chúng ta đă bị Thực Dân Mới nhân danh là Liên Hiệp Quốc, bán đứng trong canh bài phân chia ranh giới chính trị, quân sự giữa hai khối tư bản và cọng sản, đă sắp xếp sẳn sau khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc. Nhiều nước Đông Âu kể cả Đức cũng chịu chung số phận nhược tiểu như VN và Cao Ly, khi nằm trong thế cờ quốc tế đă định đoạt sẳn. Nhưng may thay Họ đă tự ḿnh tháo gở được gông cùm nô lệ cọng sản vào đầu năm 1990, khi Liên Bang Sô Viết và phần lớn khối cọng sản đệ tam quốc tế tan ră.
Tại VN trước năm 1975, dù không bị sa lầy Hoa Kỳ vẫn tháo chạy v́ mục đích nối kết với Trung Cộng, phá vở thế liên hoàn Nga-Hoa, đă hoàn thành từ 1972. Tại Iraq dù bị sa lầy thực sự, Hoa Kỳ vẫn không bao giờ bỏ chạy, khi chưa làm chủ được mỏ dầu Iraq và kho dầu cũng như con đường vận chuyển dầu, từ Caspi-Trung Á, A Phú Hản ra Ấn Độ Dương. Đây chính là những khác biệt cụ thể của Hoa Kỳ khi tham chiến tại VN, trước đó và Iraq, A Phú Hản ngày nay, càng lúc càng thấy rơ ràng hơn dù ai có làm tổng thống, th́ quốc sách của Mỹ cũng không thay đổi.
+ HOA KỲ THAM CHIẾN TẠI VN :
Theo luật pháp hiện hành, th́ Tổng Thống Mỹ là Tổng Tư Lệnh quân đội, cố vấn bởi Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, để ban hành các quyết định quân sự, được thi hành bởi Bộ Trưởng Quốc Pḥng, xuống tới các Bộ Tham Mưu Liên Quân và các Bộ Tư Lệnh Hải Ngoại, trong số này có BTL Thái B́nh Dương chỉ huy trực tiếp các BTL Không Quân, Lục Quân, Hạm Đội 7 và Cơ Quan Viện trợ Quân Sự Mỹ tại VN (MACV).
Từ năm 1965 khi Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân ào ạt vào VNCH. Để đáp ứng nhu cầu chiến lược, Mỹ lập Lực Lượng Lục Quân Hoa Kỳ tại VN (US Army VN ố USARV), bao gồm tất cả các đơn vị bộ binh Mỹ đang tham chiến ở đây, trực thuộc cả hai BTL Lục quân và cơ quan MACV Thái B́nh Dương. Theo hệ thống tổ chức trên, lực lượng tham chiến của Mỹ tại VN c̣n có Hải quân + Quân đoàn III Thủy bộ TQLC và Quân đoàn 7 Không quân.
Sự hiện diện của người Mỹ tại VNCH sau Hiệp định Geneve 1954, đầu tiên là Phái bộ Cố vấn Viện trợ Quân sự Đông Dương (MAAG ố Indochina) rồi đổi thành Phái Bộ CVVTQS ốVN (MAAG ố VN) với nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện QLVNCH và chấm dứt ngày 8-2-1962 bằng Cơ quan MACV, duới quyền chỉ huy của các tướng lănh :
- Trung tướng S.William, Tư lệnh MAAG từ 11/1955 ố 9/1960.
- Trung tướng LMcGarr , TL MAAG từ 9/1960 ố 2/1962.
- Đại tướng P.Harkins , TL MACV từ 2/1962 ố 6/1964.
- Đại tướng W.Westmoreland, TL MACV, từ 6/1964 ố 7/1968.
- Đại tướng C Abram, TL MACV từ 7/1968 ố 6/1972.
- Đại tướng F. Weyand, TL MACV từ 6/1972 ố 3/1973.
- Thiếu tướng J Murray , TL DAO, từ 3/1973 ố 8/1974
- Thiếu tướng H Smith, TL DAO, từ 8/1974 ố 4/1975.
