Ba Mươi Lăm Năm Sau Ngày Quốc Hận 30-4-1975
Cựu Ngoại Trưởng Kissinger Xác Nhận “ Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để Thua CSVN
Chứ Không Do VNCH
MƯỜNG GIANG
Sau hơn ba mươi bảy năm VNCH bị sụp đổ tính từ ngày 30-4-1975, nhưng tới nay vẫn c̣n nhiều tác giả ngoại quốc khi viết về cuộc chiến trên,vẫn cứ dựa vào các tài liệu tuyên truyền của cọng sản, nên thường lư luận một chiều, đôi lúc thật hàm hồ bừa băi. Chính những cuốn sách này, đă khiến cho ai khi đọc tới cũng đều có cái cảm tưởng là “ Những người lănh đạo nước Mỹ lúc đó toàn ngu xuẩn hay điên rồ “, nên mới bị sa lầy và tháo chạy khỏi miền Nam, vào ngày 30-4-1975 một cách nhục nhă . Riêng đối với người Mỹ qua thói quen tự cao tự đại, sau khi tháo chạy khỏi chiến trường Đông Dương để bị mang tiếng bội tín với thế giới tự do, v́ không giữ được lời hứa “ bảo đăm quyền sống tự do của đồng bào Nam VN, Lào, Cambốt “. vẫn cứ phải loay hoay giữa “ tự ái và lương tâm “ khi muốn giải đáp trước công luận, lư do tại sao “ Một cường quốc bách chiến bách thắng như Mỹ lúc đó và ngay cả ngày nay “, lại có thể bị thua trước một đối phương nhỏ bé, lạc hậu như cọng sản Bắc Việt ? cho dù đối phương có được Nga, Tàu viện trợ và chống lưng.
Ngày nay nhờ những khai quật từ các văn khố khắp thế giới, nhất là sự sụp đổ của gần hết khối xă hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô và các nước Đông Âu nhưng quan trọng nhất vẫn là những bản tự khai của các chóp bu tại Bắc Bộ Phủ, cho ta nhận rơ phần nào giải đáp trên, khi đă biết rơ thực chất của cuộc chiến Việt Nam (1955-1975). Tất cả từ đầu cho tới cuối, hoàn toàn
“ không ăn nhập ǵ tới ḷng ái quốc, yêu nước thương dân “, mà báo chí Tây Phương thường gán ghép để có cớ ca tụng Hồ Chí Minh và đảng VC trong suốt cuộc chiến, v́ họ bị tuyên truyền một chiều. Nay sự thật đă bị phanh phui, gây chiến tại Đông Dương lần thứ 2 (1946-1975), thật sự “ là không cần thiết lúc đó “.
V́ đối với Liên Xô thời đó, gây chiến “ lại là kế hoạch nô lệ hoá toàn cầu của cọng sản đệ tam quốc tế “. Điều này ngày nay cũng đă được nhiều cán bộ cao cấp của VC như Trần Bạch Đằng, Vơ Văn Kiệt.. xác nhận. C̣n hậu cứ lớn không phải tại Hà Nội, mà ở tận Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, được Hồ Chí Minh cùng đồng đảng mang về bành trướng khắp nước. Sứ mạng của Hồ đă hoàn thành một phần, ít ra là đă nhuộm đỏ được ba nước Việt-Lào-Cao Mên trên bán đảo Đông Dương. Nhưng chiến thắng không phải do quân sự mang tới, mà nhờ vào “ sự hèn nhát thụ động, của tập thề quần chúng trong vùng “, v́ sợ sự khủng bố tàn độc của chủ nghĩa cộng sản nên cúi đầu tùng phục, để được yên ổn sống, dù là kiếp sống nô lệ hèn thừa bên lề đường như hiện tại trong thiên đường xă nghĩa VN.
