Trong bài “Lạm phát ở Việt Nam – Thử t́m nguyên nhân” của tôi, viết hồi tháng 3 năm 2008, có đoạn trích dẫn - “Học giả Trần Đông Chấn vạch ra cái cơ chế maphia ở Việt Nam như sau:
“Họ không h́nh thành nên những phe nhóm riêng rẽ cụ thể nào cả, mà len lỏi có mặt ở tất cả mọi nơi, từ cơ quan đảng đến nhà nuớc, chính phủ đến quốc hội, trung ương đến địa phương, cơ quan hành chính đến các doanh nghiệp. Cũng không có một thỏa thuận liên minh nào được cam kết nhưng bọn họ phối hợp hành động rất ăn ư và đồng bộ nhờ có một mục tiêu chung là trục lợi.
Họ không thể hiện chính kiến riêng và luôn hoan nghênh tất cả các nghị quyết của đảng, chỉ thị của chính phủ, dự luật của quốc hội và các quyết định của chính quyền địa phương cho dù là chúng mang tính bảo thủ hay cấp tiến... Nhưng điều tồi tệ và nguy hại nhất ở đây chính là những kẻ cơ hội này đang được các thế lực nước ngoài hỗ trợ và nuôi dưỡng v́ quan hệ cộng sinh và v́ những kế hoạch dài hơn””.
Ít lâu sau ngày viết bài đó tôi mới biết người được tôi tôn xưng “học giả” là một tác giả trẻ cùng tuổi Bính Ngọ với con trai tôi. Anh tên là Trần Huỳnh Duy Thức. Xét về Thiên Can, anh lại cùng can Bính với tôi. Tử vi bảo: Bính biến vi sư, Bính biến vi tù.
Trong tư cách “sư”, anh xứng đáng bậc thầy của nhiều cán bộ lănh đạo ĐCSVN. Nhưng, quả là anh đang bị tống tù. Phiên ṭa phúc thẩm ngày 11/5/2010 đă kết án anh 16 năm tù và 5 năm quản chế (bản án số 254/2010/HSPT) với tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 Bộ luật H́nh sự.
Bài viết này mang đầu đề “Ngôi sao bị nhốt” v́ tôi nghĩ đến một B. Obama (4 – 8 - 1961), một D.Medvedev (14 – 12 – 1965), một Y. Shinawatra (21 – 6 – 1967) … ở Việt Nam. Những người này đều cùng độ tuổi, cùng tầm tư duy với Trần Huỳnh Duy Thức (29 – 11 – 1966).
Trong lĩnh vực kinh tế: Từ một cửa hàng kinh doanh máy tính nhỏ hợp doanh với Lê Thăng Long (cùng học IT tại Trường Đại học Bách khoa TPHCM), tháng 5 năm 2001 họ đă mua lại được Cty Mligo Solution và sáu tháng sau đó, tháng 11/2001, Trần Huỳnh Duy Thức đă nắm tay Lê Thăng Long đĩnh đạc bước chân vào thị trường Mỹ, mua lại công nghệ VoIp (giao thức Internet) rồi về thành lập Cty Global EIS và Cty OCI với hàng trăm nhân viên và nhà khoa học.
EIS và OCI một thời từng được báo chí đánh giá là niềm tự hào của IT VN khi tiên phong đầu tư ở nước ngoài. EIS được một tờ báo quen viết bài khen để khai thác quảng cáo gọi đó là Giác đấu trên đất Mỹ.
Không chỉ thành đạt trong kinh doanh, kiến thức kinh tế c̣n đủ sâu sắc để THDT đưa ra được những dự báo tầm quốc sự rất đáng nể:
“Tôi c̣n nhớ, cuối năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam đang căng phồng như bong bóng. Vào thời điểm đó, măi lực chứng khoán lần đầu tiên đă len lỏi vào hầu hết các tầng lớp dân chúng Việt Nam. Ngoài công chức, doanh nhân, trong các phiên giao dịch chưa chính thức (OTC) và sàn chứng khoán, người ta thấy sự có mặt của không ít bà nội trợ, các bác nông dân lam lũ.