Tại VN, Hoa Kỳ thành lập Quân Đoàn 1 (1 Field Force US) ngày 15-3-1966, có BTL đóng tại Nha Trang, chỉ huy tất cả các đơn vị Hoa Kỳ tham chiến tại Vùng 2 Chiến thuật của VNCH tới ngày giải tán về nước 30-4-1971, gồm có SD4BB, Lử đoàn3/SD25BB, Lữ đoàn1/SD101 Dù, Lữ đoàn 173 Nhảy dù, Liên đoàn 41 và 52 Pháo Binh .
Cùng lúc Quân Đoàn II (II Field Force US) cũng được thành lập, có BTL đóng tại Biên Hoà, chỉ huy các đơn vị Mỹ tham chiến tại Vùng 3 Chiến Thuật của Nam VN tới ngày giải tán 2-5-1971, gồm SD1BB, SD1Ky Binh Không Vận, SĐ9BB, SD25BB, SD101Dù, Lữ đoàn 173 Dù, Trung đoàn 11 Kỵ binh, Liên đoàn 23 và 54 Pháo binh.
Tại Vùng 1 Chiến thuật của VNCH, Hoa Kỳ thành lập Quân đoàn III Thủy Bộ TQLC (III Marinne Amphibious Force), có BTL đóng tại Đà Nẳng, chỉ huy SD1 và 3 TQLC, 2 Trung đoàn đổ bộ, Không đoàn 1 TQLC cùng Quân đoàn XXIV.
Về quân số tham chiến của Hoa Kỳ, khởi đầu 760 (1959), 900 (1960), 3205 (1961), 11.300 (1962), 16300(1963), 23300 (1964), 184.300 (1965), 383.300 (1966), 485.600 (1967), 536.100 (1968), 475.200 (1969), 334.600 (1970). 156.800 (1971), 24.200 (1972) và 50 (1973). Như vậy từ sau Hiệp Định Ba Lê ra đời, QLVNCH một ḿnh ngăn chận và chống trả với toàn Khối Xă Hội Chủ Nghĩa, cho tới ngày Miền Nam mất theo lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh, vào trưa ngày 30-4-1975.
+ HOA KỲ CÓ BỊ SA LẦY TẠI CHIẾN TRƯỜNG VN (1955-1975) ? .
Sau khi rời khỏi chính trường năm 1977, Ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, nhân vật mang tiếng đă manh tâm bán đứng VNCH cho khối cọng sản đệ tam quốc tế, đă lần lượt xuất bản nhiều tập hồi kư chính trị như : Những năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) và Bí Lục Kissiger.. hé mở nhiều bí ẩn lịch sử cận đại về các thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Liên Xô-Trung Cộng, Chiến tranh VN và cuộc thăm viếng Trung Cộng của Tổng thống Mỹ Richard Nixon vào tháng 2-1972, trước khi Hà Nội mở cuộc tấn công mùa hè vào các tỉnh Quảng Trị, B́nh Long, Kon Tum và B́nh Định của VNCH.
Cũng nhờ những tiết lộ này, mà ngày nay ta mới biết được bộ mặt thật của cặp Nixon-Kissinger, chỉ v́ lợi lộc của riêng ḿnh, đă bán đứng đồng minh bạn bè cho kẻ thù. V́ muốn kéo Trung Cộng vào phe cánh, Hoa Kỳ qua Nixon-Kissinger đă chủ động đề nghị viện trợ tối đa cho Tàu, tất cả những quân dụng vũ khí chiến lược, kể cả cung cấp vệ tinh để Tàu thu lượm tin tức t́nh báo từ Liên Xô. Theo Bill Burr, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề ngoại giao của Mỹ, thuộc Đại Học Washington, cũng là chủ biên hồi kư Bí lục Kissinger, cho biết cuộc đi đêm bí mật của Kissinger tai Bắc Kinh , khởi đầu từ năm 1971 qua đề nghị Hoa Kỳ sẽ thiết lập một chương tŕnh vệ tinh t́nh báo, để tặng Trung Cộng. Sau đó tại trụ sở LHQ ở New York vào tháng 12-1971, Kissinger đă cho Ngoại trưởng Hoàng Hoa nhiều tin tức liên quan tới quân sự của Liên Xô, để chuyển về Tàu. Tuy vậy để che mắt Liên Xô và thế giới, Hoa Kỳ cũng như Trung Cộng luôn đóng kịch ḱnh chống nhau tại bàn hội nghị.