Do đó, hầu hết đă phó mặc vận mệnh của đất nước, của chính bản thân và gia đ́nh ḿnh cho ai muốn làm lănh tụ cũng được, coi đó như là chuyện không có liên can ǵ tới họ. Tóm lại “ Chiến tranh VN vừa qua “ là một cuộc chiến vô cùng phức tạp, giống như Pháp năm 1954, người Mỹ đă thua cọng sản trong mặt trận ư chí tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và tàn nhẫn bất công ngay trên đất nước ḿnh, chứ không phải ở chiến trường Đông Dương. Cũng từ đó, người Mỹ thường nhắc nhớ tới thành ngữ ‘ No more Việt Nam ‘ như một thứ mặc cảm tội lỗi, luôn đè nặng đất nước Hoa Kỳ, cho tới lúc Tổng thống Reagan vào ngày 21-5-1982, khai sinh một nước Mỹ mới, khi tuyên bố chiến lược tấn công, để ngăn chận sự bành trướng của khối cọng sản quốc tế.
Từ đó người Mỹ mới thôi cúi mặt và bắt đầu phục hồi danh dự cho những chiến binh Hoa Kỳ, đă tham chiến tại VN từ 1955-1975 và gọi đây là một trong những cuộc chiến chính nghĩa vĩ đại nhât, mà nhân dân Hoa Kỳ đă thực hiện được kể từ ngày lập quốc tới nay. Đối với VNCH dù người lính miền Nam đă hy sinh tột đĩnh nhưng cũng chỉ giữ được nữa mănh đất quê hương từ Bến Hải vào tới Cà Mâu, vỏn vẹn chỉ có hai mươi năm trường kỳ máu lệ. Tất cả “ không phải v́ QLVNCH không chịu chiến đấu trước kẻ thù, hoặc Miền Nam không có tướng tài và cấp lănh đạo xứng đáng sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị sát hại hay Chính Phủ VNCH không có chính nghĩa như Thượng Nghị Sĩ Mỹ là Mc.Cain từng tuyên bố trên báo chí..” mà là NƯỚC MẮT NHƯỢC TIỂU VN. Nói đúng hơn, chúng ta đă bị Thực Dân Mới nhân danh Liên Hiệp Quốc, bán đứng trong canh bài phân chia ranh giới chính trị, quân sự giữa hai khối tư bản và cọng sản, đă sắp xếp sẳn sau khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc. Nhiều nước Đông Âu kể cả Đức cũng chịu chung số phận nhược tiểu như VN và Cao Ly, khi nằm trong thế cờ quốc tế đă định đoạt sẳn. Nhưng may thay Họ đă tự ḿnh tháo gở được gông cùm nô lệ cọng sản vào đầu năm 1990, khi Liên Bang Sô Viết và phần lớn khối cọng sản đệ tam quốc tế tan ră.
Tháng 7-1954, Pháp thua trận Điện Biên Phủ đưa tới thỏa hiệp Genève chia hai đất nước VN, giống như t́nh trạng của Đức và Cao Ly năm 1945. Theo nhận xét của GS người Mỹ Hans Morgenthau, th́ đây là tṛ che đậy sự bất đồng, cũng là sự phân chia sẳn ranh giới chính trị, quân sự giữa khối cọng sản và Tây Phương, sau khi kết thúc đệ nhị thế chiến. Tại Châu Âu, từ năm 1947 Liên Xô xé bỏ cam kết , mặc sức tung hoành, dùng quân sự lần hồi cưởng chiếm các nước quanh vùng, dựng khối Đông Âu, cô lập trong bức màn sắt . Tây Bá Linh và hai nước đồng minh của Mỹ lúc đó là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ cũng bị nguy khốn, sắp rơi vào tay cọng sản. Để đối phó với t́nh trạng trên, Tổng Thống Mỹ Truman buộc ḷng phải ban hành chiến lược ‘ Ngăn Chặn ‘, đồng thời khai sinh chường tŕnh ‘ Marshall’ , viện trợ giúp cho các nước Tây Âu phục hồi kinh tế, quân sự đă bị thế chiến tàn phá. Song song Mỹ và các nước trên thành lập Tổ chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, nhằm liên kết quân sự, để bảo vệ lẫn nhau và chống lại sự xâm lăng của Liên Xô và khối cọng sản quốc tế.
