Page 2 of 3 FirstFirst 123 LastLast
Results 11 to 20 of 29

Thread: VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ

  1. #11
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Tiếp chương bảy

    CHIẾN THẮNG QUẢNG TRỊ

    Ông đă làm đúng theo lệnh. Không phải bằng một cuộc phản công đại quy mô, mà bằng những cuộc tấn kích nho nhơ và liên tục, mỗi ngày một khác và ở những địa điểm không giống nhau, nhằm mục đích tiêu hao để rồi tiêu diệt địch. Ông tiếp tục hành quân phản công lấn đất dần về đến Quảng Trị; sau đó chiếm lại thành phố Quăng Trị, bao vây cổ thành, và cho dưỡng quân không đánh chờ địch phải đầu hàng, biết rằng họ sẽ thiếu lương thực và đạn dược.

    Và ngày đó đă tới, Ông cho trương cờ VNCH lên cổ thành vừa chiếm lại được, sau đó nằm lại ở phía nam sông Quảng Trị, dùng con sông và phần đất phía bắc như là một vùng phi quân sự để tổ chức các tuyến pḥng ngự, xử dụng trọng pháo tối đa, như lực lượng ngăn chặn chính.

    Tổng kết sau khi tái chiếm xong Quảng Trị, QLVNCH đă bắt sống và tịch thu được một số lớn chiến xa, trọng pháo và vũ khí đủ loại đủ cỡ, nói lên được rơ ràng đây là một chiến thắng không thể chối cãi đuợc. (Nói thêm là ngay sau chiến thắng nầy tướng Trưởng có được một cháu trai Ông đặt tên là Trị)

    Tại Kontum, với một số dân đông đúc phần lớn là dân tỵ nạn, người ta chưa nghĩ là thị xă nầy sẽ bị địch vây hảm nên không có ǵ gọi là pḥng thủ chặt chẻ cả, lại không cần đến cầu không vận mà một đại tá trẻ tuổi đă dùng trí thông minh tuyệt diệu chọi với 3 sư đoàn quân Bắc Việt, một chuyện rất hay và hiếm có đă thực sự xảy ra như vậy. "Nếu ta có thua th́ chỉ có tôi là người duy nhất gánh hết trách nhiệm, nếu phải xử bắn người trách nhiệm th́ cũng chỉ có một ḿnh tôi là người duy nhất phải bị xử bắn mà thôi." ông lư luận như vậy để bác bỏ những đề nghị của một tướng lănh Hoa Kỳ cố vấn của Ông.

    Tướng Bắc Việt chỉ huy mặt trận nầy thật ra là một cựu chiến binh Điện Biên Phủ, tung từng sư đoàn một vào trận chiến từ sư đoàn thứ nhứt đến sư đoàn thứ ba (xa luân chiến), đến khi bị thiệt hại quá nặng phải buộc ḷng tung cả 3 sư đoàn cùng lúc th́ cả 3 anh sư trưởng đều từ chối không chịu đi theo ông ta. Tại mặt trận KonTum, sơ khởi khi quân Bắc Việt đánh tan các tiền đồn ṿng đai và sau đó gây được thiệt hại không ít cho sư đoàn bộ binh Việt Nam Cộng Ḥa. Do đó họ có thu được nhiều quân dụng trong số đó có nhiều máy truyền tin mà họ cho sửa chữa để dùng lại. Nhưng các máy truyền tin nầy vẫn c̣n ở một tần số mà Miền Nam đang xử dụng, do đó mà chuyện lạ đă xảy ra: Anh đại tá trẻ của KonTum kiểm thính được tất cả mọi lệnh lạc liên quan đến từng giai đoạn, từng diễn tiến hành quân của phía Bắc Việt, từ đó mà anh bố trí các bẫy phục kích cho họ vào, hoặc cho họ tấn công vào chỗ không người để sau đó phản công tiêu diệt họ từ phía sau lưng, tất cả cũng chỉ với một đại đội thiết giáp xa (10 chiếc chạy xích), mà mỗi khi xuất trận về phải tận lực sửa chữa mới kịp. Quân Bắc Việt 3 lần dùng chiến xa tấn công vào, chỉ c̣n cách 100 thước là đến Bộ chỉ huy của anh đại tá. Nhưng rồi bộ binh địch không theo được các chiến xa nầy v́ bị quân ta từ phía sau đánh tới, làm cho các chiến xa không c̣n ai che chở, bị quân ta dùng hỏa tiển T.O.W. (của Mỹ được VN cho ghép lại thành từng nhóm 6 chiếc một) hạ gần hết, nằm răi rác đầy đường trong thành phố KonTum hoang tàn. Thị trấn sau trận nầy bị thiệt hại nặng. Nhưng anh đại tá trẻ th́ nhận được một ngôi sao cấp tướng và sư đoàn của anh đựơc tuyên dương là một trong những đơn vị xuất sắc của QLVNCH. Giám Mục Seitz, một vị Giám Mục người Pháp duy nhất tại VN đă ở lại tại thị trấn KonTum với con chiên của Ông trong suốt thời gian chiến trận. Uy tín của Ngài rất cao, và Ngài rất là can đăm. Ngài rất vui thích khi có việc thiện phải làm, và luôn luôn nêu gương tốt cho mọi người. Sau 30/4/75 Ngài đă ở lại KonTum với đồng bào Thượng của Ngài: Ngài là nước Pháp ! Cộng Sản đă mắng trách Ngài và cuối cùng đă trục xuất Ngài.

    AN LỘC ! TRẬN VERDUN CỦA VIỆT NAM

    An Lộc là một quận lỵ nhơ của một tỉnh miền đông Nam Việt. Quân Bắc Việt đă vây hảm quận lỵ nầy, nả vào đó đủ mọi loại trọng pháo, hỏa tiễn, và tấn công vào đó nhiều lần. Sư đoàn 21 bộ binh từ Vùng 4 Chiến Thuật (đồng bằng sông Cữu Long) lẻ ra được đưa ra Hué cho tướng Ngô quang Trưởng, được hấp tấp thả xuống một vùng nằm giữa An Lộc và Sài G̣n với nhiệm vụ sơ khởi là chận địch lúc bấy giờ đang tự do tiến bọc ṿng quanh An Lộc, bao vây cô lập thị xă nầy cốt không cho trong ngoài liên lạc được với nhau. Người ta ngăn chận được phần nào ư định của địch nhưng không giải tỏa được An Lộc, và phải thú thật đây không phải là một chuyện dễ làm. Tuy nhiên An Lộc vẫn đứng vững. Để so sánh và cũng để thực sự thấy được giá trị của QLVNCH, chúng ta phải nói rơ là thị xă An Lộc giống như Điện Biên Phủ, nằm dài trên hai bên suờn đồi của một ḷng chảo mà vành đai của ḷng chảo nầy địch đă làm chủ. An Lộc không có nhiều binh sĩ như Điện Biên Phủ nhưng có hai chục ngàn dân, chẳng những không giúp ích được ǵ mà trái lại c̣n là một gánh nặng cho quân trú pḥng nữa. Quân số Bắc Việt bao vây An Lộc nhiều hơn quân số đă bao vây Điện Biên Phủ trước kia; họ cũng tiến hành cuộc tấn công bằng cách đào chiến hào đi lần vào trung tâm thị trấn, giống như ở Điện Biên Phủ vậy, tiến đến đâu lấp hầm đến đó. Lực lượng pháo binh Bắc Việt nhiều hơn lúc ở Điện Biên Phủ, nhưng họ ít pháo vào trung tâm thị xă mà chỉ dùng súng cối 130 ly và hỏa tiển, nên phố xá nhà cửa trong thị xă gần như bị các loại nầy phá nát hết.

    Quân trú pḥng không có thiết giáp, nhưng Bắc Việt lại dùng loại chiến xa T.54 của Nga Sô mà Pḥng nh́ VNCH cũng như Hoa Kỳ không rơ bằng cách nào họ mang được loại chiến xa nặng nầy đến tận cửa An Lộc được. Nhưng điều bất ngờ là các chiến xa Nga Sô nầy lại được hỏa tiển TOW của Hoa Kỳ niềm nở đón tiếp, và có một số lớn T.54 bị bắn cháy hay bị bỏ lại răi rác trong thị xă như là chiến lợi phẩm đặc biệt của đội quân trú pḥng. Số tử thương tại An Lộc nhiều hơn ở Điện Biên Phủ. Quân Bắc Việt c̣n tiếp tục bao vây An Lộc, nhưng t́nh h́nh có vẽ sáng sủa hơn, khi Tổng Thống Thiệu quyết định dùng trực thăng đáp xuống ngay An Lộc. Cùng đi với Ông c̣n có Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Tướng Minh, Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, và một số sĩ quan khác, trong số nầy có một tướng lănh ngưởi Pháp muốn hưỡng một chút thú vị kiêu hảnh là được tham dự vào một trận phục thù cho Điện Biên Phủ. (Lời người dịch: Đó chính là tác giả quyển sách nhỏ nầy, Đại Tướng Vanuxem. Ông được quân trú pḥng "anh hùng An Lộc" tặng cho một lá quốc kỳ VNCH trong chuyến đáp xuống An Lộc nầy, gọi là để kỹ niệm trận "B́nh Long anh dũng", và sau nầy trước khi qua đời tại Pháp năm 1982 Ông đă trao lá quốc kỳ nầy lại cho Trung Tướng Trần văn Trung, Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH tại Pháp.) Hai chiếc trực thăng đáp xuống và cất lên ngay thật nhanh sau khi các vị tướng lănh vừa nhảy xuống xong th́ các loạt đạn pháo Bắc Việt cũng vừa tới. Người ta đi thăm Bộ Chỉ Huy Hành Quân, phát sao, gắn "lon", "huy chương", tuyên dương công trạng khen thưởng các cấp v.v...sau đó đi thăm và ủy lạo các đơn vị, (binh sĩ các cấp nhảy lên khỏi chiến hào để hoan hô ầm ỉ vị Tổng Tư Lệnh của họ), thăm và an ủi các thương bệnh binh, đến tận các xác chiến xa Nga T.54 để sờ các pháo tháp hay xem cái vỏ thép của loại chiến xa nầy, người ta cũng đi viếng các nghĩa trang "bất đắc dĩ" nằm trên các vỉa hè đường phố, và trước một nấm mồ Tướng Thiệu qú xuống cầu nguyện...Người ta cũng có cầu nguyện như vậy giữa sân của một nhà thờ đă bị đổ nát, chỉ c̣n trơ lại có một pho tượng lớn của Chúa đang giăng hai tay nhân ái ra coi như để chúc lành cho phái đoàn. Tổng Thống Thiệu thản nhiên như không có ǵ xảy ra, quỳ một gối xuống ngay trên vũng bùn, làm dấu thánh giá, và cầu nguyện...trong khi tất cả đều đứng ngay ngắn, nghiêm trang... Đâu đây bên b́a rừng gần đó có một vài tiếng nổ của đạn rốc kết..

    Chuyến về của phái đoàn cũng như chuyến đáp xuống. Tất cả quan khách đều đứng dưới các hố cá nhân, chờ. Khi các trực thăng đáp xuống, tất cả đều nhảy lên thật nhanh để trực thăng vọt đi ngay, v́ trước đó ai cũng được báo cho biết là nếu không lên kịp th́ sẽ bị ở lại An Lộc.

    Tất cả đều về đến Bộ Chỉ Huy tiền phương của Quân Đoàn III ở Lai Khê, và đến lúc đó người ta mới thấy là đă bỏ quên lại một người: đó là Trung Tướng Mỹ, cố vấn QĐ.III. Ông ta không trách cứ ǵ cả, nhưng ngày hôm sau ông ta đă trở thành "anh hùng An Lộc", một loạt pháo đă gây tử thương cho ông khi trực thăng của ông vừa đáp xuống.

    An Lộc đă trở thành một biểu tượng, đó là một khi quân đội và dân chúng đă cương quyết một ḷng th́ khẳng định là chận đứng được quân thù. Đó là tinh thần của trận chiến Verdun của VNCH, một chiến trận mà V NCH đă làm lễ kỹ niệm thật long trọng để xác nhận ư chí quyết chiến quyết thắng của quân dân Miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng ngày lễ quốc khánh của VNCH đă trót được chọn là ngày 1/11 rồi, nếu không th́ người ta nghỉ có lẽ nên chọn ngày mà An Lộc hoàn toàn được giải tỏa để nói lên biểu tượng Tự Do của quốc gia nầy.

    Đó là những sự việc đă xảy ra năm 1972. Lúc đó có ai dám nghỉ được rằng ba năm sau, vâng chỉ không đầy 3 năm sau thôi, một quân đội đă từng biểu diễn một pha hết sức ngoạn mục về sức mạnh, về ư chí của quân nhân các cấp, được ḷng tin cậy hoàn toàn của cấp trên , lại có thể bị suy sụp đến độ phải tan ră hoàn toàn ?

    Vă lại Quân Lực VNCH, với một quân số được Ngũ Giác Đài tính toán quá sít sao lúc bắt đầu Việt-nam-hóa, nên chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là pḥng ngự để ǵn giữ lănh thổ mà thôi. Sau đó lại bị hao hụt trầm trọng trong 3 năm liền, trong khi các đơn vị Miền Bắc tiếp tục được bổ sung đầy đủ, tăng cường cả về lượng cũng như về phẩm, nhất là quân chiến cụ, so sánh th́ hơn xa quân đội Miền Nam, cho nên nếu ước tính tương quan lực lượng phải là 4/1, tôi nói lại là bốn trên một !.

    Đă được quân đội Pháp thành lập sau đó mới được Hoa Kỳ tái tổ chức lại, nên dù muốn dù không quân đội Miền Nam cũng vẫn c̣n giữ vài kỹ niệm về lề lối hay phương thức do quân đội Pháp để lại. Điều nầy đă đem lại nhiều chuyện không hay cho một vài tướng lănh, tuy nhiên dù ǵ đi nữa th́ QLVNCH cũng vẫn phải chấp nhận phương thức tác chiến học được từ quân đội Hoa Kỳ. Do đó, nếu không chấp nhận điều quân mà chỉ dùng hỏa lực không mà thôi, trong tấn công cũng như trong pḥng thủ, th́ phương thức nầy bắt buộc phải có phương tiện yểm trợ hùng mạnh của không quân, thiết giáp, pháo binh và của cả hải quân nữa. Điều nầy quân đội Hoa Kỳ được trang bị quá đầy đủ, nếu không muốn nói là quá dư thừa, cho nên từ khi quân đội Mỹ rút đi th́ QLVNCH bị thiếu mất trầm trọng một hỏa lực yểm trợ mạnh và hữu hiệu. Tổng Thống Thiệu là một người am tường về chiến lựợc, lại là một nhà chánh trị thận trọng há đă không đề ra được một phươg thức tiết kiệm, vừa để dưỡng sức các đơn vị tinh nhuệ vừa tránh hao tốn phí phạm đạn dược hay sao? Cho nên mỗi người lính chỉ được phát 80 viên đạn và 1 trái lựu đạn trong một tháng. Ông quan niệm rằng, trước một kẻ thù như Bắc Việt, và trên một lănh thổ quá dài và quá hẹp của Miền Nam Việt Nam, ông không có thể điều quân được. Đă từ lâu, ông nói là chỉ với lực lượng của Miền Nam ông không thể chống lại được một cuộc tổng tấn công quy mô của Bắc Việt trên một chiến tuyến quá dài từ Bắc xuống Nam dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt, chỉa mủi dùi thẳng vào Sài G̣n, chỉ c̣n cách đó dưới 100 cây số mà thôi. Ông cũng biết là địch quân tất phải chủ động, nhưng giờ th́ hệ thống pḥng thủ bị gậm nhấm, quân số các đơn vị bị hao hụt và tiếp vận th́ quá nghèo nàn nên chắc chắn là không thể chịu nổi sức tấn công mạnh của địch, và dè dặt hơn trong trường hợp nếu được bảo đăm là có một sự tiếp viện từ phía đồng minh th́ ông cũng phải đi đến chỗ phải bỏ bớt một phần lănh thổ để tập trung lực lượng vào việc cố thủ vùng Sài G̣n và đồng bằng sông Cữu Long. Nếu quân đội Bắc Việt tiến hành một chiến dịch tấn công theo kiểu gậm nhấm tiêu hao giành dân lấn đất, th́ cố thủ như vậy cũng có thể thành công được nhưng Miền Nam Việt Nam sẽ bị một chấn động tâm lư, mất hết tinh thần và rồi cũng phải thua, mất hết mà thôi. C̣n nếu Miền Bắc dàn quân đánh mạnh theo chiến tranh quy ước th́ tai họa lớn sẽ xảy ra, nhanh hơn

    Đă từ lâu, Miền Nam VN không áp dụng phương thức pḥng thủ lưu động, nên không có khả năng để tiến hành một cuộc rút lui quy mô, một cuộc hành quân rất khó v́ vừa phải lui quân vừa phải chiến đấu không ngừng với quân Bắc Việt, vốn lúc nào cũng nhẹ nhàng luồng lách, xâm nhập, đánh ngang cạnh sườn, bọc hậu, bao vây, sau lưng đánh tới, đe dọa tuyến pḥng thủ... bắt buộc lực lương nầy phải rút đi càng sớm càng tốt, (nếu không sẽ bị bao vây và tiêu diệt), lần lần bị gậm nhấm rồi cuối cùng th́ bị tràn ngập. Những cánh đồng lầy mênh mông vắng vẽ như sa mạc giúp cho quân Bắc Việt thâm nhập vào sâu trong Miền Nam Việt Nam quá dễ dàng, và rừng cây bao la rậm rạp làm cho vũ khí chống chiến xa vốn thuộc loại quá cũ kỹ, mất đi phần nào hữu hiệu và chính xác. Hơn thế nữa, những hỏa tiễn SAM (địa-không) do Nga Sô viện trợ đă ngăn chận được khả năng không-yểm từ các phi cơ có tốc độ chậm, chỉ có những chiến đấu cơ F.5 do Hoa Kỳ trang bị cho Không Lực VNCH là có thể thỉnh thoảng yểm trợ hỏa lực được cho các đơn vị bộ binh dưới đất, nếu không th́ các đơn vị nầy phải tự lo liệu lấy mà thôi. Cuối cùng là những khinh tốc hạm phóng ngư lôi do Nga Sô viện trợ có thể vô hiệu hóa lực lượng hải quân của Miền Nam Việt Nam , vốn cũng có khá nhiều tàu chiến nhưng toàn thuộc loại cổ xưa.

    Do đó mà cuộc hành quân triệt thoái của Vùng II Chiến Thuật từ Cao Nguyên về vùng duyên hải, và cuộc rút quân của Vùng I Chiến Thuật từ Hué, Đà Nẵng về hướng Nam, đă biến thành một cuộc thua chạy hỗn loạn, khiến cho không c̣n gom góp lại được một đơn vị nào, không c̣n chiến cụ vũ khí nào, trong khi Miền Nam đang cần tiết kiệm nhân lực và trang thiết bị để có thể lo cho tuyến pḥng thủ ở phía Nam. Tuyến nầy mặc dầu có một số lớn hành động thật anh dũng nhưng rồi cũng vỡ ra từng mảnh th́ làm sao có được chiến trận ở vùng Sài G̣n được ?

    Cho nên đến sáng ngày 30/4 là coi như tất cả đều mất hết rồi ! Tướng Dương văn Minh, người đă nhận chức vụ Tổng Thống VNCH đă kêu gọi binh sĩ hảy chấm dứt cuộc chiến mà từ nay đă trở thành vô vọng và vô nghĩa. Sau một vài hành động trong thất vọng và một vài trận "tử thủ kiểu Camerone" để ít nhất nói lên ḷng can đăm hy sinh của QLVNCH, một quân lực mà không có một người binh sĩ hay một cấp chỉ huy nào đă phản bội, th́ đă thấy có lá cờ đỏ của quân cộng sản xăm lăng Bắc Việt được kéo lên trên nóc dinh Độc Lập. Giờ nầy đây răi rác chỉ c̣n một vài binh sĩ lẽ tẽ, đi lang thang chưa chịu đầu hàng. Quốc gia mang tên Việt Nam Cộng Ḥa đă bị "bức tử" rồi !!! Danh từ Việt Nam Cộng Ḥa đă bị xóa không c̣n trên bản đồ của các quốc gia trên thế giới nữa.