Tóm lại, giống như trường hợp VN, trước khi Tổng thống Nixon chính thức thăm Trung Cộng và sau này, Kissinger đă bí mật tới Bắc Kinh rất nhiều lân, để gặp cả Mao-Chu và Trung Cộng cũng đă đáp ứng cho Mỹ thiết lập một trạm t́nh báo-quân sự, dọc theo biên giới Nga-Hoa, để thu lượm tin tức, theo dơi t́nh h́nh chuyển động của Liên Xô. Tháng 7-1973, một điệp viên CIA tên James Lilley được cữ giữ chức trưởng trạm t́nh báo này, cũng là người trực tiếp phụ trách đường dây liên lạc Trung-Mỹ. Tháng 4-1975, theo yêu cầu của Đặng Tiểu B́nh, Tổng thống G.Ford đă viện trợ cho Trung Cộng rất nhiều quân trang dụng chiến lược, trong đó có nhiều thiết bị điện tử dùng để chế tạo vũ khí bom đạn hiện đại. Kissinger c̣n tiết lộ nội dung cuộc họp thượng đỉnh giữa Nga-Mỹ cho Trung Cộng. Tất cả cho thấy mức độ khả tín của người Mỹ, trong lúc cùng hợp tác đồng ḿnh, để từ đó chúng ta mới nhận diện rơ ràng về ư nghĩa của sự sa lầy tại VN, mà các sử gia trong và ngoài nước thường hay gán ghép cho Hoa Kỳ.
Người Việt tị nạn CS đă sống ở Hoa Kỳ hơn ba mươi lăm năm qua, nên đâu c̣n lạ ǵ bản châăt ngoại giao môi miêăng của họ, hoàn toàn khác biệt với hành động thực tế. Tại A Phú Hăn và Iraq, nguời Mỹ lấy ‘ nhân quyền ‘ cùng cớ ‘ Saddam Hussein có Weapons of Mass Destruction và tiêu diệt khủng bố ‘ làm b́nh phong đêẩ che đâầy hành động quân sự và dành thị trường cho tư bản Mỹ-Anh tiêu thụ hàng hóa, cùng dịch vụ khai thác dầu khí trên lănh thổ của hai quốc gia Hồi Giáo này.
Đọc lịch sử nước Mỹ, ta thấy dù dân chủ hay cộng ḥa, th́ quyêản lợi của tư bản Mỹ vẫn là ưu tiên số một .Tóm lại, dù Mỹ vơi tổng thống hèn kém như Carter hoặc cứng rắn cở Reagan, th́ mục tiêu hành động của chính phủ, cũng vẫn là làm sao cho dân chúng Hoa Kỳ được hưởng thụ nhiều hơn trước. C̣n tất cả chỉ là phương tiện , để đảng nọ đảng kia mới c̣n cơ hội tái đắc cử cầm quyền tiếp. Hiểu thêm điều này nửa, mới cảm thấy bớt uất nghẹn khi biết Tổng thống Johnson đă đưa vào VN tới 550.000 quân + 80.000 người của các nước Đồng Minh và 150 tỷ đô la chiến phí. Rồi đang lúc VNCH sắp đạt được chiến thắng cuối cùng, qua các trận đại chiến vào Tết Mậu Thân 1968, các cuộc hành quân Toàn Thắng vượt biên giới sang Kampuchia 1970 và nhất là trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.. th́ Tổng Thống Mỹ là Nixon, kế thừa chiến lược của TT.Johnson lại kư Hiệp ước ngưng bắn Paris 1973, tháo chạy khỏi VN, bỏ mặc cho Miền Nam bị toàn khối cọng sản đệ tam quốc tế cưởng đoạt vào trưa ngày 30-4-1975.