Nói chung những nước nào được Mỹ khoanh vùng, th́ được gọi là Đồng Minh và tận t́nh bảo vệ như Cao Ly và Đài Loan ở Viễn Đông. Nhưng dù chiến tranh có xảy ra dưới một h́nh thức nào chăng nửa, kể cả cuộc chiến thế giới tại bán đảo Triều Tiên năm 1950, th́ chủ trương của nước Mỹ qua tuyên bố của Tổng Thống Truman, chỉ để ‘ tái lập ḥa b́nh và biên giới sẳn có đă được qui định từ trước’. Đây cũng là chiến lược của Mỹ khi tham chiến tại VN từ 1960-1975, qua nhiều đời tổng thống của lưởng đảng, chỉ nhằm mục đích “ ngăn chận làn sóng đỏ đừng lấn qua ranh giới đă phân chia sẳn “, chứ không phải tới để giúp cho VN “ giải phóng khỏi ách nô lệ cọng sản “. V́ vậy cuối cùng để hoàn thành chiến lược, cần phải thương thuyết ḥa b́nh, chứ không phải đánh nhau để kết thúc chiến tranh tại đó, khi người Mỹ đă đạt được chiến lược toàn cầu, có lợi cho quyền lợi của nước Mỹ.
Điều bất hạnh nhất của dân tộc VN mà bất cứ ai cũng nhận thấy, là đă có chung biên giới với nước Tàu. Đă vậy c̣n bị lọt vào quỷ đạo của người Mỹ, khi Hoa Lục và Bắc Việt bị nhuộm đỏ . Nên vừa nhậm chức Tổng Thống Mỹ, Eisenhower đă tuyên bố không để mất Đông Dương v́ đây là một trong những quân bài Domino toàn vùng Đông Nam Á, mà VN là tiền đồn quan trọng nhất. C̣n John Kennedy, từ lúc c̣n là thượng nghị sĩ vào năm 1956 cũng đă coi VN rất quan trọng trong chiến lược quốc pḥng của Hoa Kỳ, qua các yếu tố địa dư chính trị. V́ vậy khi đắc cử Tổng Thống, Ông đă chọn Miền Nam VN làm một thí điểm tại Châu Á, để thực thi nền dân chủ tự do chống lại chủ nghĩa độc tai khủng bố cọng sản.
Đây cũng là một cuộc trắc nghiệm đầu tiên sau hai cuộc thế chiến vừa qua, để đo lường về ư thức trách nhiệm cùng bổn phận của siêu cường Mỹ đứng đầu khối tự do.. chống lại chủ nghĩa cọng sản. Nhờ vậy ngày nay người ta mới có được những kết luận rất mẫu mực, về cái gọi là “ chính nghĩa mập mờ của người Mỹ tại chiến trường VN “, nói là để giúp dân tộc này chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tất cả chỉ là “ một chiến lược què quặt bất nhất “, do một mặt “ th́ sợ dư luận của quần chúng Mỹ phản đối bị mất phiếu..”, mặt khác” cứ ham muốn đạt nhanh chiến thắng tại chiến trường “ nhưng lại không cho phép phe ḿnh tấn công tiêu diệt địch quân, với lư do “ sợ đụng độ với Trung Cộng “. Ngoài ra các vị Tổng Thống có liên quan tới chiến tranh VN như J.Kennedy, Johnson, Nixon và Ford đều chỉ xữ dụng những phương tiện nhỏ đẻ đ̣i đạt chiến thắng lớn, nên cuối cùng phải bị sa lầy về mặt đạo đức, làm cho nước Mỹ bị thế giới cười chê về thủ đọan con buôn chính trị, từ sau tháng 5-1975 tới nay vẫn chưa lấy lại được uy tín cũ đă đánh mất tại VN.