    Còn tiếp

  2. #12
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Tiếp chương bảy

    CHIẾN THẮNG CỦA BẮC VIỆT CHO THẤY CỘNG SẢN VIỆT NAM C̉N NHIỀU THAM VỌNG

    Ở đây người ta thấy rơ tính cách mong manh dễ sụp đổ của mọi guồng máy quân sự nào mà không tự túc được trang thiết bị, vũ khí đạn dược để tự đứng vững được mà không cần viện trợ từ bên ngoài. Và những sự dự đoán dù hết sức đứng đắn cũng có thể bị một vài biến cố làm sai lạc hẳn đi.

    Về sự sụp đổ của quân đội VNCH chỉ trong ṿng thời gian không quá 60 ngày, cũng không có ǵ lạ cho lắm, và lịch sử cận đại cũng đă cho thấy nhiều chiến cuộc được kết thúc rất mau chóng, nhất là khi mà việc kháng địch phải bị tùy thuộc nhiều vào số lượng và phẩm chất của trang thiết bị hơn là ḷng can đăm của binh sĩ các cấp. Người ta cũng có thể đổ lỗi cho địa thế của chiến trường; người ta có thể nói là trước đó trong cuộc tổng tấn công thất bại năm 1972, quân Bắc Việt đă chiếm hết các tiền đồn mà QLV NCH không tái chiếm lại được và những trung tâm kháng cự đă bị tràn ngập ngay từ lúc đầu. Tất cả những nhận xét phê b́nh chi tiết cũng không đi đến đâu, và cũng không thể quy lỗi cho đặc điểm dễ sụp đổ đó của quân đội, dù là quân đội thiện chiến vốn rất nhạy cảm đối với từng thay đổi nhỏ về t́nh trạng đang rất mong manh của quốc gia họ; các nhà làm chánh trị ắt phải biết rơ điều nầy.

    Chiến tranh càng ngày càng dài ra và càng ngày càng gian lao khó khăn thêm ra, những sự đổ vỡ của một vài lối thoát ghi nhận được, sau một vài chiến thắng hay sự kiện mơ hồ không rơ ràng của bên này hay bên kia, đă trở nên hoàn toàn bế tắc đáng sợ, không cho phép có được bất cứ một giải pháp nào dù là hợp lư và có tính toán trước; tinh thần bị suy sụp bất ngờ v́ nhiều lư do khác nhau mà nh́n bề ngoài th́ không thấy ǵ nguy hại cả, đă gây ra những sự đăo lộn nhanh như chớp, làm cho mọi người phải bàng hoàng kinh ngạc.

    Một lần nữa, lại một lần nữa có một quân đội đă bị đánh bại và quốc gia của quân đội đó bị xóa tên trên bản đồ các quốc gia trên thế giới.

    Một lần nữa, trên bán cầu nầy lại có một làn sóng cộng sản tràn xuống, tiếp tục đi theo con đường mà họ đă vạch ra từ trước, chỉ v́ các quốc gia bị tấn công từ chối không chịu đồng tâm hợp lực lại với nhau trên một tuyến pḥng thủ chung, để rồi ai cũng bị quá đuối sức v́ nỗ lực quá mức và quá lâu, đến độ người ta tin vào định mệnh quá khắt khe để rồi tự an ủi là "đúng theo tiến tŕnh của lịch sử".

    Thế nhưng lịch sử th́ người ta đọc quá ít mà nhớ th́ chẳng đặng bao nhiêu, nhất là những đoạn đầy rẩy những kẻ xăm lăng không biết nhàm chán, độc đi chiếm các đồng bằng ph́ nhiêu như những lượng sóng thần cuốn đi tất cả, hung hăn không một ai cưỡng lại nổi, và các làng mạc đô thị tự mở cửa đầu hàng, người người phải nạp vàng bạc châu báu cả đến vợ con họ nữa để làm nô lệ cho những kẻ xăm lăng, cuối cùng rồi cũng phải tự nạp nốt mạng sống của ḿnh cho kẻ địch. Và cứ như thế, lần nào cũng như thế... cho đến một hôm có một người rồi một nhúm người , rồi một làng rồi một đô thị..... ai cũng nghĩ là dù sao cũng phải chết th́ thà là chiến đấu cho xứng đáng rồi muốn ra sao th́ ra không cần biết kết quả cuộc chiến sẽ như thế nào. Thường th́ chiến thắng sẽ ngă về phía những người nầy.

    Trong khi chờ đợi, sau sự việc xảy ra ở Việt Nam, cũng như ở Lào và Cam Bốt, sau một thời gian chống đở lâu dài, người ta chỉ c̣n cách nh́n theo ngón tay chỉ trên bản đồ để xem ư định tương lai của địch quân và dự đoán những mục tiêu mà địch sẽ xâm chiếm, tin chắc rằng những chiến thắng mới vốn chưa dễ ǵ thỏa mản được tham vọng bành trướng của họ, sẽ mở ra cho họ nhiều miếng mồi khác, ngon hơn và mới mẻ hơn.

    Người ta rất lấy làm lo âu khi khảo sát lại những lư do dẩn đến sự chiến bại của QLVNCH. Một mặt người ta thấy trước đó các tiền đồn xa bị chiếm, nhất là Lào và Cam Bốt. Kế đến là sự phản bội của các quốc gia siêu cường tự coi ḿnh là người nắm vận mệnh của các quốc gia khác, một nước th́ không giữ những cam kết mà ḿnh đă long trọng tuyên hứa, một nước th́ bội tín, lợi dụng những hiệp định đă kư để tăng cường lực lượng và nỗ lực đến một mức độ quyết định. Sau đó là sự suy yếu của chánh quyền, tuy có ư chí vững mạnh mà không có khả năng rơ rệt để giải quyết t́nh trạng tham nhũng kéo dài, cọng thêm vào đó sự mệt mỏi của 30 năm nỗ lực và đau khổ triền miên. Đối diện đó là một thể chế độc tài coi rẻ con người và dân chúng, xử dụng họ như một công cụ hay như một vũ khí trong bàn tay sắt: v́ thế mà họ thắng.

    "CHÚNG TÔI KHÔNG BAO GIỜ SỢ CHẾT"

    Không phải QLVNCH từ chối không chiến đấu. Bị gậm nhấm liên tục và bị thiệt hại càng ngày càng nặng, quân đội dần dần mất đi những người con ưu tú và thấy khó mà bổ sung được đầy đủ và kịp thời. Trong khi đó th́ quân đội Bắc Việt được bổ sung và tăng thêm quân số, cũng như được viện trợ chiến cụ tối tân gấp bội, sự kiện nầy làm cho người quân nhân VNCH thấy ḿnh bị quá thua kém v́ chiến cụ quá cũ kỹ trước trang thiết bị tối tân của quân thù. Khi mà người lính thiếu đạn dược và xăng nhớt, khi mà cây súng trong tay trở thành vật vô dụng th́ chỉ c̣n có mỗi một cách là "chạy" mà thôi, chạy khỏi trận chiến !!!! Và đây đó khắp nơi t́nh huống của người lính chiến Miền Nam là như vậy đó, mặc dầu anh ta thừa biết rằng danh dự của người lính là phải chứng tỏ ḷng dũng cảm chiến đấu cho tương lai của đất nước, dù đang trong t́nh trạng nguy hiểm đến tánh mạng, biết đâu nhờ hành động anh dũng nầy mà đất nước được sống c̣n....

    Quân Lực VNCH đă làm tất cả những ǵ họ có thể làm được. Nhưng họ thua sút kẻ địch quá nhiều, về quân số cũng như về kỹ thuật trang thiết bị. Không áp dụng được một thế pḥng thủ lưu động, quân đội Miền Nam không sao đạt được những thắng lợi dài hạn và đầy đủ để chống lại tính năng nỗ của quân thù xăm lược và v́ thế mà mất nước.....

    Người Pháp chúng ta xưa kia đă có lư khi đoan chắc rằng sức mạnh của một đô thị nằm trong con tim của các thị dân, cũng không phải nằm trong sức chịu đựng của các bức tường hay sức chiến đấu của người binh sĩ, cũng không phải các bức tường chống đở cho người lính, mà người lính phải chống đở cho các bức tường, nói cách khác là cần cả bức tường và cũng cần cả người lính.

    Ở nước Pháp chúng ta th́ sao ? Chúng ta phải buộc tội cho ai đây, và phải đổ lỗi cho ai đây về những rủi ro bất hạnh trong tương lai, nếu bất ngờ có xảy ra chuyện ǵ, dù đó là một điều hợp lư ? Phải trút trách nhiệm cho người lính chăng ? hay cho giới trẻ thời bây giờ, đôi lúc quá say mê lư tưởng và người ta chỉ muốn đưa hết họ vào thế giới tiêu thụ ? hay cho dân chúng mà người ta dễ cám dỗ bằng ăo tưởng ? Vậy những ai sẽ chịu trách nhiệm đây ?

    Người ta c̣n nghi ngờ ǵ nữa không, như Tổng Thống Pháp chúng ta đă nói, là chúng ta đang sống trong một thời kỳ đầy đe dọa ??

  3. #13
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    CHƯƠNG TÁM

    NHỮNG HẬU QUẢ MÀ QUỐC GIA VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI GÁNH CHỊU

    TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM NGƯỜI TA KHÔNG BIẾT CƯỜI NỮA RỒI
    !

    Tại Sài G̣n, sau cái ngày gọi là "được giải phóng" th́ tất cả quyền Tự Do mà người ta thường quá lạm dụng, đùng một cái ngả lăn ra "chết" hết !

    Miền Nam Việt Nam trở thành một trại giam vĩ đại mà khẩu phần ăn mỗi ngày chỉ được cho vừa đủ sống. Ở một đất nước mà người ta chỉ có biết cười, th́ bây giờ dân chúng chỉ c̣n biết nghe theo lệnh "học tập", nụ cười đă biến mất từ đây! Trong lúc đó th́ người ta bắt buộc người dân phải xem "cười" là một nhiệm vụ hàng đầu, và mỗi buổi sáng sớm tại các ngả tư đường phố hay trong những vườn công cộng, người dân được tập hợp lại, trước khi đi làm việc, để người ta dạy cho hát những bài hát cách mạng, để học lại những biểu ngữ hồi thế kỹ thứ 15 và những bài học vỡ ḷng về kinh tế mác-xít. Và người ta luôn luôn nhấn mạnh:"trước tiên là phải "cười".

    Người ta phải dạy cho dân chúng cười, v́ họ không biết "cười" là cái ǵ ! và "cười" ra làm sao nữa ? Trước hết, sau ngày "được giải phóng", th́ dân chúng mất hết tất cả những ǵ gọi là êm ấm của cuộc đời, bù lại họ được một sự nhớ nhung thương tiếc một đất nước mà nay đă không c̣n nữa. Hết rồi ! ở cái quốc gia Việt Nam nầy người ta hết biết cười nữa rồi !!!!!

    Ôi Tự Do, Ôi Tự Do, Chỉ v́ hai chử Tự Do nầy mà con người đă làm biết bao là tội ác giết người ! Dĩ nhiên tất cả chỉ c̣n là tự do vô kỷ luật, và mọi sự cố gắng cải thiện đều bất thành, dĩ nhiên luật pháp không c̣n được tôn trọng nữa, buông thả ham chơi đă thành tập quán rồi, đồng tiền đă đưa con người vào con đường tham nhũng, sức mạnh đạo đức của quốc gia Việt Nam Cộng Ḥa nầy đă v́ thế mà bị hủy diệt rồi !!

    Theo lư luận cùn của những anh bộ đội Miền Bắc, th́ họ rất là mản nguyện. Miền Nam tự do nầy bây giờ đă không c̣n một con "vi trùng tự do" nào c̣n sống sót được nữa, mảnh đất nầy đă được tẩy trùng sạch sẽ lắm rồi, không c̣n bất cứ một thứ Tự Do nào nữa. Người ta sẽ thử xây dựng một nước "Việt Nam Khác" trong sự cưỡng bách và khắc khổ.

    Trong khi đó th́ những người tự xưng là "cách mạng" lại muốn người dân Miền Nam Việt Nam coi họ là những người "giải phóng". Họ khẳng định là họ đă thực sự giải phóng đất nước mà họ vừa chiếm được bằng vũ lực chống lại đồng bào Miền Nam của họ. Họ nói là họ đă hành động v́ sự tự do, chúng ta hảy nghe lời tuyên cáo xấc xược của họ:

    - "Chiến thắng ngày hôm nay, không những là một chiến thắng của dân tộc Việt Nam, mà c̣n là chiến thắng của tất cả dân tộc khác, các dân tộc và những người yêu chuộng ḥa b́nh, tự do, căn bản xem phẩm giá của con người là trọng yếu... Có độc lập và tự do rồi, th́ ngày mai nầy điều ǵ chúng ta cũng sẽ làm được hết"

    Ô Hô ! Họ đă đem cả hai thứ "Độc Lập" và "Tự Do" vào cho Sài G̣n ngày 30 tháng 4 năm 1975 !

    C̉N TỆ HẠI HƠN LÀ TẮM MÁU!

    Không có xảy ra một cuộc tắm bằng máu như người ta hằng trông đợi. Và một điều hết sức ngạc nhiên khi người ta thấy những người man di mọi rợ, trong khi được dân chúng đón tiếp bằng một sự khinh bỉ ra mặt, đang thử làm quen với thành phố Sài G̣n rộng lớn nầy, dân chúng th́ bất thần nghiêm mặt lại, làm như không có chuyện ǵ vừa xảy ra, trong khi thật sự th́ không c̣n có ǵ c̣n giống như ngày hôm qua nữa.

    Làm ǵ có chuyện tắm máu, đó không phải là thói quen của người cộng sản ! Và người nào có ư muốn chờ xem chuyện đó th́ có thể tin được như vậy . C̣n quá tệ hại hơn thế nữa kia !!!

    Thật vậy, người ta nghe nói có nhiều vụ xử tử sơ khởi, đó đây...không có chứng cớ: Tại Ban mé Thuột họ cho ám sát tất cả những cấp chỉ huy và cựu quân nhân thuộc các dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt đă chạy cộng sản di cư vào Nam từ năm 1954-1955.

    Bác sĩ Vincent, d’Athis Mons, người Việt 100%, có quốc tịch Pháp, thuộc đoàn "bác sỉ không biên giới" trong Phái Bộ Y Tế do nước Pháp gởi sang Việt Nam, nên ư kiến rất là tự do và trung thực. Không cần biết đầu óc ông ta nghĩ như thế nào trước đó, khi mà tất cả phái bộ của ông được khoản đăi linh đ́nh ở Paris ngày 1¾/75, trước khi rời nước Pháp để sang Việt Nam, do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức. Mặt Trận đă khuyên ông không nên bắt liên lạc với Sài G̣n và hãy tạm nằm ở Vũng Tàu chờ "quân giải phóng". Phái bộ nghe theo lời MTGPMN, không vào Sài G̣n mà ra nằm chờ ở Vũng Tàu, thuốc men và dụng cụ y khoa được tạm gởi vào một bệnh viện dân sự của VNCH. Có vài cuộc pháo kích vào thị xă, và người ta mang lại khoản 80 người bị thương vừa thường dân vừa lính nhảy dù. Họ săn sóc cho những người nầy. Đến lượt những người man rợ đến, có lẽ chưa có chỉ thị của cấp trên, nên họ ra lệnh ngưng tất cả mọi công tác và ư định chửa trị cho những người bị thương nói trên. Rồi một toán khác lại đến, những người nầy có vẻ hiểu biết hơn, nhưng ra lệnh buộc tất cả phải rời khỏi bệnh viện nầy, v́ họ đang cần dùng. V́ các "bác sĩ không biên giới" không biết phải đưa những người bị thương mà họ đang chửa trị đi đâu, nên họ từ chối lệnh nầy. Tức th́ một người chỉ huy toán "giải phóng quân" nói với bác sỉ Vincent rằng: "Đây rồi chúng tôi đă có cách." Nói xong ông ta rút súng ngắn ra, kê vào đầu một người bị thương cạnh đó, và bóp c̣. Bác sỉ Vincent phản đối. Người ta lôi ông ra chỗ khác...và rồi ông nghe nhiều tiếng súng lục nổ.... đến lúc súng hết nổ th́ bệnh viện đă trống, sẳn sàng cho "giải phóng quân" sử dụng!

    Đó là một trong những nhân chứng và chứng cớ hiếm hoi của những cuộc hành quyết nhanh gọn. Và người ta phải rất ngạc nhiên lắm mới thấy được sự đứng đắn của những kẻ xăm lăng man rợ nầy. Một người trong phái bộ "bác sĩ không biên giới" phải thốt lên: "Thật là giống y như bọn phát xít Đức hồi năm 1940 !"

    Những ǵ xảy ra tại Sài G̣n đều giống y như đă xảy ra tại HàNội. Và những ai đă từng có "sống" tại Bắc Việt vào những năm 1954-1955 đều phải buồn ḷng và sửng sốt mà thấy vở tuồng cũ năm xưa đang được họ diễn lại tại Sài G̣n. Về sau nầy, để tránh nhân chứng gây trở ngại cho những cuộc hành quyết, ở xa trung tâm thành phố và ở vùng ngoại ô hay vùng thôn quê, lần lần bắt đầu có những cuộc thanh trừng dưới h́nh thức các ṭa án nhân dân, xử và hành quyết ngay tại chỗ, xử những người nào bị bất cứ ai (v́ tư thù hay v́ đảng vụ) tố giác hay gán cho cái tội "có hành vi phản cách mạng", hay "là kẻ thù của nhân dân", không cho người tù nhân có cơ hội hối cải. Thế mà dân chúng phải buộc ḷng ưng chịu, sau đó hoặc là tử h́nh, hoặc được đưa đi "trại cải tạo", nơi đó người ta phải chịu chết dần chết ṃn, v́ tinh thần bị lụn bại c̣n tệ hại hơn là thể xác bị hao ṃn.

    Những ai vẫn c̣n tưởng rằng cộng sản và thể chế độc tài chuyên chính của họ là nhân đạo, th́ bằng cớ rành rành ở đây sẽ chứng minh một lần nữa là không phải như vậy. Người ta có thể cho những hành động vô nhân đạo nầy là của một giống dân khác, ở một quốc gia khác, có một thời tiết khác, nhưng cho dù từ miền Trung Âu hay Đông Âu, đâu đâu cũng vậy, chỉ có một âm điệu giống nhau mà thôi !

    Không có ǵ có thể thay đổi được tính ác độc trong một guồng máy chánh quyền chỉ biết dựa vào hệ thống tố giác đê tiện và sự kềm kẹp của bộ máy công an.

    Vậy hởi những ông bạn của Thế Giới Tự Do! các bạn đă biết yêu tự do và biết giá trị của hai chữ "Tự Do" là thế nào rồi, các bạn hảy coi chừng !!!

    Cũng như tại HàNội năm 1954, mặc dầu bộ máy chánh quyền cũ không c̣n nữa và có một sự lộn xộn hổn tạp xảy ra sau đó, người ta cũng rất đổi ngạc nhiên mà thấy người cộng sản lúc nào cũng ḥa nhă ân cần khi đón tiếp người dân, mặc dầu họ khó chịu v́ những câu hỏi tuy có hóc búa nhưng cũng dễ trả lời; cũng có khi người ta phải chịu khó điền vào một số quá nhiều giấy tờ như bộ máy hành chánh cộng sản thường đ̣i hỏi, nhưng không bao giờ người ta được trả lời dứt khoác,"không", mà chỉ được hẹn lại một ngày nào đó để họ có thời gian điều tra và nghiên cứu qua hệ thống tố giác của nhân dân, có lẽ "chắc ăn" hơn là từ chối thẳng thừng ngay lúc đó.