Sự xuất hiện kịp thời bài viết “Việt Nam đồng đang ở đâu và sẽ về đâu” của bác Trần Đông Chấn như là một liều thuốc có công dụng giải “say” cho nhiều người đang bị măi lực chứng khoán cuốn hút. Bên cạnh kiến thức sâu sắc về tài chính và tiền tệ, người đọc c̣n cảm nhận sự tinh túy của bác Chấn trong việc sử dụng 02 câu sấm Trạng Tŕnh (Nguyễn Bỉnh Khiêm) để cảnh báo dân chúng về hiểm họa của những cái ṿi Bạch Tuộc tài chính quốc tế khi quyết định đầu tư vào chứng khoán.
V́ vậy, bài viết của bác Chấn đă vinh dự được sử dụng trong chương tŕnh thời sự của đài truyền h́nh quốc gia Việt Nam (VTV) cảnh báo dân chúng vào thời điểm ấy”.
Một nhà báo đă từng viết như vậy trên mạng.
Về mặt khoa học-công nghệ: Nhiều người thừa nhận rằng chính THDT và công ty EIS, OCI của anh đă đi tiên phong “thị trường hóa” giấc mơ tin học chỉ mới được nhen lên từ các chương tŕnh nghiên cứu cấp quốc gia kiểu như của nhà toán học Phan Đ́nh Diệu. Do vậy, anh có thể xem là một trong những người đă lập công đầu trong sự nghiệp xây dựng nền công nghệ thông tin ở Việt Nam.
Ngoài ra, như lời trong thư của thân phụ THDT, ông Trần Văn Huỳnh, cán bộ Pḥng Văn hóa Đối ngoại TP.HCM gửi chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, đă viết về con ḿnh:
“Trong nhiều năm qua, Thức đă dành thời gian, tâm huyết, sức lực nghiên cứu về kinh tế học, chính trị học và t́nh h́nh kinh tế, chính trị, xă hội, văn hóa của đất nước với mục đích là cảnh báo đến lănh đạo đứng đầu Nhà nước, Đảng và Chính phủ về những nguy cơ của đất nước có thể bị thôn tính biến thành thuộc địa kiểu mới trong thời đại toàn cầu hóa. Đầu tiên,
Thức đă gửi thư trực tiếp đến một số vị lănh đạo thông qua con đường công văn chính thức bưu điện và nhờ một số người có quan hệ gửi trực tiếp nhưng không đến được tận tay của các vị lănh đạo đó. Trong số các bức thư này, có bức thư ngày 7/1/2004 mà Thức đă gửi cho Chủ Tịch, lúc đó là Bí Thư Thành ủy TP.HCM và bức thư ngày 14/4/2007 gửi cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ….
Do đó, Thức đă chọn cách viết blog để đăng tải những bài viết cảnh báo về nguy cơ đất nước nhưng vẫn chưa được quan tâm của lănh đạo trong khi các nguy cơ vẫn tiếp tục phát triển ngày một nguy cấp”. Trần huỳnh Duy Thức đă viết những ǵ? * Anh chỉ ra những sai lầm của Chính phủ và Quốc hội trong việc vạch kế hoạch phát triển và mục tiêu tăng trưởng:
“Vào tháng này năm ngoái, quốc hội biểu quyết thông qua nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xă hội năm 2008 theo đề xuất của chính phủ. Mặc dù t́nh h́nh lạm phát lúc đó đă đến mức báo động nhưng chính phủ và quốc hội vẫn xây dựng mục tiêu tăng trưởng GDP 8,5% - 9%.
Con số này là một cơ sở để đ̣i phải tăng cường đầu tư, nghị quyết nêu rơ đầu tư sẽ đạt 42% GDP trong cùng năm tài khóa 2008 - một con số rất cao và tỷ lệ nghịch với chất lượng tăng trưởng nhưng tỷ lệ thuận với giá trị tham nhũng. Kết quả là các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn và tổng công ty, được rót ngân sách khổng lồ và đầu tư tràn lan vào đủ thứ lĩnh vực.
Nguy cơ lạm phát không hề được tháo ng̣i nổ từ gốc mà lại c̣n bị đổ thêm dầu vào lửa bởi nạn đầu tư ăn xổi ở th́ này. Hậu quả th́ thấy ngay lập tức, lạm phát và nhập siêu phi mă chóng mặt. Chính phủ buộc phải thắt chặt tiền tệ nâng lăi suất lên c̣n chóng mặt hơn.