Nhưng dù tại chiến trường VN trước năm 1975, Hoa Kỳ không hề bị sa lầy vẫn phải đóng kịch tháo chạy v́ mục đích nối kết với Trung Cộng, phá vở thế liên hoàn Nga-Hoa đă hoàn thành từ 1972..
1-Hoa Kỳ Không Bao Giờ Sa Lầy Tại Nam VN :
Sau khi rời khỏi chính trường năm 1977, Ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, nhân vật mang tiếng đă manh tâm bán đứng VNCH cho khối cọng sản đệ tam quốc tế, đă lần lượt xuất bản nhiều tập hồi kư chính trị như : Những năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) và Bí Lục Kissiger.. đă hé mở nhiều bí ẩn lịch sử cận đại về các thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Liên Xô-Trung Cộng,Chiến tranh VN và cuộc thăm viếng Trung Cộng của Tổng thống Mỹ Richard Nixon vào tháng 2-1972, trước khi Hà Nội mở cuộc tấn công mùa hè vào các tỉnh Quảng Trị-B́nh Long và Kon Tum, B́nh Định của VNCH.
Cũng nhờ những tiết lộ này, mà ngày nay ta mới biết được bộ mặt thật của cặp Nixon-Kissinger, chỉ v́ lợi lộc của riêng ḿnh đă bán đứng đồng minh bạn bè cho kẻ thù. V́ muốn kéo Trung Cộng vào phe cánh, Hoa Kỳ qua Nixon-Kissinger đă chủ động đề nghị viện trợ tối đa cho Tàu tất cả những quân dụng vũ khí chiến lược, kể cả cung cấp vệ tinh để Tàu thu lượm tin tức t́nh báo từ Liên Xô. Theo Bill Burr, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề ngoại giao của Mỹ, thuộc Đại Học Washington, cũng là chủ biên hồi kư Bí lục Kissinger, cho biết cuộc đi đêm bí mật của Kissinger tai Bắc Kinh , khởi đầu từ năm 1971 qua đề nghị Hoa Kỳ sẽ thiết lập một chương tŕnh vệ tinh t́nh báo để tặng Trung Cộng.
Sau đó tại trụ sở LHQ ở New York vào tháng 12-1971, Kissinger đă cho Hoàng Hoa nhiều tin tức liên quan tới quân sự của Liên Xô để chuyển về Tàu. Tuy vậy để che mắt Liên Xô và thế giới, Hoa Kỳ cũng như Trung Cộng luôn đóng kịch ḱnh chống nhau tại bàn hội nghị. Như trường hợp VN, trước khi Tổng thống Nixon chính thức thăm Trung Cộng và sau này, Kissinger đă bí mật tới Bắc Kinh rất nhiều lân để gặp cả Mao-Chu và Trung Cộng cũng đă đáp ứng cho Mỹ thiết lập một trạm t́nh báo-quân sự, dọc theo biên giới Nga-Hoa để thu lượm tin tức, theo dơi t́nh h́nh chuyển động của Liên Xô. Tháng 7-1973, một điệp viên CIA tên James Lilley được cữ giữ chức trưởng trạm t́nh báo này, cũng là người trực tiếp phụ trách đường dây liên lạc Trung-Mỹ. Tháng 4-1975 theo yêu cầu của Đặng Tiểu B́nh, Tổng thống G.Ford đă viện trợ cho Trung Cộng rất nhiều quân trang dụng chiến lược, trong đó có nhiều thiết bị điện tử dùng để chế tạo vũ khí bom đạn hiện đại. Kissinger c̣n tiết lộ nội dung cuộc họp thượng đỉnh giữa Nga-Mỹ cho Trung Cộng. Tất cả cho thấy mức độ khả tín của người Mỹ trong lúc cùng hợp tác đồng ḿnh, để từ đó chúng ta mới nhận diện rơ ràng “ về ư nghĩa của sự sa lầy tại VN “, mà các sử gia trong và ngoài nước thường hay gán ghép cho Hoa Kỳ.