    TRƯỚC HẾT LÀ MỘt SỰ HỖN LOẠN

    Như vậy là ngày hôm trước hôm sau tất cả các hăng xưởng đều đóng cửa, tất cả mọi người đều chờ đợi trong căng thẳng và lo âu. Tuy nhiên tất cả những chướng ngại vật cũ đều được dẹp bỏ, không c̣n thấy những đường phố nào c̣n có rào cản, không c̣n những vườn chơi nào bị cấm vào, không c̣n một công sở nào c̣n có người canh gát, tất cả đều được tháo gở, dĩ nhiên mọi luật pháp của chế độ cũ cũng đều không c̣n nữa, người ta sống trong một sự rỗng không hợp pháp mà có một số người lợi dụng để làm điều bất chánh.

    Trật tự lưu thông v́ không có người điều hành nên không c̣n ǵ là quy tắc nữa, và những chiếc xe "honda" với tiếng nổ inh tai nhức óc lượn qua lượn lại như một đàn ong vở tổ, trong lúc người ta đua nhau dọn sạch các nhà ở hay văn pḥng của người Mỹ, và xúm vào tháo gở hết những ô tô Hoa Kỳ đẹp bóng bị bỏ lại khắp nơi, gở rất kỹ lưỡng và sạch sẻ không bỏ sót một thứ ǵ, y như một đàn kiến siêng năng đang bu đen một khúc xương vậy.

    Điện thoại của thành phố th́ c̣n xử dụng được, nhưng bưu điện th́ đóng cửa và mọi liên lạc ra ngoài đều bị cắt đứt, cả đài phát thanh, viễn ấn tự (télétype)cũng vậy, mặc dầu các ṭa đại sứ ngoại quốc vẫn c̣n mở cửa làm việc. Dĩ nhiên sân bay th́ ngổn ngang đủ loại xác phi cơ, ô tô, c̣n đường sá th́ hư nát v́ đạn pháo nên không thể nào vào được. Trong một cuộc họp báo của Tư Lệnh Ban Quân Quản Sài G̣n Gia Định, chánh quyền hiện hữu và duy nhất lúc nầy, th́ một nhà báo có phản đối về việc đi lại không được tự do, th́ được trả lời rằng "việc đi lại luôn luôn được hoàn toàn tự do, nhưng mỗi ông quận trưởng chỉ có quyền cho phép đi lại trong phạm vi trách nhiệm của quận ḿnh mà thôi."

    Không c̣n thấy một tư ǵ gọi là trù mật, là sầm uất như xưa của thành phố nữa, mặc dầu các chợ cũng c̣n lưa thưa một vài tiệm chạp phô và một vài quầy hàng c̣n bày bán một ít hàng xen lẩn với h́nh của Hồ chí Minh, trên cửa c̣n dấu vết của lá cờ vàng vừa được bôi cạo để thay vào đó màu đỏ của kẻ xăm lăng. Các quán giải khát, các quán rượu..chỉ mở hí cửa và bên trong th́ trống rỗng, trong khi các cô chiêu đăi viên th́ ngồi ngáp dài trước cửa, chờ đón những ông khách lạ từ xa....không mời mà đến, nhưng được mời mà không vào. Các trạm xăng công cộng th́ hoặc bị lấy hết hoặc bị đốt lúc bộ đội Bắc Việt vào thành phố, nên người ta chỉ c̣n t́m được xăng với giá chợ đen, do một số người bán rong, xăng họ rút ra từ các xe của Mỹ c̣n bỏ lại hay của bất cứ xe vô chủ nào c̣n bỏ răi rác trên hè phố. Sau đó th́ các anh bộ đội Bắc Việt cũng bắt chước chơi theo kiểu Mỹ làm nhà cung cấp xăng cho bọn chợ đen bằng cách tự rút xăng trong xe chiến lợi phẩm của ḿnh đang lái. Dài dài hằng 100 thước trên những con đường chánh của thành phố, nhất là sau nhà thờ Đức Bà và trên đường Lê Lợi, cả đàn ông đàn bà lẩn con nít kiên nhẫn đứng thành từng hàng mời khách bộ hành qua lại mua xăng đựng trong những vơ chai rượu whít ky đủ loại .(nhưng coi chừng ! ai muốn mua phải chịu khó nếm thử để biết chắc đó có phải là xăng, là trà hay là dấm...)giá từ 250 đồng bạc một chai đến 1400 hay 1600 đồng một lít. Và cứ như vậy mà ô tô thưa thớt lần, các xe Honda cũng bớt gây ồn ào và từ đó xe đạp bắt đầu xuất hiện, một loại xe thông dụng của các quốc gia cộng sản nghèo. Giá của chiếc xe đạp cứ thế lên dần như dều, dầu vậy người ta cũng c̣n thấy thỉnh thoăng có người c̣n giữ một vài chiếc loại tốt thời xưa, sáng đạp một chiếc màu xanh chiều một chiếc màu đen, coi như để thay đổi thời trang!! Riêng những ông lănh chúa mới th́ ngồi chểm chệ trên những xe Mercédès sang trọng có dựng cờ trên đầu xe, hoặc ra vẻ vênh váo trên những xe mà họ vừa mới tịch thu được.

    Trộm cắp tăng nhanh không nói được: chỉ trong khoản thời gian ngồi uống một cốc cà phê ở khách sạn Continental là chiếc xe của Đại Sứ Pháp bị đục thủng thùng xăng và chân máy đă bị tháo khỏi sườn xe rồi. Không có một người cảnh sát nào cả, người ta phải gọi những anh mặc quân phục xanh nhỏ con Bắc Việt đang thơ thẩn đâu đó, có lẽ họ cổ xúy cho hành động bất chánh kiểu nầy để có dịp khủng bố và thanh lọc dân chúng. Bộ chỉ huy ban quân quản thành phố sẽ trừng phạt nặng những người nầy, có lẽ không nhằm mục đích bảo vệ tài sản của người dân đâu mà chỉ cốt để lấy ḷng dân mà thôi. Chỉ với tội ăn cắp vặt mà một em bé đă bị họ đánh gục. Và có một hôm nọ, một anh tài xế xe tải cán chết một em bé: người mẹ khóc than phản đối dử dội, và để cho bà nầy vừa ḷng người ta hành quyết ngay tại chỗ người tài xế đó bất kể sự phản kháng của anh nầy, trong một không khí im lặng hết sức nặng nề của đám đông dân chúng đang cảm xúc đứng xem, không dám phản đối.

    Công tác thông tin báo chí hầu như bị bải bỏ. Trước hết người ta tổ chức một nhóm sinh viên la ó phản đối một bài báo bị họ kiểm duyệt, sau đó họ mới đóng cửa hết trên 40 tờ báo của Sài G̣n mà không có một ai dám lên tiếng. Vài ngày sau đó duy nhất có một tờ báo được ra, tờ "Sài G̣n Giải Phóng", một tờ báo có cái tên mà tiếng Việt Nam có nghĩa là một sự thay đổi hết sức thô bỉ, sự thật nó chỉ là một mớ giấy tuyên truyền của chế độ cộng sản mà thôi. Dân chúng giờ đây chỉ có bám víu vào những tin đồn để mà sống qua ngày và tin đồn th́ quá nhiều đến mức có thể làm cho họ say mê. Người ta nghe lén các đài phát thanh ngoại quốc, đài "Tiếng Nói Tự Do", đài BBC, đài VOA, đài Úc Châu v.v.. Tất cả các máy thâu thanh sau đó đều bị kiểm tra rất nghiên nhặt, và người ta được xem truyền h́nh phát từ HàNội mà sự "tuyên truyền nặng mùi quân phiệt c̣n rất là hiểm độc hơn của Đức quốc xả trong thời kỳ Hitler nữa", một anh nhà báo Pháp đă có nhận xét như vậy.

    Còn tiếp

  4. #14
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Tiếp chương tám

    "ĐÊM QUA EM MƠ THẤY BÁC HỒ"!

    Năm chiếc tàu hàng Nga Sô vừa cập bến chở theo toàn là "gạo" đúng lúc Việt Nam đang thiếu. Người ta phân phối gạo cho những phường đông dân trước; nhu cầu quá nhiều nên có nhiều sự phản đối. Người ta cho ngưng công tác phân phát gạo và chỉ cho tiếp tục lại vài ngày sau đó. Trong khoảng thời gian chờ đợi người ta cho nhiều toán kiểm tra đi từng nhà để thẩm định lại từng thành phần đáng nhận gạo. Một máy điện thoại hay một máy thu thanh dù là thuộc loại cổ lổ xỉ, được coi là xa xí phẩm, và người sở hữu chủ được xếp vào hạng giàu, không được hưởng phần gạo cứu đói, phần gạo nầy để cho những người nghèo cần hơn. Sự thật là ở Miền Nam giàu nghèo ǵ ai cũng có máy thu thanh cả !!!

    Những sinh viên học sinh từ trước vẫn ham mê các tạp chí đầy h́nh ảnh khiêu dâm của Mỹ, tự nhiên đâm ra có nhiệt t́nh trong các cuộc chống đối phim ảnh, những bài hát, dĩa hát và các loại in ấn phẩm mà họ cho là đồi trụy, không lành mạnh. Các rạp chiếu bóng được cho mở cửa lại ngay, người ta cho chiếu các phim "chiến thắng Điện Biên Phủ", "đời sống bác Hồ", nhưng lèo tèo chỉ có vài khán giả bất đắc dĩ ngồi ngáp vắn ngáp dài... Cũng có nhiều người c̣n dấu lại một vài đỉa nhạc hay, và có người th́ cố đọc ngấu nghiến lần cuối cùng một quyển tiểu thuyết đắc ư nhất của ḿnh, nhưng rồi các cô cậu sinh viên học sinh trẻ tuổi chia nhau đi khắp thành phố lùng sục cho bằng hết các đỉa nhạc và các quyển sách c̣n sót, chất thành đống đốt lên như lửa trại, rồi múa hát chung quanh đó với những bài hát mới và vủ khúc b́nh dân Nga Sô. Các tiệm sách, các thư viện, đều được lệnh lập bản kê khai sách báo hiện có, cũng giống như các doanh-xí-nghiệp khác vậy thôi, nhưng đối với sách báo th́ các bản kê khai nầy chắc phải nộp cả kílô !

    Một cô gái 16 tuổi, lớp 12 của một trường trung học tại Sài G̣n đă viết một bức thư cho một vị giáo sư Pháp văn của cô: "Tôi rất buồn mà thấy bộ mặt Sài G̣n bị thay đổi, ngày trước rất là tươi vui. Đời sống đă trở nên khó khăn. Có rất nhiều gia đ́nh không c̣n có ǵ để ăn cho đủ no. Tôi không c̣n một phương tiện nào để tiếp tục học. Tôi cần phải t́m bất cứ công việc làm ǵ để đi làm..Nếu tôi có thể làm bồi pḥng cho Thầy..."

    Các trường tiểu học trong phường khóm đă được cho mở lại, các trường trung học cũng vậy. Với các em học sinh, người ta chỉ dạy "công dân giáo dục" và người ta chú trọng nhiều trong việc tập luyện phương thức căn bản trong công tác tuyên truyền, các bài hát, các khẩu hiệu, như người ta đă bắt dân chúng phải tập mỗi đêm từ 2 giờ đến 4 giờ sáng để "không bị thiệt mất giờ lao động", có hại cho việc sản suất. Với các em thiếu nhi, người ta tập họp lại rồi nhồi cho các em bài hát sau đây :

    "Đêm qua, em mơ thấy bác Hồ,
    Bác nh́n em bác cười,
    Em vuốt râu bác, và vuốt tóc bác,
    và bác nói với em:
    mai nầy em sẽ là bộ đội."

    Đức tin mạnh đến độ dường như có một số em nhỏ tin rằng đêm qua em mơ thấy bác Hồ thật ! Đối với các em lớn hơn th́ có giáo viên hướng dẫn, có đạo hay không cũng vậy, thay v́ đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, th́ người ta cho học thuộc ḷng bài hát và các khẩu hiệu biểu ngữ, rồi cùng nhau đọc lên năm điều khuyên răn của Hồ chí Minh:

    - Phải yêu dân tộc và yêu tổ quốc,

    - Phải lao động,

    - Phải sống trong kỷ luật,

    - Phải biết điều độ,

    - Phải giữ ǵn sức khỏe để phục vụ đất nước.

    Đối với các sinh viên hay ít nhất là những em có điều kiện sinh sống để có thể c̣n tiếp tục học, th́ người ta tổ chức họ lại thành từng trung đội và trung đội trưởng là một anh "cán bộ". Anh nầy có nhiệm vụ phải đào tạo cho mỗi người phải có một nghề hữu ích nào đó trong ṿng hai tháng, xong đưa họ về vùng nông thôn để học tập cho biết "lao động là vinh quang", giúp làm công việc đồng áng, và nhất là truyền bá lời hay ư đẹp của chủ nghĩa Mác Lê. Nhưng trong khi chờ đợi "được" đi lao động ở nông thôn, th́ với một tinh thần "tự nguyện" đáng khen, họ được trang bị mỗi người một chiếc vá và một cây chổi để "tự giác" đi t́m dọn sạch tất cả các đống rác trong thành phố.

    Tất cả mọi sự hoán đổi các khoa, ngành của trường đại học đă có dự trù sẳn từ trước cả rồi: Khoa Luật và Văn Chương sẽ được đóng cửa vĩnh viễn và thay vào đó là trường đào tạo thông dịch viên, dạy tiếng Nga, tiếng Tàu và cũng có tiếng Anh. Tiếng Pháp vốn thông dụng trong ngành Y Khoa th́ nay bị cấm chỉ, không cho dùng nữa, và chỉ sẽ được dùng như một chuyển ngữ mà thôi.

    Tóm lại, đó là những ǵ mà người ta đă quyết định về một sự "cải tạo con người, tư tưởng, và nền văn hóa" của Miền Nam Việt Nam .

    Những bài toán về kinh tế và xă hội đă từng làm nhức óc các nhà lănh đạo của chế độ cũ, và bắt buộc phải có một khoản viện trợ không ít của ngoại quốc, th́ nay được người ta giải quyết cũng dễ dàng một cách lạ lùng. Người ta cho kiểm tra dân số, ghép lại thành từng tổ một. Ngay đối với những người nào vẫn tưởng rằng ḿnh không có một vấn đề ǵ để người ta phải trách phạt ḿnh, th́ các cuộc điều tra phỏng vấn càng tỷ mỹ và càng làm cho họ sốt ruột nóng nảy lên. C̣n đối với những người nào mà chế độ cho là thuộc "thành phần nguy hiểm", th́ người ta cố t́nh lờ đi, để cho họ chờ...

    Các quân nhân nào không chạy thoát thân ra ngoại quốc được th́ họ trút hết quân phục vũ khí đạn dược, rồi t́m chỗ ẩn náo, hoặc với gia đ́nh hoặc với bạn bè của họ. Họ được gọi đi tŕnh diện tại các địa điểm kiểm tra, xong người ta vẫn cho họ đi về sau khi cho biết là họ sẽ được đi học tập ngắn hạn ở một trại cải tạo, xong về và sẽ trở thành công dân như những công dân VN khác. Nhưng khổ nổi ngay bây giờ đây, không công ăn việc làm, không lương không tiền...chắc chắn sẽ là một bài toán khó không có đáp số.

    Tất cả các công chức cũng được gọi đi tŕnh diện, xếp theo từng loại chức vụ, ngạch trật, nhưng chúng ta phải thấy được sự nhục nhă khó chịu của họ trong bộ cánh chỉnh tề có thắt cà vạt, cúi ḿnh trước anh "cán bộ" trước cửa ṭa nhà Quốc Hội Sài G̣n. Người ta không có hứa bất cứ điều ǵ với họ cả.

    Nhiều bản yết thị kêu gọi những người ngoại quốc đi tŕnh diện, thường trú th́ tại các văn pḥng cảnh sát cũ, tạm trú th́ tại Bộ Ngoại Giao. V́ số người tŕnh diện quá đông nên họ phải xếp dặt lại cho có trật tự, phân chia từng loại theo từng gốc dân. Đối với người Pháp chúng ta th́ trước hết là người Pháp chính gốc, kế đó là những người lai Pháp, sau hết là những người Việt có quốc tịch Pháp. Với loại nào cũng vậy, họ bắt điền vào những bản "vấn đáp" dài lê thê, khai rơ tên họ và lư lịch ba đời, thời gian và lư do cư trú, t́nh trạng xă hội, tài sản ở Việt Nam, và những máy móc dụng cụ hiện có: truyền h́nh, máy thâu thanh, khuếch âm nghe nhạc, máy ảnh, súng, điện thoại v.v...Có nhiều nam nữ cán bộ cố gắng giúp phụ điền giùm các giấy tờ quá nhiều nầy, lẻ ra phải được thảo ra bằng tiếng Việt. Cũng c̣n phải nộp cho họ h́nh căn cước, mà do đó nghề chụp h́nh căn cước nay tự nhiên trở thành một kỹ nghệ mới đắt khách nhất lúc bấy giờ.

    Nhưng tất cả đều được báo cho biết rằng mọi mưu mô hay hành động chống phá cách mạng đều bị cấm, nhưng họ không nêu rơ h́nh phạt. Và từ đó mới bắt đầu có hành động tố giác, ngay trong những người Pháp chúng ta, v́ quá lo sợ, lại được người ta khuyến khích, dù đây là một việc làm quá bỉ ổi.

    HĂY BIẾT VỖ TAY HOAN HÔ NHỮNG KẺ CHIẾN THẮNG.

    Điều chính yếu ở đây là phải biết "tham gia"

    Trước hết là tham gia vào buổi lễ mầng ngày "được" giải phóng. Ngày 1 tháng 5, ngày lễ lao động, dân chúng tập hợp đông đăo ngay bải cỏ trước dinh Tổng Thống cũ. Nh́n thẳng vào mặt tiền sơn trắng của bao lơn dinh Độc Lập,n2 ta thấy rợp màu cờ của Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, không có một lá cờ nào của Bắc Việt, nhưng nổi bật lên trên hết phía trên bao lơn là một bức chơn dung lớn của Hồ chí Minh, đang đứng đưa tay vẫy chào.

    Suốt đêm qua, người ta kêu gọi dân chúng hăy làm những biểu ngữ bằng vải với đủ màu sắc rực rỡ và viết lên đó những câu khẩu hiệu được dạy trước đó, hoặc vẽ chơn dung của Hồ chí Minh, tất cả đều tự túc v́ người ta dư biết là người Việt Nam làm thứ ǵ cũng được, không cần biết có phương tiện hay không.

    Mỗi người đi dự buổi mít tinh phải đem theo hai cây cờ giấy nhỏ, một của Bắc Việt và một của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam để luôn tay phất qua phất lại và không ngớt tiếng hoan hô theo hiệu lệnh của cán bộ, từng chập từng chập ngắt khoản bài diễn văn của vị Tướng chỉ huy Ban quân quản Sài G̣n GiaĐịnh đứng trên bục cao ở bao lơn dinh Độc Lập. Đứng sau tiểu đoàn danh dự, đám đông dân chúng bị dồn cứng trên bải cỏ mà các chiến xa T.54 đă cày nát hôm qua, sau lưng họ là các cánh cửa sắt của cổng chính đă bị người ta cố ư cho chiến xa T.54 ủi sập theo yêu cầu của các toán phim ảnh Bắc Việt. Nhiều loa phóng thanh ră rít phát ra những giọng điệu cũ, những bài họp xướng mà người Pháp chúng ta nghe th́ nhớ ngay tới bài quốc ca La Marseillaise của ḿnh hay một bài hát quốc tế nào đó. Mỗi lần nghe thấy hiệu lệnh th́ người ta đồng loạt vỗ tay rất nhịp nhàng và reo ḥ đồng loạt nghe như là tự động hoan nghênh thật sự vậy, làm cho diễn giả dù khó tính đến đâu cũng phải vừa ḷng. Sau đó người ta đi diễn hành, tay phất cờ giấy của ḿnh.