Ngày nay nhờ Quốc Hội Mỹ đă thông qua đạo luật ‘ Quyền tự do tư liệu và thông tin’, nên Thư Viện Quốc Gia Mỹ đă giải cấm những văn kiện tuyệt mật, có liên hệ tới cuộc chiến Đông Dương lần 2 (1945-1975), qua nhiều đời Tổng Thống Mỹ liên hệ, từ Truman cho tới Carter.. Nhờ vậy người ngoài mới biết được những bi hài kịch đă diễn ra suốt thời gian Mỹ tham chiến tại VN, ngay trong hậu trường của những chóp bu tại Ṭa Bạch Ốc, mà những nhân vật quyết định vận mệnh của VN , phần lớn là Dân Sự hay Chuyên Viên Hành Chánh, trong đó hầu hết chưa một ngày ở trong quân ngủ hay trốn quân dịch, như trường hợp của Tổng Thống Bill Clinton sau này. Đó là việc quân lực Mỹ chưa bao giờ được phép xữ dụng hết khả năng chiến đấu, nhất là hai quân chủng Không và Hải quân Hoa Kỳ, chủ nhân ông của bất cứ chiến trường nào, rất được thế giới nể sợ.
C̣n một bí mật khác cũng không kém phần bi thảm, đó là khi Mỹ đưa quân đội ḿnh tới chiến đấu ở VN, th́ cũng đồng lúc tư bản Mỹ tha hồ xuất cảng quân trạng dụng sang Nga, các nước Đông Âu lẫn Tàu. Sau đó các nước này thay nhản đổi hiệu, rồi lại chuyển tiếp tới Hà Nội, để Bắc Việt chuyển vận vào Miền Nam cho bộ đội Cọng Sản có phương tiện dồi dào , bắn giết chẳng những QLVNCH mà cả quân Mỹ và các nước đồng minh đang chiến đấu tại chiến trường. Nói chung dù có thái độ cứng rắn như Tổng thống Truman, trước chủ nghĩa banh trướng sắt máu của Trùm Đỏ Staline vào năm 1947 hay to miệng nhảy múa chống cộng cùng ḿnh như Tổng thống Nixon, th́ cuối cùng cũng vẫn là cùng thỏa thuận với nhau để chia chiến lợi phẩm trên xác chết của con mồi.
Riêng về câu hỏi, tại sao siêu cường Mỹ với một bộ máy chiến tranh ghê gớm , lại để cho 55.000 quân sĩ thiệt mạng và mấy trăm ngàn người khác bị thương ? cuối cùng tháo chạy, sau khi chỉ lấy được về nước, một số tù binh bị Bắc Việt cầm tù. Đô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, đă giải thích ‘ cuộc chiến thất bại không phải v́ chống không lại địch quân, mà v́ chính sách của Hoa Thịnh Đốn đă đẻ ra quá nhiều chiến lược, nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẽo đột nhiên dội bom, sau đó tự ư ngưng và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng.
Cuối cùng tự ḿnh trói tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng hề bị sa lầy hay bị lâm vào tuyệt lộ.. ’ ’ Đây cũng là kết quả như lời cảnh giác của Tướng Maxwell Taylor, nguyên cố vấn quân sự của Tổng Thống J.Kennedy, từ năm 1961 ‘ Nếu Hoa Kỳ tới VN với mục đích tối hậu, là giúp cho nước này chống lại sự xâm lăng của cọng sản, th́ cuộc chiến sẽ không có giới hạn, nên chúng ta không thể không đánh thẳng ra Hà Nội, để tiêu diệt sào huyệt của chúng ‘.Nhưng tiếc thay đất Bắc , nơi phái sinh ra cuộc chiến VN, lại là vùng đất băo đăm an toàn nhất, mà các tổng thống Mỹ dành cho Cộng Sản Bắc Việt..