Đọc lịch sử nước Mỹ, ta thấy dù dân chủ hay cộng ḥa, tổng thống hèn kém như Carter hoặc cứng rắn cở Reagan, th́ ưu tiên số 1 của chính phủ cũng vẫn là làm sao cho dân chúng Hoa Kỳ được hưởng thụ nhiều hơn trước, để đảng nọ đảng kia mới c̣n cơ hội tái đắc cử cầm quyền tiếp. Hiểu thêm điều này nửa, mới cảm thấy bớt uất nghẹn khi biết Tổng thống Johnson đă đưa vào VN tới 550.000 quân + 80.000 của các nước Đồng Minh và 150 tỷ đô la chiến phí. Rồi đang lúc VNCH sắp đạt được chiến thắng cuối cùng, qua các trận đại chiến vào Tết Mậu Thân 1968, các cuộc hành quân Toàn Thắng vượt biên giới sang Kampuchia 1970 và nhất là trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.. th́ Tổng Thống Mỹ là Nixon, kế thừa chiến lược của TT.Johnson lại kư Hiệp ước ngưng bắn Paris 1973 “ tháo chạy khỏi VN “, bỏ mặc cho Miền Nam bị toàn khối cọng sản đệ tam quốc tế” cưởng đoạt vào trưa ngày 30-4-1975 “.
Ngày nay nhờ Quốc Hội Mỹ đă thông qua đạo luật ‘ Quyền tự do tư liệu và thông tin’, nên Thư Viện Quốc Gia Mỹ đă giải cấm những văn kiện tuyệt mật, có liên quan tới cuộc chiến Đông Dương lần 2 (1945-1975), qua nhiều đời Tổng Thống Mỹ liên hệ, từ Truman cho tới Carter.. Nhờ vậy người ngoài mới biết được những bi hài kịch đă diễn ra suốt thời gian Mỹ tham chiến tại VN, ngay trong hậu trường của những chóp bu tại Ṭa Bạch Ốc, mà những nhân vật quyết định vận mạng của VN , phần lớn là Dân Sự hay Chuyên Viên Hành Chánh, trong đó hầu hết chưa một ngày ở trong quân ngủ hay trốn quân dịch như trường hợp của Tổng Thống Bill Clinton sau này.
Đó là việc quân lực Mỹ chưa bao giờ được phép xữ dụng hết khả năng chiến đấu, nhất là hai quân chủng Không và Hải quân Hoa Kỳ, chủ nhân ông của bất cứ chiến trường nào, rất được thế giới nể sợ. C̣n một bí mật khác cũng không kém phần bi thảm, đó là khi Mỹ đưa quân đội ḿnh tới chiến đấu ở VN, th́ cũng đồng lúc tư bản Mỹ tha hồ xuất cảng quân trạng dụng sang Nga, các nước Đông Âu lẫn Tàu. Sau đó các nước này thay nhản đổi hiệu, rồi lại chuyển tiếp tới Hà Nội, để Bắc Việt chuyển vận vào Miền Nam cho Bộ đội Cọng Sản có phương tiện dồi dào , bắn giết chẳng những QLVNCH mà cả quân Mỹ và các nước đồng minh đang chiến đấu tại chiến trường.
Nói chung dù có thái độ cứng rắn như Tổng thống Truman, trước chủ nghĩa banh trướng sắt máu của Trùm Đỏ Staline vào năm 1947 hay to miệng nhảy múa chống cộng cùng ḿnh như Tổng thống Nixon, th́ cuối cùng cũng vẫn là cùng thỏa thuận với nhau để chia chiến lợi phẩm trên xác chết của con mồi. Đó là chân lư của nền chính trị con buôn kiểu tư bản Mỹ, vừa la làng xúi gịuc cũng như viện trợ để đồng minh chống cộng. Rồi cũng Mỹ lại rất tích cực buôn bán đủ thứ kể cả quân dụng vũ khí tối mật quốc pḥng với các nước cộng sản trên.. như hiện tại cuộc giao dịch giữa Mỹ và hai nước Trung Cộng-Đài Loan, ai cũng thấy. Đây cũng là một chứng minh thực tế, để cho bất cứ ai c̣n đang mang ảo tưởng vọng ngoại, trong công cuộc quang phục đất nước khỏi gông cùm cọng sản, xin chớ có hoài cộng đợi chờ . V́ con đường giải thể chế độ VC hiện nay chỉ có toàn dân VN phải chịu lăn xă hy sinh đổ máu như người Miến, người Tạng..th́ mới hy vọng tháo gỡ được cùm gông, v́ chính họ trong quá khứ đă tự ḿnh mang vào cổ ách nô lệ cọng sản.