    Buổi lễ bắt đầu từ sáng sớm, khoản 8 giờ 30 th́ kết thúc và mỗi người trở về nhà gương mặt tối sầm trở lại, có vẻ quá đau khổ v́ vừa phải chịu một sự nhục mạ nặng nề. Tuy nhiên các thanh niên th́ có nhiều tṛ chơi vui được tổ chức hôm đó nên cũng tạm khuây khỏa được. Nhưng rồi sau đó thành phố lại trở nên một thành phố chết, không có một chút sinh khí nào.

    Sinh nhật ông Hồ năm nay rơi đúng vào một ngày quá xấu, nhưng người ta vẫn tổ chức. Trên sân cỏ trước dinh Độc Lập người ta đặt một cái bục để chơn dung cụ Hồ lên đó. Rồi cũng đám đông dân chúng hôm nọ được gọi tới, rồi cũng những biểu ngữ cũ, những khẩu hiệu cũ được giăng lên chung quanh nơi hành lễ, rồi cũng những lá cờ nhỏ hôm trước, cũng những tiếng hoan hô những tiếng vỗ tay theo lệnh như hôm trước...Người ta cố t́m trên khán đài để xem mặt ông chánh phủ Lâm Thời Miền Nam, v́ cho tới giờ nầy người ta vẫn chờ mà cũng không ai biết được thành phần chánh phủ có những ai? mặt mày họ ra sao ?...

    Phải chăng để đính chánh một tin đồn ngoài phố đang làm cho các bà vốn ăn diện quá mức trước kia, nay không c̣n dám đeo đồ trang sức nữa, không dám mặc áo dài màu mè sặc sỡ nữa, tóc không c̣n uốn chải tươm tất nữa...dường như muốn trở về đời sống khắc khổ sằn dă, đâu đâu cũng chỉ thấy có độc một màu "củ nâu" mà thôi, nên bà Nguyễn thị B́nh, từ bên Pháp về, mặc một chiếc áo dài tơ lộng lẫy, môi son má phấn ḷe lẹt, cốt ư để cho người ta nh́n thấy sự sung sướng hân hoan của bà đối với chiến thắng của Cách Mạng.

    Có gần 8000 bộ đội Bắc Việt tham gia cuộc diễn binh. Bộ binh th́ được chở trên xe Molotova của Liên Xô, ngồi trên băng cây, mặt hướng về phía trước với quân phục màu xanh "ve chai" nghèo nàn, nhưng có mang bao tay vải thô không biết lấy từ đâu ra. Theo sau là đủ mọi loại chiến cụ, chiến xa T 54, hỏa tiễn SAM của Liên Xô, pháo binh nặng, pháo pḥng không, truyền tin, công binh, tất cả đều cho thấy không được bảo tŕ tốt, đó là nhận xét rất tỷ mỷ của một quân nhân. Dù nh́n bên ngoài có vẻ khù khờ, không bóng loáng nhưng đó vẫn là quân đội và vũ khí của kẻ chiến thắng. Dần dần các hè phố và những cửa sổ bắt đầu có người ṭ ṃ xem. Người ta không vỗ tay. Ngồi thẳng lưng trên băng gỗ trên xe, các bộ đội cố giữ tư thế hoàn toàn bất động. Giữa các đơn vị, với một khoản cách đều nhau, là những quân kỳ: một lá màu đỏ, có lẽ là cờ của đơn vị diễn hành, v́ trên lá cờ có gắn một số huy chương. Tất cả đều là quân nhân Bắc Việt. Đúng là các đơn vị Bắc Việt đă tham dự cuộc tổng tấn công Miền Nam Việt Nam đang diễn hành để ăn mừng chiến thắng của họ.

    Còn tiếp

  5. #15
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Tiếp chương tám

    GƯƠNG MẶT HỌ KHÔNG ĐƯỢC VUI !

    Trong nhà lồng chợ và trên các đường phố lân cận, các gian hàng bắt đầu mở cửa, lưa thưa, nhưng cũng có hàng. Người mua quá ít, giá cả tăng lên gấp 5 lần chỉ trong ṿng một tuần, do người ta không có bổ hàng về nên hàng hóa cũng hiếm. Tuy nhiên rau cải các loại v́ là sản phẩm địa phương nên cũng b́nh giá. Thật ra không phải thiếu hàng hóa, Sài G̣n luôn luôn có 6 tháng lương thực dự trử, nhưng v́ tiền càng ngày càng cạn dần, nên người mua càng ngày càng ít đi, người nh́n chơi th́ càng ngày càng nhiều.

    Cho tới ngày 30/4/75, khi người Mỹ cuối cùng rời khỏi Miền Nam Việt Nam th́ đồng đô la tăng giá vùn vụt mỗi ngày v́ người ta hy vọng đi ngoại quốc được. Chỉ riêng những người có quyền thế, hoặc vợ con, cha mẹ, hay bạn bè của người Mỹ th́ được cửa mở cho vào ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ, được trực thăng bốc đi đều đều và liên tục cho đến trưa ngày 30, đưa ra hạm đội đậu ngoài khơi Vũng Tàu, để rồi từ đó được đưa đi thẳng tới đăo Guam. C̣n những người khác th́ muốn vượt qua khỏi đám đông đang đứng nghẹt trước cổng ṭa Đại Sứ. th́ trước hết phải biết dúi cho người nào đó xuyên qua lô cốt gát, hằng ngàn hay hàng vạn đô la mới được người ta hé cửa cho vào để được đưa đi t́m Tự Do. Từ sau ngày 30 th́ hy vọng đi Hoa Kỳ không c̣n nữa, đồng đô la lại xuống giá khoản vài trăm đồng bạc, và rất nhiều người lợi dụng được t́nh thế nầy. Đồng quan Pháp th́ lại có giá. V́ người ta đồn rằng sẽ có những chiếc tàu Pháp sắp cặp bến Sài G̣n để chở những người muốn sang tỵ nạn ở Pháp. Người ta c̣n đồn rằng chiếc tàu cặp bến đầu tiên sẽ là chiếc Cambodge, một chiếc tàu chở khách rất đẹp thuở xa xưa đă được giải giới từ lâu rồi.

    Nhưng rồi đùng một cái, mọi người đều hoảng sợ. Tất cả các ngân hàng đều bị đóng cửa, các tủ sắt của ngân hàng bị niêm phong, thợ thuyền công nhân đều không có lương, giá sinh hoạt hằng ngày tăng nhanh đến một mức độ không thể tính trước được nên ai cũng phải lo tiết kiệm tối đa mới có thể kéo dài đời sống cho gia đ́nh ḿnh được.

    Rất may là điện xài trong nhà vẫn c̣n, nhưng người ta cũng phải dự trù có ngày điện có thể bị cúp. Hơi đốt th́ không thể t́m đâu ra, nếu có th́ giá chắc phải cao kinh khủng. Người ta xài lại những ḷ đất đốt bằng than hay bằng củi.

    Ngoài "chợ trời" th́ quang cảnh thật quá vui. Người Mỹ đi rồi th́ thay vào đó đă có các anh bộ đội Bắc Việt, c̣n khờ khạo hơn nữa, họ chỉ say mê ngắm đủ mọi thứ, máy thu thanh (mà họ gọi là đài), máy ảnh, các loại máy điện tử, và nhất là đồng hồ đeo tay.... đủ các loại hàng mà từ cha sanh mẹ đẽ tới giờ nầy các anh không hề được nh́n thấy qua bao giờ. Túi các anh đầy giấy bạc VNCH, không biết các anh "chôm" từ đâu. (tác giả dùng chử chapardés, có nghĩa là đánh cắp). Những người bán hàng vui vẽ mơn trớn họ, họ mua đại khái một vài món không đâu ra đâu, tuy vậy giá cả cũng lên vùn vụt. Nhưng rồi hai tuần lể sau đó th́ giá cả lại tụt xuống, đây là một dịp may hiếm có nhưng không ai muốn mua sắm ǵ nữa v́ làm ǵ c̣n tiền đâu nữa để mà mua ? Bán ra th́ có!!!

    Như thế là bài toán kinh tế đương nhiên đă được giải quyết, bài toán mà người ta cứ nghỉ là phải có viện trợ của ngoại quốc đều đều mới có đáp số được. Chỉ cần đóng cửa các ngân hàng, không trả lương cho thợ thuyền, giảm thiểu tối đa sự lưu thông của đồng tiền, bắt người ta phải chấp nhận một đời sống khắc khổ có khi phải đưa con người tới cái đói hoặc đưa các em nhỏ vào con đường bất lương trộm cắp...tự nhiên xă hội tiêu thụ sẽ biến mất và thay vào đó sẽ là xă hội tiện tặn kiểu Mác-Lê.

    Một vài cán bộ kỹ thuật người Miền Nam từ HàNội đến Sài G̣n. Họ than phiền là bị giữ lại ngoài Bắc quá lâu, phải chờ đến những 20 năm mới gặp được người nhà. Họ về ngay gia đ́nh: người ta nh́n họ như những con người của một thế giới khác, của một hành tinh nào xa lạ, dù ngôn ngữ vẫn là một ngôn ngữ Việt Nam nhưng họ khó mà có thể hiểu nhau được. Họ có vẻ được thỏa măn một ít thôi, nhưng kể như không được thỏa măn ǵ cả. Họ thuật lại là họ có được đặc quyền đặc lợi v́ họ là kỹ sư, là chuyên viên kỹ thuật, do vậy họ được lương 70 đồng một tháng để sống, tuy ít đó, nhưng vẫn sống được: "Chỉ với 70 đồng thôi th́ làm được cái ǵ ?" người ta hỏi họ như vậy.

    Tất cả đều mặc quần áo màu xanh lá cây. Dường như người ta có thể phân biệt được sỉ quan và cán bộ bằng một dấu hiệu nhỏ gắn trước nón, một súng ngắn đeo bên hông, với một dáng điệu tao nhă nào đó được cố tạo ra để che dấu gương mặt đôi khi "sắt máu" không ai muốn nh́n.

    Các bộ tham mưu và các pḥng sở của họ được tung ra đóng răi rác khắp nơi. Tất cả các nhà có pḥng trống (hay có khi không có) đều "được" họ tới chiếm ở, gọi là "xin ở nhờ", và mỗi khách sạn, mỗi hiệu ăn, nhà hàng...đều được yêu cầu dọn cho 100 phần ăn mỗi ngày, dĩ nhiên không tính tiền !

    Tại khách sạn Majestic, ngay đầu đường Catinat và trên bờ sông Sài G̣n, có một sĩ quan cấp tướng người Pháp đang ở. Ông là khách trọ duy nhất ở đây. Ngày 29 tháng 4, trước ngày Sài G̣n buông súng xuống, một trái đạn rốc kết san bằng tầng lầu trên của pḥng Ông đang ở, chết một người gát đêm của khách sạn. Sau đó, khi quân Bắc Việt chiếm xong Sài G̣n, th́ Ông là người khách duy nhất trong căn pḥng ăn rộng thênh thang với 100 anh quân phục xanh lá cây, chia nhau ngồi làm nhiều bàn. Họ có đứng dậy khi ông tướng nầy bước vào pḥng ăn, rồi mỗi người cúi xuống chén cơm ḿnh ăn vội ăn vàng, không nói một tiếng nào, ăn xong lẳng lặng mạnh ai nấy đứng dậy, mạnh người nào nấy đi, yên lặng dễ sợ, khác xa các phạn điếm ồn ào và vui nhộn của quân đội Pháp chúng ta hay của Quân Lực V NCH thuở nào. Tất cả đều có vẻ không được vui, không hiểu tại sao.

    Sau đó người ta thấy họ đeo băng tay đỏ, có may trên đó chữ K. kèm theo một số: như K.21 hay K.8 chẳng hạn. Sau khi họ thu thập xong các tin tức cần thiết, họ chỉ định nhiều loại ủy ban có nhiệm vụ phải nắm chặt hoạt động của từng nghành kinh tế sau khi kiểm kê xong các loại hàng. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên không mấy vui. Vừa gặp người chủ xưởng họ đă quá vội vàng trách ngay, phủ đầu:

    - "Ông không trả lương cho thợ ?".

    Người chủ bèn gọi ngay tất cả thợ của ḿnh đến chứng kiến câu chuyện. Ông nói:

    - "Tôi coi xưởng nầy đến nay đă 20 năm rồi. Thợ được trả lương rất đều, cứ mỗi 15 ngày một lần."

    "- Đúng, đúng ! vài người thợ phát biểu, ông nầy là một người chủ rất tốt."

    "- Ngày 30/4, họ chưa có lương. V́ họ vắng mặt ngày hôm đó. Các ông pháo rốc kết vào họ và ngân hàng th́ bị các ông cho đóng cửa, cho tới ngày hôm ông đi lănh nay vẫn c̣n đóng. Nếu các ông cho mở cửa lại, tôi sẽ kư một ngân phiếu là ngay" người chủ nói.

    "- Chúng tôi không thể cho ngân hàng mở cửa lại được. Chúng tôi phải kiểm soát tất cả các chương mục, tất cả, ông nghe chưa? để t́m moi ra những việc làm xấu xa của "chế độ cũ", họ nói. (nguyên tác: ancien régime. Tác giả không biết danh từ "ngụy quyền" như Cộng sản đă dùng từ 30/4 cho đến bây giờ)

    "- Trong trường hợp đó, chính các ông là người không chịu trả lương cho thợ", người chủ nói.

    Sau đó họ nói chuyện khác với nhau.

    Tất cả những hăng, xưởng, nhà máy v.v.. đều phải qua một cuộc kiểm kê rất tỷ mỷ và trong một thời gian rất là lâu, khiến cho măi đến hai tháng sau chưa có nơi nào mở cửa làm việc lại được cả. Chỉ có vài nơi như hảng rượu bia BGI và một xưởng dệt làm việc lại được, v́ họ c̣n nguyên liệu.

    Trong tất cả các hăng xưởng, nhà máy...chỉ có một luận điệu được nhai đi nhai lại. Người ta cho tập họp chủ, thầy, thợ, công nhân lại và người ta tuyên bố:

    - "Bắt đầu từ giờ nầy, tất cả các anh đều là chủ cả."

    Hoặc là: "Bắt đầu từ bây giờ, tất cả các anh đều là công nhân."

    Và người ta c̣n giải thích thêm: "Tất cả các anh đều là công nhân viên của Nhà Nước. Nhà Nước sẽ cung cấp cho các anh nguyên vật liệu, sẽ gánh cho các anh mọi phí khoản điều hành, nhận tất cả các mặt hàng do các anh sản xuất, chịu trách nhiệm về sự tiêu thụ các món hàng nầy theo phương cách tốt nhất, hoặc trong nước hoặc ra nước ngoài bằng cách trao đổi hàng hóa giửa quốc gia nầy và quốc gia khác."

    Và cứ như thế là đùng một cái người ta chuyển ngay nền kinh tế thị trường có lợi cho dân chúng sang một nền kinh tế chỉ huy thung giăn kiểu Mác Lê chỉ có lợi cho chế độ.

    Rồi người ta c̣n lưu ư thêm, trịnh trọng: "Tất cả các anh đều có bổn phận và quyền lợi để cho hăng xưởng chúng ta phồn thịnh lên. Các anh đều có trách nhiệm phải giữ ǵn cho hăng xưởng chúng ta chạy tốt, và nếu các anh thấy được mọi biến chuyển xấu nào, bất cứ từ đâu đến, các anh có bổn phận phải tố cáo ngay mỗi buổi chiều với cán bộ trực. Nếu có ǵ nghi ngờ, và tối đến mà các anh suy nghĩ tới một vài sự việc tiêu lạm hay bất cứ lương lẹo nào mà các anh không thấy được ngay lúc đó, th́ sáng ra các anh hảy nói cho cán bộ nghe liền."

    Lúc bấy giờ và chỉ có đến lúc bấy giờ, cả hai bên chủ và thợ, ngay cả những ai đă đặt hy vọng vào một nền kinh tế chỉ huy, ai ai củng biết là tai họa đă đến với chính ḿnh rồi.

    Tuy hành động tố giác có làm cho họ kinh tởm thật đấy, nhưng họ vẫn biết rơ rằng sớm hay muộn ǵ họ cũng bị bắt buộc phải làm như vậy, nhưng dù sao ngay giờ nầy th́ họ rất khinh chuyện đó. Vă lại sau đó tin tức và tiếng đồn từ những người từ Miền Bắc trở về, đă cho họ thấy rơ là "cái ǵ sẽ đến cho họ" và chế độ Miền Bắc cũng như ở Miền Nam sẽ như thế nào.

    Mỗi người thợ, mỗi công nhân chỉ được lănh mỗi ngày 50 $ và 700 gram gạo, đó là phần lương của riêng anh, mà cũng được coi như của cả gia đ́nh anh, không cần biết gia đ́nh anh có bao nhiêu người, (kể cả trường hợp người chồng là người duy nhất phải gánh chịu mọi tiêu xài cho 1 vợ và 8 con).

    - "Làm ǵ đủ ăn cho một người !" một người công nhân nói.

    - "Cũng chưa đủ để trả tiền điện nấu cơm" người vợ anh mỉa mai nói.

    MỘT CƠN DỊCH ĐANG LAN TRÀN: TỰ SÁT

    Như vậy là tất cả đều phải đi "lao động". Đó là một cái luật, một cái luật khắt khe "không lao động là không có quyền sống". Người dân Miền Nam hay hoài nghi nên chưa chịu tin như vậy, và v́ quá khôn lanh nên lúc nào họ cũng t́m cách sắp xếp, chưa bao giờ chịu tin là tai họa đă đến với ḿnh mặc dầu nó đă lù lù đứng trước mặt ḿnh rồi ! lúc nào họ cũng lạc quan một cách ngoan cố và liều lĩnh, sẳn sàng tự sửa ḿnh mà không muốn nghe lệnh ai ép buộc ḿnh, tuy hay nói nhưng vẫn là người thợ khéo tay khéo chân, lúc nào cũng vui vẻ và khôi hài, có tinh thần phán đoán và diễu cợt chọc cười cho quên mệt. Do vậy mà họ không thèm biết đến cái luật lao động kỳ quái đó, v́ lúc nào họ cũng tự hảnh diện là người Miền Nam, chê người Miền Bắc, coi người Miền Bắc như là một người man rợ không hơn không kém. Họ không chịu "theo" cái luật đó, họ nghĩ rằng họ sẽ nắm được những người nầy, họ đánh cuộc như vậy và không biết họ đánh cuộc đến bao giờ ?

    Một vài người nghĩ rằng Miền Nam là một quốc gia an lạc, giàu có phi thường sẽ không giống như Miền Bắc. Trí khôn lanh và sắc bén của dân chúng sẽ không chấp nhận những điều kiện của Miền Bắc cũng như sự chỉ huy của những người Miền Bắc. Thế rồi tự nhiên những danh từ "thống nhất đất nước" là những danh từ đầu môi chót lưỡi của bộ đội Miền Bắc từ lúc vừa bước chân vô thành phố Sài G̣n, nay từ từ dường như được rút lại, không c̣n thấy xuất hiện trong những bài diễn văn hay trên các biểu ngữ nữa. Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam kéo dài thời gian thành lập và cho ra đời thành phần một chánh phủ Miền Nam, có lẽ là do một sự tranh chấp nội bộ giữa người Nam và người Bắc. Miền Bắc nói: "Chúng ta sẽ thống nhất". Miền Nam đă chánh thức tuyên bố với những danh từ hết sức dè dặt rằng: " Sẽ đi tới thống nhất khi nào hội đủ điều kiện đặc biệt."

    Càng ngày càng có nhiều người bất măn, và càng ngày càng có nhiều người chán đời. Trong ṿng vài tuần lễ, không cần biết hôm nay đă xảy ra việc ǵ, có khoản từ 15 đến 20 nhân sĩ tự tử, chết.