... Sự tăng trưởng không dựa trên tăng năng suất th́ làm sao nói đến phát triển bền vững được. Mà làm sao có được việc làm mới trong khi lực lượng duy nhất làm được điều này trong nhiều năm qua là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang hấp hối và đă chết gần một nửa. Thực ra không ít người thừa hiểu rằng những con số mục tiêu về việc làm này được đưa ra để che dấu t́nh trạng thất nghiệp đă và sẽ c̣n tăng nhanh và phức tạp trong thời gian tới.
Tội phạm và tệ nạn xă hội cũng theo đó mà tăng mạnh” (1). * Anh vạch rơ cái mặt trái đang hoành hành của thị trường chứng khoán nước ta:
“Nhưng thật trớ trêu, thị trường chứng khoán bị biến thành nơi rửa tiền, để đầu cơ trục lợi ngắn hạn, vốn thực sự được huy động để đưa vào nền kinh tế chẳng bao nhiêu, nguy cơ rủi ro cho các ngân hàng không hề giảm đi mà c̣n trầm trọng hơn v́ người ta vay vốn ngân hàng đổ vào chứng khoán; cổ phần hóa bị biến thành cơ hội rất tốt để bán rẻ tài sản toàn dân cho nước ngoài để các quan chức tham nhũng trục lợi.
Năng lực thực thi các chính sách vĩ mô của chính quyền các cấp, từ trung ương đến địa phương đang thực sự bị thách thức bởi những kẻ cơ hội. Lực lượng này phát triển kinh khủng kể từ sau đại hội X nhưng lại không dễ bị nhận dạng v́ bọn họ không h́nh thành nên những phe nhóm riêng rẽ cụ thể nào cả, mà len lỏi có mặt ở tất cả mọi nơi từ cơ quan đảng đến nhà nước, chính phủ đến quốc hội, trung ương đến địa phương, cơ quan hành chính đến các doanh nghiệp” (2).
* Và dự báo cái nguy cơ khủng hoảng đang hiện hữu:
“Các giá trị danh nghĩa ở Việt Nam hiện nay là những bong bóng khổng lồ liên thông nhau. Thời gian qua chúng chưa hề được xả hơi để giảm nguy cơ nổ tung, áp lực từ chỗ này chỉ được chuyển tạm thời qua chỗ khác mà thôi. Chứng khoán và bất động sản bơm hơi qua lạm phát và lăi suất, từ đây bơm tiếp vào tỷ giá.
Bây giờ nó đang t́m cách để bơm ṿng lại bất động sản, nếu biện pháp “kích cầu” bất động sản lần này không có tác dụng th́ quả bóng tỷ giá sẽ nổ tung. Khủng hoảng do bong bóng xảy ra trong t́nh trạng nội lực suy kiệt như Việt Nam lúc này sẽ gây ra một sự sụp đổ toàn diện.
Nhiều nước trên thế giới cũng đang khủng hoảng, nhưng nước nào có nguồn lực trong nước được chăm sóc tốt và thực chất – tức là có nền tảng vững th́ cho dù khủng hoảng có rất nặng nề đi nữa, nền kinh tế nước đó vẫn có khả năng điều chỉnh và nhanh chóng tạo ra cơ hội mới để phát triển. Việt Nam lâu nay luôn thiếu vắng những biện pháp chăm sóc từ gốc làm nó ngày càng mục ruỗng do đó mà nội lực của quốc gia ngày càng suy kiệt. Nguồn lực trong nước không chỉ ít được tạo mới mà c̣n bị khai thác tràn lan và phí phạm”(1).
“……sự tồn tại trong thoi thóp hiện nay của các tập đoàn kinh tế nhà nước đơn thuần chỉ dựa vào sự cung cấp tài chính từ chính phủ cũng như bó hẹp hoạt động trong phạm vi sân nhà mà thôi. Cái gói kích cầu kinh tế kia thực chất đă được dùng vào việc vực dậy các tập đoàn ăn hại này tồn tại được ngày nào hay ngày đó. Nhưng liệu các doanh nghiệp này có sống dựa măi được vào ngân sách nhà nước hay không? Khi tiền hết th́ mỗi lương duyên tốt đẹp này e rằng phải sớm nói lời chia tay”(5).
* Anh xót xa cho thân phận hẩm hiu của nông dân nước ta:
“Với người nông dân th́ tương lai trước mắt c̣n mờ mịt hơn rất nhiều. Lực lượng lao động trong khu vực này ngày càng tăng cả về con số lẫn tỷ lệ. Trong khi đó tư liệu sản xuất quan trọng nhất là đất đai th́ đang bị thu hẹp nhanh chóng, mà đầu tư cho công nghệ để gia tăng năng suất lao động th́ gần như bằng không.