2-Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để Thua CS Bắc Việt, Chứ Không Phải Tại VNCH :
Riêng về câu hỏi tại sao siêu cường Mỹ với một bộ máy chiến tranh ghê gớm , lại để cho 55.000 quân sĩ thiệt mạng và mấy trăm ngàn người khác bị thương ? cuối cùng tháo chạy, sau khi chỉ lấy được về nước, một số tù binh bị Bắc Việt cầm tù. Đô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, đă giải thích ‘ cuộc chiến thất bại không phải v́ chống không lại địch quân, mà v́ chính sách của Hoa Thịnh Đốn đă đẻ ra quá nhiều chiến lược, nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẽo đột nhiên dội bom, sau đó tự ư ngưng và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng. Cuối cùng tự ḿnh trói tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng hề bị sa lầy hay bị lâm vào tuyệt lộ ‘.
Đây cũng là kết quả như lời cảnh giác của Tướng Maxwell Taylor, nguyên cố vấn quân sự của Tổng Thống J.Kennedy từ năm 1961 ‘ Nếu Hoa Kỳ tới VN với mục đích tối hậu, là giúp cho nước này chống lại sự xâm lăng của cọng sản, th́ cuộc chiến sẽ không có giới hạn, nên chúng ta không thể không đánh thẳng ra Hà Nội, để tiêu diệt sào huyệt của chúng ‘.Nhưng tiếc thay đất Bắc nơi phái sinh ra cuộc chiến VN, lại là vùng đất băo đăm an toàn nhất, mà các tổng thống Mỹ dành cho VC.. Đă vậy TT Johnson c̣n cấm quân Mỹ không được tấn công hay truy sát quân Bắc Việt, tại lănh thổ Lào và Kampuchia giáp ranh với VN. Trong khi đó ai cũng biết trên phần đất này, Hà Nội đang mở đường ṃn HCM, lập các khu hậu cần, mật khu, tích trử lương thực quân dụng và tập trung quân để tấn công vào lănh thổ VNCH.. Chính cựự Tổng thống Eisenhower cũng lên tiếng thắc mắc là tại sao TT. Johnson lại không dám tấn công thẳng vào đầu nảo của quân Bắc Việt tai Hà Nội, trong lúc đó hầu hết tướng lănh Mỹ th́ phẩn nộ, v́ nhận được lệnh đánh nhau với VC phải đạt chiến thắng nhưng hai tay họ th́ bị trói chặt bởi các luật lệ .
Có thể dùng thời điểm Tổng Thống Mỹ Eisenhower gởi thư thông báo cho Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm vào tháng 10-1954 với lời hứa giúp VNCH trở thành một quốc gia mạnh, trường tồn, có khả năng chống lại mưu toan xâm lăng của Bắc Việt.. như là một cột mốc quan trong về sự nhập cuộc của Hoa Kỳ tại VN. Năm 1961 lúc Tổng Thống J.Kennedy nhậm chức, quan điểm của nước Mỹ vẫn không thay đổi về việc Bắc Việt đang xâm lăng VNCH, qua h́nh thức lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.. Tuy nhiên trong thành phần chính phủ Mỹ lúc đó đă có nhiều khuynh hướng, như thay thế Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hay tăng cường viện trợ, quân sự kể cả gởi quân tới giúp VNCH chiến đấu chống lại sự xâm lăng của Hà Nội. Sự tự tin hiểu biết về t́nh h́nh VN của các tổng thống Mỹ, sau này được các nhà báo Norman Podhoretz, Theodore H.White.. mai mĩa là không nhủn nhặn mà cũng chẳng khôn ngoan chút nào, khi thật sự Hoa Thịnh Đốn lúc đó không hiểu biết cho mấy về cái chiến trường VN nhỏ bé xa xôi tận miền Viễn Đông, thế mà dám đề ra phương thức, chiến lược tràng giang, để giải quyết t́nh h́nh chính trị,, xă hội, quân sự, kinh tế của đất nước ấy.