    Một ông đại tá công khai trước đám đông người dùng súng bắn vào đầu một phát đạn, chết. Ông có mang một tấm bản trên ngực, viết: "tôi đói".

    Một người khác leo lên đông gạch vụn của tượng đài "t́nh đồng đội" trước Nhà Hát Tây Sài G̣n (Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa) vừa bị phá sập, đổ xăng vào người và tự thiêu, chết.

    Nhiều phóng viên chạy nhanh tới để chụp ảnh, các anh bộ đội đến ngăn cản, không cho chụp ảnh nhưng lại rất thản nhiên để cho những người muốn chết được chết.

    Đó là những chuyện thường xảy ra gần như hằng ngày. Có nhiều quân nhân đă được giải ngũ, không việc làm, sợ bị đi trại cải tạo, biết được vũ khí chôn dấu c̣n nhiều, và với một cây súng cũng có thể vào sống trong rừng được, những người mất hết hy vọng, những cấp chỉ huy cương quyết...tất cả đều vào bưng, vào rừng, vào núi, gia nhập nhóm kháng chiến c̣n đang hoạt động mạnh, không cần biết đó là một sự kết thúc hay một sự bắt đầu của một niềm hy vọng....Dĩ nhiên Hànội lên án chuyện nầy và thú thật là chưa giải quyết xong Miền Nam Việt Nam.

    ÍT NHẤT NGƯỠI TA CÓ THỂ RA ĐI ?

    Tuy nhiên người ta không để cho một người nào được ra đi cả, dù họ có muốn. Không có phương tiện chuyên chở ư ? Không có phương tiện kiểm soát ư? Không có ư muốn như vậy ư? hay họ sợ một lỗ trống trong lưới sẽ làm sẩy hết đàn cá? Tất cả mọi biện pháp đều tốt, người ta cho phép chuyển điện tín gia đ́nh ra ngoại quốc, miễn là để cho chánh quyền thêm vào một câu: "Về ngay đi, gia đ́nh đang chờ anh."

    Một số đông người, cả nam lẫn nữ, đến lănh sự quán Pháp xin chiếu khán nhập cảnh, hay để xin nhập tịch Pháp, hay để xin hồi tịch Pháp. Người ta đă có dự trù cho những người Pháp có thể rời khỏi Việt Nam lúc nào cũng được, nhưng ai có vợ hay có chồng người Việt th́ không được mang họ theo và nếu đă có con th́ cũng phải để chúng ở lại Việt Nam.

    Nước Pháp là quốc gia đă chấp thuận nhận một số dân tỵ nạn Việt Nam , nhưng đó cũng chỉ là lời hứa đầu môi chót lưỡi. Dường như là nước Pháp có kư một thỏa hiệp có lợi cho thể chế hiện tại, hay ít nhất cũng có phần nào hơi thận trọng để khỏi làm mất ḷng họ, v́ thật ra Pháp đang c̣n bận tâm lo cho những công dân của ḿnh đang c̣n kẹt tại đó, theo lời yêu cầu của những người nầy.

    Có gần một triệu người Miền Bắc đă chạy vào Miền Nam , theo chân quân đội Pháp năm 1954-55. Bây giờ nếu Việt Nam mở cửa th́ vài triệu người Việt Nam sẽ t́m cách sang định cư ở Pháp ngay. Tàu nào mà chuyên chở cho hết đây ? Và người Pháp chúng ta phải làm sao đây ? trong lúc quốc gia chúng ta đang lo cho nền kinh tế bị suy thoái và nạn thất nghiệp, và cũng chưa ổn định xong cho một triệu người Phi gốc Pháp của chúng ta? Thật là một bài toán đau thương, một bài toán nan giải!

    " -Vậy là chỉ c̣n có nước đem họ liệng xuống biển Nam Hải cho cá mập sơi tái mà thôi !" Linh mục Hoàng Quỳnh đă nói như vậy.

    Hay là chúng ta cứ để họ chết dần chết ṃn ở Miền Nam Việt Nam , vốn đă sớm biến thành một nhà tù vĩ đại rồi, với một chế độ nô lệ đáng ghê tởm và một bức màn sắt bao kín mít, không một tiếng kêu rên thống khổ nào bay lọt được ra ngoài.

    Nếu người Pháp chúng ta không chịu mở rộng con tim, hay mở rộng cửa biên giới cho những người từ phương trời xa kêu gào cầu cứu với chúng ta, th́ ít nhất chúng ta cũng phải biết được rằng, cũng như các nơi khác, ở đó vừa có một bằng chứng mới nữa, đó là: người cộng sản không bao giờ biết đến hai chữ "nhân đạo" là ǵ, và họ đang tiêu diệt con người.

    Xin cầu nguyện cho người Pháp chúng ta biết lo sợ, khi họ cũng bị rơi vào trường hợp phải bị người ta bắt phải vỗ tay hoan nghênh, và cũng xin cầu nguyện cho người ta đừng bắt buộc họ phải cười, nếu họ không thích cười v́ họ không c̣n cười được nữa: "Cộng sản chỉ có một thứ Tự Do, lănh tụ cộng sản Pháp, ông Marchais đă nói như vậy. Thật vậy, trong chế độ cộng sản, chỉ có một thứ Tự Do, đó là "Tự Do Không Có Một Thứ Ǵ Cả" !

  6. #16
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    CHƯƠNG CHÍN

    NƯỚC PHÁP SẼ PHẢI RA ĐI VĨNH VIỄN RỒI

    Đúng thật đây là một ngày 14 Juillet rồi.

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc bọn người man rợ tiến vào Sài G̣n, th́ ở đây chỉ c̣n độc có những lá quốc kỳ Pháp mà thôi.

    Thật không sai, v́ trước đó Tổng Thống nước Cộng Ḥa Pháp đă có lời yêu cầu các công dân Pháp trong trường hợp nào cũng nên ở lại để duy tŕ sự có mặt thường trực của nước Pháp tại Việt Nam. Để cho người Pháp khỏi nghi ngờ, nghị sĩ Ornado đă được phái đến tận Sài G̣n để nói lại với họ như thế. Người Pháp ở Miền Nam Việt Nam dù muốn dù không cũng phải nhận lời.

    Bây giờ th́ họ bị quá bất ngờ, không dè t́nh thế kết thúc quá nhanh như thế, họ không thể c̣n làm ǵ hơn được, v́ không một ai có được một phương tiện nào để ra đi.

    Trước đó, tại Dublin, Ngoại Trưởng Pháp đă làm cho các bạn đồng nghiệp thuộc các quốc gia Âu Châu phải sửng sờ khi ông tỏ ư muốn thấy Tổng Thống Thiêụ từ chức và ra đi, v́ theo ông th́ ông Thiệu được xem là một trở ngại chính cho một nền ḥa b́nh ở Việt Nam .

    Có nhiều người Việt Nam từng có bắc đấu bội tinh Pháp cũng đă bị rơi vào rọ, đang phản kháng ầm lên rằng họ đă được Chánh Phủ Pháp hổ trợ và khuyên họ phải ở lại Sài G̣n, để hậu thuẩn cho các phong trào đ̣i Tổng Thống Thiệu phải ra đi. Dĩ nhiên chuyện nầy không đúng. Thật vậy, lúc bấy giờ ở Sài G̣n người ta thuật lại rằng trong khi kiều dân Pháp nghe theo lời khuyến cáo của Tổng Thống Pháp, th́ những người trong Bộ Ngoại Giao Pháp hơi thính tai nên đă đưa tất cả nhơn viên của họ về Pháp trước rồi, và ở Ṭa Đại Sứ Pháp tại Sài G̣n lúc nầy chỉ c̣n có gia đ́nh của ông tùy viên quân sự mà thôi, ông nầy can đăm và vẫn lạc quan. Lẽ ra th́ giới hữu trách ở Tổng Thống Phủ và Bộ Ngoại Giao Pháp phải có những tin tức chính xác về VN mới phải. T́nh thật họ không chịu tham khảo những người có nhiều hiểu biết sâu rộng về vấn đề Việt Nam, và ngay như tại Phủ Thủ Tướng cũng vậy, công khai ai cũng biết là về chánh trị người ta chỉ có một tầm nh́n duy nhất về quyền lợi của nước Pháp ở Viễn Đông mà thôi.

    NƯỚC PHÁP ĐĂ CHỌN NHỮNG NGƯỠI CỘNG SẢN

    Trên phương diện chánh trị, người Pháp nghĩ đại để rằng giúp đở cho một lực lượng thứ ba lên nắm quyền, (lời dịch giả: ư tác giả muốn nói đến tướng Dương văn Minh) để họ có thể thương lượng với Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam, thiết lập một thể chế mới tạm thời do cộng sản sắp xếp, ít nhất cũng có thể bảo đăm được một nền ḥa b́nh nào đó. Miền Nam Việt Nam đang cần có ḥa b́nh. Những người cố vấn kỹ thuật Pháp khẳng định rằng nếu có được ḥa b́nh trong vài năm thôi, th́ với sự khám phá các mỏ dầu ngoài khơi biển Nam Hải và vùng Vịnh Thái Lan, nền kinh tế của Việt Nam sẽ tiến nhảy vọt hơn hẳn Đài Loan và Nam Hàn nữa. Do vậy mà chúng ta đă thấy tại sao Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam liên tục tạo ra một sự bất an ninh để ngăn chặn mọi đầu tư và khai thác tài nguyên giàu có của Miền Nam Việt Nam, nếu không th́ chắc chắn VNCH sẽ vĩnh viễn chiếm địa vị ưu thế hơn Miền Bắc.

    Dĩ nhiên người ta rất cần có ḥa b́nh ! Quan điểm chánh trị của Pháp đối với vùng Viễn Đông luôn luôn nghiên về một nền "ḥa b́nh kiểu cộng sản", từ lúc một ngày nọ, trong lúc cao hứng, tướng De Gaulle đă đọc một bài diễn văn nẩy lửa tại Phnom Penh để "chơi" các bạn đồng minh Hoa Kỳ. Thật là một điều nhục nhă khi phải nghĩ đến nền ḥa b́nh đó, v́ nó có khả năng đưa nền kinh tế của Việt Nam lên cao, nhưng đồng thời nó cũng đem lại nhiều quyền lợi cho những người có quyền thế ăn trên ngồi trước.

    Dù muốn dù không th́ nước Pháp cũng đă chọn xong con đường phải theo rồi. Pháp đă không ủng hộ Thiệu nữa, ông nầy bị Pháp chỉ trích ngày càng gay gắt thêm lên. (Cách đây mấy năm dường như ông Thiệu đă có ư muốn trục xuất tất cả người Pháp ra khỏi Miền Nam Việt Nam , nhưng ông vốn là một quân nhân trong quân đội Pháp, là con người có t́nh cảm nên ông vẫn c̣n giữ nhiều cảm t́nh bạn bè thân thiết với quân đội Pháp). Tuy vậy không v́ thế mà ông không làm tất cả những ǵ có thể làm được để tái lập bang giao b́nh thường với Pháp. Việc cắt đứt bang giao là do tướng Kỳ lúc bấy giờ rất có quyền hành, sau khi ông De Gaulle đọc bài diễn văn ở Phnom Penh . Lúc nào Tổng Thống Thiệu cũng tỏ ư mong muốn có sự thân thiện giữa hai nước Pháp Việt, ngay như lúc Pháp chỉ định đến V NCH một vị đại sứ "nhà nghề" quá lạnh lùng, không biểu hiện được một t́nh thân hữu nào giữa hai quốc gia, vậy mà ông Thiệu cũng vẫn vui vẻ mở cửa đón tiếp ngay, bất chấp mọi nghi lễ ngoại giao.

    Vậy mà nước Pháp vẫn chọn Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam . Pháp đă cho chánh phủ nầy một chỗ đứng chánh trị khá cao tại thủ đô Paris , và t́m mọi cách khuyến khích họ. Hơn thế nữa, Pháp cũng đă gởi vào vùng được gọi là "giải phóng" cũng như đến Hànội rất nhiều viện trợ, gọi là "viện trợ nhân đạo", do đó mà đă có những chuyến phi cơ quân sự chuyển từ Vientiane (Lào) hơn 300 tấn thuốc men, nói là để giúp cho những người tỵ nạn. Nhưng mỉa mai thay thật là một điều đáng tiếc v́ những người tỵ nạn hôm nay lại đúng là những nạn nhân khốn khổ của chính cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam nầy và của quân đội cộng sản Bắc Việt trong chiến dịch tổng tấn công xăm chiếm Miền Nam Việt Nam năm 1975. Ngoài ra, nếu người ta không lầm th́ giới thân cận trong chánh quyền Pháp đă nghe được đại diện của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam (M TGP MN) ngỏ lời cám ơn các quốc gia bạn của họ, mà Pháp là quốc gia đứng hàng đầu, một nước đă từng giúp đở họ trong cuộc chiến nhằm xâm chiếm Miền Nam Việt Nam. Một điều chắc chắn là người ta thấy có những người Pháp tại Miền Nam đă từng tuyên bố là không làm chánh trị, nhưng lại nằm trong danh sách những người cộng tác với M TGP MN để mong t́m được một sự bảo đăm thân thiện nào đó của MTGPMN, không biết có phải v́ họ quá sợ bọn người dă man nầy hay không. Một số người Pháp có quyên tiền cho M TGP MN, giữa họ với nhau, được khoản 2 triệu bạc VN, nhưng Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam từ chối không nhận. Khi Sài G̣n bị chiếm th́ người ta gởi tới tướng chỉ huy Ban Quân Quản một bản danh sách những người Pháp cảm t́nh viên thân MTGPMN để mong đừng làm ǵ khó dễ họ, đồng thời người ta cũng có tố giác một số người Pháp được ghi nhận là có khuynh hướng chống cách mạng.

    CÓ TỪ 12.000 ĐẾN 15.000 NGƯỜI PHÁP C̉N KẸT LẠI SÀI G̉N

    Có thể nói không sai là phần đông người Pháp ở Sài G̣n không nhận cái lối xử sự như vậy của chánh phủ Pháp. V́ họ rất hiểu biết vấn đề. Nhiều người đă biết rơ cuộc di tản khỏi Bắc Việt trong những năm 1954-55. Những người khác th́ đă đo lường được mức độ nguy hiểm của vấn đề. Một số người thật t́nh cũng không thích vấn đề tham nhũng của một số nhơn vật trong chế độ, nhưng họ không phải trong số những người chỉ v́ lo lắng cho công việc làm ăn của họ được an toàn mà mong cho ông Thiệu từ chức và ra đi, hay muốn thấy thành phần thứ ba lên nắm quyền: tất cả đều biết trước những ǵ sẽ xăy ra cho họ nếu MGP MN hay Bắc Việt lănh đạo đất nước nầy, v́ nền kinh tế chỉ huy theo kiểu cộng sản sẽ không bao giờ đem lợi lộc ǵ cho họ cả, trong khi chỉ v́ chút lợi lộc đó mà họ mới có mặt ở đây. Cho nên khi thấy ḿnh tự nhiên bị kẹt vào rọ, tất cả đường dây liên lạc ra ngoài đều bị cắt đứt, tất cả mọi khả năng đi ra nước ngoài đều bị đ́nh chỉ trong lúc nầy, khi mà họ thấy xí nghiệp của họ bị đóng cửa, sắp sửa bị quốc hữu hóa hay biến thành tài sản của "nhân dân", thấy các cửa hiệu của họ và tủ sắt của họ đều bị niêm phong, khi mà họ chạm phải một đời sống khắc khổ, họ liền sực cảm thấy t́nh trạng gần như bị "giam lơng" của ḿnh, theo đúng nghĩa của danh từ luật pháp, bị giam lơng cả sanh mạng lẫn tài sản mà không thấy có được một bảo đăm nào cho tương lai, ít nhất trong một thời hạn xa hay gần nào đó. Chừng đó họ mới bắt đầu nổi khùng lên và bắt đầu nguyền rủa. Họ càng như phát điên lên khi được biết rằng các dàn trọng pháo được bố trí xong chung quanh Sài G̣n sẳn sàng cho cuộc tổng tấn công, dự trù đủ để bắn phá thành phố liên tục trong bảy ngày đêm. Họ có cảm giác rằng người ta đă "không đếm xỉa" ǵ đến sinh mạng của họ cả đừng nói chi đến việc bảo vệ tài sản của họ củng như tài sản của nước Pháp.

    Từ ngày 1 tháng 5 đến 1 tháng 8/1975, trong số từ 12.000 đến 15.000 người Pháp c̣n bị kẹt lại tại Sài G̣n, chỉ có khoản 300 hay 400 ǵ đó đi được ra ngoài, phần đông là những người tạm trú, hoặc họ lợi dụng 3 chuyến bay Illyouchine từ Sài G̣n đi Vientiane (t́nh trạng những máy bay nầy xấu không thể tả nổi, bên trong mưa rơi như gió mùa), hoặc theo các chuyến bay của Hàng Không Lào, với những chiếc máy bay nhỏ liên lạc qua lại Sài G̣n nhiều lần để mang thuốc men từ kho hàng Bangkok sang. Trong tháng 8/1975, người ta đă cố gắng "chạy" tối đa: một nhân viên ngoại giao phụ trách việc nầy, ông nầy đă từng thành công trong việc di tản những người Pháp ở Cam Bốt, dù là rất khó khăn và nguy hiểm. Nhưng tất cả cố gắng của ông đều không đi đến đâu, không có một kết quả nào. Đại sứ Pháp bên cạnh chánh phủ Thiệu th́ bị Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam từ chối không công nhận, người ta chỉ định một xử lư thường vụ từ HàNội, mong là đă từng có nhiều tiếp xúc với chánh phủ Bắc Việt th́ công việc điều đ́nh của ông sẽ có phần dễ dàng hơn, nhưng cho đến bây giờ th́ ông ta chưa vào được Sài G̣n. Ngoài ra, người ta không hiểu tại sao Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam lại cho triệu hồi đại sứ của họ đang ở Paris về Sài G̣n. Bang giao giữa hai bên đang tốt đẹp tự nhiên dường như trở nên lạnh nhạt. Như thế là hằng ngàn người Pháp c̣n kẹt tại Sài G̣n, gần như "bị nhốt trong trại tập trung Sài G̣n".

    Ông Giscard d’Estaing, Thủ Tướng Pháp, có tuyên bố là người Pháp chúng ta có thể yên tâm đi nghỉ hè, nhưng phải thú nhận là người Pháp không thấy có một hứng thú nào. Ngoài ra, ông ta c̣n thấy măn nguyện và khen các nhân viên ngoại giao của ḿnh trong việc áp dụng thành công và khéo léo đường lối chánh trị của Pháp tại Viển Đông. Người ta lại c̣n gắn cho họ một số "bắc đấu bội tinh" nữa. Tại Pháp, người ta sửa soạn để đón tiếp những người Pháp từ VN trở về. Người ta dọn trống các câu lạc bộ của kiều dân di trú Bắc Phi, có đủ chỗ cho 2.000 người Pháp được biết là rất nghèo từ Sài G̣n về cư ngụ. Rất may là tất cả mọi thông tin liên lạc đều bị cắt đứt, nên người ta không nghe thêm được tin tức ǵ về việc nầy từ nước Pháp nữa.

    Còn tiếp

  7. #17
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Tiếp chương chín

    GIỐNG NHƯ LÚC TRƯỚC Ở BẮC VIỆT, NGƯỜI PHÁP CHÚNG TA MẤT TẤT CẢ

    Nước Pháp phải có mặt thường trực tại Việt Nam , đó là mục đích mong muốn của Chánh Phủ Pháp và đó là đường lối chánh trị của ḿnh. Đường lối nầy đă được thi hành đến đâu rồi ? Người ta phải nghi ngờ khi nhớ tới những ǵ đă xảy ra ở Miền Bắc Việt Nam lúc xưa. Thật ra th́ những kỹ niệm xưa không được coi như là những bài học, và người ta biết rơ rằng không phải v́ vậy mà sự việc không c̣n có thể xảy ra cho ngày mai.