Đă vậy TT Johnson c̣n cấm quân Mỹ không được tấn công hay truy sát quân Bắc Việt, tại lănh thổ Lào và Kampuchia giáp ranh với VN. Trong khi đó ai cũng biết trên phần đất này, Hà Nội đang mở đường ṃn HCM, lập các khu hậu cần, mật khu, tích trử lương thực quân dụng và tập trung quân để tấn công vào lănh thổ VNCH.. Chính cựự Tổng thống Eisenhower cũng lên tiếng thắc mắc là tại sao TT. Johnson lại không dám tấn công thẳng vào đầu nảo của quân Bắc Việt tai Hà Nội, trong lúc đó hầu hết tướng lănh Mỹ th́ phẩn nộ, v́ nhận được lệnh đánh nhau với VC phải đạt chiến thắng nhưng hai tay họ th́ bị trói chặt bởi các luật lệ không biết đâu mà ṃ.
Tóm lại như Nixon đă nhận biết từ năm 1954, cọng sản dùng chiêu bài ‘ chiến tranh giải phóng ‘, để mà xâm nhập và khuynh đảo chính trị tại Nam VN, chứ không bao giờ công khai vượt tuyến như tại Triều Tiên năm 1950. Thêm một điểm đặc biệt khác, là lúc đầu những người trí thức và khoa bảng Mỹ gần như thờ ơ không ngó tới việc Hoa Kỳ tham chiến tại VN. Nhưng từ giai đoạn 1967 về sau, nhất là sự kiện cọng sản bị thảm bại trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, th́ giới trên nhập cuộc qua phong trào phản chiến trên đất Mỹ, chống đối và đánh phá chính phủ dữ dội, c̣n hơn VC thứ thiệt ở VN.cũng chưa thấy hoạt động công khai dữ dằn như phong trào phản chiến tại Mỹ. Đây là một nghịch lư nổi bật và mai mĩa nhất của Mỹ, trong cuộc chiến VN.
Đó là sự kiện công dân Mỹ (như đào hát Jane Fonda chẳng hạn), hay sĩ quan John Kerry đă công khai đứng hẳn về phía Hà Nội, cổ vỏ cho giặc chống lại quân đội và chính phủ ḿnh, qua các cuộc biểu t́nh phản chiến, cầm cờ máu đốt cờ Mỹ, phủ nhận huy chương, lên đài phát thanh truyền h́nh chửi bới hay tới tận Hà Nội để hoan hô Hồ tặc..
Khi than rằng ‘ Chúng ta đă đánh bại chính ta ‘, đó là nhận xét của Tổng Thống Johnson về nước Mỹ và ngay cả bản thân ḿnh, trong suốt thời gian cầm quyền với một sức mạnh quân sự vô địch, nhưng đầu óc lại chỉ nghĩ tới chiến thắng VC bằng chính trị, một chiến lược giá rẽ, mà không một nhà lănh đạo nào của thế giới nghĩ tới sự kỳ quặc này, nhất là khi phải đối mặt với những kẻ sát nhân khủng bố thâm độc như cọng sản quốc tế.
Năm 1967 Nixon nhậm chức tổng thống, khiến ai cũng nghỉ tới nước Mỹ sẽ leo thang chiến tranh, v́ ông ta là một nhân vật diều hâu có môn bài. Về lư thuyết, Nixon cũng giống như TT Kennedy và Johnson, có chung mục tiêu là cả ba đều cương quyết không muốn VNCH phải sụp đổ v́ Bắc Việt xâm lăng. Nhưng cả ba đă lầm lẫn chiến lược lúc nhập cuộc. Với TT Kennedy và Johnson, cả hai cùng chủ trương tham chiến trong giới hạn, để không gây xáo trộn tại chính quốc, nên nói ngăn chận nhưng vẫn không cản nổi sự xâm nhập của bộ đội từ miền Bắc xâm nhập vào Nam và sự khuynh đảo chính trị tại VNCH. Khi Nixon lên cầm quyền, cũng là lúc nước Mỹ qua vai tṛ của Kissinger, đang đi đêm để nhun nhén sự nới kết Mỹ-Hoa, phá thế liên hoàn Nga-Trung, trong thế cờ thời chiến tranh lạnh giữa ba nước Hoa Kỳ-Liên Xô và Trung Cộng. Bởi vậy Nixon không bao giờ dám leo thang chiến tranh tại VN, v́ sợ phản lại lời hứa ‘ rút quân ‘ khi ứng cử, lại vừa làm mất sự thân thiện với Trung Cộng lẫn Nga đang cổ vơ và ủng hộ VC cưởng chiếm miền Nam. Đó là lư do Nixon trao lại cuộc chiến đang tiếp diễn ác liệt tại chiến trường Nam VN, cho VNCH tự lo liệu, qua danh từ hào nhoáng ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘.