Điều này măi tới năm 1981 mới thấy một sĩ quan cao cấp Mỹ nêu lên trong tác phẩm của ḿnh ‘ chiến tranh tại VN là chiến tranh du kích, đáng lẽ ngay khi nhập cuộc, quân đội Mỹ phải hiểu rơ thực chất của cuộc chiến, để có chiến thuật chống khuynh đảo, diệt du kích, mà quân đội của các nước khác đều được huấn luyện học hỏi, trước khi nhập trận ‘.Tóm lại như Nixon đă nhận biết từ năm 1954, cọng sản dùng chiêu bài ‘ chiến tranh giải phóng ‘, để mà xâm nhập và khuynh đảo chính trị tại Nam VN, chứ không bao giờ công khai vượt tuyến như tại Triều Tiên năm 1950. Thêm một điểm đặc biệt khác, là lúc đầu những người trí thức và khoa bảng Mỹ gần như thờ ơ không ngó tới việc Hoa Kỳ tham chiến tại VN. Nhưng từ giai đoạn 1967 về sau, nhất là sự kiện cọng sản bị thảm bại trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, th́ giới trên nhập cuộc qua phong trào phản chiến trên đất Mỹ, chống đối và đánh phá chính phủ dữ dội, c̣n hơn VC thứ thiệt ở VN.cũng chưa thấy hoạt động công khai dữ dằn như phong trào phản chiến tại Mỹ. Đây là một nghịch lư nổi bật và mai mĩa nhất của Mỹ, trong cuộc chiến VN. Đó là sự kiện công dân Mỹ (như đào hát Jane Fonda chẳng hạn), đă công khai đứng hẳn về phía Hà Nội, cổ vỏ cho giặc chống lại quân đội và chính phủ ḿnh, qua các cuộc biểu t́nh phản chiến, cầm cờ máu đốt cờ Mỹ, lên đài phát thanh truyền h́nh chửi bới hay tới tận Hà Nội để hoan hô Hồ Chí Minh..
Khi than rằng ‘ Chúng ta đă đánh bại chính ta ‘, đó là nhận xét của Tổng Thống Johnson về nước Mỹ và ngay cả bản thân ḿnh, trong suốt thời gian cầm quyền với một sức mạnh quân sự vô địch, nhưng đầu óc lại chỉ nghĩ tới chiến thắng VC bằng chính trị, một chiến lược giá rẽ, mà không một nhà lănh đạo nào của thế giới nghĩ tới sự kỳ quặt này, nhất là khi phải đối mặt với những kẻ sát nhân khủng bố thâm độc như cọng sản quốc tế. Năm 1967 Nixon nhậm chức tổng thống, khiến ai cũng nghỉ tới nước Mỹ sẽ leo thang chiến tranh, v́ ông ta là một nhân vật diều hâu có môn bài . Ông ta cũng giống như TT Kennedy và Johnson, có chung mục tiêu là cả ba đều cương quyết không muốn VNCH phải sụp đổ v́ Bắc Việt xâm lăng.