    Tại Miền Bắc, tất cả những ǵ được gọi là của Pháp trước đây 30 năm đều đă biến mất. Tất cả đều biến mất hết, nhanh chóng dị thường. Nhiều cảm t́nh viên chánh trị đă thử ở lại xem sao. Nhưng rồi một năm sau, chỉ một năm sau thôi, họ cũng phải ra đi. Một người trong số đó viết một quyển sách khá dày, đầy những sự kiện, có tên là "Tôi đă sống trong địa ngục cộng sản Miền Bắc Việt Nam , và tôi đă chọn tự do ". Ai đă có đọc được quyển sách nầy? Ai đă quên quyển sách nầy ?

    Tại Hànội, tôi nhắc lại, những ǵ được gọi là của Pháp đều biến mất hết, kể cả viện Pasteur. Người Nga đă giúp lo cho họ tốt hơn. Tại bệnh viện Saint Paul , cảnh sát vào chiếm đóng và các bà "sơ" tốt bụng phải bị giam cầm 14 năm trong các viện mồ côi. Nhiều tài sản của Trường Viễn Đông Bát Cổ của Pháp, trong đó thư viện Hán văn đẹp nhất thế giới, và cả một bộ sưu tầm độc đáo có một không hai về ngọc quí, dường như được đem ra phân phối hết cho bốn quốc gia đă từng cộng tác với Bắc Việt. Những ǵ c̣n lại tại chỗ người ta cũng đă bán đi hết. Rất nhiều người đă bị hy sinh, chỉ có 15 ngày sau khi người Pháp chúng ta rời khỏi Hà nội là ở các chợ quanh thủ đô, hàng Pháp lèo tèo chỉ thấy c̣n có những ống chỉ để bán cho người Tàu, thật là một sự mĩa mai, nhục nhă và rất đau ḷng !!!

    Thế th́ tại sao bây giờ chánh phủ Pháp lại c̣n có ảo tưởng mong muốn một sự có mặt thường trực của nước Pháp tại Sài G̣n ?

    Phải chăng đó là những bộ h́nh luật xưa, 5 bộ luật mà Pháp đă để lại lúc người Pháp rời khỏi Việt Nam -chẳng có bổ túc thêm một điều khoản nào, có chăng cũng chỉ có một vài chi tiết nhỏ không đáng kể- làm nền tảng căn bản cho bộ h́nh luật của Miền Nam Việt Nam? Các vị chánh án cũng như các luật sư trong các phiên xử vẫn c̣n mặc chiếc áo thụng dài và mũ đen truyền thống của Ṭa án Pháp. Bây giờ th́ tất cả luật pháp và pháp chế gốc Pháp đều đă bị hủy bỏ. Có một khoản trống pháp định đang kéo dài...Các chánh án, luật sư và nhân viên ṭa án đều phải đi "học" lại tất cả. Đaị học Luật khoa đă bị đóng cửa vĩnh viễn. Chẳng những người Pháp mất hết quyền được hưởng luật pháp của người Pháp, mà trong một quốc gia không luật lệ như bây giờ, lấy ǵ để che chở, bảo đăm cho sanh mạng của con người, cho tài sản cá nhân, v́ không có một quy chế nào cả ?

    Phải chăng v́ nền văn hóa Pháp, một nền văn hóa rất là phong phú ở Miền Nam Việt Nam , vốn là một quốc gia thân Pháp hàng đầu. Có nhiều bản thỏa hiệp đă được chuẩn phê vào đầu năm 1975, dự trù ghép các trường Đại học và các phân khoa Pháp, Việt lại với nhau, thành lập thêm các trường sư phạm đào tạo giáo sư Pháp văn tại Việt Nam, giảng dạy Pháp Văn như là một chuyển ngữ trong tất cả các trường trung học trong nước, hợp tác về giảng dạy tu nghiệp cho tất cả các giáo viên và giáo sư thuộc đủ mọi cấp mọi ngành giáo dục, cấp học bổng cho giới trẻ có phương tiện theo học bên Pháp. Để kiểm điểm lại chúng ta thấy chỉ ở ngay tại Paris thôi, đă có bao nhiêu bác sĩ, kỹ sư, luật gia Việt Nam trong các học đường cao nhất của nước Pháp, th́ người ta sẽ đoán được lợi ích như thế nào . C̣n bây giờ th́ sao ? Trong ban Văn khoa th́ tiếng Pháp bị khai trừ, người ta chỉ dạy tiếng Nga, tiếng Tàu, thỉnh thoảng cũng có tiếng Anh. Chẳng những các dự án bị "rơi rụng" hết và không c̣n một tư giá trị nào, mà các trường Pháp cũng sẽ chết, mà sự cộng tác cũng không c̣n lư do để tồn tại nữa, mặc dầu trong chương tŕnh cộng tác nầy có rất nhiều người thân với chế độ cộng sản trong hiện tại. Thật sự th́ những người Pháp nằm trong chương tŕnh cộng tác văn hóa nầy không nguôi được cơn giận dữ và sắp sửa phun ra những lời chỉ trích nặng nề đối với chánh quyền Pháp, v́ họ lo rằng thời gian nghỉ hè của họ năm nay vốn phải được bắt đầu từ 1 tháng 6/75 sẽ bị kẹt tại "thiên đường cộng sản mới" nầy rồi !

    VÀ NGƯỜI NGA SẼ THAY PHIÊN "ĐỔI GÁC" CHO NGƯỜI MỸ

    Bệnh viện Grall nằm tại Sài G̣n, một quân y viện đă có từ xưa, lúc người Pháp chiếm Việt Nam . Luôn luôn bệnh viện nầy được treo quốc kỳ Pháp. Bệnh viện nầy là một "pháo đài" Pháp cuối cùng phục vụ cho vấn đề nhân đạo, pháo đài cuối cùng trên bờ biển Thái B́nh Dương. Nhơn viên của bệnh viện là người Việt Nam, được các bác sĩ tự nguyện và các chuyên gia kỹ thuật người Pháp huấn luyện đến nơi đến chốn. Bệnh viện tự túc điều hành bằng lợi tức của ḿnh. Một khế ước có gia hạn được kư kết cho cơ sở nầy. Nhưng sau chuyện xảy ra ở Trung Tâm Y khoa Calmette tại Phnom Penh và ở bệnh viện dân sự tại Vũng Tàu, th́ không một bác sĩ dân sự Pháp nào c̣n muốn tự nguyện phục vụ cho bệnh viện Grall nữa. Tất cả nhân viên hết sức tận tâm đáng khen ngợi, với một tŕnh độ kỹ thuật cao khó t́m được bên Pháp, đều đ̣i hỏi phải được di tản cùng với bệnh viện.

    Vốn là một bệnh viện tư, tự túc điều hành với lợi tức cơ hữu của riêng ḿnh từ các bệnh nhân thường là giới thượng lưu của Sài G̣n, Grall bây giờ có nguy cơ thiếu thu nhập. Hơn nữa những "ông chủ mới" của Sài G̣n lại trưng dụng 100 giường cho toàn những quân nhân Bắc Việt nằm, bệnh viện lại phải chịu tốn nhơn viên và phương tiện thuốc men để điều trị miển phí cho họ nữa. Chẳng những v́ thiếu cả nhân viên lẩn ngân khoản điều hành mà bệnh viện Grall không thể tiếp tục hoạt động nữa được, nhưng v́ người ta đă chánh thức thông báo cho vị tướng chỉ huy bệnh viện biết là không gia hạn khế ước của cơ sở nầy nữa. Vă lại ở đây chắc rồi cũng sẽ giống như ở Hànội trước kia thôi, các tài liệu về y, và dược của Pháp chắc chắn sẽ phải nhường chỗ cho sách và thuốc của Liên Xô, ngành y học Pháp và đồng thời kỹ nghệ y dược của Pháp tức khắc sẽ bị phá sản.

    "Nhân dân lao động tốt sẽ làm chủ tập thể đất nước, kết hợp sức mạnh lại nhằm tạo một đời sống ấm no và hạnh phúc cho mọi người ", người ta đă tuyên bố như vậy. Sẽ không c̣n chỗ cho tự do kinh doanh, cũng như tự do thu nhập.

    - "Ǵ th́ ǵ họ cũng phải cần đến chúng ta thôi, chúng ta sẽ đem đến cho họ kỹ thuật, chuyên viên và kỹ thuật gia mà họ đang thiếu", có người ranh mănh nói như vậy.

    Nói như thế là không chịu hiểu tính tự phụ của những người "chủ mới". Nói như thế là chưa biết đánh giá được cái "thực tài" của người Việt Nam mà chúng ta cũng như những người khác đă từng đào tạo, họ hoàn toàn có đầy đủ khả năng và thích hợp cho tất cả mọi việc làm, mọi nghành nghề.

    Nói như thế là không hiểu và không biết là cường quốc Liên Xô đang hết ḷng giúp đở cho họ, đă gởi sang cho họ một số lớn chuyên viên kỹ thuật để thay thế cho người Pháp chúng ta.

    Những xí nghiệp, hăng xưởng đang sắp sửa biến thành tài sản của Nhà Nước, hoặc tài sản của nhân dân rồi. Không có một người Pháp nào chịu để mất uy tín của ḿnh và hơn thế nữa không thể chịu mất đi khoản lợi nhuận của họ, trong lúc họ đă nghe và biết được là kể từ nay không c̣n một lợi tức riêng nào cho cá nhơn nữa. Người ta đă nghe kể chuyện về một nhà máy của hảng Michelin, hoạt động dưới một chế độ xă hội ở Algérie, trường hợp đó chưa đủ sao ? Không có một người Pháp nào ở Sài G̣n không thấy rơ chuyện đó, dù người đó là công chức của ṭa Đại Sứ, ṭa lănh sự hay trong bất cứ chương tŕnh nào của chánh phủ, dù người đó là luật sư, buôn bán, dân trồng tỉa hay kỹ nghệ gia: không những chỉ nói đến các nhà máy, xí nghiệp, hăng xưởng và lợi tức cá nhơn mà phải nói là tất cả những ǵ mà người Pháp c̣n đang điều hành tại Miền Nam Việt Nam cũng đều sẽ bị mất hết, vô phương cứu văn.

    Tất cả những chuyện đó đều đưa tới một kết luận: dù cho có được những sự thương lượng ngoại giao nào đi nữa th́ đây cũng vẫn là một sự sụp đổ, một sự phá sản hoàn toàn của đường lối chánh trị của nước Pháp ở Viễn Đông, nơi đó ở trên bờ biển Nam Hải, bên cạnh của một trong những trung tâm kinh tế thế giới của ngày mai, nơi mà người Pháp chúng ta đă từng có một chỗ đứng vững mạnh và quan trọng hàng đầu về kinh tế, văn hóa, chánh trị...tất cả, ngày mai nầy sẽ không c̣n ǵ nữa, và người Pháp chúng ta không c̣n là "cái thá" ǵ hết....

    Tại Miền Bắc Việt Nam, chỉ c̣n có 18 người Pháp mà thôi, mà hết 17 người là nhân viên của Ṭa Đại Sứ.

    C̣n tại Cam Bốt, không theo lề lối thông thường, nước Pháp đă công nhận và mở bang giao trước với Hoàng Thân Shianouk lúc ông nầy c̣n ở Bắc Kinh sợ chưa dám về nước, vậy mà người Pháp cũng bị đuổi đi khỏi Cam Bốt một cách nhục nhă.

    Tại Lào, nơi c̣n một phái bộ quân sự Pháp, th́ Ṭa Đại Sứ Pháp bắt buộc nhân viên của ḿnh công chức cũng như quân nhân, ủng hộ chánh thức phe Pathet Lào cộng sản vừa đoạt chính quyền sau khi thử nghiệm thất bại một chánh phủ ba thành phần. Pathet Lào đă từ khước sự có mặt của người Hoa Kỳ, và đă kêu gọi đến Liên Xô. Người Nga đă tới và đă mở lănh sự quán ở tất cả các tỉnh của Lào. Pathet Lào cũng đă trục xuất, vừa êm thắm vừa bằng biện pháp mạnh, tất cả những người Lào "quốc gia" nào có bất cứ dính líu với người Pháp. Trong lúc đó tất cả kiều dân Pháp cũng phải sửa soạn "khăn gói" sẳn sàng lên đường về nước.....

    Trong khi chỉ có sự việc bắt giữ một con tin nào đó thôi cũng đă làm cho dư luận quốc tế phẩn nộ ầm lên đổ tội cho luật lệ quốc tế yếu hèn, th́ tại Việt Nam có đến những 12.000 dến 15.000 người Pháp bị cầm giữ tại chỗ cùng với tài sản của họ, mà tuyệt nhiên không thấy một ai có được một phản ứng nào ! như vậy Chánh Phủ Pháp có thấy thoải mái lắm hay không ? Chánh Phủ Pháp có c̣n biết cách nào để ch́u chuộng ve văn Liên Xô hơn được nữa hay không, v́ đây là công tŕnh sự nghiệp của họ kia mà. Ông Marchais tổng bí thư đăng cộng sản Pháp cũng chưa chắc làm ǵ hơn được, c̣n ông Mittérand của đăng xă hội th́ chắc chắn không dám làm ǵ hơn rồi .

    Nước Pháp vừa hoàn toàn thua một trận chiến cuối cùng tại Đông Dương. Cái giá phải trả thiệt t́nh chưa tính ra được, nhưng xem chừng như quá đắt!

    Tổn phí ước tính sẽ lên đến bao nhiêu tỷ quan đây ? cái giá phải trả cho bao nhiêu sinh mạng con người, hoặc cho tinh thần rách nát không sao hàn gắn lại được của họ ? Và làm sao nước Pháp của chúng ta chịu nổi sự tổn thương nặng nề cho uy tín, danh dự, và quyền lợi của ḿnh đây ?

    Người Pháp chúng ta có bao giờ quan tâm đến những câu hỏi nầy không, hởi những người đang đi nghỉ hè một cách yên ổn kia?

  8. #18
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    CHƯƠNG MƯỜI

    NHỮNG HẬU QUẢ TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU.

    Chiến xa của Liên Xô đă tiến vào Sài G̣n.

    Sau khi Hoa Kỳ lầm lỗi bỏ cuộc tại Việt Nam th́ nỗ lực của Liên Xô rất là chính xác trong cả ư định và quyết định mở chiến dịch Hồ chí Minh, dẫn đến chiến thắng cuối cùng là chiếm được hoàn toàn Miền Nam Việt Nam. Đối với chiến quả nầy, phải nói là chính Liên Xô là người đă đưa ư kiến cho Bắc Việt (xúi giục), và đă góp phần chi viện tất cả mọi phương tiện cần thiết cho quốc gia nầy, cho nên giờ đây họ đang tính tới việc khai thác thành quả vừa do họ mà đạt được, và cũng có thể nói là đạt được cho chính họ.

    Bằng chứng đă quá rơ ràng. Sự kiện không thể chối cải được. Ngay tại Lào cũng thế, tại đây giải pháp chánh trị đă đi tới thành công, một sự thành công mà từ lâu người Lào đă không bao giờ đạt được qua một cuộc chiến có vơ trang, để tranh đấu bảo vệ sự tự do của họ. Mặc dầu người ta không biết việc ǵ sẽ xảy ra cho Cam Bốt, một quốc gia bị kẹp giữa hai chế độ cộng sản Việt Nam và Lào, nhưng người ta cũng nghĩ được là những ǵ đang đến và sẽ đến cho người Khmer chắc chắn cũng giống như vậy thôi.

    Hoa Kỳ đă yểm trợ cho cuộc chiến dành độc lập tự do của ba quốc gia Việt Nam Lào và Cam Bốt. Nay dù cho rằng họ bỏ cuộc hay họ phản bội, tất cả đều có nghĩa là họ đă đồng ư cho Liên Xô hành động, v́ có ai dám khẳng định là họ không thấy hay không ước tính trước được những hậu quả sẽ đến sau đó ?

    Những ǵ đă xảy ra trên toàn cơi Đông Dương đều là chiến thắng của Liên Xô và là sự chiến bại của Hoa Kỳ. Chỗ nào người ta cũng thấy Hoa Kỳ ra đi một cách nhục nhă, ra đi khỏi các quốc gia mà họ đă từng yểm trợ, bênh vực, và đở đầu, để cho Liên Xô đến thay thế, đó mới là những kẻ thật sự chiến thắng, thật sự chiếm hết toàn bộ bán đăo Đông Dương.

    Rơ ràng là Hoa Kỳ đă có thỏa hiệp như vậy rồi, bằng cớ là họ đă thành lập lại tuyến pḥng thủ Thái B́nh Dương, dựa trên các pháo đài Nhật bản, Úc Châu và các đăo trong vùng. Như vậy th́ coi như Hoa Kỳ đă bị Liên Xô trục xuất ra khỏi lục địa Á Châu. Sự kiện nầy làm cho người ta phải tự hỏi xem tại sao ? có một ư định ǵ đây ngoài hành động được mang nhăn hiệu là "giải phóng quốc gia" mà bây giờ không c̣n một ai dám tin được nữa.?

    ĐI TỚI MỘT SỰ ĐỐI ĐẦU TRỰC DIỆN GIỮA TRUNG QUỐC VÀ LIÊN XÔ

    Quốc gia chính yếu quan tâm đến vấn đề nầy đă tự giải thích. Họ đă có nói rơ cho dư luận Pháp biết rồi nhưng người Pháp lúc nào cũng ưu tư mà lúc nào cũng không chịu chú ư ǵ cả. Trong một chuyến viếng thăm nước Pháp, người ta có nói là trong ṿng 10 năm tới, nước Pháp sẽ là một nước theo cộng sản. Ông Lư tiên Niệm, Phó Thủ Tướng nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa c̣n nói tường tận hơn tại Raiwalpindi của Pakistan, đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề:

    - "Mặc dầu hiện nay các siêu cường quốc đang dính cứng vào một cuộc khủng khoảng chánh trị và kinh tế khó mà gở ra cho nổi, nhưng họ không bao giờ chịu buông bỏ mộng làm bá chủ toàn cầu. Trong hiện tại th́ họ tranh đua nhau ráo riết tại Âu Châu, Trung Đông, trong vùng biển Ấn Độ Dương, vùng vịnh Bengale, nhất là vùng Đông Nam Á Châu, cũng như các vùng khác trên thế giới nầy."

    Và ông ta c̣n nêu rơ phương thức bố trí lực lượng Liên Xô bao quanh Trung Quốc nữa. Bây giờ th́ Hoa Kỳ đang yếu thế, tất cả mọi sự việc đều h́nh như là rất ăn khớp với nhau. Thật vậy, người ta có thể tin rằng những chỗ trống do Hoa Kỳ bỏ cuộc rút đi đều được Liên Xô đích thân trám vào, hoặc trung gian đàn em thay thế Liên Xô trám vào, tất cả đều nhằm một mưu đồ chiến lược là bao vây Trung Quốc.

    Có một vài khuynh hướng sành sỏi h́nh như đă thấy trước được một cuộc chiến tranh gây hấn từ phía Liên Xô đối với Trung Quốc, mà họ gọi là một cuộc chiến tranh pḥng bị, trước khi Trung Quốc vượt qua được giai đoạn h́nh thành một lực lượng nguyên tử năng. Mao trạch Đông đă nói rơ với ông Nixon trong chuyến viếng thăm mới đây của ông nầy tại Bắc Kinh, h́nh như không ngoài những lư do nào khác.

    Thật ra th́ hiện nay Trung Quốc dường như đă vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất về khoa học và kỹ thuật của ngành nguyên tử lực rồi. Sự tiến bộ vượt bực nầy đă làm cho các chuyên viên Hoa Kỳ hoang mang đến hoảng hốt và dĩ nhiên các nhà sưu tầm người Pháp cũng vậy nữa.