Sau này qua các hồi kư chính trị của những nhân vật thân cận cao cấp của Chính Phủ VNCH như Nguyễn Văn Ngân, Nguyễn Phú Đức, Nguyễn Tiến Hưng, Hoàng Đức Nhă.. ta mới biết được gánh nặng của các nhà lănh đạo VNCH suốt 20 năm tồn tại, từ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương.. tất cả đều bị Hoa Kỳ dùng viện trợ và sinh mệnh, để áp lực, khống chế, ép bắt hăm dọa VNCH phải thi hành theo đường hướng của Mỹ, nhất là sự kư kết hiệp ước ngưng bắn ngày 27-1-1973, ngày nay bị đánh giá như tờ giấy lộn không hơn không kém, đối với sự giải quyết ḥa b́nh tại VN lúc đó.
Ngoài ra những bức thơ viết tay của Tổng Thống Nixon và Ford, gửi mật cho TT .Nguyễn Văn Thiệu, với sự trang trọng cam kết, đă nói lên cái gọi là ‘ thực chất của sự mưu t́m ḥa b́nh trong danh dự ‘ và trên hết đă phần nào lột trần hai nhân vật ‘ Nixon-Kissinger’, trong vai tṛ chủ động tháo chạy khỏi Miền Nam, để khỏi bị sa lầy.
Không được đáp ứng theo nhu cầu đ̣i hỏi, TT J.Kennedy đạo diễn tấn tuồng binh biến ngày 1-11-1963 hạ sát Tổng Thống hợp pháp của VNCH là Ngô Đ́nh Diệm, để gây xáo trộn chính trị suốt ba năm, rồi kết luận miền Nam thiếu lănh đạo
TT Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả hành động đê tiện là đe doạ ám sát TT Nguyễn Văn Thiệu, để hoàn thành cho được bản hiệp ước ngưng bắn Paris 1973, mới có cớ hợp thức cho phép bộ đội miền Bắc có mặt tại miền Nam, tiếp tục xâm lăng thôn tính Miền Nam, như Kissinger đă hứa với Mao-Chu tại Bắc Kinh năm 1972, mà mới đây trong hồi kư có nhắc tới.
Nói là ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘ nhưng lại cắt viện trợ, ngưng cung cấp quân trang dụng như lời hứa, khiến cho QLVNCH lâm vào t́nh trạng kiệt quệ, phải bỏ nhiều phần lănh thổ v́ không có phương tiện để pḥng thủ. Rồi trong lúc Bắc Việt xua hết lực lượng, tấn công cưởng chiếm VNCH, th́ người Mỹ tháo chạy trong danh dự, suốt đêm trên nóc nhà bằng trực thăng, qua sự đùm bọc bảo vệ an ninh của QLVNCH lúc đó . Cuối cùng từ ấy đến nay, vẫn không ngớt đổ tội cho QLVNCH là không chịu chiến đấu, nên quân đội Mỹ phải sa lầy và Miền Nam mới bị sụp đổ., khi kẽ thù đang hấp hối chờ đầu hàng vào cuối năm 1972, qua những trận mưa bom tàn khốc trên đất Bắc.
Thực chất của người Mỹ khi tham chiến tại VN là thế đó !
Viết từ Xóm Cồn Ha Uy Di
Tháng 2-2010
MƯỜNG GIANG
Bookmarks