Nhưng cả ba đă lầm lẫn chiến lược lúc nhập cuộc. Với TT Kennedy và Johnson, cả hai cùng chủ trương tham chiến trong giới hạn, để không gây xáo trộn tại chính quốc, nên nói ngăn chận nhưng vẫn không cản nổi sự xâm nhập của bộ đội từ bắc vào nam và sự khuynh đảo chính trị tại VNCH. Khi Nixon lên cầm quyền, cũng là lúc nước Mỹ qua vai tṛ của Kissiger, đang đi đêm để nhun nhén sự nới kết Mỹ-Hoa, phá thế liên hoàn Nga-Trung, trong thế cờ thời chiến tranh lạnh giữa ba nước Hoa Kỳ-Liên Xô và Trung Cộng. Bởi vậy Nixon không bao giờ dám leo thang chiến tranh tại VN, vừa phản lại lời hứa ‘ rút quân ‘ khi ứng cử, vừa làm mất sự thân thiện với Trung Cộng lẫn Nga đang cổ vơ và ủng hộ VC cưởng chiếm miền Nam. Đó là lư do Nixon trao lại cuộc chiến đang tiếp diễn ác liệt tại chiến trường Nam VN, cho VNCH tự lo liệu, qua danh từ hào nhoáng ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘.
Sau này qua các hồi kư chính trị của những nhân vật thân cận cao cấp của Chính Phủ VNCH như Nguyễn Tiến Hưng, Hoàng Đức Nhă.. ta mới biết được gánh nặng của các nhà lănh đạo VNCH suốt 20 năm tồn tại, từ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương.. tất cả đều bị Hoa Kỳ dùng viện trợ và sinh mệnh, để áp lực VN phải thi hành theo đường hướng của Mỹ, nhất là sự kư kết hiệp ước ngưng bắn ngày 27-1-1973. Ngoài ra những bức thơ viết tay của Tổng Thống Nixon và Ford, gửi mật cho TT .Nguyễn Văn Thiệu, với sự trang trọng cam kết, đă nói lên cái gọi là ‘ thực chất của sự mưu t́m ḥa b́nh trong danh dự ‘ và trên hết đă phần nào lột trần hai nhân vật ‘ Nixon-Kissinger’, trong vai tṛ chủ động tháo chạy khỏi Miền Nam, để khỏi bị sa lầy.
Không được đáp ứng theo nhu cầu đ̣i hỏi, TT J.Kennedy đạo diễn tấn tuồng binh biến ngày 1-11-1963 hạ sát TT hợp pháp của VNCH là Ngô Đ́nh Diệm, để gây xáo trộn chính trị suốt ba năm, rồi kết luận miền Nam thiếu lănh đạo. TT Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả hành động đê tiện là đe doạ ám sát TT Nguyễn Văn Thiệu, để hoàn thành cho được bản hiệp ước ngưng bắn Paris 1973, mới có cớ hợp thức cho phép bộ đội miền Bắc có mặt tại miền Nam. Nói là ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘ nhưng lại cắt viện trợ, ngưng cung cấp quân trang dụng như lời hứa, khiến cho QLVNCH lâm vào t́nh trạng kiệt quệ, phải bỏ nhiều phần lănh thổ v́ không có phương tiện để pḥng thủ.
Rồi trong lúc Bắc Việt xua hết lực lượng, tấn công cưởng chiếm VNCH, th́ người Mỹ tháo chạy trong danh dự, suốt đêm trên nóc nhà bằng trực thăng, qua sự đùm bọc bảo vệ an ninh của QLVNCH lúc đó .
Cuối cùng từ ấy đến nay, vẫn không ngớt đổ tội cho QLVNCH là không chịu chiến đấu, nên quân đội Mỹ phải sa lầy và Miền Nam mới bị sụp đổ.
Nhưng giấy làm sao goí được lửa và chắc là bị lương tâm cắn rụt dầy ṿ chịu không nổi, nên cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đă tự thú “ Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải VNCH “ .
Lời phát biểu trên của Kissinger, tuy quá muộn màng v́ thời gian dài hơn 1/3 thế kỷ nhưng có c̣n hơn không, v́ ít ra ông cũng c̣n đủ can đăm đứng ra gián tiếp thay mặt cho nước Mỹ để trả lại sự công bằng và danh dự cho QLVNCH.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Tư Đen Quốc Hận 2012
MƯỜNG GIANG
http://www.haingoaiphiemdam.com/news...o&article=8823
Bookmarks