    Ngày 26 tháng 7 năm 1975, có lẽ để cảnh cáo hay trả lời cho những hành động của Liên Xô, Trung Cộng đă phóng lên và đặt thành công vào quỷ đạo trái đất một vệ tinh thứ ba, và họ cũng nói lên công khai không cần dấu diếm ǵ đó là một vệ tinh gián điệp có nhiệm vụ canh chừng động tịnh của Liên Xô.

    Tại Trung Quốc, người ta không tin vào thời kỳ "ḥa hoản" mà chỉ thấy có chiến tranh; về chuyến bay của phi thuyền Apollo-Soyouz người ta nói rằng có một "pha đấu kiếm" tay đôi trên không gian: "các dân tộc trên thế giới đều biết rơ là những phi hành gia có dấu dao găm trong tay khi họ bắt tay nhau" người ta nói như vậy tại Bắc Kinh.

    Từ việc phóng vệ tinh gián điệp nói trên, người ta có thể rút ra một kết luận duy nhất không lầm lẩn được là: Trung Quốc đă có loại hỏa tiển tầm xa có khả năng mang tới bất cứ ở đâu trên lănh thổ Liên Xô và trên thế giới những quả bom mà họ điều khiển được. Đó là một lời cảnh cáo: Trung Quốc đă cho người ta hiểu rằng họ đă bước qua được cái "ngưởng cửa giới hạn" nguyên tử rồi, và nếu Liên Xô tung ra một cuộc chiến th́ Trung Quốc không coi đó là một cuộc hành quân có tính cách pḥng bị hay một cuộc chiến có giới hạn nữa, mà coi đó là môt cuộc chiến tranh thật sự, toàn diện, có nguy cơ hủy hoại tàn phá cả đôi bên thù nghịch, dù là giữa anh em cộng sản với nhau.

    V́ lẽ đó, do tinh thần đạo đức của Hoa Kỳ đang bị tuột dốc, do chính sách "bao vây ngăn chặn" của Liên Xô trong việc bố trí lực lượng bao quanh Trung Quốc, và do sự tăng tiến vượt bực của lực lượng nguyên tử của Trung Hoa, một thế "dung ḥa" mới sẽ được h́nh thành. Sự đối đầu trực tiếp giữa hai siêu cường cộng sản sẽ thay thế cho sự đối đầu giữa Đông và Tây. Và đương nhiên người ta sẽ trở lại những sai lầm trong ṿng lẩn quẩn như trước: chiến tranh lạnh, sống chung ḥa b́nh, rồi đến một sự ḥa hoản giả tạo với những kho vũ khí cao như núi, và cuối cùng rồi cũng v́ thế mà phải tiếp tục tạo ra những cuộc chiến giới hạn nữa, những cuộc gây hấn nho nhỏ để từ đó người ta có khả năng châm lửa vào ng̣i, giữ măi ngọn lửa chiến tranh, do sự thúc đấy, khuyến khích và yểm trợ của các siêu cường trong sự phân tranh của họ.

    Như vậy th́ chẳng những chiến tranh không bao giờ chấm dứt ở Trung Á, ở Phi Châu được, th́ tại sao lại chấm dứt ở Âu Châu và ở Đông Nam Á Châu được ? Chắc chắn là như vậy rồi. Ngay như ở Việt Nam và trên bán đăo Đông Dương, chiến tranh chỉ tạm ngưng mà thôi. Người dân chỉ chấp nhận một cuộc sống khắc khổ kiểu cộng sản chỉ v́ họ phải chịu hy sinh cho một cuộc đấu tranh mà người ta nói là cuộc "chiến tranh giải phóng", một cuộc chiến đă không bao giờ chấm dứt được mà c̣n có khả năng tái diễn nữa ....

    Những sự tranh chấp tiềm tàng đă có giữa người Thái Lan, Khmer và Việt Nam . Ngay tại Việt Nam cũng vẫn c̣n chưa yên: dân tộc thiểu số miền thượng du đang đ̣i quyền tự trị, ở hậu phương c̣n răi rác tàn quân VNCH chưa thanh toán xong, c̣n những chiến khu đang h́nh thành, tuy nhỏ không đáng kể nhưng các chiến binh c̣n súng đạn thà chọn lối sống tụ do trong rừng rậm c̣n sướng hơn lối sống trong các trại tù "tập trung cải tạo" .

    Một tờ báo bên Bỉ đă nói về "hạnh phúc của người dân Việt Nam " như sau:

    - "Sài G̣n đă bị chiếm, nhưng đó không phải là "giải phóng" nổi đau khổ của "nguời dân" như người ta đă từng tuyên truyền. Mà trước đó đă có người dân nào được hỏi qua ư kiến đâu ? Dân chúng bây giờ đang sống dưới một chế độ mà không một ai dám nêu tên của nó lên, sau bao nhiêu năm sống dưới nhiều chế độ khác nhau tuy chưa thỏa măn được đúng nguyên vọng của họ... Các siêu cường chỉ áp đặt một nền chánh trị dựa theo đường lối chiến lược của họ mà không bao giờ dựa trên nền tảng ư kiến của người dân" .

    Qua biến cố của quốc gia Việt Nam , có lẽ rồi đây chiến lược toàn cầu nầy phải có một sự chuyển biến sâu xa hơn.

    BREST VẪN C̉N NẰM TRONG NƯỚC PHÁP CHÚNG TA KIA MÀ!

    Cán cân lực lượng giữa hai siêu cường Nga Mỹ xem chừng giống như một ṭa lâu đài xây cất lên bằng những lá bài tây, rất mong manh, các lực lượng của Liên Xô th́ càng ngày càng lớn mạnh và ư chí của những nhà lănh đạo Liên Xô th́ không chút suy suyển, trong lúc Hoa Kỳ th́ vẫn là một sức mạnh to lớn về vật chất nhưng không có chút sinh khí nào, không hồn, không có ư chí...cho đến khi họ chửa trị xong bịnh hoại huyết của họ.

    Thế nhưng dù muốn dù không, với sức mạnh vật chất vô song của họ, Hoa Kỳ cũng đă là quốc gia lănh đạo của Thế Giới Tự Do, nay đùng một cái các nước thuộc Thế Giới Tự Do nầy phút chốc bổng cảm thấy lạc lơng, vừa không có sức mạnh của chính ḿnh vừa mất hết ḷng tin ở sự che chở của quốc gia đầu đàn Hoa Kỳ của họ. Dường như sự đối đầu Đông Tây có một sự chuyển biến quan trọng, và nếu Liên Xô trám được vào các khoản trống mà Hoa Kỳ tạo ra, th́ đó chính là những bằng chứng cho thấy rơ ư định và hành động của quốc gia nầy. Người ta sẽ càng thấy rơ hơn khi theo dỏi được đường lối chánh trị của họ: Họ có nhu cầu gây tạo cho được một hậu phương vững mạnh. Tại Âu Châu, họ đang muốn tái diễn lại hành động ở Á Châu. Để đạt được kết quả nầy, như thường lệ, một mặt họ dựa trên sức mạnh của vũ khí chiến cụ, một mặt họ dựa trên điều mà họ gọi là "ḥa hoản" nhưng chỉ là hành động ve văn giả nhân giả nghĩa thôi, mặt lúc nào cũng vẫn giả vờ là bạn bè. Về mặt nầy, họ muốn có "ḥa b́nh" v́ họ cần có ḥa b́nh. Như vậy người Mỹ được họ xem là những người ngoại cuộc. Bằng cách nầy hay cách khác họ sẽ t́m cách "tống cổ" người Mỹ ra khỏi Âu Châu, v́ duy nhất chỉ có người Mỹ là có thể chống lại ư đồ của họ mà thôi. Nhưng họ cũng chống lại việc h́nh thành một Âu Châu thống nhất, v́ đối với họ khi đă thống nhất được rồi th́ Âu Châu trong một thời gian nào đó sẽ thay thế Hoa Kỳ. Những quốc gia nhỏ lẽ loi của Âu Châu, dưới áp lực chánh trị và quân sự của Liên Xô, lại không đủ khả năng tự pḥng thủ cho ḿnh, bắt buộc sẽ phải chấp nhận quyền lănh chúa của Liên Xô mà thôi. Nói như thế th́ đâu cần các quốc gia Tây Âu phải là cộng sản, Liên Xô chỉ cần sấp xếp thế nào đó để nuôi dưỡng những chánh phủ mà họ có khả năng ch́u chuộng được, để sát nhập kỹ nghệ Âu Châu và kỹ nghệ Liên Xô lại...chừng đó th́ Liên Xô sẽ là đệ nhất siêu cường, mạnh nhất thế giới, tha hồ tự do hành động theo mưu đồ chiến lược tương lai của họ.

    Như vậy, liệu chúng ta có phải trở về với cái thuyết của Đô đốc Castex, thuyết mà hầu hết các sử gia đều hết lời ca tụng về giá trị của nó, và những chiến lược gia bây giờ mới nh́n nhận đó là thực tế : "Trung tâm tranh chấp của thế giới sẽ là trục đi từ Vladivostok (cực đông Liên Xô) đến Brest (tây bắc nước Pháp)." Nhưng Brest vẫn c̣n là một thành phố của nước Pháp chúng ta, do đó nước Pháp vẫn c̣n là mục tiêu quyết định và mong muốn của chiến lược nầy.

    Mong rằng người Pháp chúng ta phải thấy rơ được điều đó, và mong rằng chúng ta nhớ rơ là ở bên kia chân trời, những anh em người Việt Nam của chúng ta đă phải trả một cái giá quá đắt như thế nào, và họ sẽ c̣n phải trả nữa, như chúng ta trong một t́nh h́nh chiến lược tương tự như thế nầy!

  9. #19
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    CHƯƠNG MƯỜI MỘT

    XIN GIĂ BIỆT VIỆT NAM

    Đến đây tác giả xin lỗi bạn đọc tự thuật lại những ǵ đă xảy ra cho chính ḿnh.

    Như thế là tôi đă đến Việt Nam, vừa mang nhăn hiệu phóng viên của tuần báo "Carrefour" để dễ đi săn tin biến cố, vừa có sự ủy thác của "Hội Chiến Binh Liên Hiệp Pháp" để thiết lập một đường dây cứu trợ cho những người tỵ nạn và những nạn nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc nầy.

    Sau ngày 30/4, chiếu theo những bản "yết thị" của đương kiêm chánh quyền được dán lên khắp các đường phố, tôi chỉ c̣n cách là phải đi tŕnh diện để cho họ kiểm kê như tất cả mọi người khác. Khi đă điền và nộp xong các giấy tờ, tôi được bảo cho biết là ngày mai tôi lại phải đến đây để nhận một "biên nhận", giấy nầy được coi như là "giấy phép thông hành" dùng đi trong thành phố.

    Ngày hôm sau, trong lúc tất cả những người khác đều nhận được giấy thông hành của họ th́ tôi được thông báo là giấy của tôi chưa kư xong.

    - "Ngày mai ?" Tôi hỏi.

    - "Đâu có biết được" Họ trả lời ỡm ờ.

    - "Ngày mốt ?" Tôi lại hỏi.

    - "Nếu muốn biết th́ ông nên hỏi ông ủy viên chánh trị, người mà ông thấy đang đứng ngoài sân kia ḱa ", một người con gái dễ thương vừa ngạo nghễ nói với tôi như vậy, vừa nói vừa đưa tay chỉ một người đàn ông nhỏ con mập mạp đang xách một chiếc cập da trên tay.

    Tôi đi lại gặp ông ta trong lúc ông ta đang tiếp chuyện với hai người Anh. Để trả lời câu hỏi "đến bao giờ th́ tôi có thể lại đây nhận giấy thông hành của tôi được", th́ như một thầy tướng số ông ta đáp :

    - "Ông là Tướng Vanuxem, ông không bao giờ có được giấy thông hành, và ông phải biết là tại sao rồi."

    - "V́ ông nói với cái giọng điệu nầy, tôi sẽ báo cho Đại Sứ của tôi biết vậy." tôi trả lời ngay.

    Trong lúc tôi rời khỏi nơi đây, ông ta c̣n nói với hai người Anh mà ông ta đang c̣n tiếp chuyện, cố ư nói lớn tiếng để cho tôi nghe thấy :

    - "ông tướng nầy có hai bàn tay dính đầy máu !"

    Tôi quay lại tức khắc và chỉ thẳng vào mặt ông ta, tôi nói:

    - "Tôi không cho ông được phép nói như thế.."

    Ông ta bỏ đi nhanh vào văn pḥng.

    Ông Đại Sứ tiếp tôi sau một vài phút chờ đợi. Ông khuyên tôi nên b́nh tĩnh và mời tôi sang văn pḥng bên cạnh để ghi tên mà không nên ghi nghề nghiệp. Đó là một đ̣n mưu mẹo của ông thôi, v́ ông không thể cho tôi một chỗ trú trong ṭa đại sứ, nơi đó ngoài quyền ưu đăi miễn trừ của ông và của 13 nhơn viên pḥng vệ ra, ông bắt buộc phải trao tôi ngay cho họ nếu họ đ̣i hỏi. (Tại Phnom Penh, sự kiện đă xảy ra cho thấy là chẳng những không có một tư ǵ gọi là an ninh trong ṭa đại sứ, bởi v́ cuối cùng người ta đă phải trao lại những người mà cộng sản đ̣i hỏi, nếu không th́ ṭa đại sứ sẽ bị đóng cửa ngay. Sau đó những người được trao trả bị hành quyết ngay tại chỗ). Tôi cũng thử làm theo lời ông Đại Sứ. Công việc xem ra cũng có kết quả. Tôi mới nghĩ ra rằng ông Đại sứ của ḿnh có lư, và tôi đă có ư nghĩ không mấy tốt đối với Bộ Ngoại Giao.

    Như vậy là tôi trở lại lần nữa. Một ủy viên chánh trị tiếp tôi lần nầy, vẫn với thái độ hằn học:

    - "Chính ông là đại tá Vanuxem? (phải chăng một phút kỷ niệm của Miền Bắc Việt đă làm cho tôi trẻ lại, trở lại cấp bậc đại tá ?), ông đă giết quá nhiều người Việt Nam . Ông là một tội phạm chiến tranh. Ông sẽ được xét xử, và chánh phủ của chúng tôi sẽ không bao giờ tha cho ông đâu, không, không, không bao giờ tha đâu."

    Đại Sứ Pháp nhấn mạnh một lần nữa để tôi không xin tạm trú tại ṭa đại sứ, và tôi đành âm thầm ẩn náu tại nhà một người giáo sư bạn tôi, một trong vài dăy nhà dành cho những người Pháp phục vụ cho các chương tŕnh hợp tác văn hóa, các dăy nhà nầy tuy được đặt dưới sự bảo vệ an ninh của Pháp, nhưng xem có vẻ bấp bênh lắm. Thời gian trôi qua...Sự kín đáo coi như được giữ ǵn đúng cách. Sáng ngày thứ sáu hôm đó, người ta tin cho tôi biết là có một máy bay Illyouchine sấp sửa đáp xuống sân bay Tân sơn Nhứt, phi cảng của Sài G̣n, và sẽ ra đi, qua Vientiane (Lào) với khoản 40 nhà báo Pháp. Ai cũng thấy thèm muốn được đi nhưng người ta nói là v́ lư do kỹ thuật, chuyến bay đó sẽ phải được dời lại đến ngày hôm sau.

    Chiều hôm đó, vào khoản 5 giờ, giờ Sài G̣n, người ta đến tận nhà tôi đang ở, nơi mà cho đến giờ nầy tôi vẫn tưởng là kín đáo không ai biết, để giao cho tôi một phong b́ lớn, gọi tôi đến tŕnh diện tại Bộ Ngoại Giao vào lúc 8 giờ tối cùng ngày. Thật là kỳ lạ, v́ vào giờ nầy lẽ ra Bộ Ngoại Giao phải đóng cửa nghỉ vắng tanh rồi! Tôi điện thoại cho vị Tùy Viên Quân Sự Pháp để cho có người biết việc nầy, và với một bộ quần áo thật đẹp, chiếc cà vạt thắt thật vừa vặn, tôi đến Bộ Ngoại Giao, tŕnh diện ngay tại cửa dành riêng cho dân chúng.

    Một người có lẽ là công chức đang đứng đợi tôi ở đó. Anh ta dẫn tôi đi ṿng vo quanh các hành lang phía bên kia ṭa nhà để đưa tôi vào một pḥng khách lớn mà tôi biết rất rơ, v́ đây là nơi mà tôi đă được các vị bộ trưởng trước kia thường tiếp kiến. Một cô gái đẹp tại đây nhận ra tôi: "Ồ, tôi biết ông nhiều, tôi thường thấy ông ở đây, tôi là thông dịch viên ở đây từ lâu rồi". Ngay sau đó một người đàn ông bước vào pḥng. Ông nầy cao lớn so với người VN b́nh thường, thân h́nh như một lực sĩ, gương mặt b́nh thản không có vẻ ǵ là Á Đông cả, với một mái tóc chải rất đẹp, mặc quân phục màu xanh lá cây mà không có đeo cấp bậc. Không nói một câu, anh ta khoát tay ra hiệu cho tôi ngồi xuống một ghế dài và sau đó anh ta cũng ngồi xuống bên cạnh tôi. Anh ta bắt đầu bằng một diễn văn bằng tiếng Việt và cô gái thông dịch lại rất chính xác:

    - "Ông là đại Tướng Vanuxem. Ông đă cố t́nh vào Việt Nam, gian dối lấy cớ là hành động nhơn đạo, nhưng thật ra ông đến đây để bảo vệ quyền lợi của "thực dân mới" Hoa Kỳ và giúp cho lực lượng của chánh phủ bù nh́n. Do vậy mà Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam đă có quyết định trục xuất ông ra khỏi lănh thổ Việt Nam . Đây tôi đọc cho ông nghe bản văn trục xuất liên quan đến trường hợp của ông."

    Như thế là xong.

    - "Ngày mai, 6 giờ sáng giờ Hà Nội, tức là 7 giờ sáng giờ Sài G̣n, ông phải ra sân bay Tân sơn Nhứt bằng phương tiện của ông, với 120 đô la, tiền ông phải trả cho chuyến bay Illyouchine, chỗ ngồi đồng hạng, để đưa ông đến Vientiane."

    Tuy nhiên tôi bắt buộc phải trả lời. Nh́n cử chỉ và dáng điệu của người vừa tiếp chuyện với tôi, người ta có thể tin được là không phải chỉ có cộng sản trong Chánh Phủ Cộng Ḥa Lâm Thời Miền Nam ( GRP ), một chánh phủ mà người ta không biết được ǵ nhiều. Tôi nói:

    - "Nh́n bộ quân phục của ông, tôi nghĩ ông là một quân nhân. Các ông tranh đấu cho lư tưởng của các ông, th́ tôi cũng tranh đấu cho lư tưởng của tôi, làm sao các ông lại trách tôi được? Ngoài ra, v́ tôi là một người có đạo Thiên Chúa, là con người "duy tâm", cho nên là kẻ thù của con người "duy vật" dù người nầy ở về phía chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa mác xít cũng vậy thôi. Tôi không phải đến đây để bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ, mà đến đây v́ t́nh nghĩa với một nước Việt Nam đang trong đau khổ, một quốc gia mà tôi xem như quê hương thứ hai của tôi, một quốc gia mà tôi hằng chúc cho luôn được hạnh phúc...".( Hai chữ Việt Nam ở đây, cũng như trong toàn bộ quyển sách nầy, tác giả chỉ có ư muốn nói là Miền Nam Việt Nam, là Việt Nam Cộng Ḥa- chú thích của dịch giả-)

    Anh ta chăm chú nghe tôi nói, mắt nh́n thẳng lên cao. Rồi anh ta đứng dậy, tôi tưởng là cuộc tiếp kiến như vậy là đă xong nên tôi cũng đứng dậy. Nhưng anh ta đi lại đứng ngay trước mặt tôi, ngay giữa pḥng khách, thẳng người trong tư thế đứng "nghiêm" và nói với tôi rằng:

    - "Thưa đại tướng, chúng tôi rất cảm động về những lời chúc phúc cho nước Việt Nam của đại tướng, và chúng tôi đoan chắc với đại tướng là chúng tôi luôn luôn xem đại tướng là một quân nhân thẳng thắng và trung thực."