Chuyển đổi sang việc làm trong khu vực công nghiệp và dịch vụ th́ gặp phải những chiếc bánh vẽ của các kẻ đầu tư để chiếm đất nông nghiệp. Số cầu lao động do các doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra hàng năm cho khu vực nông thôn th́ bây giờ là một con số âm to tướng. Những công nhân gốc nông dân giờ đây trở về quê với hai bàn tay trắng, không đất không nghề.
Mưu sinh với họ là cả một thử thách đạo đức. Hàng tỷ đô-la đầu tư kể cả từ nước ngoài lẫn từ nhà nước th́ số dành cho nông nghiệp và nông thôn chỉ là phần thừa đuôi thẹo. Lúa, cá, tôm, cà phê, v.v… giảm giá và ế ẩm đang chồng chất nợ nần lên người nông dân. Doanh nghiệp nếu phá sản c̣n áp dụng được luật để giải trừ trách nhiệm trả nợ, c̣n người nông dân th́ có chết cũng không hết trách nhiệm do vỡ nợ. Con giun xéo măi cũng oằn”(1).
* Sử quan thế giới của anh có thể xem là mới lạ, độc đáo và đáng suy ngẫm:
“Muốn giàu có và làm cuộc sống tốt đẹp hơn là điều con người hướng tới và t́m kiếm từ hàng ngh́n năm trước, nhưng xă hội loài người chỉ mới thực sự phát triển thịnh vượng được vài trăm năm nay. Người ta thường gắn cho thành tựu vĩ đại này là nhờ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Điều đó không sai, nhưng bước tiến bộ nhảy vọt về khoa học kỹ thuật này chỉ là quả, nhân của nó chính là sự giải phóng tự do và tư tưởng con người.
Có tự do và quyền con người nên người ta mới thỏa sức nghiên cứu, t́m ṭi để hiểu rơ được những quy luật của tự nhiên; mới không sợ hăi phát biểu chính kiến của ḿnh để t́m ra những giải pháp tốt nhất. Đây chính là nền tảng quan trọng cho cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật để tạo ra các phát minh, sáng chế; hiểu được quy luật kinh tế; và sáng tạo ra những hệ tư tưởng chính trị, triết học làm thay đổi h́nh thái nhà nước hiệu quả hơn.
Lịch sử đă chứng minh rằng một xuất phát điểm ở phía sau nhưng đặt quyền tự do của con người lên trước đă thắng và vượt xa một xuất phát điểm ở phía trước nhưng không coi trọng quyền và sự tự do của con người.
Trong cả thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 Trung Quốc là nền kinh tế lớn nhất thế giới, lớn hơn cả Châu Âu cộng lại. Vào lúc đó, khi mà triều đại phong kiến Trung Quốc vẫn đang say sưa với sức mạnh của ḿnh và tiếp tục t́m mọi cách để đạt mục tiêu là kẻ mạnh nhất giàu nhất, th́ Phương Tây bắt đầu những cuộc cách mạng về nhân quyền với mục tiêu hàng đầu là giành bằng được quyền tự do của con người.
Chỉ 50 năm sau, Trung Quốc đă trở thành một kẻ to xác nhược tiểu bị các nước phương Tây xâu xé, rồi sau đó bị Nhật – một láng giềng nhỏ bé đi theo mô h́nh phương Tây xâm chiếm. Triều đ́nh Măn Thanh phải kư hàng loạt các hiệp ước bán nước nhục nhă. Trong cùng thời gian đó, thế giới phương Tây đă phát triển nhanh chóng, đạt đến sự thịnh vượng bền vững.
Điển h́nh là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, đất nước này đă đưa vào trong hiến pháp đầu tiên của ḿnh sự bảo vệ quyền con người; tự do của con người được đưa lên trên tất cả những thứ cần bảo vệ khác. Hiến pháp Hoa Kỳ đă hiệu chỉnh nhiều lần nhưng ở đó sự tự do thiêng liêng của con người vẫn luôn là ngự trị số một. Không phải tự nhiên mà Mỹ trở thành quốc gia cường thịnh như ngày nay. Tự do cho con người cũng không phải là thứ tự nhiên mà có” (3).
* C̣n tiếp trang sau...
* Source: http://thongtinberlin.de/diendan/nov...isaobinhot.htm
Bookmarks