    Và anh ta đưa tay ra cho tôi bắt.

    Không thể nghĩ là tôi rất cảm động đến độ nào, tôi bước ra cửa và đi vào hành lang đă đưa tôi đến đây lúc năy. Nhưng người ta gọi tôi lại: có ai đó đă cho một lệnh ngắn gọn để mở cửa danh dự của Bộ Ngoại Giao cho tôi ra, và tôi từ từ bước đi, đầu ngẩng cao, hai lồng ngực thở phồng lên đầy kiêu hănh, với cả một sự chửng chạc không thể tả được.

    Ngày hôm sau, tại Tân sơn Nhứt, sau một lúc chờ đợi, tôi được lên chiếc Illyouchine cùng với gần 40 nhà báo. Trên phi cơ, một sĩ quan đi kèm theo tôi đă nhă nhặn hỏi và thu lại bản văn trục xuất tôi ra khỏi Việt Nam, làm cho tôi cụt hứng không c̣n có thể treo vào tủ kính bảo tàng của tôi được nữa, bên cạnh tờ giấy trả tự do ra khỏi nhà tù "La Santé" của tôi. Tiếc thật!

    Phi cơ có vẻ không được bảo đảm cho lắm. Khó nhọc lắm nó mới cất cánh lên được. Ở dưới kia là thành phố Sài G̣n với những đại lộ thẳng tấp giữa những khúc quanh co uốn khúc của con sông Sài G̣n và cả một vùng đồng ruộng với những con rạch nhỏ ôm lấy cảnh vật như một con bạch tuột to lớn giữa những ruộng lúa xanh um đầy nước phản chiếu lóng lánh ánh sáng của mặt trời buổi b́nh minh....

    Rồi không c̣n thấy được bóng dáng một người nào nữa, và bây giờ th́ đến màu xanh lục của núi rừng...Xa xa, một lần chót tôi c̣n thấy ḥn ngọc của Viễn Đông trong một vũng bọt bèo u ám, một làn sương mù trắng xóa bốc lên từ mặt đất như một vành khăn tang....

    Thế là tôi đương nhiên rời khỏi Việt Nam vĩnh viễn rồi: Nước Việt Nam từ đây đă là một trong những nước mà tôi và những bạn bè của tôi đă tổn phí quá nhiều, một nước mà tôi bị cấm không bao giờ được bước chân trở lại đó nữa, một nước mà nơi đó vẫn c̣n trái tim của tôi, ôi! tương tự như tôi đă bị lưu đày ra khỏi cuộc sống của chính bản thân tôi vậy....

    Và tiếc thay không ở đâu có được những cây phượng vĩ đỏ rực, những cây hoa sứ trắng ngát hương thơm như ở quốc gia Việt Nam nầy, một quốc gia mà đâu đâu cũng chỉ thấy có một vẻ đẹp yêu kiều và mỹ lệ . Xa rồi, xa lắm rồi, bây giờ nước Việt Nam đă không c̣n nữa rồi ! Người ta không c̣n thấy được gương mặt đầy lệ, không c̣n nghe được tiếng thổn thức sâu xa thống khổ của quốc gia nầy nữa, quốc gia nầy đă phải đau đớn tự chôn sống ḿnh trong một nấm mồ kín không c̣n cách ǵ có thể chui ra được nữa.

    Người ta sẽ không c̣n thấy được những cái nh́n van xin của dân chúng nữa, cả đàn ông lẫn đàn bà, họ đưa cả hai tay ra hướng về chúng ta mắt đẫm lệ van nài:

    - "Hăy cứu chúng tôi với ! Hăy cứu vớt đàn con chúng tôi với !"

    Những người đàn bà nầy là những người có tŕnh độ học thức đàng hoàng, giờ đây mắt họ sưng húp, v́ không thể cầm ḷng được nên phải khóc thật to lên cho vơi nổi đau khổ của ḿnh. C̣n những người đàn ông kia có ai bảo là không cứng rắn, nhưng trong một phút yếu ḷng v́ quá đau khổ nên khóc than run lên cả thân ḿnh, van nài:

    - " Hăy cho tôi xin một chiếu khán nhập cảnh.",

    Hay một người nọ tỵ nạn trong bệnh viện Grall:

    - "Tôi bé nhỏ quá, nhưng tôi là cựu trung sĩ pḥng nh́ của các ông, do vậy mà họ sẽ cắt cổ tôi. Nhưng mà ngay như nếu tôi có được một chiếu khán xuất cảnh th́ làm sao tôi có đủ tiền để mua vé máy bay cho vợ và 8 đứa con của tôi đây ".

    Và c̣n có những thanh niên nam nữ bế con khẩn thiết van nài:

    - "Mua giùm tôi đứa con nầy đi ông ơi, Mua giùm tôi đi.."

    Ở đây, "mua" có nghĩa là "nhận làm con nuôi" hay rộng hơn là "nhận chúng tôi đi".

    "Và nước Pháp, c̣n nước Pháp nữa, nước Pháp đâu ?"

    Họ hỏi với nhau trong một hy vọng gần như tuyệt vọng.

    Nước Pháp ở quá xa, vâng thật quá xa ! Và Thượng Đế xem ra không thương xót những người khốn khổ nầy rồi !

    -"C̣n Đức Mẹ nữa, tại sao Mẹ để cho đến nông nổi nầy ? Tôi hỏi cha Diu, cha cai quản nhà thờ, vừa chỉ vào tượng h́nh lớn của Đức Mẹ Đồng Trinh, vị Nữ Vương của Ḥa B́nh, được dựng lên trước sân rộng của đại giáo đường, nơi mà ai cũng đến tôn vinh Người, không phân biệt có đi đạo hay không đi đạo.

    - " Đức Mẹ Người không bỏ chúng ta đâu. Họ cũng sẽ phải trở về đạo mà thôi,và sẽ trở lại với đầy đủ t́nh cảm của con người." Cha nói như vậy.

    Và như thế là hy vọng đă trở thành vô vọng .

    Và như thế là Việt Nam , Cam Bốt và một ngày gần đây nhất là Lào, tất cả đều nằm trong một địa ngục trần gian. Nước Việt Nam sẽ đi đến một sự thống nhất đất nước trong một thời gian nào đó mà thôi, chắc không khó khăn ǵ, nhưng mà thời gian ở đây xem chừng như vô hạn định, không tính không đếm ǵ được cả. Chắc chắn trên toàn bán đăo Đông Dương cũng sẽ có những tiến tŕnhnhư thế thôi, không chừng c̣n các quốc gia lân cận nữa là đằng khác ! Nhưng mà người ta chỉ ngẫu nhiên mà nói ra vậy thôi, coi như đó là một kỹ niệm đau buồn không nên nhắc tới......

    Còn tiếp

  10. #20
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Tiếp chương mười một

    HELSINKI , BA THÁNG SAU....

    Sự việc và con người đi qua quá nhanh.
    Nước Việt Nam vừa bị bức tử không bao lâu, hồn linh của quốc gia nầy rất tiếc không c̣n ở đây để đưa tay lịch sự chận cây bút của các vị nguyên thủ của 37 quốc gia lại, khi họ kư vào một hiệp ước an ninh quốc tế tại Helselki.

    Trong tập tài liệu dày 160 trang, mà có người ṭ ṃ đă tính thử ra giá của mỗi chữ là 400.000 quan Pháp, người ta quy định là "các nước đă kư vào hiệp ước nầy phải cam kết tôn trọng nền an ninh và ḥa b́nh của nhau, không được xen vào những việc nội bộ của các nước khác, không xâm phạm biên giới của nhau mà phải giải quyết mọi tranh chấp qua đường lối ngoại giao."

    Liên Xô đă kư vào hiệp ước nầy. Hoa Kỳ và Pháp cũng đă kư vào hiệp ước nầy. Cả ba quốc gia nầy, ba tháng trước đây đă là đồng lỏa với nhau. Qua viện trợ chiến cụ vũ khí đạn dược, qua sự phản bội hèn hạ, họ đă đưa cả một quốc gia và cả mấy chục triệu người đi vào sự chết chóc đau khổ. Chính họ đă kư tên bảo đăm cho việc thi hành Hiệp Định Paris 1973 về ngừng bắn và tái lập ḥa b́nh ở Việt Nam, và cũng chính họ đă im lặng không nói lên một tiếng nào, làm nhục nhă những ǵ mà họ đẵ kư tên bảo đăm.

    Liên Xô th́ xoa tay vui vẻ: họ đă đạt được thành quả gần đây nhất, chiến thắng Sài G̣n. Hậu phương của họ đă quá vững vàng giúp họ điều kiện tiếp tục đi tới xa hơn nữa. Các nước khác th́ cười thích chí với những vị thiên thần đen của họ, những người đă "hứa" cho họ "ḥa b́nh" ! Họ đă thơa măn lắm rồi với tất cả sự ngây thơ đầy tội lỗi của họ, nhưng liệu họ có c̣n là những người lính bảo vệ nền ḥa b́nh cho các nước anh em của họ nữa hay không ?

    Những người Việt Nam c̣n ở lại bên kia phương trời th́ chỉ có hai con đường: một là phải cố chịu đựng, hai là phải chịu chết mà thôi. Không c̣n một ăo tưởng nào nữa, chắc chắn là phải như vậy rồi ! Trong ṿng sáu tháng, một năm, hai năm....tất cả, phải, tất cả dân chúng bên đó hoặc sẽ là cộng sản, hoặc sẽ vào các trại tù lao động khổ sai dài hạn, các "trại tập trung cải tạo", (một mỹ từ hèn hạ mà cộng sản dùng để che dấu bỉ ổi sự đau thương thống khổ của người tù), hoặc sẽ vào "bưng biền" đang được tổ chức, hoặc sẽ chết... Như một người bạn già của tôi bên đó đă viết cho tôi:

    - "Trong t́nh h́nh nầy th́ bọn trẻ sẽ có thể quen dần được, họ c̣n biết làm sao hơn: "tính trẻ bồng bột thường dễ bị khích động, và c̣n có thể ham vui chạy theo nhất thời nữa.... cho đến một lúc nào đó sẽ tự ḿnh giết chết cuộc đời ḿnh v́ một lư tưởng mà cộng sản đang cố nhồi nhét áp đặt cho họ. Hay cũng có thể một ngày nào đó họ sẽ nổi dậy v́ thấy được h́nh bóng sau cùng của một thời thật sự hạnh phúc xa xưa đă bị cộng sản phá tan đập nát. C̣n bọn người có tuổi như chúng tôi th́ không sao chấp nhận được, khi phải chịu cúi đầu tự hạ ḿnh để được sống nhục nhă. Chúng tôi phải chịu sống cực sống khổ để c̣n cầu nguyện xinTử Thần rước ḿnh đi càng sớm càng tốt, sớm giải thoát chúng tôi khỏi cơn ác mộng nầy. Tôi là một người Phật giáo, mà tôi phải cầu nguyện Chúa Jésus của người Thiên Chúa giáo các anh, một Vị Thiên Chúa duy nhất có thể hiểu cho chúng tôi, v́ muốn cứu bá tánh vạn dân nên Người đă chấp nhận một cái chết trong sự nhục nhă đau thương như của chúng tôi. Nhưng cũng có thể hương vị của sự Tự Do c̣n chưa "chết" hẳn, sẽ tạo ra được một vài hùng khí mới mà người ta đă có thấy phảng phất được đâu đây..."

    Đối với những người đă chạy được ra khỏi nơi đây, những người đă được ở ngoại quốc từ trước rồi, hay những người vào giờ phút chót lên được trực thăng hoặc hạm đội Hoa Kỳ... họ sẽ phiêu bạt đến một nơi vô định nào đó thôi, một nơi mà họ thường hay bị xô đuổi ra khi họ t́m cách đổ bộ vào hơn là "được" vui vẻ tiếp nhận . Họ không đ̣i hỏi ǵ cao xa mà chỉ cầu xin cho họ không v́ đói hay v́ buồn khổ mà chết, để rồi sau đó với hai bàn tay trắng, với một trái tim c̣n đang mang quá nhiều thương tích, với một nổi buồn vô tận, họ sẽ ngây thơ khờ khạo xin người ta ban cho họ một ơn huệ, một ước nguyện cuối cùng là được có một quê hương thứ hai.

    Đối với người Pháp, họ là h́nh ảnh sống của một sự ăn năn hối lỗi của chúng ta. Nhưng với một năng lực cứng rắn không dễ ǵ bị găy đổ, với một sức sống kỳ diệu, một đức tánh hằng c̣n của người dân Việt, cuối cùng họ sẽ đứng dậy một ngày đẹp trời nào đó như những cây sậy sau cơn gió bảo mà thôi. Phải chăng đôi khi người Pháp chúng ta cũng nên nghe họ để cho lương tâm chúng ta được nhẹ đi phần nào. Nhưng mà với một nhân phẩm thiên phú, họ sẽ sống chia sớt với nhau trong sự nghèo đói mà không van xin một sự thương xót nào của bất cứ ai, họ sẽ vượt qua được khó khăn và hội nhập dễ dàng với xă hội chúng ta, cho con cái học hành đến nơi đến chốn, và thế hệ con cháu của họ sẽ có một chỗ đứng tốt trong mọi tầng lớp xă hội của chúng ta, và những chỗ cao nhất nữa là khác. Đó là những ǵ họ đă làm, những người trong một niềm tuyệt vọng đă xin nước Pháp chúng ta cho họ được tỵ nạn năm 1954-55. Đó là một bài học mà chúng ta phải cám ơn họ.

    Rồi đây chắc cũng phải có một vài người sẽ trở lại Việt Nam . V́ đă có một vài điện tín được cho gởi đi, dĩ nhiên để cho biết tin tức gia đ́nh, nhưng đoạn chót của điện tín phải có kèm theo một câu của chánh quyền cộng sản: "Về ngay đi, gia đ́nh đang mong đợi". V́ có biết bao thảm cảnh của sự chia tay. Có thảm cảnh của một chú bạn trẻ khi tôi mang về cho anh ta một tấm ảnh nhỏ có h́nh của vợ và ba đứa con nhỏ kháu khĩnh của anh, anh ta lăn ra khóc lóc, rồi xin lỗi, rồi nói: "Thôi rồi không bao giờ nữa rồi, không bao giờ tôi c̣n gặp lại vợ con tôi nữa rồi, không bao giờ....không bao giờ nữa rồi...." Và cũng là một thảm cảnh gia đ́nh bị ly tán, nhất là đối với các bà mẹ, những người chỉ có một t́nh thương con ngập tràn trong tạng phủ, họ không bao giờ chấp nhận phải xa rời khỏi những đứa con thân yêu của họ: "Không, không, tôi không cần biết chánh trị là cái ǵ hết, tôi cũng không sợ phải sống khổ sở v́ chuyện đó, tôi chỉ không muốn sống xa các con tôi thôi .." Và như thế là sẽ có vài người bị t́nh cảm chi phối trở về với sự thống khổ...

    (Lời chú thích thêm của dịch giả: Tác giả tiên liệu quá đúng. Có những người đă v́ người thân mà trở về. Nhưng thay v́ được sống đoàn tụ với vợ đẹp con ngoan th́ lại được công an cộng sản đưa đi sống đoàn tụ ngay tức khắc với anh chị em tù nhân chánh trị trong các trại tù hắc ám xa xôi ở Miền Bắc, có nhiều người đă phải chịu đău khổ, nhẫn nhục "gỡ đủ từ 15 đến 20 cuốn lịch" đầy mồ hôi và nước mắt, v́ cộng sản khẳng định là những người nầy là t́nh báo CIA của đế quốc Mỹ cho trở lộn về Việt Nam công tác . Điển h́nh là những anh em quay về với tàu Việt Nam Thương Tín từ đảo Guam.)
    Trong ṿng mười năm, hai mươi năm nữa, xuyên qua một sơ hở nào đó của chế độ, hay một kẻ hở nào đó của "bức màng ch́" (nguyên tác) đang bao trùm nước Việt Nam từ nay, người ta chắc chắn sẽ được nghe những tiếng rên nức nở, những tiếng thét kinh hoàng, những hơi thở hấp hối, và những tiếng thở dài âu lo năo nuột, giống hệt như tại các nước cộng sản có chế độ độc tài khác trên thế giới ngày nay.

    Nhưng mà lúc đó th́ c̣n có ai động ḷng thương xót ai nữa đâu ? người ta không thể làm ǵ hơn được, v́ người ta c̣n có rất nhiều sự việc khác quan trọng hơn đang làm cho người ta bối rối hơn. Như vậy sẽ đ̣i hỏi một số dân tộc phải tự lo liệu lấy ḿnh. Để đối phó với một hoàn cảnh đau thương thống khổ tương tự th́ chỉ có quyền lực và một sự cẩn mật cảnh giác mới mong cứu văn được mà thôi, một điều mà cho đến giờ nầy những người có trách nhiệm chưa ai nhận thấy được.

    Đối với những người Pháp nào vừa lần lượt chạy thoát khỏi địa ngục ở Đông Dương, chúng ta sẽ gặp họ, sẽ thấy là họ đang âm thầm phẩn uất v́ thái độ thờ ơ lạnh nhạt của số đông người Pháp chúng ta, và rất oán hận những người Pháp khác đă từ chối không cần biết đến thảm cảnh của họ, không biết ǵ gọi là bổn phận và không giúp đở được cho họ một tư ǵ.

    Những người nầy c̣n giữ măi trong ḷng họ một sự nhớ nhung tha thiết đối với quốc gia Việt Nam xa xôi bị bỏ rơi kia, coi như một sự "nhớ nhà" thật sự mà chỉ có họ mới hiểu nổi mà thôi.

    C̣n những quân nhân Pháp nữa, những người lính già nua đă từng chịu tang cho một số không ít quốc gia mà họ bắt buộc phải có một t́nh thương, những quốc gia mà nước Pháp đă trao cho họ nhiệm vụ phải bảo vệ, nhưng rồi họ cũng bị bắt buộc phải rời khỏi các nơi nầy. Nổi buồn phiền của họ càng ngày càng tăng v́ những kinh nghiệm của họ trở thành vô ích, những kinh nghiệm mà không bao giờ được một ai muốn nghe tới, trong khi đó th́ những cuộc vui chơi không ngừng cứ tự nhiên được tiếp tục ngay trước mắt họ (cũng có thể người ta muốn mượn cái say để khỏi phải nghe phải thấy). Họ biết, họ biết rơ là bánh xe lịch sử khắc nghiệt sẽ cứ thản nhiên lăn tới, và nó đă bắt đầu lăn rồi, đó cũng là một điều rất là hợp lư vậy. Nhưng họ cũng biết - và họ rất đau khổ mà tin tưởng như vậy - biết là thế giới ngày nay chỉ c̣n trông chờ ở nước Pháp, không phải v́ nước Pháp chúng ta có một sức mạnh vật chất, mà v́ họ kỳ vọng sức mạnh đạo đức của quốc gia nầy, một ngày nào đó sẽ được đánh thức dậy. V́ thế cho nên những người chiến binh già nầy vẫn c̣n giữ măi trong trái tim cằn cổi của ḿnh h́nh ảnh của đất nước Việt Nam, một nước Việt Nam mà họ rất thương yêu, một nước Việt Nam "đă chết" mất rồi !!!!!!!! (xin hiểu là VNCH)

    Xin giả biệt nước Việt Nam thân yêu ! Chúng ta không bao giờ gặp lại nhau được nữa rồi ! Ôi Việt Nam ! Chúng tôi sẽ giữ măi h́nh bóng của Việt Nam trong ḷng, giữ măi hương vị ngọt ngào của hai chử Tự Do mà Việt Nam đă gieo sâu vào ḷng chúng tôi khi chúng tôi c̣n v́ Việt Nam mà tranh đấu cho Tự Do và Hy Vọng.....

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •